David Hawkins
Phạm Nguyên Trường dịch
CHỨNG NGỘ
Trong chương cuối cùng của tác phẩm Trí tuệ, Tiến sĩ David R. Hawkins mở rộng quan điểm từ chứng ngộ cá nhân sang chứng ngộ ở tầng quốc gia và toàn cầu. Và như bạn sẽ thấy trong những phần tiếp theo, chứng ngộ ở bất kỳ tầng thứ nào của trải nghiệm cuộc đời đều xuất phát từ việc áp dụng cùng những các nguyên tắc tâm linh giống nhau.
Thử thách đối với mỗi chúng ta là tự mình trở thành nhà lãnh đạo đã chứng ngộ, để chúng ta có thể truyền cảm hứng cho một thế hệ các nhà lãnh đạo đã chứng ngộ, những người có thể giúp nâng cao tầng ý thức của đất nước chúng ta và cuối cùng là thế giới của chúng ta.
Tiến sĩ Hawkins bắt đầu phần này bằng cách thảo luận bầu không khí
chính trị luôn bị chia rẽ, và kết thúc trên tinh thần hiệp nhất bằng lời cầu
nguyện chúc các bạn được hạnh phúc và can đảm tiến xa hơn trên con đường chứng
ngộ.
Trong những năm gần đây, đối thoại chính trị có điểm hiệu chỉnh ở tầng ý thức 200. Trong thế hệ của tôi, đối thoại chính trị có điểm chỉnh khoảng 280 hoặc 290, vì vậy, lúc này phẩm chất của đối thoại chính trị đã hạ xuống. Nó chỉ ở tầng 200, không tốt cũng không tệ, nhưng đồng thời, cũng không là cả hai. Đó là do ảnh hưởng của truyền thông mà chúng ta vừa thảo luận trong phần trước. Người ta không quan tâm đến bạn là ai trong thực tại nữa. Họ quan tâm đến hình ảnh mà bạn phóng chiếu ra. Hình ảnh được phóng chiếu ra là những thứ họ hy vọng sẽ tạo được ảnh hưởng tới công chúng. Và như tôi đã nói, nó là do nổi tiếng chứ không phải bằng năng lực. Tương tự như trở thành bác sĩ phẫu thuật nổi tiếng trong đội ngũ nhân viên. Không có nghĩa là bạn là người giỏi nhất. Khi tôi được phẫu thuật khối u não, tôi không quan tâm đến nổi tiếng. Tôi quan tâm đến chuyên môn.
Xã hội của chúng ta không chú trọng chuyên môn; họ nhìn vào nổi tiếng. Họ cho rằng nổi tiếng là cái mang lại phiếu bầu, vì vậy, mục tiêu của đối thoại chính trị rất ý thức về giới truyền thông và sau đó là tìm cách lợi dụng các phương tiện truyền thông và lợi dụng các định kiến và hệ thống niềm tin của dân chúng chứ không lãnh đạo họ. Một số người cho rằng đây là một bước tiến lớn, nhưng nó thực sự không phải như thế. Đó chỉ là lợi dụng sự nổi tiếng mà thôi. Chúng ta có phân biệt giới tính và phân biệt chủng tộc, rồi sau đó, là phân biệt tuổi tác. Tất cả những thứ ism này đang chiến đấu với nhau. Chúng ta nói, ngay khi bạn thêm -ism vào cuối một từ nào đó, tầng của nó sẽ giảm xuống dưới 200. Tác động thực tế của cuộc đối thoại là dưới tầng 200. Trên các phương tiện truyền thông, chúng ta thấy người ta tìm cách ngăn chặn một số thứ và khuếch đại những thứ khác. Thao túng thường xuyên diễn ra.
Người ta khao khát chức vụ chính trị chẳng khác gì những kẻ mất trí, và một khi bị mắc căn bệnh này, dường như họ sẽ làm hoặc nói bất cứ điều gì miễn là được đưa vào chứa vụ đó. Như tôi đã nói, ngay khi bạn được bầu, 50% người dân sẽ ghét bạn vì tất cả những người này đều bỏ phiếu chống lại bạn. Thật khó biết vì sao người ta lại ham mê chức vụ đến như thế … thói ái kỷ, tôi đoán thế.
Tôi coi chức vụ là trách nhiệm, bạn đã được bầu vì người ta công nhận khả năng bạn sẽ trở thành người lãnh đạo giỏi nhất vào lúc đó. Và tất nhiên, tôi, người đã sống qua một thế hệ khác, tôi nhớ lại giai đoạn đầu Thế chiến II. Winston Churchill được lựa chọn để trở thành thủ tướng, đấy là năng lực, chứ không phải do ông là người nổi tiếng. Sau khi chiến tranh kết thúc, trong cuộc bầu cử tiếp theo, sau khi được cứu mạng, dân chúng đã không bầu cho ông nữa. Đó là lời cảm ơn mà ông nhận được, lời cảm ơn mà ông nhận được vì đã lãnh đạo nhân dân giành chiến thắng và gắn kết người dân Anh lại với nhau. Ông có tầng ý thức 500, nhưng người dân thậm chí không bầu ông! Đó là một cú đá thực sự vào đầu, có đúng thế không? Bạn hy sinh tất cả vì đất nước, đề cứu nước, nhưng dân chúng thậm chí không bầu cho bạn, tôi nghĩ chính trị là như thế.
Trước hết là tính chính trực; tính cách và tính chính trực cùng với khả năng. Bạn muốn một người nào đó có nhiều kinh nghiệm, có tính chính trực và ý thức tốt về thực tai, một người có hiểu biết về chính trị và đã hoạt động chính đủ lâu. Bạn chỉ muốn tìm kiếm những tính cách tích cực. Lúc đó sẽ chẳng có tính cách nào trong những thứ vừa nói có liên quan gì đến chủng tộc hay giới tính. Giới tính không làm cho bạn trở thành một chính trị gia giỏi hơn, không phải chủng tộc, màu da hay tuổi tác hay bất kỳ thứ gì trong những đặc điểm vừa có thể làm cho bạn trở thành bác sĩ giỏi hơn. Tôi không quan tâm bác sĩ phẫu thuật não có màu da như thế nào. Tôi muốn có một bác sĩ phẫu thuật não giỏi nhất.
****
Chế độ dân chủ không kéo dài được quá hai trăm năm. Đôi khi nó tồn
tại được là do có những hạn chế hoặc được dẫn theo những hướng khác. Chế độ dân
chủ ở nước ta kéo dài đã bao lâu? Và dường như vẫn hoạt động khá tốt. Nhưng
càng vô minh thì càng ích kỷ, những người có tầng ý thức thấp hơn sẽ bỏ phiếu dựa
trên lợi ích cá nhân. Họ không bỏ phiếu vì lợi ích của cộng đồng, lợi ích của
dân chúng, vì thiện chí, vì sức khỏe, hoặc vì lợi ích công cộng, mà vì ích kỷ.
Những tầng có điểm hiệu chỉnh dưới 200 đều là ái kỉ. Họ chỉ quân tâm tới mình, tới tôi, tôi được gì? Càng nhiều người nằm ở những tầng này, tỷ lệ người dân có điểm hiệu chỉnh dưới 200 càng cao thì chế độ dân chủ càng gặp nhiểu nguy hiệm. Lúc đó, họ sẽ phớt lờ trách nhiệm đối với xã hội, đối với những người Mỹ khác. Họ đưa ra quyết định dựa trên những giá trị cá nhân.
Vì vậy, khi nói về việc nâng cao nhận thức, nghe có vẻ như mang tính mục đích, giống như chúng ta sẽ làm điều này và sau đó nhận thức sẽ được nâng cao. Nhưng điều bạn thực sự làm là tái khẳng định giá trị của những gì chính trực. Bạn tái khẳng định bằng cách chú ý thường xuyên tới nó.
CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH
Người ta thường cho rằng chiến tranh và hòa bình là hai mặt đối lập. Hoàn toàn không phải là những mặt đối lập. Người ta thường nghĩ nếu không có ai bị bắn thì bạn đang sống trong hoà bình. Bạn không có hòa bình. Vì những kẻ sống nhờ chiến tranh kiếm được rất nhiều tiền. Thực tế là, chiến tranh nuôi dưỡng cả những cuộc biểu tình đòi hòa bình.
Hòa bình là trạng thái tự nhiên, khi sự thật giữ thế thượng phong. Nó là trường. Bản chất của trường này là hoà bình. Khi sự thật giữ thế thượng phong, bạn tự khắc sẽ có hòa bình. Chiến tranh không liên quan gì tới bạo lực. Khi giả dối giữ thế thượng phong thì chiến tranh sẽ tự động xảy ra. Hoà bình không phải là mặt đối lập của chiến tranh. Do đó, nền tảng của chiến tranh, nếu đấy là dối trá, thì sẽ là vô minh, tức là không thể phân biệt thật giả.
Cuốn Power vs. Force tạo được ấn tượng sâu sắc - Tôi có thể nói như thế vì không có “tôi” nào cảm thấy tự cao tự đại về việc này, tôi chỉ đơn giản là nhân chứng cho của quá trình trước tác Power vs. Force mà thôi - lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại nó nói cho chúng ta biết cách phân biệt thật giả. Nghiệp lực của nhân loại đã thay đổi cùng với cuốn sách này. Cho đến lúc đó, không có người nào, không ở đâu có thể chỉ ra được sự khác biệt giữa thật và giả, trừ những nhà huyền môn cao cấp, nhưng họ ở nơi thâm sơn cùng cốc. Họ không lộ diện.
Cơ sở của chiến tranh là vô minh. Khi xem lịch sử Đức Quốc xã trên Kênh Lịch sử, bạn sẽ thấy đoàn Thanh niên Hitler phát triển như thế nào, nó làm cho trái tim bạn tan vỡ vì những thanh niên này nghĩ rằng họ sắp tới trại hè Hướng đạo sinh. Họ đốt lửa trại, nắm tay nhau và làm những việc dũng cảm vì tổ quốc của mình. Bạn có thể thấy sự ngây thơ. Tâm trí con người không có khả năng phân biệt thật giả, vì nó chỉ là phần cứng của máy tính. Còn những thông tin xã hội đưa vào là phần mềm. Phần cứng không thay đổi. A Course in Miracles (Khóa học về những điều kỳ diệu) nói rằng dù có xảy ra chuyện gì thì ngây thơ cũng không hề bị vấy bẩn. Phần mềm không thể tác động tới phần cứng. Xã hội đưa phần mềm vào máy tính.
Bạn có thể lợi dụng những đứa trẻ ngây thơ này. Trong thế kỷ trước,
100 triệu người đã chết vì sự ngây thơ như thế, vâng, 100 triệu người. Chúa
Jesus từng nói, “Chỉ có một vấn đề: vô minh. Hãy tha thứ cho họ, vì họ không biết
việc mình làm”. Vô minh. Đức Phật cũng dạy
như thế, “Chỉ có một tội, đó là vô minh”.
BẢY BƯỚC MANG LẠI LỢI ÍCH CHO NHÂN QUẦN
#1: Thành lập các hội đồng tư vấn
Vâng, nó sẽ không làm hài lòng tất cả mọi người, nhưng ở cuối bất kỳ công trình nghiên cứu hàn lâm nào hay nghiên cứu lâm sàng nào cũng đều có các khuyến nghị, dựa trên những điều mà các công trình này phát hiện được. Như tôi đã và đang khuyến nghị, trước khi đầu tư tiền cho một công trình nghiên cứu nào đó, bạn cần phải tính điểm, phải hiệu chỉnh mức độ chính trực của kế hoạch nghiên cứu, người nghiên cứu, mục đích của công trình nghiên cứu. Chúng tôi đã thực hiện một công trình nghiên cứu về chính trị quốc tế, các tầng của các chính phủ khác nhau, các hình thức chính phủ khác, các nhà lãnh đạo chính trị khác nhau trong lịch sử. Chúng tôi đã rút ra kết luận mà chúng tôi cho là có thể là cơ cấu nền tảng cho môn khoa học về ngoại giao dựa trên thực tại, chứ không dựa trên nhận thức và hình ảnh của truyền thông. Bằng cách nghiên cứu xã hội của chính chúng ta, từ quan điểm chính trị và những quan điểm khác, đồng thời nhìn vào lịch sử chiến tranh và phân tích chi tiết các cuộc chiến tranh khác nhau, chúng tôi đã đưa ra một số đề xuất.
Trình độ hiểu biết về các vấn đề mà các chính trị gia phải xử lý/ban hành luật lệ là cực kỳ thấp. Ví dụ, họ thông qua luật về y tế, và tất cả các lĩnh vực khác của xã hội, thương mại quốc tế, v.v., nhưng kiến thức của họ về những lĩnh vực này lại vô cùng hạn chế.
Người ta liên tục tạo ra thảm họa cho xã hội và nền văn minh. Nếu hiệu chỉnh các hình thức chính phủ khác nhau, chúng ta sẽ thấy rằng chế độ dân chủ ở gần đỉnh cao, nhưng không phải là đỉnh cao nhất. Thú vị là, chúng tôi phát hiện được rằng chính phủ dựa trên hội đồng cố vấn, hay còn gọi là chế độ quả đầu, có điểm hiệu chỉnh thậm chí còn cao hơn. Cao năm điểm là khá quan trọng rồi. Nếu nhìn vào các hệ thống chính trị, chúng ta chỉ có thể tính điểm hiệu chỉnh chúng theo lối trừu tượng. Chúng tôi thấy rằng chế độ qủa đầu có điểm hiệu chỉnh 415, là tầng cao nhất. Chế độ dân chủ có điểm hiệu chỉnh 410, khá cao. Nhà nước Iroquois có điểm hiệu chỉnh khoảng 400, chính phủ liên hiệp - 345, chủ nghĩa xã hội -300, chế độ quân chủ 200, v.v. Từ đây là đi xuống.
Chế độ quả đầu là hệ thống có từ thời thượng cổ. Người Mỹ không quen với nó. Sự sống còn của hầu hết các xã hội bộ lạc đều là do trí huệ và khôn ngoan của những bô lão trong bộ lạc, họ là những người được trọng vọng. Người đứng đầu không phải là hội đồng trưởng lão. Cái mà đất nước chúng ta dường như đang còn thiếu là hội đồng trưởng lão. Chúng ta có nội các chính phủ. Tất cả các vị trí quyền lực đều là những người được bổ nhiệm. Quan trọng là bạn thuộc đảng phái nào và bạn của bạn là ai, bạn có nghĩa vụ với ai. Thực chất là, bạn phải trả nợ cho ai? Tôi tin rằng chúng ta cần một hội đồng của trưởng lão, vì nó hướng đến tính chính trực, sự thật và những gì có lợi cho xã hội và thế giới, mà không phụ thuộc vào bất kỳ định vị cụ thể nào. Hội đồng trưởng lão chính là hội đồng tư vấn.
Ngày xưa, trong chế độ quả đầu đúng nghĩa, hội đồng trưởng lão là cơ quan có quyền lực. Do bản chất của hệ thống chính trị chúng ta, việc thành lập hội đồng trưởng lão là bất khả thi. Hiến pháp của chúng ta không được thiết lập để hoạt động theo mô hình đó. Tuy nhiên, chúng ta cần một cái gì đó đứng trên nội các. Thành phần hội đồng này là các chính khách, chứ không phải là các chính trị gia. Chính khách có tầm nhìn xa trông rộng hơn hẳn chính trị gia, vì chính trị gia có chương trình nghị sự của mình. Ngược lại, chính khách, ví dụ như Churchill, trong Thế Chiến II, đã đoàn kết được tất cả người dân Anh. Đó chính là năng lượng tâm linh.
Hội đồng tư vấn bao gồm những người không cần nhận thêm bất kỳ quyền lợi nào nữa. Họ đã có đủ rồi. Họ không cần bất cứ thứ gì. Bạn sẽ làm gì khi bạn đã có tất cả mọi thứ? Bạn tự đề nghị được phục vụ nhân dân. Ví dụ, những người cực kỳ thành công trong lĩnh vực kinh doanh: Họ không cần có thêm tiền bạc, chức tước hoặc quyền lực. Nhưng họ có trí tuệ. Làm sao bạn tạo lập được tập đoàn khổng lồ lớn nhất thế giới? Bạn làm cách nào để General Motors hoạt động?
Bạn tận dụng trí tuệ của những người này - những người không còn cần giành giật bất kỳ lợi ích cá nhân nào nữa, họ chia sẻ với nhau về các vấn đề của đất nước. Và họ sẵn sàng tư vấn cho các chính trị gia. Họ sẽ không bảo bạn phải làm gì, nhưng họ sẽ chỉ ra rằng nếu bạn thực hiện bước đi này, bước đi này, thì bạn đang bỏ qua những hậu quả này hay hậu quả này. Một chính khách thực sự sẽ nói: “Tôi sẽ làm như thế, nhưng chậm thôi để không tạo ra phe đối lập. Nếu vội vàng, bạn sẽ tạo ra một làn sóng phản kháng và tự chuốc lấy thất bại. Có thể bạn sẽ thông qua được đề xuất trong lần bỏ phiếu đầu tiên, nhưng sau đó hậu quả sẽ ập tới và nó làm cho mọi thứ đều đổ vỡ”.
Hội đồng tư vấn được thành lập để hướng dẫn về chính sách và ban hành quyết định, vì họ có thể đưa nó vào bối cảnh khác, họ nói cho bạn biết đâu là ưu điểm, đâu là nhược điểm.
#2: Học cách chẩn đoán tính ái kỷ mang tinh thần cứu rỗi hiểm ác và bằng cách đó xác định và chống lại các nhà lãnh đạo nguy hiểm trước khi họ đe doạ thế giới.
Đây là công việc cực kỳ quan trọng. Đây là vấn đề của giáo dục. Khi trình độ dân trí nâng lên thì khả năng nhận diện và xác định những kiểu bệnh lý tâm lý mà một số chính trị gia mắc phải sẽ tăng lên. Nếu mọi người được điều chỉnh và nhận thức được hiện tượng này, thì họ bắt đầu nhận ra nó ngay từ đầu cuộc chơi, chứ không phải sau khi những kẻ ái kỷ đã thành lập được Gestapo hay OGPU, không phải sau khi họ đã giết hết những vị tướng giỏi nhất, không phải sau khi họ đã giết hết giới trí thức, và không phải sau khi họ đã đưa tất cả người Do Thái ra khỏi nước Đức, không phải sau khi họ đã hiến tế tất cả mọi thứ trong xã hội của mình. Sau đó, họ có thể nói một cách muộn màng rằng: “Ôi trời, chúng ta có bao giờ mắc sai lầm hay không?” 10 triệu người đã chết. Họ đã giết 10 triệu người trước khi người ta bắt đầu tự hỏi, “Trời ơi, tôi tự hỏi liệu chúng ta có quyết định đúng hay không”.
Đó là một trong những chức năng của hội đồng tư vấn - giúp nâng cao nhận thức của những người hoạt động trong lĩnh vực ngoại giao về bản chất của những vấn đề mà họ đang phải giải quyết. Bạn đã nghe thấy những câu nói ngớ ngẩn kiểu như, “Nếu chúng ta thân thiện và tử tế với họ, thì họ sẽ yêu mến chúng ta”. Bạn biết rằng quá khôi hài. Nếu tính điểm hiệu chỉnh cho nó ngay lúc này, bạn sẽ được con số không. Kiểu đàn ông giả tạo độc ác này thù ghét nữ tính. Bạn đang dùng ý thức nữ tính để nói với chuyện với ý thức căm ghét nữ tính. Nếu hiệu chỉnh vị trí của phụ nữ và trẻ em trong các nền văn hóa toàn trị, đầy áp bức đó, thì bạn sẽ thấy rằng vị trí của họ chỉ ngang với loài chó mà thôi. Phụ nữ và trẻ con không được phép sở hữu bất cứ thứ gì, không được đi ra chỗ công cộng, không được đi bất cứ đâu, không được trở thành bất cứ thứ gì. Muốn tồn tại cần phải có phương tiện để nhận biết và chẩn đoán chứng ái kỷ mang tinh thần cứu rỗi hiểm ác trước khi nó vượt ra khỏi tầm kiểm soát, vì khi họ đã tiêu diệt toàn bộ giới trí thức, và tất cả những người có khả năng nhận ra hiện tượng này thì đã quá muộn.
Cái phải trả giá cho việc không thể nhận ra và chẩn đoán ái kỷ mang tinh thần cứu rỗi hiểm ác là sinh mạng của 100 triệu người trong thế kỷ XX. Trong cuộc đời tôi, đã có 100 triệu người phải đi đến chỗ chết chỉ vì sự vô minh như thế. Mà nó lại rất dễ chẩn đoán.
#3: Nhận ra những xu hướng tư tưởng sai lầm trước khi chúng trở thành bệnh dịch.
Ngụy biện khoác áo sự thật, còn tâm trí thì ngây thơ, đặc biệt là những kẻ cực đoan, không thể phân biệt được thật giả. Những thứ có thể được bán như là hợp lý hay có vẻ đúng đắn thì lại được tiếp thị như sang trọng, cao cấp và tinh hoa. Nó đã làm cho tầng hiệu chỉnh của tính chính trực trong lĩnh vực học thuật giảm xuống. Và lúc này, bạn thấy các học giả nói những điều quá ngớ ngẩn, ngay cả học sinh tiểu học cũng không tin, nhưng họ lại tỏ ra nghiêm túc với những điều mình nói.
Bạn thấy đấy, chúng ta còn gặp một hội chứng khác, đó là xuyên tạc sự thật nhằm phục vụ cho những mục đích ích kỷ. Trong những cuốn sách của tôi, chúng tôi đã lần theo dấu vết của những triết lý mới xuất hiện trong giai đoạn gần đây, đã hiệu chỉnh tất cả các triết giai lỗi lạc nhất, những người cổ xuý cho những phiên bản khác nhau của tương đối luận, và kết quả cuối cùng là giải thích nhận thức luận bị bóp méo theo kiểu tương đối. Theo cách nói của người bình thường thì có nghĩa xuyên tạc sự thật sao cho bạn, cũng giống như Alice ở Xứ sở Thần tiên và bạn nói, “một từ chỉ có ý nghĩa chính xác là những gì tôi nói, không hơn không kém”.
Nó không có nghĩa như trong từ điển. Đưa nó đến mức cực đoan. Lúc đó bạn sẽ có tự do ngôn luận, và bạn có thể nói, “Vâng, ngôn từ cũng là một cách thể hiện”. Vì thế ngôn từ có nghĩa là biểu hiện. Nghĩa là bạn có thể làm bất cứ việc gì bạn muốn làm, làm bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào bạn muốn làm. Khi nào ngôn từ không còn là ngôn từ nữa? Nếu chúng ta giải thích ngôn từ có nghĩa là biểu hiện, rồi biểu hiện là hành động, và do đó Ku Klux Klan là hợp pháp, có phải thế không? Nổi loạn cũng thế, phản bội cũng thế. Ám sát tại sao không hợp pháp? Vâng, vì bạn đã làm tổn thương người nào đó. Đấy có phải là ranh giới giữa thật và giả? Bạn có thể làm, nói, cư xử thế nào cũng được miễn là nó không làm tổn thương cơ thể của người khác. Làm như thế sẽ đưa chúng ta tụt xuống chiều kích thấp nhất. Còn thấp hơn các bộ lạc nguyên thủy. Các bộ lạc nguyên thủy vận hành theo tiêu chuẩn đạo đức và trách nhiệm xã hội cao hơn hẳn, chứ không chỉ là hành vi của bạn có tạo ra năng lượng ở tầng vật chất hay không.
#4: Thuê chuyên gia của doanh nghiệp tư nhân rất thành công để họ thực hiện các hoạt động quan trọng.
Hội đồng tư vấn xác định xu hướng. Bằng cách hiệu chỉnh tầng ý thức, bạn có thể hiệu chỉnh năng lượng của những triết lý khác nhau. Hậu quả của sự kiện là những kẻ tạo ra và những người ủng hộ tương đối luận liên kết với các chế độ thần quyền phát xít cực hữu là đủ sức tiêu diệt nền văn minh mà chúng ta gọi là nước Mỹ.
Lúc này, xin tiến hành hiệu chỉnh nó. Đó là sự kết hợp của cả hai yếu tố: thông qua quá trình lặp lại và động lực phi tuyến tính. Một nguyên tắc là sự phụ thuộc nhạy cảm vào điều kiện ban đầu. Tương tự như trường hợp bạn mắc lỗi ở con số thứ 26 sau dấu phẩy như đã từng xảy ra với một trong những cái máy tính nổi tiếng nhất trong thời gian gần đây. Bạn có thể nghĩ, “Ồ, chỉ là con số thứ 26 sau dấu phẩy, thì sao nào”. Nhưng sau quá trình lặp lại, nghĩa là thực hiện phép tính đó hàng chục triệu lần, lỗi nhỏ này có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, thậm chí có thể làm cho cả tòa nhà sụp đổ. Kết hợp của hai yếu tố đó, theo như tôi, một thành viên tự phong của hội đồng tư vấn, đủ sức phá hủy toàn bộ xã hội của chúng ta. Hội đồng sẽ phát hiện ra những vấn đề này trước khi chúng trở thành dịch bệnh. Chỉ dựa vào quan sát, tôi nghĩ hiệu chỉnh nhằm lợi dụng doanh nghiệp tư nhân, để họ thực hiện các hoạt động quan trọng là bước đi rất khôn ngoan.
#5: Sử dụng một năng lực trí tuệ chính xác và phức tạp, kết hợp với kỹ thuật hiệu chỉnh ý thức để giúp chúng ta hiểu rõ cái gì đang xảy ra thế giới.
Xin nhìn vào các hoạt động tình báo theo truyền thống. Nếu bạn quản lý một tập đoàn tư nhân lớn mà không biết đối thủ cạnh tranh của mình đang làm gì thì chẳng bao lâu nữa bạn bị phá sản. Tầng chính trực đã được hiệu chỉnh các hoạt động tình báo của chúng ta trước Trân Châu Cảng, trước vụ 11/9, v.v., là thất bại hoàn toàn và triệt để.
Hội đồng tư vấn không được gì cũng không mất gì sẽ nói, “Bạn phải có chẩn đoán của các chuyên gia. Bạn không chỉ tiến lên và hoạt động dựa trên các dự đoán hay quan điểm chính trị.” Tương tự như cho cả gia đình tham gia vào một ca phẫu thuật. Bây giờ thì tất cả chúng ta đều đi bỏ phiếu. Bạn có thể tưởng tượng việc có một gia đình đứng nhìn qua vai bạn trong khi bạn đang phẫu thuật não không? Không bao giờ xảy ra nếu tôi có quyền, tôi có thể nói với bạn điều đó. Khi sử dụng hội đồng cố vấn và các kỹ thuật hiệu chỉnh, chúng ta sẽ nắm bắt tốt hơn những vấn đề này và có chiến lược tốt hơn nhằm giải quyết chúng.
#6: Xây dựng một nền ngoại giao quốc tế dựa trên thông tin chính xác, cụ thể có thể thu được thông qua các kỹ thuật được mô tả trong cuốn sách này và một loạt bài giảng.
Ngoại giao quốc tế. Ý định trong lĩnh vực hạt nhân của đất nước là gì? Khả năng trong lĩnh vực hạt nhân của họ cao đến đâu? Đấy không phải là điều mà các chính trị gia có thể đoán được. Sự sống sót của chúng ta phụ thuộc vào việc biết đâu là sự thật và bằng chứng.
Đấy không phải là giai đoạn dành cho chính trị. Hội đồng tư vấn nằm trên chính trị. Họ không quan tâm đến chính trị, trừ việc thể hiện cái có khả năng hỗ trợ và mang lại lợi ích cho đất nước và thế giới nói chung. Như tôi đã nói trong một số bài giảng của mình, tôi đã cảm thấy rất bối rối khi chứng kiến một số người đại diện của nước Mỹ cư xử với các nhà lãnh đạo các nước khác. Tôi có thể nhớ một người phỏng vấn trên truyền hình đã phỏng vấn chủ tịch Trung Quốc. Chủ tịch Trung Quốc là chủ tịch đất nước lớn nhất trên hành tinh này, và người phỏng vấn nói về việc Trung Quốc nên xem xét chính sách này và áp dụng nó. Chủ tịch của Trung Quốc xử lý rất tốt, nhưng tôi nghĩ người phỏng vấn thiếu tôn trọng, xúc phạm và thiếu nhạy cảm. Hội đồng tư vấn sẽ khuyên bạn không nên có thái độ thô lỗ trước các nhà lãnh đạo khác trên thế giới.
#7: Sử dụng các liên minh thương mại chứ không sử dụng sức mạnh chính trị nhằm tạo thuận lợi và mang lại lợi ích cho quan hệ của chúng ta với các quốc gia khác.
Dưới tầng 200, quan tâm duy nhất là “Chúng ta được gì?” Vâng, một trong những thứ có lợi cho chúng ta là chúng ta có thể nhìn thấy Trung Quốc, mặc dù nước này, về lý thuyết, được cho là đe dọa kinh tế đối với Hoa Kỳ, thậm chí có thể là kẻ thù rất nguy hiểm. Và ngay cả lúc này, một số người vẫn muốn kích động căng thẳng giữa hai nước để đạt được mục đích của mình. Tại sao họ lại muốn làm như thế? Toàn bộ nền kinh tế của họ, thành công của nền kinh tế phụ thuộc vào thương mại với Mỹ. Tôi nghĩ các doanh nghiệp như Walmart có lẽ đang làm nhiều việc hơn tất cả các nhà ngoại giao trên thế giới cộng lại nhằm ngăn chặn chiến tranh với Trung Quốc.
Các hiệp định thương mại quốc tế là một trong những biện pháp nhằm ngăn chặn chiến tranh, không chỉ đơn thuần là mua chuộc các quốc gia khác. Tôi không tin vào việc hối lộ những nước khác. Nếu Mỹ tài trợ cho các quốc gia căm thù họ và những quốc gia này dùng tiền để chế tạo tên lửa đánh Mỹ, hội đồng tư vấn sẽ nói: “Thật buồn cười”. Không, bạn cần phải làm cho những cân nhắc trở thành ở bên trong, để cho thương mại phụ thuộc vào một số yếu tố nhất định. Sau đó, những yếu tố này sẽ đảm bảo an ninh của bạn. Bạn không cần tên lửa đạn đạo, trừ khi một người điên nhảy lên làm lãnh đạo, vì người điên đó sẽ giết người dân của mình. Saddam gọi tất cả người dân trong nước của ông ta là chó. Hitler nói: “Hãy thiêu rụi Paris. Thiêu rụi nước Đức. Họ đáng chết vì đã thua”. Vâng, lúc họ đã nổi lên đến mức ngay cả người vô ý thức nhất cũng có thể nhận thì đã quá muộn.
Tôi khuyên bạn nên chẩn đoán ung thư ngay từ sớm. Bạn không đợi cho đến khi nó di căn đến tất cả các cơ quan quan trọng trong cơ thể. Là bác sĩ, tôi rất quan tâm đến việc sử dụng kỹ thuật này để chẩn đoán từ sớm nhằm ngăn ngừa căn bệnh của nhân loại, gọi là chết và sự tàn phá, nạn đói và những nỗi kinh hoàng của chiến tranh.
Giá phải trả là bao nhiêu? Chẳng mất gì. Ngay lúc này, chúng ta sẽ
mất khoảng hai giây. Chúng ta có thể tái khẳng định quan niệm của tất cả các nước
trên thế giới
-
năng lực hạt nhân, ý định của họ, v.v., trình độ lãnh đạo họ.
- trong năm phút nữa. Chúng ta sẽ biết trong vòng năm phút tất cả các hoạt động ngoại giao tập thể và tình báo trên toàn thế giới. Cho nên bạn thấy vì sao phân biệt thật giả lại khó như thế. Trong vòng một giây, chúng ta có thể tìm ra những sự kiện mà cả cộng đồng tình báo quốc tế không thể khám phá được. Thậm chí những sự kiện mà họ khám phá được cũng chỉ là khả năng hoặc xác suất và sau này người ta mới thấy là thông tin có thể sai.
Là bác sĩ, Tôi quan tâm đến việc sử dụng kiểm tra cơ bắp vì lợi
ích của xã hội, nhằm ngăn chặn chiến tranh và phụng sự trí tuệ, trí tuệ là sự
thật và đó là phụng sự Thiên Chúa, trở thành người phụng sự Thiên Chúa. Đó là vị
tha, là sử dụng tài năng, khả năng, sức lực, những năm tháng của cuộc đời để phụng
sự toàn thể nhân loại như một biểu hiện của tình yêu, là bất nhị sùng kinh. Người
ta gọi đó là mộ đạo.
Để khép lại phần này, Tiến sĩ Hawkins đưa ra lời cầu nguyện để độc giả kết nối với cội nguồn của mọi tồn tại, tĩnh lặng vô biên vô tế và trải nghiệm cảm giác nhất tâm và biết ơn.
****
LỜI CẦU NGUYỆN BẤT NHỊ SÙNG KÍNH
“Và do đó, tôi nghĩ rằng tiếng nói của Thiên Chúa là tĩnh lặng, chúng ta chìm đắm trong tiếng nói của Thiên Chúa. Chúng ta chìm vào tĩnh lặng, đó là dấu hiệu của sự hiện diện thiêng liêng. Đằng sau mỗi ý nghĩ, đằng sau suy nghĩ là tĩnh lặng vô biên vô tế. Tĩnh lặng vô biên vô tế là cội nguồn của mọi tồn tại. Và giữa các ý nghĩ, dưới các ý nghĩ là tĩnh lặng hoàn toàn. Và tất cả những việc chúng ta phải làm là nhận thức được sự tĩnh lặng đó. Tất cả những việc chúng ta phải làm là nhận thức được sự tĩnh lặng đó bằng cách nhận ra rằng nó có đó.
“Đằng sau mọi âm thanh của vũ trụ là tĩnh lặng vĩnh hằng. Phía sau những âm thanh trong khu rừng là rừng cây tĩnh lặng. Tiếng chim hót không có liên quan gì đến tĩnh lặng. Tĩnh lặng còn đó mặc dù có âm thanh nằm phía bên trên nó. Nhưng lý do duy nhất để bạn có thể nghe thấy âm thanh là vì nó tồn tại trên nền của tĩnh lặng. Tĩnh lặng luôn luôn có đó, giữa những âm thanh.
“Hãy chú tâm vào tĩnh lặng, nó luôn có đó, giữa những âm thanh hỗn tạp và thảm họa, khi bom rơi đạn nổ và máy bay rơi và tất cả ma quỷ đang được tháo cũi cổ lồng, thì vẫn không có gì ngoài sự tĩnh lặng vô biên vô tế. Đồng nhất với tĩnh lặng và chỉ còn nhận thức. Trở lại với công việc đời thường và làm tất cả những việc mà bạn cần làm, nhưng đồng thời luôn luôn nhận thức được sự hiện diện của tĩnh lặng.
“Nó sẽ giúp bạn trở thành nhất tâm. Cầu nguyện nhất tâm là bạn luôn nhận thức được sự tĩnh lặng, đó là bối cảnh vô biên vô tế. Thực tại của hiện diện của Thiên Chúa là tĩnh lặng vô biên vô tế. Lúc đó, cái còn lại trong tâm trí là tĩnh lặng có xu hướng hiển lộ, đấy không phải là kết quả của nhân quả mà là tiềm năng đang hiển lộ .
“Chúng con tạ ơn Ngài, lạy Chúa, vì sự hiện diện thiêng liêng của Ngài như là tĩnh lặng vô biên vô tế, từ đó mới có cuộc đời của chúng con. Amen.
“Và chúng ta kết thúc với cái mà chúng ta đã bắt đầu, Vinh danh Thiên Chúa trên các Tầng Trời. Chúng con tạ ơn Thiên Chúa, vì sự hiện diện thiêng liêng của Ngài. Ngài là món quà của con. Ngài là món quà mà con nhận được từ Thiên Chúa. Cảm ơn Thiên Chúa.”
THƯỞNG THÊM
Những phẩm chất có giá trị nhất của người tìm kiếm tâm linh
Trong chương thưởng thêm đặc biệt này, chúng tôi chia sẻ một trong những bài giảng cuối cùng của Tiến sĩ Hawkins, tập trung vào những phẩm chất có giá trị nhất của người tìm kiếm tâm linh.
Chúng ta bắt đầu với sự chắc chắn, với hiểu biết. Chỉ cần biết rằng nếu bạn là người có định hướng tâm linh thì bạn sẽ tiến bộ. Do đó, hãy bắt đầu với cảm giác an toàn. Thay vì bất an hay nghi ngờ chính mình, xin nhớ rằng tất cả những người muốn tiến hoá về mặt tâm linh đều sẽ được hỗ trợ, khi cần. Thành công là chắc chắn. Hãy thôi nghi ngờ chính mình, hãy buông bỏ tất cả những ý nghĩ cho rằng bạn không xứng đáng hoặc bạn không có khả năng làm được việc đó hoặc không đúng lúc. Bao giờ cũng đúng lúc. Hãy chấp nhận một cách vô điều kiện rằng bạn xứng đáng với hành trình tâm linh. Quyết tâm hoàn toàn phó thác trước sự thật về Thiên Chúa. Hãy phó thác trước sự thật về Thiên Chúa và tin tưởng rằng quá trình tiến hóa tâm linh của bạn hoà điệu với ý muốn của Chúa dành cho bạn. Vì vậy, hãy luôn bắt đầu với cảm giác an toàn chứ đừng nghi ngờ chính mình. Bằng chứng sống động về tình yêu và ý muốn của Thiên Chúa dành cho bạn chính sự tồn tại của bạn, như một món quà. Sự kiện bạn đang tồn tại là bằng chứng tốt nhất về tình yêu và ý muốn của Thiên Chúa dành cho bạn.
Sau đây là những phẩm chất quý giá khác của người tìm kiếm tâm
linh:
Không so sánh mình với những người khác về sự thánh thiện, công đức, lòng tốt, xứng đáng, vô tội. Không so sánh mình với những người khác. Con người mà những người khác đang là là không liên quan. Quan trọng là con người mà bạn đang là. Hãy nhận thức được rằng tất cả đều là những quan niệm của con người mà bạn lưu giữ trong tâm trí về việc trở thành người tốt hơn. Thiên Chúa không bị hạn cuộc bởi những quan niệm của con người.
Chấp nhận rằng khái niệm “sợ hãi Thiên Chúa” là vô minh. Chúa là hòa bình và tình yêu, ngoài ra không có gì khác. Rất nhiều người nói về sợ hãi Thiên Chúa và dùng Thiên Chúa như là biện pháp đe dọa. Chúa chỉ là tình yêu và hòa bình, ngoài ra không có gì khác. Mọi người nghĩ rằng họ đang bị Thiên Chúa trừng phạt, không phải như thế. Họ bị trừng phạt là do không hoà điệu với thần tính.
Nhận thức được rằng miêu tả Chúa như một “thẩm phán” là ảo tưởng, một sự cố định của bản ngã xuất phát từ mặc cảm tội lỗi. Nhận thức được rằng Chúa không phải là cha mẹ. Trong suy nghĩ của hầu hết mọi người, Thiên Chúa là cha mẹ, luôn luôn ban thưởng cho bạn và yêu bạn nếu bạn là đứa con ngoan và trừng phạt nếu bạn không ngoan. Đấy chính là cha mẹ. Nhận thức được rằng Thiên Chúa lớn hơn hẳn cha mẹ.
Tránh tiêu cực (tầng hiệu chỉnh dưới 200) và theo đuổi mục tiêu nhằm vươn tới tình yêu vô điều kiện (tầng hiệu chỉnh 540 trở lên). Chúa Jesus Christ muốn chúng ta vươn tới tình yêu vô điều kiện. Chúa Jesus Christ biết rằng một khi vươn tới tầng tình yêu vô điều kiện, thì số phận của linh hồn sẽ được định đoạt và linh hồn sẽ được an toàn. Về cơ bản đó cũng là giáo lý của các tôn giáo lớn khác trên thế giới, chẳng hạn như Do Thái giáo, Hồi giáo và Phật giáo. Đôi khi những người tìm kiếm tâm linh cảm thấy bối rối và tự hỏi liệu họ có đang đi theo đạo sư đúng đắn hay đọc những cuốn sách đúng đắn hay không. Bạn cần nhận ra rằng bản chất của tất cả là gần như giống hệt nhau. Đó là bản chất, không phải bề mặt, mà bản chất thì gần như giống hệt nhau.
Nhận thức được rằng cứu rỗi và chứng ngộ là những mục tiêu khác nhau. Cứu rỗi liên quan đến có (yes) hay không (no). Chứng ngộ là quan tâm đến việc trở thành con người vượt trên con người mà bạn đã và đang là. Cứu rỗi đòi hỏi thanh lọc bản ngã. Chứng ngộ quan tâm đến buông bỏ và xoá bỏ bản ngã. Mục đích của chứng ngộ là đòi hỏi khắt khe hơn chứ không đơn giản là trở thành một người tốt. Chứng ngộ không chỉ là nhân cách tốt. Đấy là nâng cao tầng ý thức trong lĩnh vực phi tuyến tính.
Cần làm rõ rằng đây không phải là cá nhân bạn đang tìm kiếm chứng ngộ, mà chính bản chất của ý thức là động cơ thúc đẩy. Vì vậy, bạn thích nghĩ rằng tôi là thế này hoặc tôi là thế kia. Và thực ra, nó chỉ đơn giản là chính ý thức, là cái nó đang là. Cảm hứng và sự dâng hiến tâm linh thúc đẩy công việc bên trong con người bạn. Mỗi người đều có động lực tâm linh.
Thoải mái thay thế bất an khi người ta nhận ra rằng đã hoàn thành mục tiêu quan trọng nhất. Mục tiêu chính là bước đi trên con đường.
Tình yêu tâm linh, quá trình phát triển tâm linh không phải là thành công, mà là một lối sống. Đó là định hướng mang lại những phần thưởng của chính nó. Và quan trọng là định hướng động cơ của chính mình trong cuộc sống. Giữ bảng điểm theo dõi chính mình về việc “Ta đã đi được bao xa?” hay “Người khác nghĩ mình đã đi được bao xa?” là vô nghĩa. Bạn là người duy nhất phải trả lời cho chính mình. Động lực để tìm kiếm Thiên Chúa chính là Thiên Chúa. Không người nào tự nhiên tìm kiếm Thiên Chúa, ngoại trừ dưới ảnh hưởng của thần tính, bởi vì nếu bị bỏ mặc theo ý mình người ta sẽ không bao giờ nghĩ đến việc tìm kiếm Thiên Chúa.
Hãy trân trọng sự kiện là mỗi bước tiến về phía trước đều mang lại lợi ích cho tất cả mọi người. Vì thế, tiến bộ về mặt tâm linh của bạn sẽ mang lại giá trị cho mọi người. Đấy là do ý thức tập thể, cho nên mỗi người vươn lên đều giúp nâng cao tầng ý thức. Và khi tầng ý thức thăng lên, thì chiến tranh, đau khổ, vô minh, man rợ, và bệnh tật đều sẽ giảm đi. Khi bạn tự vươn lên là bạn đang giúp mọi người hiểu rằng mỗi bước tiến đều mang lại lợi ích cho tất cả. Dâng hiến và nỗ lực tâm linh của một người là món quà cho cuộc đời và tình yêu thương dành cho nhân loại. Thật tuyệt khi biết rằng những điều bạn nghĩ là chỉ dành cho mình thực ra lại mang lại lợi ích cho tất cả mọi người xung quanh. Chỉ cần tử tế với một sinh vật đang sống cũng đã mang lại lợi ích cho tất cả.
Không có lịch trình hay lộ trình định sẵn để đến với Thiên Chúa. Mặc dù con đường của mỗi người là duy nhất, nhưng địa hình cần vượt qua thì tương đối giống nhau. Dù bạn phải trải qua những đau khổ nào trong quá trình tự hoàn thiện, vượt qua tội lỗi và ích kỷ, v.v., hãy nhận ra rằng toàn thể nhân loại đều như thế. Mọi người đi vào nhà thờ vào sáng Chủ nhật, tất cả đều đang giải quyết cùng một vấn đề (ít ích kỷ hơn, biết cho đi hơn, yêu thương hơn, v.v.).
Công việc tâm linh là để vượt qua và siêu việt những thất bại của của con người bình thường, vốn có trong cơ cấu của bản ngã con người. Tất cả các khiếm khuyết mà bạn có không chỉ là vấn đề cá nhân - chúng không chỉ là của bạn. Chúng là vấn đề của chính bản ngã của con người. Nó là vấn đề tiến hóa, đến thời điểm này, loài người mới chỉ tiến hóa đến một mức độ nhất định. Người ta có thể muốn nghĩ rằng chúng mang tính cá nhân. Tuy nhiên, bản ngã tự nó không có tính cá nhân. Mọi người đều muốn nghĩ, Ôi, tôi và sự tiến bộ, hoặc tôi và tội lỗi của tôi, hoặc tôi và những khó khăn của tôi. Vậy điều mà bạn đang nói tới không phải là con người cá nhân của bạn. Vấn đề là của chính bản ngã. Và vì vậy, bạn thôi coi bản ngã là cá nhân. Khi chúng ta công nhận rằng nó thực sự là một vấn đề tập thể mà bạn chia sẻ với toàn thế nhân loại, bạn sẽ có ít mặc cảm tội lỗi hơn một chút. Đó không phải là Tôi cá nhân, đó là bản ngã của con người, xuất phát từ chính cơ cấu của não bộ, cùng với trải nghiệm của con người về đời sống trên hành tinh này. Chúng tôi muốn vượt qua và siêu việt những thất bại của con người bình thường, có sẵn trong cơ cấu của bản ngã con người. Bản ngã của con người, không phải bản ngả của bạn, mà là bản ngã của con người. Vì vậy, bạn có thể nói, đó là đặc điểm của bản ngã của con người.
Bản ngã được thừa hưởng cùng với sự kiện là bạn trở thành một con người. Bản ngã là sản phẩm của não bộ và là chức năng của não bộ. Bản ngã thể hiện bằng những chi tiết khác nhau là do nghiệp chướng trong quá khứ. Một mặt là bản ngã là chức năng của não bộ, rồi sau đó còn có nghiệp chướng của quá khứ. Hiện nay, thế giới phương Tây chưa có nhiều hiểu biết về nghiệp chướng, nhưng một khi bạn hiểu được nghiệp chướng, bạn sẽ thấy nó là một công cụ rất hữu ích.
Nhất tâm cầu nguyện làm tăng thêm thái độ dâng hiến, cảm hứng và tạo
điều kiện thuận lợi cho thăng tiến. Chúng ta phụng sự với lòng
yêu thương tất cả những người xung quanh, dâng hiến, cầu nguyện và nguyện cầu
Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin giúp con trong nỗ lực này”. Bạn kêu gọi tất cả những
thiện nghiệp mà bạn có thể nghĩ đến, kêu gọi tất cả những người mà bạn đã từng
đối xử tốt, tất cả số tiền bạn đã cúng dường trong nhà thờ, tất cả các cụ già
mà bạn đã giúp đi qua đường, tất cả những chú chó con đói khát mà bạn đã từng
cho ăn.
Hồng ân của Thiên Chúa có sẵn cho tất cả mọi người. Đó là lời động viên mạnh mẽ nhất. Khi bạn cầu xin Thiên Chúa giúp đỡ, thì hồng ân của Thiên Chúa là có sẵn cho tất cả mọi người. Trong quá khứ, ân sủng của giác giả có sẵn cho người tìm kiếm tâm linh tận tâm. Ý thức của bậc thầy tâm linh, đặc biệt là giác giả, tỏa xuống thế gian. Ân sủng của giác giả được truyền tải bởi sự hiện diện mang tính vật lý thực sự của ý thức của người thầy. Tôi mong rằng nó sẽ đi qua trang sách, nhưng quy luật của ý thức là lực lượng bên trong của người thầy sẽ truyền vào ý thức của đệ tử. Và do đó, đáng tiếc là, ở một thời điểm nào đó trong quá trình tiến hóa tâm linh phải có sự hiện diện mang tính vật lý thực sự của ý thức của người thầy. Nhưng cũng may là, sức mạnh bên trong của các bậc thầy vốn có sẵn ở đó, bởi vì nó được tích lũy theo thời gian. Vì vậy, sức mạnh tâm linh của những vị thầy vĩ đại đã từng sống, nhưng không còn ở trong cơ thể vật lý nữa thì vẫn có đó, bởi vì nó được truyền xuống từ giác giả này tới tầng ý thức của giác giả bên dưới. Nhưng sự hiện diện mang tính vật lý thực sự của ý thức của người thầy có một giá trị nhất định.
Sức mạnh của bản ngã có thể rất đáng gờm. Nếu không có sự trợ giúp của sức bên trong của một thực thể tâm linh cao cấp hơn, bản ngã tự nó không thể siêu việt được chính nó, lợi ích gián tiếp mà người ta nhận được khi có mặt trong sự hiện diện vật chất của trường ý thức của bạc thầy đã chứng ngộ là nó làm giảm sự kháng cự của bản ngã và gia tăng sức mạnh bên trong để bạn có thể siêu việt nó. Đấy là do ý định của chính bạn. Người không mong muốn nó xảy ra thì nó sẽ không xảy ra. Bạn nói, “Tôi không nghe anh chàng này. Tôi sẽ không chú ý nữa – toàn chuyện nhảm”. Nếu đó là suy nghĩ của bạn thì mọi thứ sẽ vẫn vậy. Do đó, hoài nghi và nghi ngờ không mang lại nhiều lợi ích. Sức mạnh của bản ngã có thể rất đáng gờm. Và nếu không có sự trợ giúp của sức bên trong của một thực thể tâm linh cao cấp hơn, bản ngã tự nó không thể siêu việt được chính nó.
May mắn là, lực lượng bên trong của ý thức của mỗi vị thầy vĩ đại
hay các thánh thần giáng thế đã từng sống vẫn còn và vẫn có sẵn. Chú tâm vào một
vị thầy hay giáo lý của họ bằng thiền định làm cho sức mạnh bên trong của vị thầy
trở thành sẵn sàng cho người tìm kiếm tâm linh. Vì vậy, trải qua nhiều thế kỷ,
sức mạnh bên trong của ý thức của các giác giả vĩ đại vẫn đang hiện diện và được
hiệu chỉnh là sự thật. Sẵn sàng cho mọi đệ tử và là quyền lực mang tính nghiệp
lực của họ. Bằng tuyên bố của bạn, quyền lợi của bạn là được hưởng lợi từ ý thức
của tất cả các vị thầy vĩ đại từng sống trên hành tinh này.
VỀ TÁC GIẢ
Tiến sĩ David R. Hawkins, M.D., Ph.D., (1927-2012) là giám đốc của,
Institute
for Spiritual Research Inc. (Viện Nghiên cứu Tâm linh) và là người sáng lập
Path of Devotional Nonduality (Con đường
Bất nhị Sùng kinh). Ông nổi tiếng là nhà nghiên cứu tiên phong trong lĩnh vực ý
thức cũng như là tác giả, diễn giả, bác sĩ lâm sàng, bác sĩ và nhà khoa học.
Ông từng là cố vấn cho các tu viện Công giáo, Tin Lành và Phật giáo; ông từng xuất
hiện trên các chương trình truyền hình và đài phát thanh; và giảng dạy ở những
nơi như Tu viện Westminster, Diễn đàn Oxford, Đại học Notre Dame và Đại học
Harvard. Ông dâng hiến cuộc đời mình cho nhân loại cho đến khi qua đời vào năm
2012. Muốn biết thêm thông tin về công việc của Tiến sĩ Hawkins, xin mời truy cập
veritaspub.com.