HOÀ TAN BẢN NGÃ, NHẬN RA ĐẠI NGÃ
DAVID HAWKINS, M.D., Ph. D.
Phạm Nguyên Trường dịch
8
BẢN CHẤT CỦA THẦN TÍNH/
ĐẠI NGÃ/SỰ THẬT
Các thuật ngữ khác nhau
đã được sử dụng để mô tả Thực tại Tối thượng. Với các trường năng lượng rung động
ở tầng cao nhất có thể biểu hiện trong miền vật chất cho đến vô biên vô tế, Thực
tại Tối thượng siêu việt hiểu biết nhị nguyên. Chương này cung cấp các mô tả của
Tiến sĩ Hawkins về bản chất phi tuyến tính của Tất Cả Những Thứ Đang Là và các
tính chất liên quan của nó.
Vạn vật chỉ tồn tại như nó
đã được tạo ra—trọn vẹn và hoàn hảo. Vạn vật đều hoàn thành mục đích của nó bằng
cách chỉ là chính nó. Vạn vật đều là sự viên mãn bản chất và tiềm năng của
chính nó. “Đòi hỏi” duy nhất đối với bất kỳ thứ gì tồn tại là chỉ tồn tại. Số
phận của nó trong những điều kiện của bất kỳ khoảnh khắc nào đều đã viên mãn
hoàn toàn. Vì vậy, cái mà nó đang là là thể hiện cho sự trọn vẹn của tất cả các
khả năng trong quá khứ cho đến lúc đó; mọi thứ đều diễn ra theo cách mà nó nên
là.
Khi bản chất hoàn thành tiềm
năng của nó, tầng ý thức tương ứng sẽ chứng kiến điều đó. Chứng kiến trong bất
kỳ sát nao nào đều không thấy có gì thực sự thay đổi. Những gì đang thay đổi là
quan điểm của nhân chứng và điểm quan sát. Thay đổi chỉ đơn giản là quá trình tri
giác tuần tự. Có thể hình dung đời sống như một loạt bức ảnh tĩnh, giống như những
cuốn sách lật của thời thơ ấu (Flip book
là một loại sách nhỏ mà khi lật các trang một cách nhanh chóng, ta thấy một chuỗi
hình ảnh liên tiếp tạo cảm giác chuyển động, giống như một đoạn phim hoạt hình
ngắn – ND). Điều này đặt ra câu hỏi hóc búa: thế giới đang chuyển động, hay là
tâm trí đang chuyển động?
***
Cái tối thượng và vĩnh cửu
siêu việt tính khách quan và tính chủ quan và vượt ra ngoài nhận thức. Trong
các tài liệu tâm linh cổ, nó được gọi là “Linh hồn Tối cao”. Từ Đấng Tối cao xuất
hiện tất cả cái hiển lộ và không hiển lộ; tất cả ý thức và nhận thức; tất cả tồn
tại; Tất Cả Những Thứ Đang Là; có hình tướng hoặc vô hình tướng; tất cả những
thứ tuyến tính và tất cả những thứ phi tuyến tính; mọi thứ xuất phát từ sáng tạo;
tất cả khả năng và hiện thực. Đấng Tối cao vượt ra ngoài tồn tại hoặc không tồn
tại; vượt ra ngoài mọi vị thần, thiên đường hoặc hình thức tâm linh; vượt ra
ngoài mọi tên gọi hoặc định nghĩa; vượt ra ngoài mọi thần tính và dấu hiệu tâm
linh. Thần tính xuất hiện từ Thượng đế (Godhead), và Thượng đế xuất hiện từ Đấng
Tối cao.
***
Vì bản ngã xử lý hình tướng
và định nghĩa, nó không thể hiểu được Đại ngã—vượt ra ngoài mọi hình tướng,
nhưng nếu không có hình tướng thì dường như không tồn tại. Trong Thực tại,
không có chủ thể hay đối tượng; do đó, không có mối quan hệ nào cần giải thích.
***
Không có gì trong trải
nghiệm bình thường của con người có thể so sánh với niềm vui của Hiện diện của
Tình yêu của Thiên Chúa. Để nhận ra Hiện diện thì không có hy sinh nào là quá lớn,
cũng không có nỗ lực nào là quá nhiều.
***
Đại ngã là Hiện diện được
thể hiện như là tồn tại, và từ ý thức đó xuất hiện cảm giác về tồn tại.
***
Muốn hiểu bản chất của Thiên
Chúa, chỉ cần biết bản chất của chính tình yêu. Thực sự biết tình yêu là biết
và hiểu Chúa, và biết Chúa là hiểu tình yêu. Nhận thức và hiểu biết tối thượng
trong Hiện diện của Thiên Chúa là An bình. An bình tuyên bố an toàn và bảo tồn
vô biên vô tế với biện pháp bảo vệ vô biên vô tế. Đau khổ thậm chí là không thể
xảy ra.
***
Thực tại triệt để là hiểu
được bản chất của bất cứ thứ gì là biết được Chúa.
***
Trong Thực tại, mọi thứ đều
tự diễn ra, mà không cần nguyên nhân bên ngoài. Mọi thứ và mọi sự kiện đều là
biểu hiện của toàn bộ của Tất Cả Những Thứ Đang Là, giống như nó đang là ở bất
kỳ thời điểm nào khác. Một khi được nhìn thấy trong toàn bộ của nó, thì mọi thứ
lúc nào cũng đều hoàn hảo và không có gì cần nguyên nhân bên ngoài để thay đổi
nó theo bất kỳ cách nào. Theo quan điểm của định vị và phạm vi hạn chế của bản
ngã, thế giới dường như cần phải sửa chữa và điều chỉnh liên tục. Vọng tưởng này sụp đổ như là sự phù phiếm.
***
Giống như mùa xuân, lời hứa
về kỷ nguyên mới trong nhận thức của con người về Chúa đang xuất hiện. Lúc này
tầng ý thức của nhân loại đã đủ cao để có thể nhận ra sự thật về một vị Chúa của
Tình yêu thay vì tôn thờ một vị thần trừng phạt mặc cảm tội lỗi và hận thù.
***
Cái là Thực tại thì vượt
ra ngoài mọi hình tướng, nhưng là bản chất của nó. Hãy để hình tướng mặc khải bản
chất của chính nó—không cần phải tìm kiếm. Bản chất thực sự của hình tướng là
vô hình tướng, dù nghe có vẻ ngược đời.
***
Bẩm sinh của Hiện diện là Cái
Biết vô biên vô tế, phi thời gian, soi sáng mọi khả năng, vượt ra ngoài mọi đối
lập hay nhân quả. Mặc khải tự thể hiện như là tự giải thích và hiển nhiên, bản
chất của tất cả sự thật. Toàn bộ và trọn vẹn của Cái Biết vượt ra ngoài thời
gian và do đó luôn có đó. Một trong những biểu hiện của nó là khả năng hiểu điều
không thể hiểu được thông qua việc tự nó mặc khải bản chất của chính nó. Do đó,
tất cả đều được mặc khải. Cái không hiển lộ và cái hiển lộ là một và như nhau.
***
Sự thật là chủ quan tuyệt
đối. Với sự sụp đổ của vọng tưởng về tính nhị nguyên—bao gồm cả “thực tại” được
cho là của một “tôi” riêng biệt—chỉ còn lại trạng thái của “Tôi” Vô biên Vô tế,
đó là hiển lộ của Phi Hiển Lộ như là Đại ngã.
***
Không có phân chia giữa Đấng
sáng tạo và những thứ được tạo ra. Tất cả đều tự sáng tạo như biểu hiện của tâm
trí của Chúa. Nhận thức vĩ đại này đặc trưng cho tầng ý thức 700 trên Bản đồ ý
thức, nơi Đại ngã là Tất Cả Những Thứ Đang Là. Vì vũ trụ tự tiến hóa và tự hoàn
thiện, nên không cần bất kỳ sự can thiệp nào. Tất cả đều cân bằng và hài hòa
hoàn hảo.
Sự thật tối thượng vượt ra
ngoài tính hiện hữu, hoặc bất kỳ động từ không cần bổ ngữ nào khác. Bất kỳ nỗ lực
nào để định nghĩa Đại ngã, chẳng hạn như “Tôi là Cái mà Tôi là”—hoặc thậm chí
chỉ là “Tôi là”—đều là thừa. Thực tại Tối thượng nằm ngoài mọi tên gọi. “Tôi”
biểu thị tính chủ quan triệt để của trạng thái Chứng ngộ. Nó chính là tuyên bố
trọn vẹn về Thực tại.
***
Sức mạnh bên trong vô biên
vô tế của Thần tính tỏa xuống qua các tầng ý thức như ánh sáng mặt trời trong khu
rừng. Nó duy trì mọi sự sống. Khi bị tước mất sức mạnh của Ánh sáng, ý thức trở
lại với cái thay thế tạm thời đầy vọng tưởng của nó được gọi là “lực lượng bên
ngoài”. Lực lượng bên ngoài thì có hạn, trong khi sức mạnh bên trong thì vô hạn.
Do đó, kết thúc là chắc chắn vì lực lượng bên ngoài không thể chống lại sức mạnh
bên trong; và không được truyền cho sức mạnh, lực lượng - theo bản chất của nó
- tiêu hao và tự huỷ diệt.
Với kiến thức mở rộng để
bao gồm tính phi nhị nguyên phi tuyến tính của Thực tại, nó sẽ trở nên rõ ràng đến
kinh ngạc, nói rằng trên thực tế, tuyên bố khoa học cấp tiến sâu sắc nhất có thể
đưa ra là Vinh Danh Thiên Chúa Trên Các Tầng Trời.
***
Khi một người nhận ra rằng
mình là vũ trụ—trọn vẹn và là một với Tất Cả Những Thứ Đang Là, mãi mãi không
có kết thúc—thì đau khổ là không thể xảy ra.
***
Lưu ý rằng cả Chúa và mọi
tham chiếu đến Đấng thiêng liêng đều được viết hoa, và trong số tất cả đại từ,
chỉ có “Tôi” được viết hoa. “Tôi” cá nhân chỉ có thể nhận thức được chính mình
hoặc sự tồn tại của mình như là kết quả của Nhận thức lớn hơn. Đây là phẩm chất
bẩm sinh của “Tôi” Thần thánh, là cội nguồn của nó và là trọng tâm của quá
trình tìm kiếm tâm linh. Như vậy, nó không phải là lời nói và là cội nguồn của quá
trình trải nghiệm, làm chứng và quan sát. Tương tự, người ta nhận ra rằng mình
là nước chứ không phải là cá.
***
Đại ngã là Đại ngã tự nhận
thức vượt trên các giác quan. Thần tính tỏa sáng như là mặc khải vĩ đại. Sự hiển
nhiên của nó mạnh mẽ và sắc nét như là ánh hào quang. Bản chất của nó là chắc
chắn và cuối cùng, toàn bộ và trọn vẹn. Mọi cuộc tìm kiếm đều đã kết thúc.
***
Thượng đế là Tất cả Hiện
diện, vừa là hiển lộ vừa là phi hiển lộ, vừa là hư không vừa là Toàn thể, vừa nhìn
thấy được vừa không nhìn thấy được, vừa là tiềm năng vừa là thực tế, vừa là thể
hiện vừa là không thể hiện.
***
Quan trọng là phải nhận
ra: những gì thuộc về Thiên Chúa đều mang lại bình an, và những gì không thuộc
về Thiên Chúa đều mang lại sợ hãi.
***
Tiềm năng vô biên vô tế của
hiển lộ trở thành hiện thực của hiển lộ là do Ý chí của Thiên Chúa như là Sáng
tạo.
***
Đại ngã là nhận thức—cội nguồn,
sự trọn vẹn, toàn vẹn, viên mãn và bản chất của nó. Nó là Thực tại của Thực tại,
Nhất thể và Toàn thể của Bản sắc. Đó là “Tôi” tối thượng của chính ý thức như
là hiển lộ của phi hiển lộ. Do đó, cái không thể mô tả được mới có thể được mô
tả. Amen.
***
Phó thác hoàn toàn cho
Thiên Chúa sẽ hé lộ Sự thật. Không có gì bị che giấu; chỉ có bản ngã là mù
quáng. Thực tại nằm ngay bên ngoài tâm trí. Vì sợ trở thành hư vô, ý thức phủ
nhận thực tại duy nhất của nó rằng nó là tất cả mọi thứ—Toàn thể vô biên vô tế,
vĩnh cửu, là cội nguồn của tồn tại.
***
Khi bản ngã hòa tan vào Đại
ngã, nó được trải nghiệm như một sự mở rộng vô cùng lớn từ hữu hạn, tạm thời và
dễ bị tổn thương thành Toàn thể bất tử, vô hạn siêu việt mọi thế giới và vũ trụ.
Đại ngã không sinh không diệt, vì nó tồn tại bên ngoài tính tạm thời. Sự mơ hồ
của Đại ngã là kết quả của việc chỉ đơn giản là nhận diện sai, cho rằng tri
giác là đại diện cho toàn bộ Thực tại.
***
Lòng thương xót của Chúa
là vô biên vô tế và vô điều kiện.
***
Sự sống được sinh ra bởi
ánh sáng của Thần tính, mà Thần tính là Cội Nguồn Tối thượng của mọi tồn tại.
Trong quá trình mở ra, ý thức là tác nhân.
***
Sự sống là ánh hào quang của
Thiên Chúa làm cho hiển lộ, như là vũ trụ được thể hiện qua quá trình tiến hóa.
Chúng ta vừa là sản phẩm vừa là chứng nhân của Sáng tạo như là quá trình liên tục,
vĩnh cửu.
***
Con người không hiểu được
vinh quang, sự vĩ đại và quyền năng vô hạn của Thiên Chúa và đã đánh giá thấp một
cách nghiêm trọng và thô thiển. Với việc Đại ngã thay thế bản ngã, người ta biết
được sức mạnh là do sự kiện là Vô hạn là cội nguồn và thực tại của người đó. Chúa
không có bất kỳ giới hạn nào.
***
Cội nguồn của mọi sự sống
và mọi hình tướng, chắc chắn là phải lớn hơn những biểu hiện của nó—nhưng nó
không khác biệt cũng không tách biệt với chúng. Không có tạo tác mang tính khái
niệm nào về sự tách biệt giữa Đấng sáng tạo và tạo vật. Như Kinh thánh viết, những
gì đang tồn tại, đã tồn tại và sẽ mãi mãi tồn tại.
***
Chúa là tính chủ quan tuyệt
đối làm nền tảng cho tồn tại và khả năng nhận thức. Chúa vượt ra ngoài mọi thời
gian, địa điểm hay đặc điểm của con người.
***
Ngược lại với tri giác của
bản ngã về Chúa, Thực tại Tuyệt đối của Đại ngã là biểu hiện của Chúa như là cốt
lõi của tồn tại của con người. Tình yêu của Hiện diện là siêu cá nhân và được
trải nghiệm như sự an bình vô biên vô tế, an toàn vô biên vô tế và an toàn vĩnh
cửu, không có “kết thúc” tưởng tượng để phải sợ hãi. Chúa của Hiện diện thấm
nhuần niềm vui của trọn vẹn. Tình yêu không phải là “đặc điểm” của Chúa mà là
chính bản chất của Chúa.
***
Về mặt ngôn ngữ, dù người
ta có cho rằng Thiên Chúa là “Rama”, “Brahma” hay “Allah” thì thực ra là không
liên quan — Thiên Chúa không bị giới hạn bởi bất kỳ định vị hay phẩm chất nào
mà người ta có thể gán cho Ngài. Tương tự như thế, Thiên Chúa không phụ thuộc
vào tính nhị nguyên của cái này hoặc cái kia, mà đấy sẽ là cơ sở của của thiên
vị
***
Đại ngã thực sự là không
nhìn thấy được và không có đặc điểm nào để có thể dùng để đánh giá. Nó không có
phẩm chất nào có thể mô tả được, nó cũng không thể là chủ ngữ của bất kỳ tính từ
nào. Đại ngã chỉ đơn giản là và vượt trên các động từ, trạng từ và tính từ. Nó
thậm chí không “làm” bất cứ việc gì.
***
Tình yêu của Thiên Chúa là
tuyệt đối và vô điều kiện. Bầu trời không “có đó” đối với một số người và
“không có đó” đối với những người khác, mặt trời cũng không chỉ chiếu sáng cho
một số ít người được chọn một cách tùy tiện. Chúa là trọn vẹn và toàn bộ.
***
Chứng ngộ không phải là một
“thành quả” hay một thành tích, cũng không phải là thứ được “ban tặng” như là
phần thưởng cho việc là người tốt—tất cả đều là những khái niệm có từ thời thơ ấu.
Chúa là bất biến và không thể bị thao túng để ban ân huệ, hoặc bị quyến rũ bằng
mặc cả hoặc nịnh hót. Thờ phượng có lợi cho người thờ phượng bằng cách củng cố
cam kết và cảm hứng. Thiên Chúa là tĩnh lặng, im lặng và bất động.
***
Biết rằng Đại ngã là bối cảnh
và ngược lại, bản ngã là nội dung đã là một bước tiến lớn. Người tìm kiếm ngây
thơ chỉ đơn giản là tiếp tục sắp xếp lại nội dung mà thôi.
***
Cội nguồn của tất cả những
gì tồn tại là Thần tính; do đó, tất cả những gì tồn tại đều đã hoàn hảo. Nếu
không có sự hoàn hảo đó, thì không có gì có thể tồn tại. Từ quan điểm của chứng
ngộ, có thể nói rằng tuyến tính được quan sát từ bối cảnh của phi tuyến tính.
Nói cách khác, tồn tại là biểu hiện của Thần tính như là hình tướng. Do đó, tự
nó, vũ trụ là vô hại. Quan điểm từ chứng ngộ siêu việt người trải nghiệm, người
quan sát, nhân chứng và thậm chí cả chính nhận thức.
***
Sự thật là sức mạnh như là
biểu hiện của chính trực.
***
Nhận thức liên tục về sự tồn
tại của một người như là “Tôi” là biểu hiện luôn hiện hữu của Thần tính bẩm
sinh của Đại ngã. Đây là trải nghiệm phổ quát, liên tục, hoàn toàn chủ quan và
không có bằng chứng nào là có thể hoặc cần thiết. “Tôi” của Đại ngã là biểu hiện
của Thần tính như là Nhận thức, do đó, vượt ra ngoài thời gian và hình tướng. Sự
thật của bản sắc này bị che khuất bởi tính nhị nguyên do tri giác tạo ra và biến
mất khi tất cả các định vị đều bị từ bỏ.
***
Đại ngã là vô điều kiện;
nó không có phẩm chất và không phụ thuộc hoặc có thể giải thích được. Đại ngã
không có thời gian tồn tại, không có khởi đầu hay kết thúc, không có vị trí,
hình tướng, hay giới hạn. Chính Ánh Sáng của Đại Ngã soi sáng tồn tại; nếu
không có nó sẽ không có nhận thức. Đại Ngã nằm ngoài mọi tiến trình. Mọi miêu tả
đều không phù hợp và không thể áp dụng được cho Đại Ngã.
***
Tình yêu và Quyền năng của
Chúa là một và như nhau.
***
Chỉ có thể biết Chúa, chứ
không thể chứng minh được. Không có thế giới nào tồn tại bên ngoài tính chủ
quan. Nếu không có Hiện diện của Thiên Chúa, thì người ta sẽ không biết hoặc trải
nghiệm bất cứ điều gì, thậm chí ngay cả sự tồn tại của chính mình. Tồn tại như
là tính chủ quan là trọn vẹn, toàn diện và toàn thể; đó cũng là nền tảng của niềm
vui. Đại ngã là Hiện diện của Cội nguồn của Tồn tại như là “Tôi” Vô biên Vô tế.
***
Tính tự phát của đời sống
là biểu hiện của các bản chất tương tác với nhau một cách phi nỗ lực. Phép lạ của
Sáng tạo là liên tục, và mọi cuộc đời đều chia sẻ trong Thần tính của Cội nguồn
của nó, vì không có gì tồn tại mà không do mệnh lệnh của Thần thánh. Khi tính
thiêng liêng của đời sống được mặc khải, thì sau đó người ta sẽ biết về ý nghĩa
của câu Vinh Danh Thiên Chúa Trên Các Tầng Trời!
***
Khái niệm về Chúa chiến đấu
với các thế lực tà ác là do những tưởng tượng đầy tội lỗi, sợ hãi tạo ra; không
thể có chuyện đó. Trong Thực tại, không thể có đe dọa nào đối với thiên đường
hay Chúa hoặc sự thuần khiết của Thực tại Tuyệt đối. Cái Thực tồn tại và còn
cái không thực thì không, và cái không thực thì không thể đe doạ được cái Thực.
***
Sự sống không thể chấm dứt,
nó chỉ thay đổi hình tướng mà thôi. Nguồn gốc và bản chất của sự sống là Thiên
Chúa, Ngài không thể chết. Người ta không thể đánh mất cội nguồn của mình. Cái
chết là hồi kết của một chương trong một loạt những câu chuyện, cuối cùng sẽ chỉ
chấm dứt khi bản ngã-tác giả phó thác cho cội nguồn của nó.
***
Đại ngã giống như bà nội ở
bên trong của một người, bà trông chừng đứa trẻ để nó không quên mang áo mưa hoặc
trả tiền thuê nhà. Chúa không phải là điềm gở mà là yêu thương; sợ hãi phát
sinh từ trí tưởng tượng.
***
Hiện diện của Đại ngã là
trọn vẹn, vĩnh cửu và viên mãn hoàn toàn—nó không cần gì hết. Mọi thứ xảy ra một
cách tự phát như là biểu hiện của bản chất nội tại của nó. Không có gì và không
có ai “gây ra” bất cứ điều gì.
***
Đấng Tối cao Vô biên Vô tế
là như nhau đối với toàn thể nhân loại và trong suốt mọi thời đại. Thượng đế của
tất cả các tôn giáo của con người là một và như nhau, và siêu việt tất cả các vị
thần của các bộ lạc xa xưa. Thượng đế vừa siêu việt vừa có mặt khắp nơi, cả ở
trên trời và bên trong chúng ta. Nhận ra Đại ngã là biết Thượng đế có mặt khắp
nơi, phù hợp với lời dạy của Chúa Kitô rằng, thiên đường ở bên trong chúng ta.
Thực tại vô biên vô tế, phi thời gian cũng được gọi là “Phật tính”, “Ý thức của
Chúa Kitô”, “Đấng Tối cao” của
Krishna, v.v.
***
Sự thật tự tiết lộ mà
không cần tuyên bố hay cần được tôn vinh. Chủ quyền Tuyệt đối của nó tỏa sáng
mà không cần được ca ngợi hay khen ngợi.
***
Đại ngã vượt ra ngoài -
nhưng lại là bẩm sinh ở bên trong - mọi hình tướng—phi thời gian, không có khởi
đầu hay kết thúc, bất biến, vĩnh cửu và bất tử. Từ đó xuất hiện nhận thức, ý thức
và trạng thái vô biên vô tế của “ở nhà”. Đó là tính chủ quan tối thượng, từ đó
xuất hiện ý thức về “tôi” của mọi người. Thực tại Vô biên Vô tế thậm chí không
biết chính nó là “tôi” mà là chính nền tảng
của khả năng cho tuyên bố như thế. Nó vô hình và hiện diện khắp nơi.
***
Cội nguồn của Đại ngã là
thực tại của Thần tính. Mặc dù nó là cội nguồn của tồn tại, nhưng nó không phụ
thuộc vào nó, và thuật ngữ như vậy cũng không áp dụng được.
***
Những phẩm chất bẩm sinh của
Thần tính là lòng thương xót và tâm từ bi. Không cần phải tìm kiếm ân huệ; chỉ
cần chấp nhận những gì đã tồn tại như là hiển nhiên.
***
Thần tính không có bộ phận
hay chia rẽ.
***
Tất cả những gì thực sự
thuộc về Chúa đều mang lại an bình, hòa hợp và tình yêu, đồng thời không có bất
kỳ hình thức tiêu cực nào. Những người có nhận thức tâm linh nhận ra rằng họ chỉ
có thể truyền tải thông điệp, vì chính sự thật bên trong mới là người thầy.
***
Hiện diện như là Đại ngã
soi sáng Toàn thể của Thực tại. Mọi thứ đều bình đẳng là do Thần tính của tồn tại
của nó như là Đấng tối cao Vô biên Vô tế, từ đó phát sinh tồn tại và sáng tạo. Không
có bất kỳ lựa chọn hay chia rẽ nào; tất cả đều có giá trị và vai trò quan trọng
như nhau.
***
Sự thuần khiết của Thần tính
nằm ngoài hiểu biết của bản ngã vì bản ngã bị giới hạn bởi hình tướng và luôn luôn
cho rằng có nhị nguyên của chủ thể và khách thể.
***
Vũ trụ tự tạo ra theo lối
tự phát. Không có gì khiến nó thể hiện chính mình. Cái Phi Hiển Lộ của Thượng đế
(Godhead) là tiềm năng vô biên vô tế của bối cảnh vô biên vô tế và tất cả khả
năng. Vũ trụ là tự động theo lối tự phát—ngay cả ý nghĩ về “tồn tại” cũng chỉ
là một khái niệm.
***
Thiên Chúa là bản chất của
“Tôi” phổ quát của mọi hiện hữu. Đằng sau ngay cả “Tôi” phổ quát của Thiên Chúa
là Đấng Tối cao như là Cái Phi Hiển Lộ, không thể gọi tên.
***
Vì bản chất của Thiên Chúa
là chất xúc tác của Tạo hoá, cho nên mọi thứ được tạo ra đều có cùng phẩm chất
đó. Do đó, bối cảnh tối cao của Thiên Chúa là tiến trình vô biên vô tế của các
tiềm năng và khả năng, mỗi tiềm năng và khả năng sau đó lại tạo ra tiến trình
vô biên vô tế tiếp theo của các tiến trình vô biên vô tế. Mặc dù không thực sự vừa
ý, nhưng lời giải thích là quan điểm của Đại ngã như là một với Tạo hoá.
***
Do bản chất của mình, Đại
ngã biết tất cả những gì tồn tại đều vượt ra ngoài thời gian và do đó vượt ra
ngoài ký ức.
***
Vinh quang của Chúa tỏa
sáng như là Cội nguồn của Tồn tại, cũng như Thực tại có thể biết được bằng nhận
thức chủ quan của Đại ngã như là “Tôi” Vô biên Vô tế.
***
Bối cảnh vô biên vô tế của
tất cả những gì tồn tại và của mọi khả năng rõ ràng là Thiên Chúa.
***
Khả năng chuyển hoá từ tiềm
năng thành hiện thực là sức mạnh bên trong vô biên vô tế của chất nền nguyên thủy
của mọi tồn tại, chỉ cái có sức mạnh này mới có thể chuyển hoá cõi phi hiển lộ
thành cõi hiển lộ mà thôi.
***
Trong Thống nhất và Nhất
thể, mọi thứ đồng thời là bản chất của mọi thứ khác, nhưng không phải do “giống
nhau” hay “khác nhau”. Trong bối cảnh vô biên vô tế của Toàn thể, tiềm năng được
kích hoạt bởi Mệnh lệnh Thần thánh, thường được gọi là Ý Chúa. Tuy nhiên, thuật
ngữ “ý” có phần gây hiểu lầm ở chỗ nó ngụ ý “ý chí”. Sáng tạo được chứng kiến
là quá trình mở ra và mặc khải xuất hiện của tiềm năng vô biên vô tế như là Tạo
hoá. Do đó, không có tính nhị nguyên của “cái này” (Tạo hoá) tạo ra “cái kia” (Sáng
tạo), vì Tạo hoá và Sáng tạo là một và như nhau.
***
Sự thật và Thực tại giống
hệt nhau và luôn luôn có đó, chỉ chờ được khám phá.
***
Bỏ qua ý thức thì không thể
vươn tới Sự thật, vì Sự thật chính là sản phẩm của ý thức.
***
Hiện diện của Đại ngã tạo
ra purusha (Linh hồn phổ quát) cổ điển, hay Hào quang của Đại ngã như là Cội nguồn.
Đại ngã “biết” là do đồng nhất với chính Thần tính. Do đó, nó là Nhận thức của
chính nó, và bằng sự Hiện diện của nó, nó tự làm cho mình “được biết” như là
“Người biết”. Do đó, nó không biết “về”, mà là sự trọn vẹn của bản chất của
chính nó.
***
Thần tính biết bản chất của
chính nó; do đó, chấp nhận sự thật đó là đã cảm thấy vui rồi. Không trải nghiệm
niềm vui bằng cách hiểu sự kiện này có nghĩa là đang chống lại nó.
***
Chứng ngộ không phải là điều
kiện để giành được; nó chỉ đơn giản là sự chắc chắn mà người ta phải phó thác
cho nó, vì Đại ngã đã là Thực tại của chính bạn. Chính Đại ngã đang lôi cuốn bạn
đến với thông tin tâm linh.
***
Vì Thần tính là phi tuyến
tính và vô hình, cho nên Thiên Chúa là màn hình cao nhất để phóng chiếu những lỗi
lầm và khuynh hướng bất tận của bản ngã con người.
***
Nghiên cứu hiệu chỉnh ý thức
xác nhận rằng Chúa là siêu việt, vốn có và hiện diện trong tất cả mọi thứ đang tồn
tại như là chính Cội nguồn của Tồn tại. Do đó, phi tuyến tính đồng thời hiện diện
trong tuyến tính.
***
Đại ngã biết Thực tại Tối
thượng là do bản sắc; nó là nó. Do đó, Đại ngã nhận ra Hiện diện.
***
Toàn thể của Thần tính được
xác nhận mạnh mẽ bằng sức mạnh to lớn của Tình yêu vốn có trong Sáng tạo và Thần
tính. Hiện diện của Tình yêu bao trùm khắp nơi và được trải nghiệm như là Đại
ngã bên trong của người đó. Nó làm tan chảy tính tuyến tính vào Nhất thể, vừa
nhẹ nhàng tinh tế vừa—nhưng ngược đời là —vô cùng mạnh mẽ. Tình yêu là Luật Tối
thượng của Vũ trụ.
***
Thần tính là Cội nguồn của
tất cả Tồn tại, bao gồm cả tồn tại của chính người đó.
***
Hỏi: Người ta nói rằng người tìm kiếm và cái được tìm kiếm là một và như nhau. Có đúng thế không?Trả lời: Thực ra là không đúng. Cái đang tìm kiếm Đại ngã là bản ngã/tự ngã; do đó, chúng không không phải là một. Đại ngã không có nhu cầu hoặc khả năng tìm kiếm vì nó đã là như thế rồi.
***
Nhận ra rằng miêu tả Chúa như
là một vị “thẩm phán” là vọng tưởng của bản ngã, phát sinh như là phóng chiếu mặc
cảm tội lỗi do bị trừng phạt trong thời thơ ấu. Cần nhận ra rằng Chúa không phải
là cha mẹ.
***
Ân sủng của Thiên Chúa có
thể được hiểu như là sự chắc chắn tuyệt đối của sự gắn kết mang tính nghiệp lực
của toàn bộ vũ trụ trong mọi biểu hiện của nó như là các cõi và các khả năng.
Ân sủng là cung cấp trong cõi ý thức để có thể sử dụng tất cả các phương tiện để
được cứu rỗi và tự do tuyệt đối. Bằng cách lựa chọn, người ta quyết định số phận
của chính mình. Không cần tính tới bất kỳ lực lượng tùy tiện nào.
***
Không phải “tôi” cá nhân đang
tìm kiếm sự thật cao hơn. Mà thay vào đó, đó là một khía cạnh của chính ý thức được
thể hiện như là cảm hứng, dâng hiến, cống hiến và kiên trì—tất cả đều là các
khía cạnh của ý chí tâm linh. Do đó, cội nguồn của việc tìm kiếm Đại ngã là
chính Đại ngã hiện thực hóa các quy trình cần thiết, đấy là do các phẩm chất của
riêng nó, được tạo điều kiện thuận lợi bởi Ân sủng.
***
Như có thể nhận thấy bằng
nghiên cứu ý thức trong lúc này, tiềm năng vô biên vô tế của cái phi hiển lộ đã
trở thành hiển lộ như là ma trận năng lượng phụ của vũ trụ vật lý tiềm tàng.
Trong khi nó tiếp xúc với vật chất, năng lượng của ý thức hiện thực hóa tiềm
năng của đời sống sinh học. Ý thức như là sự sống là một và cùng một thực tại
cơ bản. Trong thuật ngữ tâm linh, ý thức là sự tỏa sáng của Thần tính (“ánh
sáng của Chúa” trong Sáng thế ký). Vì các thuật ngữ Chúa hoặc Thần tính là rắc
rối, cho nên thay vào đó, người ta có thể gọi Thần tính là “thực tại toàn năng
tối thượng”—Cội nguồn tuyệt đối, không thể quy giản của Tất cả Tồn tại.
***
Tính chủ quan—không có nội
dung và vượt ra ngoài tính nhị nguyên của chủ thể và khách thể—là Đại ngã. “Tôi”
chủ quan của Đại ngã độc lập với nội dung hoặc hình tướng, vượt ra ngoài mọi
suy nghĩ hoặc khái niệm. Không phải cảm xúc hay suy nghĩ là quan trọng, mà chỉ
có tính chủ quan làm nền tảng cho vai trò dường như là quan trọng của chúng.
Ngược đời là, chính tính
chủ quan triệt để dẫn đến khám phá đáng kinh ngạc về “tính khách quan” thực sự
duy nhất có thể. Sự thật duy nhất có thể được xác minh một cách khách quan ở mọi
thời đại, mọi nơi và trong mọi điều kiện, bởi bất kỳ người nào, ở bất kỳ đâu là
sự thật tuyệt đối, không thể giản lược của tính chủ quan.
Thậm chí công trình nghiên
cứu khoa học triệt để nhất cũng dẫn đến khám phá ra rằng, nếu không có tính chủ
quan, thì chúng ta sẽ không biết được bất cứ điều gì—thậm chí không thể nói rằng
nó tồn tại. Nhận thức về nhận thức, nhận thức về việc mình có ý thức và nhận thức
về nội dung đều phụ thuộc vào việc xuất hiện từ tính chủ quan này.
Tính chủ quan của ý thức
là ánh sáng của Đại ngã như là “Tôi” phổ quát của Thực tại. Đó là Con mắt của
Chúa. “Tôi” là Bản chất của Tất cả Những Thứ Đang Là và bao gồm toàn bộ Hiện diện
như là Cội nguồn của Tồn tại luôn luôn hiện hữu, vượt ra ngoài mọi thời gian
hay địa điểm. Nó không có khởi đầu và không có kết thúc. Sáng tạo và Đấng sáng
tạo là một và như nhau. Mô tả Thiên Chúa là Hiển lộ hay Phi hiển lộ, hoặc là
siêu việt hay có mặt khắp nơi, chỉ là những quan điểm tùy tiện. Thực tại nằm
ngoài mọi nỗ lực mô tả như thế.
***
Sự thật tự nó là hiển
nhiên, đấy là do sự tồn tại của nó như là Toàn thể.
***
Sự sống, giống như tồn tại,
không có đối lập—cũng như sự thật không có đối lập, cái giả tự tồn tại như là giả
dối. Sự thật hoặc là có đó hoặc là không. Thần tính, Chúa, Toàn thể, Nhất thể
và Tuyệt đối là Tất Cả Những Thứ Đang Là; đối lập với Chúa không thể tồn tại.
Chỉ có sự thật là đúng; không có gì khác tồn tại. Do đó, tất cả sợ hãi đều phát
sinh từ chấp trước vào hình tướng do vọng tưởng rằng hình tướng là đòi hỏi cần thiết
cho tồn tại.
***
Cái chết không thể xảy ra
với sự sống, cũng như bóng tối không thể giết chết ánh sáng. Sự thật không bị
suy yếu hoặc phủ nhận bởi giả dối, và chỉ có biểu hiện của nó mới có thể bị hiểu
lầm hoặc trình bày sai lệch. Không có đối lập nào với sự sống, với Chúa, với Sự
thật hay với Toàn thể của Thực tại.
***
Nhận ra và biết Thiên Chúa
là hoàn toàn và chủ quan triệt để. Thậm chí không có khả năng giả định rằng lý
trí có thể vươn tới Sự thật. Sự thật chỉ có thể được nhận biết nhờ vào chính bản
chất của việc trở thành nó.
***
Sự thật là đơn giản và hiển
nhiên triệt để của Thiên Chúa. Đó là thống nhất. Từ thống nhất biểu thị sự trọn
vẹn của Đại ngã-bản sắc của tồn tại. Tất cả đều trọn vẹn nhờ vào bản chất của
chính nó. Không cần mô tả hay định danh nào hết; tất cả đều là những thứ làm
cho người ta phân tâm. Chỉ chứng kiến mà không cần suy nghĩ. Không cần phải tư
duy về Thực tại; suy nghĩ không làm tăng thêm giá trị của nó, mà ngược lại còn
làm giảm giá trị của nó.
***
Tà ác không phải là đối lập
với Thiên Chúa mà chỉ đơn giản là phủ nhận Thiên Chúa, cũng như giả dối không
phải là đối lập với sự thật mà là từ chối sự thật.
***
Sự thật không cần lễ phục.
Nhiều vị thầy giả dối đắm chìm trong những màn tự trình diễn chả khác gì đóng kịch,
đấy chỉ là cám dỗ và tự thỏa mãn khi đóng vai người “đặc biệt” mà thôi.
***
Sự thật là hiện thực;
không phải sự thật là giả dối vì nó không bao giờ tồn tại và do đó không bao giờ
được ghi lại, đó là lý do vì sao nó thể hiện phản ứng “dối trá” (không có sự thật)
trong kiểm tra nghiên cứu ý thức. Ý thức chỉ phản ứng với cái “đang là” hoặc
“đã từng là” trong Thực tại. Cội nguồn của ý thức là Thực tại Tuyệt đối, trước
đây gọi là Sự thật.
***
Năng lượng duy nhất có sức
mạnh to lớn hơn sức mạnh của bản ngã tập thể là Sự thật Tâm linh.
***
Sự thật tự mặc khải, đấy
là do sự toàn tri của trường ý thức, trong đó toàn tri nhận ra thực tại của Sự
thật và không thừa nhận dối trá—dối trá không phải là sự đối lập với sự thật,
mà là vắng mặt sự thật.
***
Sức mạnh bên trong của chính
Sự thật là phẩm chất của Tình yêu Thần thánh, trong thương xót vô biên vô tế của
nó, nó hoà tan các định vị vào Thực tại của Đại ngã.
***
Truyền đạo là biểu hiện của
sự phù phiếm của bản ngã tìm kiếm địa vị thông qua thoả thuận hay thống trị. Sự
thật là trọn vẹn và toàn bộ trong chính nó và do đó không cần bất cứ thứ gì.
***
Dối trá không phải là đối
lập với sự thật, mà chỉ đơn giản là vắng mặt sự thật. Trong thực tại, sự thật
không có đối lập, cũng như lạnh không phải là đối lập với nóng, cũng như ánh
sáng không phải là đối lập với bóng tối. (Bóng tối là không có ánh sáng, cũng
như lạnh là không có nóng)
***
Trong thực tại, Tình yêu của
Chúa, tương tự như mặt trời, tỏa sáng như nhau trên tất cả.
***
Tối thượng là cõi vô hình
tướng, vô giới hạn và vô định xứ; do đó, đó là phạm vi của toàn bộ của Tất cả
luôn hiện hữu.
***
Chỉ có Tồn tại. Tồn tại không cần nguyên nhân, và nghĩ nhiều là tạo ra ngụy biện về logic. Dùng từ Tồn tại là chúng ta muốn nói đến khả năng nhận biết thông qua quan sát, và gán thay đổi giả định về điều kiện từ không tồn tại thành tồn tại. Tuy nhiên, cái luôn tồn tại trong sự trọn vẹn của nó nằm ngoài mọi thời gian; việc tìm kiếm một “nguyên nhân đầu tiên” là tạo tác của hoạt động tâm trí phát sinh cùng với các khái niệm về thời gian và không gian. Vượt ra ngoài thời gian và không gian, thì không có sự kiện, không có khởi đầu và không có kết thúc, chúng nằm bên ngoài các phạm trù của tư duy hay lý trí của con người.
No comments:
Post a Comment