February 25, 2023

7 Thói Quen Hiệu Quả

 Translator Unknown

 Có thể đọc ở đây: https://tiasach.com/sach/gioithieu/7-thoi-quen-hieu-qua

 The 7 Habits of Highly Effective People

Những Bài Học Sâu Sắc Trong Chuyển Hóa Nhân Cách

 


Giới thiệu chung

 

7 Thói Quen Hiệu Quả (1989) là một trong những cuốn sách self-help (sách tự lực) nổi tiếng nhất mọi thời đại. Cuốn hướng dẫn có ảnh hưởng to lớn này trình bày một loạt các nguyên tắc thực tế sẽ giúp bạn thành công trong cuộc sống cá nhân và sự nghiệp của mình.

Về tác giả

Stephen Covey là doanh nhân, giảng viên người Mỹ và là tác giả của những tựa sách bán chạy nhất như The Leader in Me (Nhà lãnh đạo trong tôi) và 7 Thói Quen Hiệu Quả, đã bán được hơn 20 triệu bản. Sự nghiệp đáng nể của ông đã giúp ông được công nhận là một trong 25 người Mỹ có ảnh hưởng nhất của Tạp chí TIME vào năm 1996.

Tia sách 1

 

Để đạt thành công, bạn phải vun bồi những thói quen phù hợp với những nguyên tắc đúng đắn.

 

Thử hình dung lần đầu tiên bạn đến viếng một thành phố ngoại quốc. Phố xá thì xa lạ, các biển hiệu thì viết bằng ngôn ngữ bạn không thể hiểu được. Bạn làm cách nào để tìm ra đường đi? Và bạn làm cách nào để đi tới được đúng nơi bạn muốn đến?

Nếu bạn hỏi những người xa lạ trên đường, bạn có thể nhận được một ít lời chỉ dẫn như “Rẽ phải ở đây!” hoặc “Bắt chuyến xe buýt này!” Và hẳn nhiên – những chỉ dẫn này có thể hữu ích trong ngắn hạn. Nhưng, không thể nào tránh được, bạn lại bị lạc đường. Một phương cách sáng suốt nhất là nên có một tấm bản đồ, đúng không nào? Với một bức tranh chính xác về thế giới xung quanh, bạn có thể tự tìm ra con đường của mình – bất cứ lúc nào.

Thật thế, làm hoa tiêu dẫn dắt cuộc đời cũng tương tự như vậy. Trong lúc những hành động nhỏ nhất định có thể hữu ích, nắm được một số các nguyên tắc bền vững có tính định hướng, và tạo thành thói quen thực hiện theo đúng những nguyên tắc đó thực sự có giá trị hơn nhiều.

Khi tác giả Stephen Covey nhìn lại những lời khuyên để tự lực rèn luyện trong khoảng thời gian 200 năm, ông phát hiện được một mô thức thú vị. Ông thấy đa số những lời khuyên được đưa ra đều theo đúng một trong hai mô hình. Mô hình thứ nhất là Đạo đức Cá nhân. Mô hình này lập luận rằng thành công đạt được nhờ học tập một loạt những mẹo vặt và kỹ thuật. Nó cho rằng nếu bạn ăn nói đúng cách và hoàn thành đúng nhiệm vụ, bạn ắt sẽ đạt được được những mục tiêu của mình. Lời khuyên này nghe hấp dẫn – nhưng nó thường dẫn đến những thay đổi hời hợt hơn chứ không tạo ra sự khác biệt trong nền tảng.

Mô hình thứ hai thì khác. Mô hình này dựa trên nền tảng Đạo đức Phẩm cách. Phương pháp này lập luận rằng có những nguyên tắc căn bản dẫn đến thành công. Những nguyên tắc này không đặc thù cho một tình huống cụ thể nào cả. Chúng là những chân lý sâu sắc bất di bất dịch về thế giới. Nếu chúng ta liên kết tính cách nội tại của chúng ta với những nguyên tắc này, chúng ta sẽ đạt được những kết quả lâu bền.

Vậy trên thực tế mô hình này hoạt động như thế nào? Hãy thử ví dụ bạn muốn có một cuộc hôn nhân hạnh phúc hơn. Hình thái Đạo đức Cá nhân sẽ bảo bạn nên áp dụng một lối giao tiếp mới hoặc thực hiện một loại kỳ nghỉ nào đó. Trái lại, hình thái Đạo đức Phẩm cách khuyến khích bạn tự vận động. Có nghĩa là bạn phải trở thành mẫu người có cuộc hôn nhân tốt bằng cách bồi đắp một phẩm cách dựa trên những nguyên tắc như công bằng, đồng cảm, và tín nhiệm.

Hẳn nhiên, điều này nói thì dễ hơn làm. Nếu bạn muốn phát triển một phẩm cách nội tại dựa trên những nguyên tắc tốt đẹp, bạn cần thay đổi cách thức bạn thường xuyên tiếp cận và nhận thức về thế giới xung quanh. Tóm lại, tạo ra những thay đổi trên cơ sở hình thái phẩm cách đòi hỏi bạn phải trau dồi những thói quen tốt.

Trong tia sách tiếp theo, chúng tôi sẽ tuần tự giới thiệu cho bạn những thói quen này.

Tia sách 2

 

Chủ động kiểm soát phản ứng của mình đối với những chuyện xảy ra.

 

Đây là câu hỏi đơn giản đã gây nhiều tranh cãi cho giới khoa học gia, triết gia, và giới thường dân hàng thiên niên kỷ: Điều gì tạo nên bạn là bạn?

Một số người cho rằng tất cả là do cơ chế di truyền – sự tiến hóa của con người và chính ADN định đoạt đời sống của chúng ta. Nhiều người khác cho đó là do cha mẹ. Họ bảo rằng chính những người nuôi nấng và cách thức chúng ta được dưỡng dục đóng vai trò rất quan trọng. Nhiều người khác nữa thì khẳng định chính môi trường và hoàn cảnh cụ thể là những tác nhân gây ảnh hưởng sâu sắc nhất.

Sự thực là, không một giải đáp nào trong những điều nêu trên là đầy đủ. Tất cả mang tính quyết định quá lớn – nghĩa là, chúng cho rằng cuộc sống của chúng ta bị khống chế bởi những tác động từ bên ngoài. Nhưng những người thành công có thói quen tiếp cận thế giới theo một phương thức khác. Họ nhận thức rằng trong khi chúng ta không thể kiểm soát hết mọi thứ, chúng ta có thể kiểm soát bản thân, và điều này tạo cho chúng ta có thói quen đầu tiên.

Một trong những khác biệt chính yếu giữa con người và những loài thú vật khác là khả năng tự-ý-thức. Thú vật phần lớn bị điều khiển bởi kích thích từ bên ngoài. Khi chúng đối mặt với điều gì đó trong thế giới, nói chung chúng phản ứng theo cách đã được lập trình sẵn. Trái lại, con người có thể biết dừng lại, phản tư, cân nhắc và quyết định cách thức phản ứng như thế nào.

Khi bạn ở thế chủ động, bạn có tự do chọn lựa cách thức tương tác với thế giới xung quanh và cơ hội để quyết định số phận của mình. Chẳng hạn như, bạn có thể để cho cơn mưa bất chợt phá hỏng những kế hoạch đi chơi ngoài trời của mình. Hoặc bạn tập trung một cách có tiên liệu vào những điều tích cực. Thay vì suy nghĩ ủ ê về thời tiết, bạn có thể hướng nguồn năng lượng để tận hưởng thời gian cùng bạn bè, bất chấp cơn bão.

Điều này hữu hiệu ngay cả trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Hãy xem xét trường hợp của nhà tâm thần học nổi tiếng Viktor Frankl. Ông bị giam cầm trong trại tập trung suốt thời gian Thế Chiến II. Trong khi những kẻ hành hạ ông định đoạt tất cả những điều kiện bên ngoài, ông ý thức vẫn kiểm soát được mọi phản ứng của bản thân. Thay vì mất hết hy vọng, mỗi ngày ông hình dung đến một tương lai tốt đẹp hơn khi ông được giảng dạy cho những học sinh về cách mà ông đã sống sót, vượt qua nỗi kinh hoàng như thế nào. Phản ứng chủ động này đã tạo cho ông sức mạnh để vượt qua và tạo nguồn lực hun đúc sự nghiệp nhà giáo dục về sau.

Bằng luyện tập, bạn cũng có thể nuôi dưỡng nguồn lực để định hình một cách tích cực phản ứng của bạn đối với những gian khổ nhất định. Khi bạn gặp một trở ngại trong công việc hoặc trong đời sống cá nhân, hãy cân nhắc kỹ càng hơn cách thức hành động của mình. Đừng bị khuất phục ngay bởi bản năng ban đầu của mình. Thay vào đó, hãy lùi lại một bước, xem xét rõ căn nguyên của vấn đề, rồi hãy tập trung năng lượng cho điều bạn thực sự có thể tác động đến một cách tích cực.

Tia sách 3

 

Bắt đầu mọi việc với suy nghĩ về kết quả mong muốn.

 

Hãy bắt đầu với bài tập luyện trí não về một cảnh tương ảm đạm: Hãy hình dung ba năm tới trong tương lai, và, đau buồn thay bạn đột nhiên qua đời. Đúng vậy, đó là một bi kịch. Nhưng lúc ấy, tất cả bạn hữu, gia đình, và đồng nghiệp đã tập trung đông đủ để dự đám tang của bạn. Từng người một lần lượt bước bên bục để đọc điếu văn. Bạn muốn họ nói như thế nào về bạn?

Hẳn nhiên, điều này rất khó để nghĩ đến, nhưng nó lại giúp chúng ta định hướng cuộc sống. Bất ngờ, những tiểu tiết vụn vặt của đời sống thường nhật tan biến hết, và tất cả những điều ưu tiên thực sự của bạn trở thành tâm điểm. Bây giờ bạn nghĩ đến các mối quan hệ, những thành tựu đã đạt được, và thế giới bạn muốn để lại đằng sau như thế nào.

Như thí nghiệm ảm đạm này chỉ ra, cân nhắc thành quả tối thượng là khía cạnh thiết yếu của việc tổ chức cuộc sống của bạn. Đó là lý do những người có hiệu năng cao hình thành thói quen tư duy xuyên suốt mọi sự việc– mà chính nó mang lại cho chúng ta thói quen thứ hai: Bắt đầu mọi việc với suy nghĩ về kết quả mong muốn.

Bất cứ khi nào bạn thực hiện một hành động, dù lớn hay nhỏ, bạn thực chất thực hiện nó hai lần. Bạn thấy đó, trước khi thực hiện một hành động, trước hết bạn phải hình dung ra nó bằng lập ra một bản kế hoạch trong đầu. Những kế hoạch này có thể sơ lược và chóng vánh, giống như danh sách những việc cần làm hàng ngày nằm ở trong tâm trí, hoặc chi tiết và cụ thể, giống như một kế hoạch kinh doanh được hoạch định kỹ lưỡng.

Dù cách nào đi nữa, điều quan trọng là phải nghĩ đến tương lai; điều này giúp bạn định hướng hiện tại. Hãy thử hình dung việc xây dựng căn nhà mơ ước của mình. Trước khi dựng khung sườn nhà hoặc lợp mái, phác thảo một bản thiết kế là việc khôn ngoan cần làm. Tóm lại, nếu không có bức tranh rõ ràng những gì bạn sẽ xây dựng, tiến trình xây dựng sẽ là một thảm họa hỗn độn. Bạn sẽ phạm những lỗi lầm đắt giá, hoang phí vật liệu xây dựng giá trị, và chắc chắn kết quả là sẽ không được như ý.

Áp dụng nguyên tắc này cho những kế hoạch ngắn hạn thì tương đối dễ. Ví dụ, trong lĩnh vực nghề nghiệp, vạch ra lịch làm việc hàng tuần trước và đề ra những mục tiêu rõ ràng mà bạn mong muốn hoàn thành trước cuối mỗi quý luôn là việc làm thông minh.

Tuy nhiên, những lợi ích thực sự của thói quen này đến từ việc lập kế hoạch dài hạn. Để thực hiện việc này, hãy tưởng tượng cuộc sống bạn khát khao đạt đến bằng xác lập một bản sứ mệnh cho bản thân. Thực hiện một số truy vấn nghiêm túc và viết ra những gì bạn thực sự hy vọng đạt tới, những giá trị nào bạn muốn đề cao, và những gì bạn xem là thành công thực sự. Sử dụng văn bản này để đo lường thành công của bạn và như một bản hướng dẫn để giúp bạn đưa ra những quyết sách. Khi bạn đã biết rõ mục đích mà bạn khát khao đạt đến, sẽ dễ dàng hơn rất nhiều để bạn tiếp tục dấn bước trên con đường đúng đắn.

Tia sách 4

 

Đặt lên hàng đầu những điều cần làm trước nhất

 

Chín giờ sáng ngày thứ Hai, bạn đang ở văn phòng. Chuông điện thoại reo vang, máy in thì bị kẹt giấy không in được, bạn phải viết một bản báo cáo, và phác thảo một bản kế hoạch cho một dự án. Và còn nữa – lãnh đạo của bạn đang gõ cửa, muốn vào nói chuyện với bạn.

Bạn giải quyết việc nào trước?

Ngay cả khi bạn biết các mục tiêu của bạn là gì, để biết các bước nào cần làm vào thời điểm nào vẫn là điều khó. Thói quen thứ tư sẽ hữu ích ở đây: Đặt lên hàng đầu những điều cần làm trước nhất. Hoặc nói một cách khác: ưu tiên hóa các công việc theo tầm quan trọng và tính cấp thời của chúng.

Chúng ta hãy bàn về cách thức như thế nào. Có nhiều phương pháp quản lý thời gian. Một số người thích tạo lập các danh sách; những người khác cho rằng chúng ta nên sắp xếp các công việc trước. Nhưng bí quyết thực sự để làm việc hiệu quả là tổ chức các bước việc làm theo mức độ ưu tiên – và đối với việc này, bạn có thể sử dụng ma trận quản lý thời gian.

Ma trận quản lý thời gian là một bảng kẻ ô trong đó bạn liệt kê tất cả các công việc theo hai chiều: tính khẩn cấp và tầm quan trọng. Để tạo một bảng như thế, bạn lấy một tờ giấy, và kẻ thành bốn ô. Ô trên bên trái là Phần tư thứ I: Dành cho những công việc vừa quan trọng vừa khẩn cấp, chẳng hạn như những khủng hoảng bất ngờ không thể nào bỏ qua được. Ô trên bên phải là Phần tư thứ II: Những việc quan trọng nhưng không khẩn cấp – những kế hoạch dài hạn như xây dựng các mối quan hệ với khách hàng. Ô dưới bên trái là Phần tư thứ III: đây là ô dành cho những công việc khẩn cấp nhưng không chính yếu, chẳng hạn như trả lời điện thoại. Cuối cùng, ô dưới bên phải là Phần tư thứ IV: ô này dành cho những việc không khẩn cấp cũng không quan trọng, giống như chơi ô chữ để giết thời gian.

Một khi bạn đã phân chia tất cả các nhiệm vụ theo cách này, bạn sẽ thấy việc tập trung nỗ lực cho công việc nào cũng trở nên dễ dàng hơn. Trong khi những việc trong Phần tư thứ I là quan trọng, những việc trong Phần tư thứ II thực sự đáng được chú ý đặc biệt. Những việc này thường bị bỏ qua nhiều nhất bởi vì chúng không tạo cảm giác thúc bách. Tuy nhiên, chúng vẫn quan trọng, và thường đi kèm hậu quả phải bù đắp lớn nhất. Nếu bạn chú ý đến chúng sớm hơn, bạn có thể ngăn chặn những điều mới nảy sinh trong Phần tư thứ I.

Hẳn nhiên, không ai có thể làm được mọi việc một mình. Nhiều lúc đặt lên hàng đầu những điều cần làm trước tiên đòi hỏi bạn phải ủy thác những công việc mà bạn không cần phải trực tiếp giải quyết. Chỉ cần đảm bảo không quản lý quá chi li. Đừng giao công việc chi tiết; thay vào đó, nên đòi hỏi những kết quả cụ thể. Trên hết, khi nói đến tính hiệu quả, thành quả sau cùng là vấn đề quan trọng nhất.

Tia sách 5

 

Luôn hướng tới viễn cảnh mọi người cùng có lợi.

 

Bạn đang theo dõi một trận chung kết bóng bầu dục. Đây là trận tranh tài cuối cùng của mùa giải. Chỉ có một đội thắng và một đội thua. Một đội sẽ mang về cúp chiến thắng; đội kia sẽ ra về tay trắng, bất chấp họ đã thi đấu hay giỏi như thế nào.

May mắn thay, không phải tất cả lĩnh vực nào của cuộc sống cũng đều giống như vậy – nơi một đội phải chiến thắng và các đội còn lại phải thất bại. Thực tế là, nếu bạn sử dụng tư duy cộng tác, đa số mọi tình huống đều có thể mang lại lợi ích chung. Đó là lý do những người có hiệu xuất cao tận dụng thói quen thứ năm: đảm bảo mọi người đều đạt được thành quả tích cực.

Suốt quãng đời, chúng ta kiến tạo những mối quan hệ bằng sử dụng những mô hình nào đó định hình cách thức chúng ta tương tác. Đối với nhiều người, mô hình thống trị là thế giới quan kẻ-thắng-người-thua. Điều này có nghĩa là họ xem mỗi sự trao đổi, dù là việc cá nhân, kinh doanh, hay những việc khác, như là một cuộc tỉ thí mà qua đó thu đạt được điều họ muốn đồng nghĩa với các bên tham gia khác không thể đạt được những gì họ muốn.

Trong khi mô hình này hữu dụng trong một số tình huống, trong những tình huống khác nó là một thảm họa. Nó biến mọi thứ trở thành cuộc tranh đoạt, biến đối tác tiềm năng trở thành kẻ đối nghịch. Điều này làm nảy sinh sự bất tín và bất hòa – và, hẳn nhiên, làm cho cả hai trở thành kẻ thua cuộc. Chẳng hạn như, thử hình dung một nhóm chuyên trách bán hàng mà duy nhất người bán được nhiều hàng nhất mới được nhận phần thưởng. Số còn lại không được nhận gì cả. Đây là sự sắp đặt kẻ-thắng-người-thua kích thích mỗi người chơi quan tâm duy nhất đến bản thân mình. Những người cảm thấy giống như thế có thể ém nhẹm các mối dẫn đầu, hoặc tệ hại hơn, phá hoại lẫn nhau. Kết quả là gì? Làm giảm toàn bộ doanh số.

Có một giải pháp thay thế cho mô hình này, đó là mô hình mọi-người-cùng-thắng. Thế giới quan này chuyển sự cạnh tranh theo chiều hướng hợp tác. Nó tìm kiếm những thành quả mà các bên tham gia đều được hưởng lợi. Đối với nhóm chuyên trách bán hàng đó, điều này có thể có nghĩa chỉ khi cá nhân nào hoàn thành chỉ tiêu doanh số của mình mới được nhận phần thưởng. Theo cách này, thắng lợi của một nhân viên bán hàng cũng là thắng lợi của những nhân viên khác. Mô thức sắp xếp mọi-người-cùng-thắng khuyến khích tương tác giao tiếp và làm việc kết hợp với nhau, và dẫn đến tổng doanh số tăng cao hơn và người nào cũng hạnh phúc hơn.

Phương pháp tốt nhất nào để đảm bảo bạn luôn hướng đến mô hình mọi-người-cùng-thắng? Hãy áp dụng tâm thế thặng dư. Tâm thế này không xem những điều tốt đẹp như thành công, hạnh phúc, hoặc ngay cả lợi nhuận như những mặt hàng hiếm có. Thay vào đó, nó ý thức rõ những thứ tốt đẹp luôn dồi dào cho tất cả mọi người. Khi bạn nhận ra rằng luôn sẵn có nhiều giá trị hơn là cái chúng ta có thể có, thì tìm kiếm phương thức hợp tác để thu đạt được giá trị đó trở nên dễ dàng hơn.

Với tâm thế mọi-người-cùng-thắng, những thắng lợi lớn nhất xảy đến cho bạn khi bạn thấy rằng tất cả chúng ta cùng chung một đội.

Tia sách 6

 

Xây dựng những mối quan hệ bền chặt hơn bằng cách thấu hiểu người khác.

 

Nhìn chữ thấy nhòa, bạn luôn phải nheo mắt nhìn, và không thể nhận ra người bạn ở cách xa mươi mét. Đã tới lúc phải đi thăm bác sĩ nhãn khoa. Giờ thì bạn đã rõ những chuyến đi khám như thế là như thế nào. Bạn phải đọc to những chữ cái in trên bảng treo trên tường mỗi khi bác sĩ thử các mắt kính khác nhau. Cuối cùng, bạn cũng tìm được đôi tròng kính chính xác cho mình.

Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu vị bác sĩ đó đã áp dụng một phương pháp khác? Giả sử như, thay vì kiểm tra mắt của bạn, vị bác sĩ đưa cho bạn cặp mắt kính mình đang đeo, và nói, “Tôi đeo cặp kính này thấy tốt.”? Hẳn nhiên, thị giác của bạn vẫn thấy nhòe, và chắc chắn bạn phải kiếm một bác sĩ nhãn khoa khác.

Điều nầy nghe phi lý, nhưng trong giao tiếp, nhiều người hành động giống như vị bác sĩ đó. Họ đưa ra giải pháp trước khi thực sự hiểu ra vấn đề. Những người có hiệu suất cao thì hành động theo một phương cách khác, áp dụng thói quen thứ sáu: Lắng nghe để thấu hiểu trước khi trình bày.

Giao tiếp tốt là trọng tâm của bất kỳ mối quan hệ ý nghĩa nào. Bất hạnh thay, đa số mọi người chỉ rèn luyện những kỹ năng nói – nghĩa là, họ chỉ mong mỏi được người khác hiểu. Tuy nhiên, đó chỉ mới một nửa của bức tranh. Để thực sự tạo dựng được những liên kết cá nhân, bạn phải hiểu người khác nữa. Và để thực sự hiểu được người khác, bạn phải biết lắng nghe.

Hẳn nhiên, lắng nghe không có nghĩa đơn thuần là nghe được. Lắng nghe có nghĩa là thực sự nắm bắt được tâm tư và tình cảm của người khác ở mức độ có ý nghĩa. Cách thức tốt nhất để thực hiện được điều này là thực tập lắng nghe thấu cảm. Hình thức lắng nghe này đòi hỏi bạn phải bắt nhịp được tâm trí cũng như cảm xúc của người khác. Có nghĩa là nghe được lời nói của người đó, nhưng đồng thời phải phát hiện cho được cảm thức ẩn sâu đằng sau những lời nói đó.

Một cách để thực hiện được điều này là kìm nén việc đưa ra lời khuyên cho đến khi hiểu được rõ ràng điều người khác cố gắng truyền đạt. Cho nên thay vì chỉ dựa vào giai thoại với trần thuật của riêng bạn, hãy cố gắng xác định được cảm xúc của người khác đang cố cất lên thành lời. Việc này được gọi là “phản ánh,” và có thể đơn giản như nói rằng, “Điều đó nghe bực mình ghê.” hoặc, “Bạn thấy điều này là quan trọng.” Việc này giữ cho cuộc đối thoại tập trung vào người mà bạn muốn hiểu.

Tuy nhiên, đây không phải là con đường tắt hoặc một mẹo vặt. Để lắng nghe thấu cảm phát huy hiệu quả, bạn phải có chân thành quan tâm đến những người khác. Nó đòi hỏi thời gian, nỗ lực, và luyện tập mới làm được thành thục. Nhưng nếu bạn thử, người khác sẽ nhận ra và đánh giá cao sự chú tâm của bạn. Thực tế là, họ thường ứng đối lại với lòng cảm thông và tôn trọng của họ. Qua thời gian, các mối quan hệ của bạn sẽ trở nên cởi mở, thỏa mãn, và có ý nghĩa hơn.

Tia sách 7

 

Kiến tạo nguồn năng lượng cộng hưởng mạnh mẽ bằng tăng cường trao đổi cởi mở.

 

Hãy dạo bước qua một khu rừng nhiệt đới. Khu rừng đầy ắp sự sống và muôn vàn cảnh đẹp. Điều gì khiến nơi này sinh động và tươi tốt như vậy? Phải chăng do chim chóc nhảy hót trên cành? Hay bao đàn kiến đang bò khắp trên mặt đất? Cũng có thể do ánh nắng rọi xuyên qua tán lá trên đầu? Không phải vậy, chúng ta không thể gán công lao cho chỉ một yếu tố riêng biệt. Thực tế là, tất cả những thứ này đều liên kết với nhau. Chính mạng lưới các mối tương tác phức tạp này của cuộc sống khiến cho những hệ sinh thái như vậy hình thành và phát triển.

Trong các mối liên hệ con người và thiên nhiên, cái tổng thể thường lớn hơn những thành tố của nó cộng lại. Chúng ta gọi hiện tượng này là năng lượng cộng hưởng, và những người có hiệu suất cao luôn cởi mở để khai thác tiềm năng của nó và thực hiện thói quen thứ bảy này: tạo nên nguồn năng lượng cộng hưởng bằng tăng cường trao đổi cởi mở mọi ý tưởng.

Năng lượng cộng hưởng có thể khó xác định, nhưng, nói theo cách đơn giản nhất, đó là nguồn năng lực sáng tạo được hình thành khi nhiều người khác nhau được kết nối hài hòa với nhau. Bạn biết đó, mỗi người mỗi khác, và mỗi cá nhân đều có nhiều ưu và nhược điểm riêng. Cho nên khi các nhóm cùng làm việc chung với nhau, họ thực sự có thể củng cố những điều tích cực cho nhau trong khi giảm thiểu những điều tiêu cực. Kết quả là, toàn thể một khối tốt đẹp hơn được hình thành.

Điều này có thể xảy ra trong bất kỳ bối cảnh nào. Chẳng hạn như, hãy tưởng tượng một lớp học mà ở đó tất cả học sinh đều có quyền tương tác và trao đổi mọi ý tưởng một cách tự do. Điều gì sẽ xảy ra? Một số học sinh nêu câu hỏi với vẻ khiêu khích, một số khác sẽ đưa ra những câu trả lời có nội dung phong phú, và những học sinh khác nữa sẽ nâng cuộc thảo luận lên với nhiều hiểu biết sâu sắc thân tình. Cuối cùng, bạn có thể dạy chệch giáo án, nhưng học sinh nào cũng học hỏi được nhiều điều hơn.

Cách thức để khuyến khích năng lượng cộng hưởng là tạo ra môi trường mà trong đó mỗi người đều cảm thấy an toàn và được tôn trọng. Điều này đòi hỏi vận dụng thêm những thói quen khác, giống như tư duy mọi-người-cùng-thắng và lắng nghe thấu cảm. Khi những thói quen này được áp dụng vào thực tiễn, có khả năng cao mọi người cùng chia sẻ những ý tưởng, gia tăng phần đóng góp cho nhau, và đánh giá cao những kỹ năng khác nhau những người khác mang lại.

Tình trạng này hoạt động hiệu quả đối với David Lilienthal. Khi ông điều hành Ủy Ban Năng Lượng Nguyên Tử tại Hoa Kỳ sau Thế Chiến II, ông đã tập hợp được một nhóm gồm những người có năng lực cao. Tuy nhiên, mỗi chuyên gia đều có những quan điểm mạnh mẻ riêng đến nỗi nhiều lúc đối chọi với các quan điểm của nhiều người khác. Do vậy, Lilienthal đã xếp lịch làm việc nhiều tuần lễ cho các buổi họp nhóm để mỗi thành viên có thể chia sẻ niềm hy vọng, nỗi sợ hãi, và nguyên do của mình đối với chương trình. Những buổi thảo luận công khai này đã tạo được bầu không khí tin tưởng và thấu hiểu. Cuối cùng, Ủy ban đã phát triển được một môi trường sáng tạo với năng suất cao.

Giống như một hệ sinh thái phong phú gồm nhiều giống loài quan hệ liên kết với nhau, những nhóm có hiệu suất cao nhất là nơi những thành viên liên kết và nâng đỡ lẫn nhau – nơi bạn để cho nguồn năng lượng cộng hưởng bừng nở.

Tia sách 8

 

Dành thời gian để chăm sóc bản thân.

 

Hãy hình dung bạn là một thợ đốn cây rừng cần mẫn. Mỗi ngày bạn đi vào rừng và bắt tay chặt hạ cây. Một vài cây đầu tiên thì dễ. Phụp, phụp, phụp, một cây đã đổ nhào. Tuy nhiên, theo thời gian, bạn nhận thấy một chiều hướng gây khó chịu. Mỗi cây ngày càng cần nhiều nhát chặt hơn mới chịu đổ xuống. Đến cuối tuần, đốn đổ được một thân cây mất hết cả buổi chiều.

Điều gì xảy ra sai lạc ở đây? Đó là một sai lầm đơn giản. Trong khi bạn cần mẫn làm việc, bạn quên khuấy không chăm chút dụng cụ lao động của mình. Cái rìu trân quý của bạn, một thời sắc lẹm và sáng loáng, nay thì cùn lụt và vô dụng.

Như câu chuyện ngụ ngôn này chỉ ra, ngay cả những người thợ tận tâm và nhiệt thành nhất rốt cùng cũng phải kiệt lực nếu họ không có thời gian nghỉ ngơi. Vì lý do này, thói quen thứ bảy cũng là cuối cùng của những người có hiệu suất cao là nghỉ ngơi và tái tạo. Hãy dành thời gian để chăm sóc bản thân.

Khi bạn nỗ lực hoàn thành những tham vọng, bạn dễ dàng bị cuốn hút vào những hành động hướng ngoại mà bỏ mặc việc bảo dưỡng sự an khang của bản thân. Hẳn nhiên, đây là sự bỏ sót nguy hiểm, bởi vì nếu không có một cơ thể, trí óc, và tâm hồn được nuôi dưỡng tốt, tất cả những thói quen hiệu quả khác của bạn sẽ bắt đầu bị thương tổn. Do vậy, phân bổ thời gian và năng lượng để tái tạo bản thân liên tục theo bốn phương diện khác nhau là vô cùng quan trọng.

Trước tiên là phương diện thể chất. Điều này có nghĩa là chăm sóc cơ thể bằng thường xuyên luyện tập thể dục, chế độ dinh dưỡng thích hợp, và ngủ nghỉ đầy đủ. Phát triển những thói quen lành mạnh này sẽ cho bạn sức chịu đựng dẻo dai để duy trì hoạt động suốt thời gian dài.

Phương diện thứ hai là về tinh thần. Tái tạo phương diện này là kết nối với chính mình, những giá trị của mình, và cái đẹp trong thế giới xung quanh. Mỗi ngày, hãy bỏ ra ít phút để lắng đọng tâm tư, cầu nguyện, hoặc trầm tư mặc tưởng. Bạn sẽ thấy những thực hành như vậy giữ cho bản thân được tập trung và sẵn sàng đối mặt giải quyết nghịch cảnh.

Phương diện thứ ba là về tâm trí. Giống như cơ thể, não bộ của bạn cũng cần luyện tập thường xuyên. Duy trì trí óc nhạy bén bằng luôn học hỏi những điều mới mẻ. Tập luyện những kỹ năng mới, đọc sách mới, hoặc cố gắng học một ngoại ngữ. Những hoạt động yêu thích này làm phong phú đời sống của bạn và giúp bạn thường xuyên kết nối với thế giới xung quanh.

Phương diện thứ tư cũng là phương diện cuối cùng liên quan đến khía cạnh cảm xúc và xã hội trong đời sống của bạn. Theo đuổi tính hiệu quả không có nghĩa là bạn phải hy sinh đời sống xã hội của bạn. Mà trái lại, trên thực tế - nuôi dưỡng các mối quan hệ nghề nghiệp và cá nhân của bạn đều tối hệ trọng. Hãy thường xuyên thăm hỏi những người bạn yêu thương, chuyện trò cùng đồng nghiệp, và vui chơi cùng con cái.

Nếu bạn cam kết luôn làm mới mỗi phương diện này, bạn sẽ không ngừng gặt hái nhiều thành quả. Nắm vững những thói quen này, bạn sẽ luôn sẵn sàng để hành động như một người có hiệu suất lớn.

Kết luận

 

Tóm tắt cuối cùng

 

Thông điệp chính của những tia sách này:

Tự hoàn thiện không phải là ghi nhớ một loạt những lối đi tắt hoặc mẹo vặt mà chỉ có tác dụng trong một số tình huống nào đó. Thay vào đó, phương pháp có ý nghĩa nhất để cải thiện cuộc sống của bạn và để trở nên hiệu quả hơn là phải phát triển cho được những thói quen mạnh mẽ dựa trên những nguyên tắc dẫn đường. Là người có hiệu suất cao, bạn nên:

Một. Chủ động kiểm soát phản ứng của mình đối với những chuyện xảy ra.

Hai. Bắt đầu mọi việc với suy nghĩ về kết quả mong muốn.

Ba. Ưu tiên hóa bằng việc đặt lên hàng đầu những điều cần làm trước nhất

Bốn. Luôn hướng tới viễn cảnh mọi người cùng có lợi.

Năm. Xây dựng những mối quan hệ bền chặt hơn bằng cách thấu hiểu người khác.

Sáu. Kiến tạo nguồn năng lượng cộng hưởng mạnh mẽ bằng tăng cường trao đổi cởi mở.

Cuối cùng là số bảy. Bảo đảm dành đủ thời gian cho bản thân.

Khi bạn đã biến những thói quen này thành nội lực và bồi đắp được cam kết thực hiện chúng về lâu về dài, bạn sẽ từng bước thu hái thành quả của cuộc sống tích cực hiệu quả.

Lời khuyên thiết thực

Luôn tiến lên theo lộ trình xoắn ốc.

Nhận ra thành tựu và cam kết tiếp tục hoàn thiện bản thân đều quan trọng như nhau. Luôn ý thức rõ hành trình tự hoàn thiện bản thân bằng theo dõi sát những thành công của mình. Lập một bản danh sách những phẩm chất mà bạn mong muốn phấn đấu đạt đến và hàng tuần đánh giá hiệu quả bạn đã đạt được. Thấy được thành công mình đã đạt được sẽ giúp duy trì tinh thần cao và động viên bản thân thăng tiến.

 

 

1 comment: