September 11, 2023

Khảo sát nước Mỹ: Đất nước

 Trích từ trang 223 đến trang 231 tác phẩm Phân biệt thật giả


Những người chỉ trích không thể mô tả chính xác sự thật về nước Mỹ, vì cho đến mãi thời gian rất gần đây người ta vẫn chưa thể xác định chính xác sự thật thực sự là gì. Nếu không đặt vấn đề rằng, biểu hiện không phải là bản chất thì các đánh giá của xã hội vẫn phản ánh các định vị, vốn là kết quả của tính nhị nguyên. Những thành kiến ​​của bản ngã tự động xác định những gì nó quan sát được là đúng. Tương tự, trước khi phát hiện ra tia X, cộng hưởng từ hoặc công thức máu, các bác sĩ lâm sàng thường chẩn đoán không chính xác, vì thiếu các công cụ đó và không có công nghệ hiện đại.

Mỹ là chủ đề nghiên cứu cực kỳ ấn tượng, và nghiên cứu ý thức là một phương pháp hoàn toàn mới trong xem xét và phân tích, tương tự như X-quang, nó cho thấy những nền tảng tiềm ẩn của cả điểm yếu và điểm mạnh của đất nước này. Nghiên cứu có thể bắt đầu với một số sự kiện không thể chối cãi được và có thể kiểm chứng được về mặt thống kê, rồi lấy đó làm cơ sở để tiếp tục theo đuổi cuộc điều tra.

Mỹ là chế độ nhân tài trị dân chủ, cộng hòa hiến định và hiện là quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Nước này có thu nhập bình quân đầu người khá cao, người dân có tình trạng sức khỏe tương đối tốt, tuổi thọ cao, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh thấp, năng suất lao động tính theo giờ khá cao và sản lượng hàng hóa hoặc dịch vụ đều cao, tất cả đều diễn ra trong nền kinh tế tự do, trong đó mỗi cá nhân đều được hưởng quyền tự do và có các mạng lưới an sinh nâng đỡ ngay từ tầng kinh tế thấp nhất. Lòng nhân từ của nó, cả với tư cách một quốc gia (mỗi năm viện trợ nước ngoài 59 tỷ đô la) lẫn tư cách cá nhân, vượt xa bất kỳ quốc gia nào khác và chưa từng có trong lịch sử. (Nước Mỹ cung cấp tới 40% hoạt động từ thiện của thế giới). Viện trợ của chính phủ Hoa Kỳ được bổ sung bằng những khoản đóng góp to lớn từ các cá nhân, cũng như hầu hết các tập đoàn lớn, chẳng hạn như Pfizer, Coca Cola, Exxon, Citigroup, Quỹ Gates, Chuỗi phòng thí nghiệm Abbott, Johnson & Johnson, Nike, General Electric, First Data, PepsiCo, Marriott, Starbucks và nhiều công ty khác (Regan, 31/12/04). Mỹ là nước tha thứ cho những kẻ thù cũ của mình và sau đó tự nguyện giúp họ xây dựng lại đất nước, điều này thể hiện qua việc các công dân Hoa Kỳ hy sinh thành quả lao động của mình để đóng thuế. Mỹ cho phép tự do thực hành tôn giáo, và đồng thời, tự do không theo tôn giáo. Mọi người đều được bầu cử một cách bình đẳng, văn chương và các phương tiện truyền thông không bị chính phủ kiểm duyệt.           

Ngoài ra, quyền tự do ngôn luận đạt mức độ chưa từng có. Của cải của những người Mỹ trung bình vượt xa sức tưởng tượng thậm chí là hoang đường nhất của các nền văn hóa khác (68% các gia đình có nhà riêng). Trong khi đó có những quốc gia mà người ta phải làm việc suốt ngày với mức lương chưa tới 1 đô la một ngày. 67% dân số thế giới sống với thu nhập tương đương 2 đô la Mỹ hoặc ít hơn mỗi ngày. Giáo dục có mặt ở khắp nơi, dành cho tất cả mọi người, và thuế mà người dân đóng hỗ trợ cho việc giáo dục những đứa trẻ thậm chí không phải là con của họ.

Nước Mỹ cũng có tỷ lệ người biết chữ rất cao, và giáo dục công lập là toàn diện, miễn phí và phổ biến rộng rãi, không cần thủ tục. Có rất nhiều thư viện, viện bảo tàng và phòng trưng bày nghệ thuật, cũng như rất nhiều các khu giải trí, công viên, sân chơi, hồ bơi, thủy cung và cung thiên văn. Ngay cả những công dân nghèo khó nhất cũng có thể tiếp cận với thành quả của khối tài sản mà ngay cả những ông vua vĩ đại nhất trước đây cũng không có được.

Kỹ thuật chăm sóc sức khỏe có chất lượng cao đến mức công dân từ các quốc gia khác, kể cả những người cầm quyền ở các xứ đó, đang đổ xô đến đất nước này vì trình độ chuyên môn y tế cao cấp của nó. Tuy nhiên, khoảng một phần ba người Mỹ dưới 64 tuổi không có bảo hiểm y tế (82 triệu người, tính đến tháng 6 năm 2004), và một tỷ lệ tương tự cũng không có bảo hiểm nhân thọ, cũng như không có di chúc hợp pháp. Do chi phí gia tăng, các lợi ích y tế đang bị các nhà tuyển dụng cắt giảm, vì họ đang ở trong cuộc cạnh tranh trên toàn thế giới với các quốc gia có chi phí lao động thấp hơn hẳn, vì ở những nước đó không chỉ có mức lương thấp hơn mà còn không có các khoản phúc lợi làm tăng chi phí. Bảo hiểm y tế thường là một quyết định tài chính chứ không phải quyết định liên quan đến sức khỏe, và đáng chú ý là ngay cả những người nhập cư bất hợp pháp cũng được tiếp cận với chăm sóc y tế giống như người nghèo thông qua nhiều chương trình được tài trợ công khai. Các loại dược phẩm được sản xuất ở Hoa Kỳ lan tràn khắp thế giới mà không bên nào khác phải góp của vào số tiền hàng triệu đô la để phát triển một loại thuốc mới (hiện nay là 7 triệu đô la). Các nước khác, được biên giới quốc gia che chở, sau đó sao chép kết quả của những công trình nghiên cứu này và bán phá giá vào thị trường Hoa Kỳ.           

Chi phí chăm sóc sức khỏe ở Hoa Kỳ là cao nhất thế giới và đang tăng lên do các yêu cầu từ tầng tầng lớp lớp quản lý hành chính và luật pháp ngày một chồng chất. Các quy định về chăm sóc sức khỏe tiêu tốn 256 tỷ đôla Mỹ mỗi năm, với tỷ lệ chi phí/lợi ích là 2/1 và khiến ít nhất bảy triệu người Mỹ phải từ bỏ hệ thống chăm sóc sức khỏe. Các quy định của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm tiêu tốn 49 tỷ đô la mỗi năm, nhưng chỉ cung cấp được 7 tỷ đô la lợi ích.

Hệ thống trách nhiệm y tế tiêu tốn 114 tỷ đô la nhưng chỉ cung cấp được 33 tỷ đô la lợi ích. Các quy tắc bảo hiểm bắt buộc tiêu tốn 15 tỷ đô la nhưng chỉ cung cấp được 13 tỷ đô la lợi ích (Arizona Medical Journal, 2004). Bảo hiểm cho sai sót của bác sỹ cũng làm tăng phí dịch vụ y tế, trong khi tiền công trả cho bác sĩ trên thực tế chỉ vừa vặn theo kịp lạm phát và mới bằng 10% chi phí thực tế. Cái làm tăng chi phí chăm sóc sức khỏe không phải là chi phí thực tế cho bảo hiểm do sai sót của bác sỹ mà là môi trường kiện tụng của ngành này, trong đó luật về vi phạm trách nhiệm dân sự khuyến khích người ta kiện tụng trong một xã hội ngày càng tự cho mình có nhiều “quyền” và hoạt động ngày càng phù hợp với mô hình nạn nhân/thủ phạm; bộ luật này cũng là nguyên nhân khiến cho Lodmell và Lodmell viết tác phẩm The Lawsuit Lottery (tạm dịch: Ngành xổ số kiện tụng - 2004). Thực trạng như thế làm cho người ta có kỳ vọng không thực tế là kết quả lúc nào cũng tối ưu, và nếu ai đó chết vì bệnh hiểm nghèo thì đấy phải là lỗi của người nào đó, v.v. Nó còn dẫn đến việc bác sĩ chữa bệnh theo lối phòng thủ, chẳng hạn như họ chỉ định đủ thứ xét nghiệm đắt tiền và làm đi làm lại các thủ tục (ví dụ, chụp cộng hưởng từ giá 3.000 đôla chứ không chụp X-quang giá chỉ 100 đô la, v.v.)

Nghiên cứu nhận thức chỉ ra rằng chỉ có khoảng 4,0% những người ở dưới đáy xã hội là có điểm hiệu chỉnh trên 200, còn phần lớn có điểm hiệu chỉnh cực kỳ thấp - thực ra là dưới 100 (Thờ ơ). Những người thực sự “thất cơ lỡ vận” vướng vào ma túy, nhà tù, tội phạm, nghèo đói, tàn bạo và không quan tâm đến người khác. Họ sống chủ yếu bằng thái độ đổ lỗi cho người khác, tự bao biện, và các cơ chế của bản ngã khiến cho họ tự làm mình yếu đi.       

Khoảng 3,0 đến 4,0% dân số nói chung đang ở trong nhà giam, nhà tù hoặc bị án treo, và trong nhóm tiểu văn hóa này tầng ý thức trung bình là từ 40 đến 50. Nhóm người hay tái phạm này có đặc điểm là nghiện ngập, phạm tội và rối loạn nhân cách, trong đó có tỷ lệ khá lớn những người thái nhân cách với khu vực vỏ não trước trán phát triển kém thấy rõ do di truyền. Một số đặc điểm quan trọng của những người có vấn đề là họ không có khả năng kiểm soát những cơn bốc đồng hoặc trì hoãn việc làm cho mình hài lòng, không học được kinh nghiệm, không tôn trọng thẩm quyền và quyền của người khác và không lường trước được hậu quả. Sự thiếu động lực và thái độ chống lại quá trình điều trị hoặc tái tạo động lực của họ là do cốt lõi cứng đầu cứng cổ của thái độ ái kỷ thái quá, tự cho mình là trung tâm.

Từ các thảo luận và dữ liệu đã trình bày, rõ ràng là thất bại về mặt xã hội của các cá nhân hoặc nhóm người nào đó không phải do “nguyên nhân” bên ngoài, chẳng hạn như chủng tộc, nền chính trị hay xã hội Mỹ (tức là hệ hình Newton hạn chế), mà đó là hệ quả của hiệu ứng trường. Nội dung của trường này là hệ quả của chính đặc tính của trường (ví dụ, nguyên tắc “cửa sổ vỡ[1]). Cũng giống như nồi của đầu bếp có thể cuốn hút muối và tiêu, cà rốt, khoai tây, cà chua, thịt bò và thịt gà ăn dở, trường năng lượng thấp cũng thu hút ma túy, bạo lực, bệnh tật, suy dinh dưỡng, nghèo đói, bạo lực, nhà tù, ma túy, rượu và tình trạng bẩn thỉu. “Nồi nấu” trường năng lượng tiêu cực có sức hút đối với các nguyên liệu. Cà rốt không làm cho chút khoai tây bám vào nồi, muối và hạt tiêu cũng không làm cho mẩu thịt gà bám vào hay làm cho nước sôi. Nguồn gốc của hiện tượng là ở bên trong, thuộc về bản chất và mang tính bẩm sinh chứ không phải ngoại sinh, không phải là hệ quả của những thứ bên ngoài. Không ai “làm cho” người nào đó vứt rác ra đường, mẩu rác đó tự nó là dấu hiệu quan trọng cho thấy chân tướng của sự việc.

Tương quan giữ tầng ý thức và các vấn đề xã hội

Tầng ý thức

Tỷ lệ thất nghiệp

Tỷ lệ nghèo đói

Hạnh phúc – “Cuộc đời như thế là được rồi”

Tỷ lệ tội phạm

600+

O%

0%

100%

0%

500-600

0%

0%

98%

0,5%

400-500

2%

0,5%

79%

2,0%

300-400

7%

1,0%

70%

5,0%

200-300

8%

1,5%

60%

9,0%

100-200

50%

22,0%

15%

50,0%

50-100

75%

40,0%

2%

91%

<50

97%

65%

0%

98%

 

Có thể thấy rằng mặt trái ở đây không phải là do văn hóa, kinh tế hay quốc gia nói chung của Mỹ “gây ra” mà là hệ quả tự động của chính toàn thể người dân, vốn đại diện cho toàn bộ quá trình tiến hóa của ý thức con người ở tất cả các nước. Cho dù dường như là “công bằng” hay không “công bằng” (xem phần cuối của chương này), mỗi yếu tố chỉ là “cái đang là” như một biểu hiện của tiềm năng riêng của nó trong một bối cảnh và thời điểm nhất định.

Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ (tháng 8 năm 2004), nghèo đói là điều kiện sống của khoảng 12,5%, hay 35,9 triệu người Mỹ (trong tổng số 300 triệu dân). Mức độ nghèo đói này được xác định dựa trên định nghĩa của bộ máy quản lý hành chính quan liêu. Tỷ lệ nghèo đói tính theo phần trăm sẽ gia tăng nếu họ tăng ngưỡng thu nhập ở mức nghèo và giảm đi nếu họ giảm ngưỡng thu nhập ở mức nghèo. “Tầng nghèo” ở Hoa Kỳ cao hơn thu nhập của 90% dân chúng các nước nghèo hơn.

Thu nhập trung bình của một hộ gia đình ở Hoa Kỳ là 43.318 đô la. Người nghèo ở Mỹ có ô tô hoặc phương tiện giao thông công cộng, tủ lạnh, đài, hệ thống cấp và thoát nước, nước sạch, điện, hỗ trợ y tế, phúc lợi, cấp cứu và cảnh sát, v.v., người nghèo ở các nền văn hóa khác không tiếp cận được với tất cả những thứ vừa nói. Các vấn đề cơ bản phản ánh năng lượng tiêu cực ở đầu vào, vốn có ảnh hưởng chung đến tác động của trường tổng thể. Thay đổi lớn, đầy kịch tính diễn ra bên dưới tầng ý thức 200 có vai trò quan trọng về mặt xã hội học. Tỷ lệ thất nghiệp nhảy một bước từ 8,0 lên 50%; nghèo đói leo thang từ 1,5 lên 22%; hạnh phúc giảm từ 60 xuống còn 15%, và tội phạm tăng vọt từ 9 lên 50%.           

Có thể lập ra các biểu đồ tương quan tương tự để chỉ ra mô thức gần như giống hệt nhau giữa tỷ lệ phần trăm của mỗi tầng ý thức với tỷ lệ mắc bệnh về thể chất, rối loạn tâm thần, nạn nhân của tội phạm, tai nạn ô tô, bảo hiểm y tế, tỷ lệ mắc bệnh AIDS và bệnh lây qua đường tình dục, tỷ lệ người bị bắt giữ, bạo lực gia đình, lạm dụng trẻ em, đi tù, tỷ lệ sinh, thành viên băng đảng, tiếp xúc với phương tiện truyền thông bạo lực, ma túy và thời gian trẻ em xem truyền hình. Mỗi tuần, một đứa trẻ thường xem ít nhất hai mươi tám giờ chương trình truyền hình cấp thấp, xem hơn tám nghìn vụ giết người khi mới đang học tiểu học (Winik, 2004). Trong 75% các câu chuyện giết người, kẻ giết người không bị bắt và bỏ đi, không hề ăn năn và thường đi kèm hình ảnh anh hùng được thổi phồng lên, cùng với vẻ tàn bạo, báng bổ, tục tĩu, và những hình ảnh tình dục gây ấn tượng mạnh.

Trong khi công chúng tập trung chú ý vào các vấn đề kinh tế - xã hội của các khu dân cư trong thành phố, thì những khiếm khuyết tương tự cũng có thể thấy ở những vùng nửa quê nửa tỉnh. Báo chí của các thị trấn nhỏ phản ánh cùng các vấn đề đang diễn ra một cách phổ biến ở các thành phố lớn. Báo cáo của Tòa án (Court Report, tháng 7 năm 2004) cho hay một thị trấn điển hình với số dân vài nghìn người (trong một tuần) có hai mươi bảy vụ bắt giữ vì các hành vi gây rối trật tự, phạm pháp, say xỉn, lái xe mà không có bằng hoặc bị đình chỉ bằng lái, bạo lực gia đình, lái xe trong tình trạng say xỉn hoặc không có bảo hiểm, v.v ... Nói chung, những người vi phạm luật pháp có điểm hiệu chỉnh 185, họ thường tái phạm và thiếu trách nhiệm cá nhân.

Trong các hệ thống không có tự do kinh doanh, tỷ lệ đói nghèo thực sự cao hơn rất nhiều. Tự do đưa đến một mức độ rủi ro nhất định, nhưng  rủi ro buộc người ta phải nỗ lực và dám nghĩ dám làm. Ngược lại, các cộng đồng phúc lợi tự mãn hơn và ít đổi mới hơn, vì chính phủ chịu trách nhiệm về sự tồn tại của họ

Sức mạnh của nước Mỹ

Cả người bi quan và người lạc quan đều buồn bã nhận xét rằng cuộc sống của con người trần thế không phải là hoàn toàn tốt đẹp và cũng không phải là thiên đường, và người có suy nghĩ kết luận rằng, nó dường như là khu vực để tiến hành thí nghiệm, để chuẩn bị cho công việc mới, hoặc là trường học dạy cho người ta về cơ hội, nó cung cấp cho họ một tiềm năng gần như vô hạn cho quá trình phát triển cá nhân và tâm linh. Để hiểu được cái dường như là sự bất bình đẳng trong đời sống của con người, quan trọng là phải nhớ rằng, ngay từ khi mới chào đời mỗi người đã có một tầng ý thức có thể hiệu chỉnh và toàn bộ hành trình của con tàu đã xuất hiện trên la bàn.

Mặc dù có những hạn chế, xã hội Mỹ vẫn có điểm hiệu chỉnh 421, cao hơn bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới. Chính nền tảng và cơ cấu của chính phủ xuất phát từ những lý tưởng cao cả nhất. Chế độ dân chủ (thực ra là nước cộng hòa hiến định) có điểm hiệu chỉnh cao hơn bất kỳ hình thức chính phủ thịnh hành nào khác (điểm hiệu chỉnh 410); tuy nhiên, nó không phải là hoàn hảo mà chỉ ở tầng chính trực, thành ý và trách nhiệm giải trình tương đối cao. Quyền lực của chính phủ là do sự ưng thuận tự do của người bị cai trị, điều này tự thân nó khác hẳn với các chính phủ chỉ dựa vào vũ lực và không có sự ưng thuận tự do của người dân. Quan điểm tích cực về nước Mỹ không phải mang tính lạc quan, mà chỉ đơn giản là cái nhìn thực tế.

Sự vĩ đại có một không hai của nước Mỹ là nội dung chính của tác phẩm Nền dân trị Mỹ của de Tocqueville (1835; điểm hiệu chỉnh 455) và từ đó đã được nhiều nhà tư tưởng và chính khách kế tiếp nhau chứng thực. Hillary Clinton từng tuyên bố: “Mỹ là đất nước vĩ đại nhất mà thế giới từng thấy” (TV News, New York, ngày 21 tháng 6 năm 2004). Chủ đề này được tiếp tục trong Định nghĩa nước Mỹ, là chủ đề của một số đặc biệt của tờ U. S. News & World Report (tháng 6 năm 2004).

Việc hiệu chỉnh các tầng sự thật và các tầng ý thức có tính thực dụng cao. Nó giúp tiết kiệm thời gian và công sức nhằm tìm hiểu các hiện tượng bằng cách cắt bỏ tất cả những gì mang tính khoa trương hình thức và nhanh chóng đi vào cốt lõi của một vấn đề. Điểm hiệu chỉnh giống như một bức ảnh chụp nhanh, nắm bắt được bản chất của một vấn đề. Tầng đã hiệu chỉnh tiết lộ một cách ngắn gọn và dễ hiểu cái thực sự đang là.

Kinh tế Hoa Kỳ

Đây là “người khổng lồ” mà đô đốc Yamamoto đã vô cùng hối hận vì trót đánh thức khi ông tấn công Trân Châu Cảng. Hóa ra nó là kẻ thù đáng gờm vì nền công nghiệp Mỹ có lẽ đã chứng tỏ nó là bất khả chiến bại. Nền kinh tế Mỹ, sản phẩm của kinh doanh tự do và vốn tài chính, hóa ra lại là bức tường thành và pháo đài của tự do mà thế giới tự do được hưởng cho đến ngày nay. Vì một nền kinh tế rộng lớn không thể xuất hiện mà không có vốn nên rất đáng để tìm hiểu xem bản chất của vốn là gì.

Quan niệm chung cho rằng vốn có nghĩa là của cải hoặc tiền trong ngân hàng. Người ta không nhận ra rằng nguồn gốc đích thực của vốn là khả năng sáng tạo của tâm trí, dẫn đến hệ quả tất yếu là tích lũy tiền bạc, hoặc tích lũy tiền bạc là kết quả tự động của sáng tạo, thiên tài, cảm hứng, cống hiến, làm việc chăm chỉ, tính chính trực, làm việc đến kiệt sức và nỗ lực, cũng như kỷ luật và sự tháo vát. Một ý tưởng tuyệt vời duy nhất (ví dụ, điện của Edison) có thể, và thực sự, tạo ra nhiều của cải hơn tổng sản phẩm của nền kinh tế của tất cả các quốc gia. Những thành tựu to lớn của nước Mỹ được ghi lại đầy đủ trong tác phẩm Họ đã tạo ra nước Mỹ (They Made America - Evans, 2004).



[1] Nguyên tắc “Cửa sổ vỡ” (The Broken Window Principle) nói rằng nếu một chiếc cửa sổ bị phá hỏng, vỡ vụn mà cứ để vậy không sửa chữa thì những người đi ngang qua sẽ kết luận rằng không ai quan tâm và không ai chịu trách nhiệm trước hiện trạng này. Rồi không lâu sau, nhiều cánh cửa sổ khác sẽ bị đập vỡ, dần dà ý thức về sự vô chủ, hỗn loạn sẽ lan rộng - ND.

September 10, 2023

Vì sao nước Mỹ thành công

 Trích tác phẩm Phân biệt thật giả (trang 232-243)



Vì sao nước Mỹ thành công

Trường ý thức bẩm sinh của nước Mỹ hỗ trợ khả năng sáng tạo, phát minh, giáo dục và đổi mới, và nó tưởng thưởng cho những nỗ lực tự khởi xướng bằng những lời ngợi ca và thái độ hân hoan. Việc phát hiện ra điện, dòng điện một chiều và xoay chiều và bóng đèn đã thắp sáng toàn bộ thế giới, cũng như cung cấp nguồn năng lượng phổ cập và sẵn có cho ngành công nghiệp và sản xuất ở mọi tầng thứ, từ máy móc khổng lồ đến lò nướng bánh mì trong nhà bếp.

Như thể điện vẫn còn là chưa đủ, tính sáng tạo của nước Mỹ còn làm ra điện thoại, điện báo, đài phát thanh, ti vi, máy bay, chip máy tính, máy ghi âm Dictaphone, máy tính, toàn bộ ngành công nghiệp điện tử, Internet, phần cứng và phần mềm máy tính, và danh sách này kéo dài đến bất tận. Toàn bộ ngành công nghiệp hàng không thế giới xuất phát từ chuyến bay ở Kittyhawk. Còn ngành công nghiệp giải trí trên toàn thế giới xuất phát từ việc phát minh ra phim ảnh. Thêm vào đó là những khám phá quan trọng về y học, dược phẩm, nghiên cứu vật liệu và một loạt các phát minh khoa học mang lại lợi ích cho toàn thế giới.

Ngoài năng suất cực kỳ cao như vừa nói còn có thêm hệ thống bán lẻ cùng với hệ thống cung cấp và giao hàng được xây dựng rất cẩn thận, trong đó Walmart là tập đoàn lớn nhất thế giới với hơn một triệu nhân viên. Doanh nghiệp Mỹ đang tiến tới bình đẳng giới, đây không chỉ là một hiện tượng của nước Mỹ mà còn là quá trình chuyển dịch về mặt xã hội ở những nước khác, chẳng hạn như Đan Mạch, Canada, v.v. (ATF, 2004).

Tầng hiệu chỉnh của hầu hết các tập đoàn lớn trên thế giới (Ford, General Motors, v.v.) xấp xỉ với tầng của các cơ quan của chính phủ Hoa Kỳ, chứng tỏ họ làm việc với tinh thần trách nhiệm, hiệu quả, và tính chính trực theo lối thực dụng. (Jack Welch, cựu chủ tịch General Motors, từng được tạp chí Fortune vinh danh là CEO hàng đầu của Mỹ, một danh tiếng khó mà có được trong giới CEO vốn toàn những người giàu năng lực và thành tích).                       

Góp mặt trong danh sách những khám phá của nước Mỹ có điện lạnh, điều hòa không khí, lò vi sóng cùng hàng trăm thiết bị, tàu hơi nước của Robert Fulton, động cơ hơi nước của Watt/Evans, máy may của Howe, súng trường Winchester, súng lục ổ quay Smith & Wesson, bốc hơi và chưng cất nhiều tầng (tinh chế đường), ngành X quang, tàu cao tốc, thang máy Otis, thang cuốn, robot, điều khiển học, lưỡi dao cạo, máy tách hạt bông, các tòa nhà chọc trời, đài FM, máy thu thanh đổi tần, may chụp ảnh lấy liền, máy photocopy, máy tính kỹ thuật số, bóng bán dẫn, phần mềm, phần cứng, thiết bị y tế (chụp cộng hưởng từ MRI và chụp cắt lớp vi tính CAT), chất dẻo, và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, năng lượng nguyên tử. Henry Ford đã hoàn thiện dây chuyền lắp ráp và giới thiệu các nghiên cứu về thời gian/chuyển động, dựa trên cơ sở này mà người ta đã phát triển các thiết bị an toàn và khoa công thái học.

Cuộc đời của Ben Franklin là ví dụ điển hình của truyền thống Mỹ. Ông là người có tài phát minh (bếp Franklin, kính hai tròng, điện, cột thu lôi), tự học, nỗ lực hoàn thiện bản thân (Poor Richard’s Almanac) và hào phóng (ông thành lập Đại học Pennsylvania). Ông đã thể hiện tinh thần nghiệp chủ (ông là chủ một doanh nghiệp in), tự do cá nhân, và vượt qua giai tầng xã hội (từ nghèo khó trở thành giàu có, từ người lao động thành nhà ngoại giao quốc tế và biểu tượng xã hội). Ông ủng hộ tất cả các tôn giáo và dạy rằng cách thờ phụng Thiên Chúa tốt nhất là làm điều thiện cho mình và người khác. Ông cũng là minh chứng sống của quá trình liên tục tự hoàn thiện, nó đã trở thành lối sống của ông. Ông là người viết sách và nhà xuất bản, một chính trị gia và chính khách hoàn hảo, góp phần vào quá trình xây dựng Hiến pháp Hoa Kỳ. Nhìn chung, ông là hiện thân của tiềm năng và sự hiện thực hóa điều mà sau này trở thành “giấc mơ Mỹ”.

Tố chất sáng tạo và thiên tài tương tự được thể hiện qua cuộc đời huyền thoại của Andrew Carnegie (điểm hiệu chỉnh 490), người đã đi từ Scotland đến Mỹ chỉ với 25 xu trong túi. Ông đã xây dựng ngành công nghiệp thép và sau đó thiết lập truyền thống làm từ thiện. Ông thậm chí còn tìm cách ngăn chặn Thế chiến I bằng cách cung cấp cho Hoàng đế Đức khối tài sản khổng lồ để ông ta không phát động chiến tranh, nhưng đáng buồn là cố gắng của ông đã không thành công. Cả Franklin lẫn Carnegie đều thể hiện tiềm năng của cốt lõi của nước Mỹ.       

Chính khả năng sáng tạo vô bờ bến này là “vốn” mà từ đó của cải tính bằng tiền tự động phát triển, cùng với đó là hàng triệu việc làm và thịnh vượng gia tăng, tương tự như khi nước biển dâng thì tất cả mọi người đều được nâng lên, vì nó thâm nhập cả khu vực công cộng chứ không chỉ dừng ở sở hữu tư nhân. Nó thể hiện trong các cơ sở hạ tầng khổng lồ, trong đó có các công ty cổ phần đa ngành, ngành giao thông vận tải và thương mại khổng lồ hỗ trợ tất cả các hoạt động của chính phủ. Do đó, vốn trở thành nguồn năng lượng to lớn thúc đẩy toàn bộ trường của xã hội, đến lượt mình, xã hội thừa nhận và hỗ trợ giá trị của quyền sở hữu cá nhân và tư nhân. Đó chính là điều mà nước Trung Quốc của Mao không có - nước này có điểm hiệu chỉnh 150 - và có ​​số người chết đói lớn nhất (30 triệu người) mà thế giới từng chứng kiến, điều này chứng tỏ sự thất bại hoàn toàn của chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa tập thể và triết lý xây dựng chủ nghĩa tập thế (Karl Marx có điểm hiệu chỉnh 130). Tất cả các chính phủ đều hoạt động theo lối tư bản chủ nghĩa, vì tất cả các chính phủ này đều phụ thuộc vào sự tồn tại và hoạt động của đồng vốn, dù người ta thu được nó bằng chinh phục, tịch thu hay đánh thuế thì cũng thế mà thôi.

Xã hội kinh doanh tự do tưởng thưởng cho những phát minh và sáng tạo của cá nhân. (Ở Hoa Kỳ có mười hai triệu người tự kinh doanh). Mọi người đều có quyền tự do tạo ra ý tưởng mới, xin cấp bằng sáng chế, sau đó thu hút vốn đầu tư mạo hiểm và các nhà đầu tư, ví dụ như Microsoft. Một lợi ích to lớn nhưng chưa được công nhận của chủ nghĩa tư bản là sự xuất hiện của một thiết chế rất “Mỹ”, đó là thiết chế của những người làm từ thiện vĩ đại – họ đã trả lại cho dân chúng những lợi ích to lớn, như các viện bảo tàng, công viên và phòng trưng bày nghệ thuật lớn, trường cao đẳng, trường đại học, cung thiên văn, phòng thí nghiệm, và phòng hòa nhạc. Di sản của Carnegie là các thư viện lớn trên khắp nước Mỹ cho phép mọi công dân truy cập miễn phí thông tin của thế giới, những thông tin này hiện đang được chuyển vào mạng thông tin toàn cầu. Các quỹ từ thiện lớn đã trở thành huyền thoại (Rockefeller, Gates, Carnegie, Ford, Mellon, v.v.) và đã rót hàng tỷ đô la cho xã hội.                    

Nền văn hóa tư bản chủ nghĩa tạo ra hàng chục triệu việc làm và cơ hội tự kinh doanh; từ sau khi chấm dứt cuộc Đại suy thoái đến nay việc làm chưa bao giờ trở thành vấn đề nghiêm trọng. Tỷ lệ thất nghiệp chính thức là con số thống kê gây hiểu lầm, ở chỗ nó báo cáo về những người nộp đơn xin thất nghiệp. Trong cuộc đời này, chưa bao giờ không có cơ hội tự kinh doanh hoặc thậm chí là “việc làm”, chỉ là không có “công việc” mà người ta muốn mà thôi. Trong khi các trang đầu của các tờ báo báo cáo về tỷ lệ thất nghiệp, thì ở phía sau, trong hết trang này đến trang khác người ta quảng cáo về các công việc và cơ hội chưa có người nhận, và trong hầu hết các cửa hàng đều treo biển “Cần người” - những công việc này có thể không đáp ứng được tham vọng, nhưng sẽ cung cấp cho người ta tiền, nếu họ cho rằng đấy là khoản thiếu hụt quan trọng nhất. Ngược đời là, người ta lại đi làm trở lại khi đã tiêu hết tiền bảo hiểm thất nghiệp. Những người thực sự thất nghiệp dựa vào mạng lưới an sinh, vốn cung cấp nhiều chương trình hỗ trợ và giáo dục. Trung bình, tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa Kỳ thấp hơn từ 40 đến 50% so với các nước xã hội chủ nghĩa. Động cơ kinh tế khổng lồ của hệ thống kinh doanh tự do tư bản chủ nghĩa tạo ra một nền tảng kinh tế đáng kinh ngạc (1,5 nghìn tỷ đô la mỗi năm) cho phép Mỹ trở thành quốc gia từ thiện lớn nhất thế giới.

Chỉ cần nhìn lướt qua tổng giá trị tiền vốn của chính phủ liên bang cũng thấy ngay rằng khoản “nợ quốc gia” mà người ta vẫn suy đoán là một nhầm lẫn và một con số thống kê dễ gây hiểu lầm. Tài sản hiện nay của chính phủ là 9 triệu tỷ đô la Mỹ, vì chính phủ nắm trong tay hàng triệu mẫu đất cực kỳ có giá trị, trong đó có tiềm năng dầu mỏ, gỗ, khoáng sản, v.v. Ngoài ra còn có khoản tài sản cố định khổng lồ, nếu xem xét tất cả các quyền sở hữu - tài sản của quân đội, tất cả các tòa nhà chính phủ, đường cao tốc, nhà kho và quyền hợp pháp để đi qua khoảng đất thuộc sở hữu của người khác. Khái niệm một món nợ quốc gia có thể so sánh với việc một triệu phú sử dụng một phần nhỏ tài sản của mình để mua một công ty mới với khoản trả trước là 50%, còn số dư thì phải trả theo môt lịch trình đã định. Bây giờ ông ta nói rằng mình đang “mắc nợ” vì có các khoản thanh toán trên số dư mà ông ta đã vay. Một triệu phú như vậy thực sự không thể bị coi là “mắc nợ” mà chỉ đang có các khoản thanh toán mà ông ta có thể dễ dàng trả hết bằng cách bán tài sản.            

Tiền ra nhanh hơn tiền vào, như “thâm hụt ngân sách” (Greenspan, 2004) chẳng hạn, không có nghĩa là mắc nợ. Nợ thực tế tức là một người nợ nhiều hơn giá trị tài sản mà họ có và do đó có giá trị ròng âm - khó có thể nói rằng đây là thực trạng của chính phủ liên bang. Có những bang, đặc biệt là các bang miền tây, mà chính phủ liên bang thực sự sở hữu 85% đất đai, cùng với nước, gỗ và quyền khai thác mỏ. Khó có thể nói là chính phủ các bang đó “mắc nợ” khi vấn đề thực sự của họ là đổ tiền dành vào một loạt các chương trình, mà nhiều trong số đó có giá trị đáng ngờ và phục vụ cho các ý thức hệ chính trị chứ không phải là nhu cầu thực tế của công chúng.

 Khi xã hội được công nghiệp hóa và chuyển từ văn hóa nông nghiệp sang văn hóa thương mại, thì sẽ có một độ trễ về thời gian. Quá trình chuyển đổi này không chỉ xảy ra ở Mỹ mà còn ở tất cả các nước đang phát triển khác. Trong thời kỳ này, trẻ em và phụ nữ làm việc tại các nhà máy với đồng lương thấp. Các ngành công nghiệp mới nổi ban đầu dựa vào mức lương thấp, thời gian làm việc kéo dài, không xét đến phúc lợi, điều kiện làm việc căng thẳng. Tuy nhiên, hai mươi năm sau, trong một xã hội về cơ bản là chính trực, toàn bộ bức tranh đã thay đổi và vốn tích lũy giờ đây được phân phối thông qua điều kiện làm việc tốt hơn và tiền lương cao hơn, đây là những sản phẩm phụ của quá trình phát triển kinh tế.

Năm 1914, Henry Ford đã làm cho giới lao động kinh ngạc khi ông trả cho họ 5 đô la một ngày, cuối cùng con số này trở thành 5 đô la một giờ và thu hút người lao động từ khắp nơi trên cả nước. Lúc đó, mức lương trung bình cho lao động phổ thông là 35 xu một giờ. Mặt khác, Ford cấm người làm kể chuyện cười hay cười đùa ở nơi làm việc, và họ phải được quản đốc cho phép thì mới được đi vệ sinh dưới sự giám sát về thời gian.

Thay đổi trong lĩnh vực văn hóa

Trước Thế chiến II, 50% kinh tế Mỹ là nông nghiệp. Một nửa người Mỹ sống trong các trang trại, và công việc được chia đều cho đàn ông và phụ nữ, và ở trong nước phụ nữ được coi trọng. Do tôn trọng phụ nữ mà đàn ông không được nói tục trước mặt họ, phải đứng lên khi có người phụ nữ bước vào phòng và phải mở cửa cho phái nữ ra vào trước. Nhìn chung, phụ nữ, đặc biệt là các bà mẹ, được tôn vinh và tôn kính và có quyền đối với các khía cạnh trong đời sống gia đình, trong khi đàn ông chăm sóc cây trồng, vật nuôi và thiết bị. Người vợ không phải là người tìm việc trong lực lượng lao động thương mại, trừ khi họ ngẫu nhiên làm giáo viên hoặc y tá. Đàn ông có trách nhiệm xã hội là phải hỗ trợ phụ nữ. Đối với một người vợ, “phải đi làm” là ô nhục, còn người chồng sẽ “chết vì xấu hổ” trước những bằng chứng công khai về việc anh ta không cung cấp đầy đủ cho gia đình. Mọi người đều cảm thấy buồn cho một người vợ “phải đi làm”.

Nói chung, các lĩnh vực quan tâm được chia một cách tương đối theo giới. Phụ nữ ít quan tâm đến kinh doanh hoặc chính trị. Đàn ông đi vào phòng khác sau bữa tối để thảo luận về những chủ đề như vậy. Cho tới Thế chiến II, phụ nữ ít làm công việc được trả lương, lúc đó những người phụ nữ làm việc trong nhà máy hay xưởng đóng tàu được tôn vinh như một người có thành tích đặc biệt.

Khi văn hóa thay đổi, ngày càng có nhiều phụ nữ làm công ăn lương hơn và định kiến ​​mà họ phải vượt qua chủ yếu dựa trên những định kiến ​​theo thói quen, chứ không phải do cạnh tranh kinh tế hay thành kiến. Thành thật mà nói, trước đó chưa có ai thấy người phụ nữ nào là thợ ống nước, và không có phụ nữ nào là CEO của các tập đoàn khổng lồ, bởi vì họ không có mặt trong nền văn hóa đó chứ không phải là bị cấm làm việc đó (tức là hiệu ứng của trường).            

Lợi ích đối với nền kinh tế nói chung và nền tảng tư bản của nó tăng lên nhanh chóng khi phụ nữ ngày càng tham gia nhiều hơn. Giờ đây, họ đã phát triển để trở thành CEO của các tập đoàn rất lớn và giữ cả các chức vụ cao trong chính phủ. Trong các lĩnh vực khác, phụ nữ đã trở thành những tỷ phú huyền thoại chỉ nhờ vào sáng kiến ​​tiềm tàng của chính họ. Họ cũng đã mang một nguồn năng lượng mới vào giới truyền thông, năng lượng của tình yêu và sự quan tâm. Nhân vật được ngưỡng mộ nhất trên truyền hình hiện nay là người phụ nữ đang điều hành chương trình truyền hình thành công nhất, có điểm hiệu chỉnh cao nhất trong tất cả các chương trình trên các phương tiện truyền thông - trên 500 điểm. Bà và các nữ CEO nổi bật khác xuất hiện đều đặn trên trang bìa của Tạp chí Fortune, vốn trước đây chỉ dành cho nam giới. Năm 2003, các tập đoàn do các nữ CEO lãnh đạo hoạt động tốt hơn các tập đoàn do nam giới lãnh đạo.

Tất cả những điều vừa nói nhằm chứng minh rằng nước Mỹ không chỉ là vùng đất của cơ hội mà quan trọng hơn, nó còn là xã hội linh hoạt, tự điều chỉnh dựa trên cảm giác cân bằng và công bằng, trong đó, những bất công của sự bất bình đẳng cần được sửa chữa và phản hồi trên tinh thần đồng cảm. Hầu như không có tổ chức nào mà không có người ủng hộ. Như vậy là, thực tại xã hội của Mỹ vốn dĩ là chính trực, đây là hệ quả của trường gần đó, tầng của trường đó đã được xác định bởi Hiến pháp với điểm hiệu chỉnh trên 700. Do đó, trường có tính chính trực cao tạo được ảnh hưởng không nhìn thấy được ở chỗ nó tự bộc lộ khi có bất công và không chính trực, chẳng khác gì chiếc áo sơ mi sạch sẽ tiết lộ vết bẩn.

Người ta tự hỏi vì sao nước Mỹ lại là nơi hội tụ của nhiều phẩm chất đáng chú ý – về mặt vật chất, tâm lý và cảm hứng - như vậy. Các thiên tài sáng tạo đã khai sinh ra phần lớn các ngành công nghiệp và các phát minh tuyệt vời, góp phần củng cố nền kinh tế hiện nay. Xã hội có năng suất cao nhất trong lịch sử đã xuất hiện và sinh ra một xã hội tự do, tự điều chỉnh trên nền tảng của chính quyền có điểm hiệu chỉnh cao nhất có thể. Tất cả đều xuất hiện trong một vùng đất với không gian rộng lớn, vẻ đẹp ngoạn mục bất tận và chứa trong lòng nó số lượng của cải vô cùng vô tận - vàng, bạc, đồng, bạch kim, kim loại quý hiếm, gỗ, động vật hoang dã, và quan trọng nhất là sắt, thành phần cơ bản của thép.

Một lần nữa, dường như tình cờ, việc sử dụng thép trong xây dựng và công nghệ thêm phần dễ dàng vì nước Mỹ có một tài sản khác, đấy là những công nhân người Mỹ bản địa không sợ độ cao. Do đó, những công trình kiến trúc và những cây cầu vĩ đại đã ra đời, cùng với đó là tòa nhà mang tính biểu tượng Empire State – một kết quả của cảm hứng sáng tạo. Đây là thành quả của liên minh giữa thiên tài sáng tạo, kỹ năng và sức mạnh của nền kinh tế có sẵn vốn lưu động từ thu nhập và tiền tiết kiệm của người lao động Mỹ, không có những thứ đó thì không có đường sắt, hàng không, vỉa hè, cửa hàng, ô tô, thuốc chữa bệnh, ngân sách liên bang, chương trình chăm sóc sức khỏe, phúc lợi, hay hệ thống điện thoại - trên thực tế, thậm chí còn không có cả nhà vệ sinh công cộng.                            

Từ phân tích tổng thể bên trên và qua xem xét lại lịch sử cũng như điểm hiệu chỉnh các tầng chính trực của các yếu tố của nó, có thể dễ dàng nhận xét rằng trong tất cả các lĩnh vực then chốt và quan trọng của đời sống con người, nước Mỹ đã lập được những thành tích phi thường và tính chính trực toàn diện của nó thật đáng được tôn trọng. Trong khi công dân ở đất nước tự do này được tự do hay thậm chí là được khuyến khích chỉ trích đất nước mình (những người bất đồng chính kiến không thiên vị có điểm hiệu chỉnh từ 210 tới 330), vì người ta xem đó như là một phần của quá trình chính trị và tiến hóa xã hội, thì ngược lại, những kẻ cực đoan chính trị có điểm hiệu chỉnh 160. (Lưu ý rằng chỉ một mình nước Mỹ đã đang cấp hàng triệu đô la và thuốc men để chinh phục căn bệnh thế kỷ AIDS ở châu Phi xa xôi). Một ví dụ về sự xuyên tạc theo lối tiêu cực do những người phản đối việc thuê ngoài vì cho đó là do “lòng tham” hay do “tổng thống” (tuyên bố này có điểm hiệu chỉnh là “sai”), trong khi nó thực ra là hệ quả của Internet và nền kinh tế quốc tế (tuyên bố này có điểm hiệu chỉnh là “đúng”). Hầu hết các quốc gia, thành phố, bang, địa phương và tập đoàn hiện nay đều thuê ngoài ở một số công đoạn, đấy là do nhu cầu về kinh tế. Ngay cả Mexico cũng gia công cho Trung Quốc (Brezosky, 2005; Kniazkov, 2005).

Trái ngược với những người lên án quê hương bản quán của mình, nước Mỹ chào đón những người nhập cư đánh giá cao vùng đất của cơ hội này. Ấn tượng nhất là sự trung thực và chính trực đáng kinh ngạc - đấy là mô tả về nước Mỹ của một người nhập cư thông thạo, có tài. Được sự cho phép của tác giả, nó đã được tóm gọn trong một bài xã luận (Devji, 2004) nhan đề “Mười đặc điểm cao quý của người Mỹ” (điểm hiệu chỉnh 470). Xin tóm tắt như sau:

Tôi là người Mỹ. Tôi thích là người Mỹ! Tất cả những gì đẹp đẽ, công bình và niềm vui trong tôi đều được nâng cao và khẳng định khi là người Mỹ. Mười đặc điểm đánh dấu chúng ta là một con người:                    

1. SÙNG ĐẠO: Hầu như tất cả chúng ta đều công nhận rằng có một sức mạnh cao hơn chúng ta đang lèo lái số phận xoay vần của con người; người Mỹ sinh ra ở đây cầu nguyện “Thần linh Vĩ đại” và bằng trái tim tôn kính họ gắn lời cầu nguyện ấy với mặt đất và bầu trời thiêng liêng của Hoa Kỳ.

2. LÒNG KHOAN DUNG: Những Kitô hữu châu Âu định cư trên vùng đất này và lập ra hiến pháp của nó. Sau đó, họ đã mở rộng vòng tay và chào đón mọi người từ những khu vực khác của thế giới. Giờ đây, các nhà thờ Hồi giáo, giáo đường Do Thái, và đền thờ mọc lên khắp nơi. Ở đây, người theo đạo Hồi có thể thờ phượng tự do hơn là ở hầu hết các quốc gia Hồi giáo. Người theo đạo Sikh mặc y phục của mình, còn người Do Thái thì đội mũ truyền thống của họ.

3. TẦM NHÌN: Mặc dù chúng ta là quốc gia trên đất liền đang tận hưởng những thành công về vật chất của mình, nhưng chúng ta cũng là dân tộc nhìn xa trông rộng. Chúng ta dám mơ những giấc mơ có thể không xảy ra. Chúng ta bay lên vũ trụ để tìm kiếm các vì sao. Chúng ta hạ cánh xuống những hành tinh không hề lên tiếng suốt hàng tỷ năm. Trên trái đất, tầm nhìn của chúng ta trong nghệ thuật chữa lành sẽ làm cho người què đi được, còn người mù thì nhìn thấy được, theo đúng nghĩa đen của những từ này.

4. TRIỂN VỌNG: Khả năng làm việc chăm chỉ một cách vui vẻ của người Mỹ là yếu tố tạo nên của cải của đất nước này. Không gì có thể so sánh với đạo đức làm việc của chúng ta. Chúng ta là đất nước giàu có nhất trên thế giới, nhưng con cái của chúng ta bắt đầu trông trẻ, đóng gói hàng tạp hóa và cắt cỏ ngay khi chúng còn ngồi trên ghế nhà trường.                

5. HÀO PHÓNG: Có lẽ chưa có nước nào trên trái đất mà chưa được hưởng sự hào phóng của người Mỹ. Chúng ta dùng trái tim từ bi để phản ứng trước các vụ động đất, lũ lụt và nạn đói. Chúng ta gửi tiền, thuốc men, quần áo và những lời cầu nguyện tới các nạn nhân thuộc mọi màu da và tín ngưỡng, và thậm chí tới cả những “kẻ thù” của chúng ta. Chúng ta biết rằng mình chỉ là người trông coi của cải, chứ không phải chủ sở hữu của nó.

6. DẺO DAI: Người Mỹ có một khả năng kỳ lạ trong việc vượt qua nghịch cảnh - tai nạn, phá sản và ly hôn. Họ phục hồi cơ thể, xây dựng lại doanh nghiệp và đời sống của mình. Họ không náu mình trong góc tối; họ chiến đấu.

7. DŨNG CẢM: Một đứa trẻ bốn tuổi bên cạnh nhà tôi đội mũ bảo hiểm, phóng xe dành cho trẻ em, còn các bà dì của tôi ở Ấn Độ vẫn giữ chặt đứa con đã 14 tuổi của họ mà bảo bọc nó! Người Mỹ dường như sinh ra đã có lòng can đảm vượt trội. Dũng cảm dường như đã ăn sâu vào tâm hồn chúng ta. Chúng ta dạy cho thế giới ý nghĩa của từ này bằng tinh thần dám nghĩ dám làm và thành tích sáng chói của chúng ta.

8. HÀI HƯỚC: Chúng ta yêu tiếng cười và cuộc sống. Ở nước ngoài, bạn có thể nói chuyện với một người Mỹ vì anh ta thường là người có nụ cười tươi nhất, đôi khi có giọng nói và tiếng cười to nhất, và là người dễ gần nhất. Một người Mỹ sẽ lấp đầy một căn phòng với thiện chí dễ lây lan của mình và sẽ không coi ai là người lạ.                    

9. TỰ NHÌN VÀO BÊN TRONG: Giữ địa vị có một không hai trên thế giới như vậy, chúng ta có thể thực sự trở thành những kẻ kiêu ngạo và không thèm quan tâm tới ý kiến của người khác. Nhưng chúng ta giống như một đứa trẻ, cần được người ta chấp thuận. Chúng ta là những người tự nhìn vào bên trong chính mình, chúng ta mổ xẻ những hành động và ý nghĩ của mình, chúng ta thành lập các ủy ban, và chúng ta thảo luận về những hành động và suy nghĩ của mình trên báo chí, truyền hình và trong các cuộc họp ở tòa thị chính.

10. NGỌT NGÀO: Đất nước, cũng như con người, sẽ trở nên khô cằn và vô vị nếu tâm hồn của những người sống trong vùng đất đó không còn ngọt ngào nữa. Thượng đế đã ban tặng cho người Mỹ một tâm hồn ngọt ngào hiếm có.            

Vì những phẩm chất tích cực của mình, nước Mỹ thu hút được hàng triệu người nhập cư từ khắp nơi trên thế giới, như nước này đã từng làm trong suốt nhiều thế kỷ. Mặc dù mô tả của Devji chỉ nói về Hoa Kỳ, nhưng khả năng nhìn thấy những mặt tích cực của bà cũng phản ánh những hiện tượng đập ngay vào mắt du khách hoặc người nhập cư khi họ đến các quốc gia của tự do và cơ hội khác. Các tuyên bố của bà (điểm hiệu chỉnh 470) được đưa vào tác phẩm này để phản bác quan điểm “căm thù nước Mỹ” hiện nay - tất cả đều có điểm hiệu chỉnh dưới 200. Trong khi các nước khác, chẳng hạn như Canada, có điểm hiệu chỉnh cao, họ không phải chịu những lời gièm pha được phối hợp từ cả bên trong lẫn bên ngoài như vậy. Những người phê phán tấn công các chính sách chứ không tấn công đất nước của họ, tấn công đất nước một cách ác ý là vấn đề nhân cách chứ không phải chính trị. (“Cắn chính bàn tay đang nuôi mình” có điểm hiệu chỉnh 160, người nào làm như vậy chứng tỏ họ đã mất liên hệ với thực tại).

 


September 3, 2023

Lord Acton – Quyền lực làm con người tha hóa

Jim Powell

Phạm Nguyên Trường (dịch)

Ít người nhận thức được mối nguy hiểm của quyền lực chính trị rõ ràng như Lord Acton. Ông hiểu rằng những người nắm quyền thường đặt quyền lợi của chính họ cao hơn tất cả và sẽ làm tất cả mọi việc nhằm giữ được quyền lực. Họ thường xuyên nói dối. Họ vu cáo những người cạnh tranh. Họ chiếm đoạt tài sản tư nhân. Họ phá hủy của cải. Đôi khi họ còn giết người, thậm chí tàn sát nhiều người. Trong những bài viết và bài giảng của mình, Acton chống lại xu hướng tập thể của thời đại mình và tuyên bố rằng quyền lực chính trị là cội nguồn của cái ác, vô phương cứu chữa. Ông gọi chủ nghĩa xã hội “là kẻ thù tệ hại nhất mà tự do từng gặp từ trước đến nay”.

Đôi khi Acton đạt được đỉnh cao của thuật hùng biện, đấy khi ông khẳng định rằng tự do cá nhân là tiêu chuẩn đạo đức để phán xét các chính phủ. Ông tin “rằng tự do là đỉnh cao nhất… tự do hầu như, nếu chưa nói là hoàn toàn, là biểu hiện, phần thưởng và động cơ trong quá trình đi lên của dân tộc… Dân tộc thù nghịch với sở hữu tư nhân là dân tộc không có thành tố quan trọng nhất của tự do… Tự do không phải là phương tiện để đạt tới mục đích chính trị cao nhất. Tự do chính là mục đích chính trị cao nhất”.

Mặc dù Acton ngày càng cô đơn, ông được người ta ngưỡng mộ vì kiến thức siêu phàm về lịch sử. Ông truyền cho thế giới nói tiếng Anh quan niệm khắt khe – các học giả Đức thế kỉ XIX là những người đi tiên phong – trong việc nghiên cứu lịch sử, càng tìm hiểu được nhiều nguồn sử liệu ban đầu thì càng tốt. Ngôi nhà của ông ở Cannes (Pháp) có hơn 3.000 đầu sách và bản thảo; ngôi nhà ở Tegernsee (Bavaria) có khoảng 4.000; và ngôi nhà ở Aldenham (Shropshire, Anh) có gần 60.000 đầu sách và bản thảo. Ông đánh dấu hàng ngàn đoạn mà ông coi là quan trọng. Năm 1873 ông được trường Đại học Munich trao tặng danh hiệu Tiến sĩ triết học, năm 1889 ông được Đại học Cambridge trao tặng danh hiệu Tiến sĩ luật và năm 1890 ông được Đại học Oxford trao tặng danh hiệu Tiến sĩ luật dân sự – nhưng ông chưa bao giờ có bằng cấp gì, thậm chí không có cả bằng tốt nghiệp phổ thông.

Chắc chắn là, Acton không nắm được nhiều vấn đề. Khoa học không phải là mối bận tâm của ông. Mặc dù lo lắng cho người nghèo, nhưng ông coi những người theo phái tự do chủ nghĩa ở Manchester quan tâm tới việc nâng cao đời sống là những người duy vật không đáng để ý. Ông biết rất ít về lịch sử kinh tế, tức là môn học nói cho ta biết người dân bình thường làm ăn sinh sống như thế nào. Ông bị tiêm nhiễm tư tưởng cho rằng thị trường làm cho người giàu ngày càng giàu thêm, trong khi người nghèo ngày càng nghèo hơn, trong khi thực tế thị trường tự do – ví dụ, cuộc Cách mạng công nghiệp thời ông – đã cứu hàng triệu khỏi bị chết đói.

Acton trông như thế nào? Những bức ảnh được công bố đều cho thấy ông có một bộ râu dài. Ông có đôi mắt màu xanh, sắc sảo, trán cao. “Ông là người cao trung bình và về già ông đẫy ra”, nhà viết tiểu sử David Matthew nói. “Ông ấy là người hoạt ngôn nổi tiếng, nhưng khi nói về mô hình Đức thì bao giờ ông cũng dẫn ra nhiều sự kiện và tài liệu tham khảo. . . ông rất thích đi bộ, băng qua những sườn đồi thấp vùng núi Bavaria hoặc lang thang trên sườn dốc vùng núi hướng ra biển ở Alpes Maritimes (Pháp)”.

Acton truyền cho người nghe niềm đam mê cực kì to lớn. “Giọng ông có sức hút như nam châm”, một sinh viên từng nghe ông giảng bài ở Cambridge nói. “Chưa bao giờ một thanh niên trẻ có sức thuyết phục trong mỗi lời nói như Lord Acton từng thể hiện. Nó khống chế toàn bộ đối tượng, dường như ôm trọn đối tượng trong ngọn lửa hừng hực của nó. Và ngọn lửa nuôi dưỡng mỗi lời nói đó là vô cùng vô tận, chí ít là những người có mặt cảm thấy như thế. Trên hết, có lẽ chính niềm tin này đã tạo cho những bài giảng của Lord Acton sức hấp dẫn và sức sống. Ông nói từng câu như thể ông đang cảm thấy nó, treo nó lên một cách nhẹ nhàng và thốt ra với sự thận trọng nhất định. Tình cảm của ông được truyền cho cử tọa, họ như nuốt lấy từng lời”.

Hoàn cảnh gia đình

John Emerich Edward Dalberg-Acton sinh ngày 10 tháng 1 năm 1834, ở Naples. Mẹ ông, bà Marie Pelline de Dalberg được sinh ra trong một gia đình Công giáo ở Bavaria, thuộc dòng dõi quý tộc Pháp. Cha ông, Ferdinand Richard Edward Acton, là một nhà quý tộc người Anh. Bố của Acton mất khi ông vừa tròn ba tuổi, và khi ông lên sáu thì mẹ ông tái giá với Lord Leveson, ông này sau được phong là Earl of Granville, một đảng viên tự do (Whig) Anh có nhiều ảnh hưởng và từng giữ chức bộ trưởng ngoại giao trong nội các theo đường lối tự do của John Russell và William Ewart Gladstone.

Acton được giáo dục chủ yếu như một tín đồ Công giáo – ở Saint Nicholas (Pháp), St. Mary’s, Oscott (Anh), Đại học Edinburgh (Scotland), ông học ở đây hai năm, và đại học Munich (Bavaria), ông tới đây sau khi không được ban giám hiệu Cambridge và Oxford chấp nhận vì là người Công giáo.

Johann Ignaz von Dollinger, một trong các nhà sử học lỗi lạc nhất của Châu Âu là người thày quan trọng nhất của Acton. Chẳng bao lâu sau khi Acton đến Munich vào tháng 6 năm 1850, ông bắt đầu rèn luyện để trở thành nhà sử học. “Con ăn sáng lúc 8 giờ”, ông viết cho bố dượng, “sau đó học tiếng Đức hai giờ – một giờ đọc Plutarch và một giờ đọc Tacitus. Giáo sư đặt ra tỷ lệ như thế. Con và giáo sư ăn cơm trưa trước 2 giờ chiều một chút, đây là lần đầu tiên con gặp ông trong ngày. Lúc 3 giờ thì thày dạy tiếng Đức tới. Từ 4 giời đến 7 giờ tối con được tự do – con đọc lịch sử hiện đại trong khoảng một tiếng đồng hồ – và đọc lịch sử cổ đại trong một tiếng đồng hồ ngay trước bữa ăn tối. Con uống trà lúc 8 giờ tối, rồi nghiên cứu văn học Anh và sáng tác đến khoảng 10 giờ thì đi ngủ”.

Acton và Dollinger đã đi du lịch ở Áo, Anh, Đức, Thụy Sĩ, đã đến các thư viện và nhà sách. Họ tiến hành phân tích các bản thảo, gặp gỡ các nhà thơ, nhà sử học, nhà khoa học và chính khách.

Sư khiếm khuyết của ông thể hiện rõ trong những nhận xét của ông về nước Mĩ mà ông đã cùng với bố dượng tới thăm vào tháng 6 năm 1853. Là một nhà quý tộc, ông tỏ ra bàng quan vì cách hành xử thô lậu và quá chú ý tới những vấn đề thực tế. Ông không nhận thức được năng lực vô cùng to lớn của ngành thương mại Mĩ khi ông viết về New York: “Không thể nhìn thấy thành phố vì nó quá bằng phẳng và xung quanh đầy tàu thuyền”.

Khi Acton bắt đầu học với Dollinger, ông đã bị Thomas Babington Macaulay – một nhà sử học theo phái tự do có tài hùng biện, đang đấu tranh cho tự do và tiến bộ – lôi cuốn. Acton tự mô tả là “cậu học trò người Anh thô lậu, say sưa nền chính trị của Đảng tự do”. Nhưng Dollinger giằng Acton ra khỏi Macaulay, và chàng trai trẻ đã trở thành người hâm mộ Edmund Burke, người trước đây từng phản đối cuộc Cách mạng Pháp. Trong khi học với Dollinger, Acton còn nghe các bài giảng của các nhà sử học vĩ đại người Đức, Leopold von Ranke, môt người luôn luôn nhấn mạnh rằng vai trò của một nhà sử học là giải thích chứ không phải là phán xét quá khứ.

Chủ nghĩa bảo thủ thời gian đầu

Những người đã biết những bài phát biểu hùng hồn nổi tiếng của Acton nhằm chống lại chế độ độc tài sẽ phải giật mình khi biết rằng hồi đầu ông là người theo trường phái bảo thủ.

Ví dụ, khác với những người theo phái tự do ở Manchester như Richard Cobden và John Bright, cùng với đa số người Anh khác, Acton đứng về phía các bang miền Nam trong cuộc nội chiến Mỹ. “Không thể dựa trên cở sở tôn giáo để thông cảm với việc cấm tuyệt đối chế độ nô lệ, cũng không thể dựa trên cơ sở chính trị để chia sẻ quan điểm của chủ nghĩa bãi nô”, ông viết như thế trong tiểu luận nhan đề “Những nguyên nhân chính trị của cách mạng Mỹ” (1861). Năm năm sau, trong một bài giảng về cuộc Nội chiến, Acton nhận xét rằng chế độ nô lệ “đã là một công cụ đầy sức mạnh không chỉ để làm điều ác mà còn để làm điều thiện là giữ trật tự thế giới. . . . bằng cách đánh thức, một mặt, sự hy sinh và mặt kia, lòng từ bi”. Acton từng nói với một người bạn: “Tôi đã tan nát cõi lòng khi nghe tin tướng Lee đầu hàng”.

Trong tác phẩm “Thuyết Tin lành về ngược đãi” (1862), ông từ chối lên án cuộc đàn áp trên mọi lĩnh vực. Dường như ông bảo vệ những nhà cầm quyền Công giáo, những người tuyên bố rằng khủng bố là biện pháp gắn kết xã hội duy nhất. Ông cho rằng người theo đạo Tin Lành, như John Calvin, là những người xấu hơn vì họ khủng bố nhân dân là nhằm dập tắt những quan điểm trái ngược với họ. Trong chỗ riêng tư, Acton nói thẳng hơn: “Nói khủng bố là sai, nói trắng ra, trước hết, tôi cho là không đúng. . .

Tuy nhiên, Dollinger và Acton đã trở thành những người phê bình thẳng thắn thái độ bất dung của Công giáo. Đối tượng của họ lúc đó là những người theo phái ủng hộ quyền lực tuyệt đối của Giáo hoàng (Ultramontanes), tức là những người tìm cách đàn áp tự do trí tuệ. Dollinger và Acton đã bàn về chính sách của Vatican, đặc biệt là sau khi Giáo Hoàng Pius IX ban hành Bản Cáo Trạng Những Sai Lầm (Syllabus of Errors) khét tiếng (1864), cáo buộc chủ nghĩa tự do cổ điển là dị giáo, trong đó có tư tưởng “Đức Thánh Cha ở Rome có thể và phải chấp nhận, và đồng ý với tiến bộ, tự do và nền văn minh”.

Acton đã có đóng góp vào việc xuất bản một loạt tờ tạp chí Công giáo với nhiệm vụ là giúp tự do hóa Nhà thờ: Tờ Rambler ra hai tháng một lần (1858-1862), tờ Home and Foreign Review (1862-1864) ra hàng quý và tờ Chronicle ra hàng tuần (1867-1868). Những nỗ lực này đã bị thất bại vào năm 1870, đấy là khi Hội đồng Vatican tuyên bố rằng Giáo Hoàng có uy quyền tuyệt đối, không thể sai lầm về tín điều của Giáo Hội. Bởi vì Dollinger là một thày tu, việc ông chấp nhận điều này làm cho ông bị rút phép thông công. Acton, chỉ là giáo dân bình thường, không bị yêu cầu chính thức thừa nhận các nghị định của Hội đồng Vatican, và ông vẫn ở trong Giáo Hội.

Cũng trong thời gian này, Acton viết một tiểu luận có tính tiên tri nhất của ông, nhan đề Quốc tịch (1862), một lời báo động sớm về chế độ toàn trị: “Bất cứ khi nào một đối tượng xác định duy nhất được đưa lên thành mục đích tối thượng của nhà nước, dù đấy có là quyền lợi của một giai cấp, sự an toàn hay sức mạnh của quốc gia, hạnh phúc lớn nhất cho nhiều người nhất, hay ủng hộ bất kỳ tư tưởng tư biện nào thì cùng với thời gian, nhà nước chắc chắn sẽ trở thành độc đoán. Để có tự do, chỉ cần hạn chế quyền lực công, vì tự do là cái duy nhất làm lợi cho tất cả mọi người như nhau và không tạo ra phe đối lập”.

Năm 1865, ở tuổi 31, Acton kết hôn với người em họ, nữ Bá tước Marie Anna Ludmilla Euphrosyne Arco-Valley. Cô dâu vừa tròn 24 tuổi, là con của Bá tước Johann Maximilian Arco-Valley. Bá tước là người giới thiệu Dollinger với Acton, vì vậy Acton và nữ bá tước trẻ tuổi đã biết nhau ngay từ khi ông bắt đầu học tập ở Bavaria. Dường như nữ Bác tước cũng chia sẻ mối quan tâm của chồng về tôn giáo và lịch sử. Họ sinh được sáu người con, bốn người sống đến tuổi trưởng thành. Trong các bữa ăn, Acton thường nói tiếng Đức với vợ, nói tiếng Ý với mẹ vợ, tiếng Pháp với chị dâu, tiếng Anh với các con và có thể nói một ngôn ngữ châu Âu khác với khách.

Tôn giáo luôn luôn nằm trong tâm trí Acton, và ông trở thành người cứng rắn hơn Dollinger, ông tuyên bố rằng các nhà sử học phải lên án cái ác. Tháng 2 năm 1879, ông đoạn tuyệt với Dollinger sau khi vị giáo sư lùi về quan điểm cho rằng vai trò của nhà sử học chỉ là giải thích sự kiện, thậm chí nếu điều đó có nghĩa là không bàn về những tội ác khủng khiếp. Acton khẳng định rằng những hành động tội ác, như giết người, bao giờ cũng là tội ác. Ông viết về Tòa án dị giáo như sau: “Tòa thánh đã gây ra những vụ giết người và tàn sát hàng loạt với quy mô lớn nhất và mức độ tàn bạo và phi nhân nhất. Họ không chỉ là những kẻ sát nhân hàng loạt, mà họ còn đưa nguyên tắc sát nhân thành luật của Giáo Hội Kitô giáo và điều kiện cho sự cứu rỗi”.

Acton than thở: “Trong quan niệm đạo đức nền tảng của mình tôi hoàn toàn cô đơn”. Ông tâm sự với người bạn của mình là Charlotte Blennerhassett như sau: “Hãy để tôi cố gắng nói càng ngắn càng tốt và không cần lập luận với bạn rằng trên thực tế cái đó rất đơn giản, rõ ràng, và không phải là câu chuyện thú vị. Đấy là câu chuyện về người đàn ông bắt đầu cuộc sống với niềm tin rằng mình là người Công giáo chân thành và người theo phái tự do chân thành; do đó ông ta từ bỏ tất cả những thứ không tương thích với tự do trong đạo Công giáo và tất cả mọi thứ không tương thích với Công giáo trong chính trị. . . . Vì vậy, tôi là một trong số những người ít suy nghĩ về những cái đang là, mà suy nghĩ nhiều về những thứ nên là, những người hi sinh thực tế vì lý tưởng, hi sinh quyền lợi vì nghĩa vụ, hi sinh quyền lực vì đạo đức”.

Trong những năm 1870, Acton không chỉ bị sốc về trí tuệ mà còn trải qua giai đoạn khó khăn trong cuộc sống. Số là, phần lớn tu nhập của ông là từ đất nông nghiệp do cha mẹ để lại, nhưng thu nhập từ trang trại lại giảm trong giai đoạn suy thoái kéo dài. Năm 1883, ông phải bán một số tài sản. Ông phải cho thuê bất động sản ở Aldenham. Tuy nhiên, ông cũng đã tìm việc làm được trả lương cao.

Acton và Gladstone

Nhờ ông bố dượng mà Acton trở thành nghị viên trong khoảng 6 năm, kể từ năm 1859 và đã gặp Gladstone ở đây. Galdstone làm thủ tướng tới ba nhiệm kì. Năm 1869, tức là ba năm sau khi Acton thất cử, Gladstone phong cho Acton chức Nam tước và ông có chân trong Viện Nguyên Lão, nhưng trong suốt thời gian ở trong quốc hội, ông chưa bao giờ tham gia tranh luận. Acton coi Gladstone là người lãnh đạo tinh thần vĩ đại và thường lặng lẽ ủng hộ ông này. Hai người đều say mê thảo luận về lịch sử và tôn giáo.

Trong những bài phê bình, Acton trách linh mục Anh giáo là Mandell Creighton, tác giả cuốn Lịch sử Giáo hoàng trong thời kỳ Cải cách, là không lên án các Giáo hoàng thời Trung Cổ – những người khởi xướng Tòa Án Dị Giáo. Nhưng Acton và Creighton đã trao đổi với nhau một cách chân tình, và Actons đã viết những dòng khó quên nhất vào ngày 05 tháng 4 năm 1887:

“Tôi không thể chấp nhận quy tắc của ông rằng chúng ta phải đánh giá Giáo hoàng và nhà vua khác với đánh giá những người khác, với một giả định có lợi cho họ là họ không có gì sai. Nếu có bất kỳ giả định nào thì đó phải là sử dụng biện pháp khác nhằm chống lại những người nắm giữ quyền lực, biện pháp tăng khi quyền lực tăng. Không chịu trách nhiệm trước pháp luật thì phải chịu trách nhiệm trước lịch sử. Quyền lực dẫn đến tha hóa, quyền lực tuyệt đối tha hóa tuyệt đối”.

Acton là người Công giáo mộ đạo, và ông đã đưa quan điểm của mình đi xa đến mức trách cứ bạn là Gladstone, khi ông này viết bài mà ông cho là chưa xứng tầm nhằm bảo vệ Kitô giáo trước cuộc tấn công của những tiểu thuyết gia nổi tiếng. Acton nhận xét rằng những người không có tín ngưỡng đáng bị coi là đã gây ra cuộc chiến dẫn đến kết quả là Giáo Hội Kitô đã trở thành “tổ chức bất dung, chuyên chế và tàn ác kinh khủng như thế”.

Việc học tập không mệt mỏi của ông thì sao? Acton theo đuổi tư tưởng từ cuốn này sang quyển sách khác, để rồi sau đó thì bỏ. Ông đã nghiên cứu về lịch sử các Giáo hoàng, lịch sử những cuốn sách bị Giáo Hội Công Giáo cấm, lịch sử nước Anh thời James II và lịch sử Hiến pháp Mĩ. Ông đã nghĩ tới cuốn lịch sử phổ quát, chủ đề của nó sẽ là quyền tự do của con người. Nó đã trở thành giấc mơ của ông về lịch sử của tự do.

Tác giả James Bryce nhớ lại, Acton “nói như một người đầy cảm hứng, dường như đang phát biểu trên đỉnh núi cao trong không trung, ông nhìn thấy ở bên dưới con đường tiến bộ của nhân loại quanh co khúc khuỷu từ thời tiền sử tối tăm đến thời hiện đại sáng sủa hơn, nhưng vẫn còn thất thường và đôi khi bị gián đoạn. Khả năng hùng biện của ông thật là tuyệt vời, nhưng hơn cả tài hùng biện là tầm nhìn xuyên thấu, giúp – thông qua tất cả các sự kiện và các thời đại – nhận ra trò chơi của những lực lượng tinh thần, khi thì sáng tạo, khi thì phá hủy, luôn luôn chuyển hóa, tạo ra và tái tạo các thiết chế và trao cho linh hồn của nhân loại những hình thức hoạt động không ngừng thay đổi của mình. Dường như toàn bộ lịch sử đột nhiên lóe lên trước luồng ánh sáng mặt trời rực rỡ”./.

Lịch sử của tự do

Acton gói gọn một phần của chủ đề yêu thích của mình trong hai bài giảng nhan đề: “Lịch sử của Tự do trong thời Cổ đại” (The History of Freedom in Antiquity) và “Lịch sử của Tự do trong thời Kitô giáo” (The History of Freedom in Christianity), cũng như trong bài điểm cuốn Dân chủ ở châu Âu của Sir Erskine May (1878 ). Ông đã tìm được nguồn gốc của tự do trong các học thuyết của người Hebrew cổ về “luật cao hơn” áp dụng cho tất cả mọi người, thậm chí cả những người cai trị. Ông giải thích cách thức – chỉ có ở phương Tây – mà các tôn giáo cạnh tranh với nhau đã tạo ra cơ hội cho các cá nhân vươn tới tự do. Ông nói về con đường đưa đến chế độ dân chủ ở các thị trấn thương mại. Ông nói về những học thuyết cấp tiến, theo đó, các cá nhân có thể nổi loạn khi nhà cầm quyền tiếm đoạt quyền lực một cách bất hợp pháp. Ông ghi lại theo trình tự thời gian những cuộc chiến đấu anh hùng nhằm chống lại các bạo chúa”.

Những bài tiểu luận này có rất nhiều nhận xét đáng ghi nhớ. Ví dụ:

“[Tự do] là quả ngọt của nền văn minh đã chín muồi . . . Trong tất cả các thời đại sự, tiến bộ của nó thường bị những kẻ thù tự nhiên của nó, bị sự dốt nát và mê tín dị đoan, bị ham muốn chinh phục và thích nhàn nhã, tham đắm quyền lực của kẻ mạnh và tham ăn của người nghèo cản trở. . . . Trong tất cả các giai đoạn, những người bạn chân thành của tự do bao giờ cũng hiếm, và nó chiến thắng là nhờ thiểu số, mà thắng bằng cách liên kết với những phụ tá có mục đích khác với mục đích của những người yêu chuộng tự do; và hiệp hội này luôn luôn nằm trong vòng nguy hiểm, đôi khi là tai họa nữa. . . . Bài kiểm tra chắc chắn nhất mà chúng ta dùng để đánh giá xem đất nước có thực sự tự do hay không là mức độ an toàn mà những nhóm thiểu số được hưởng….”

Tại sao ở Mĩ tự do lại được bảo đảm hơn hầu hết các nơi khác? “Tự do”, Acton viết cho Mary, con gái của Gladstone, “phụ thuộc phân chia quyền lực. Chế độ dân chủ có xu hướng dẫn tới tập trung quyền lực… Thể chế liên bang là biện pháp kiểm soát sự tập trung và tập quyền khả dĩ duy nhất”.

Đáng tiếc là Acton không chú tâm vào dự án lớn nào. Những tập giấy tờ đồ sộ mà ông để lại thậm chí không có bản phác thảo về lịch sử của tự do. Ông chưa khởi thảo. Ông để lại khoảng 500 hộp màu đen và những cuốn vở, chủ yếu là những đoạn lộn xộn từ những tác phẩm khác nhau. Nhiều tài liệu bàn về những ý tưởng trừu tượng chứ không phải là sự kiện lịch sử. Sau này, sử gia E.L. Woodward nhận xét rằng cuốn lịch sử về tự do của Acton đã có thể là “cuốn sách vĩ đại nhất không bao giờ được viết ra”.

Năm 1895, nhà sử học John Seeley ở Đại học Cambridge chết và thủ tướng Rosebery phải bổ nhiệm vị giáo sư Hoàng gia mới về lịch sử hiện đại. Mặc dù Acton chưa từng dạy học bao giờ, người ta đã đề nghị ông vì kiến thức, lòng trung thành đối với tự do và ông đang cần tiền. Và vì vậy mà Acton, người không được nhận vào học ở Cambridge, lại được bổ nhiệm vào vị trí đầy uy tín ở trường này.

Trong bài giảng nhân ngày nhậm chức nổi tiếng, ông nhấn mạnh rằng cần đánh giá các chính trị gia như những người bình thường: “Tôi khuyên các bạn không bao giờ được làm mất giá tiêu chuẩn đạo đức hoặc hạ thấp các tiêu chuẩn về tính chính trực, mà phải phán xét những người khác bằng những câu châm ngôn mà bạn dùng để hành xử trong cuộc sống của chính mình và không để ai hay lý do gì thoát khỏi hình phạt vĩnh cửu mà lịch sử có quyền trừng phạt những kẻ làm sai”.

“Lịch sử,” ông nói tiếp, “dạy rằng sai và đúng là khác nhau. Ý kiến thay đổi, phong tục thay đổi, tín điều xuất hiện rồi biến mất, nhưng luật đạo đức thì được viết trên những tấm biển còn mãi với thời gian”.

“Nguyên tắc của nền chính trị đúng đắn cũng là những nguyên tắc của đạo đức được mở rộng ra, hiện nay tôi không chấp nhận, cũng như sẽ mãi mãi không bao giờ chấp nhận nguyên tắc nào khác”.

Ttong những năm làm việc cuối cùng ở Cambridge, Acton chỉ giảng có hai loạt bài – về lịch sử hiện đại và về Cách mạng Pháp – nhưng các đồng nghiệp rất kính trọng ông. Nhà sử học George Macaulay Trevelyan nhớ lại:

Kiến thức, trải nghiệm và quan điểm của ông mang đặc trưng của người châu Âu lục địa, nhưng chủ nghĩa tự do Anh lại là phần quan trọng trong triết học của ông. Ông đã tạo được ấn tượng sâu sắc trong cái xã hội phần nào có tính tỉnh lẻ của chúng tôi. Những giáo sư thuộc đủ các lĩnh vực thường tụ tập lại để nghe những bài giảng bí hiểm, có thể làm người ta bối rối, nhưng rất ấn tượng của ông. Ông đã có vầng trán của Plato và phong cách của một nhà hiền triết và là một người vĩ đại. Nhiều tư tưởng của chúng ta cũng là tư tưởng của ông, nhưng tư tưởng của ông đã được rút ra từ những nguồn khác và từ kinh nghiệm rộng lớn hơn. Những điều ông nói bao giờ cũng thú vị, nhưng đôi khi có vẻ kì lạ. Tôi nhớ, ví dụ, ông nói với tôi rằng các quốc gia được xây dựng trên sự thống nhất của một chủng tộc duy nhất, như nước Ý và nước Đức hiện đại, sẽ là mối nguy cho tự do; lúc đó tôi không hiểu ông nói gì, nhưng bây giờ thì hiểu!

Ông nhận chức Professorial Fellowship ở Đại học Trinity, thời gian đầu ông sống trong phòng của mình ở Nevile’s Court. Lúc nào ông cũng ở đó, sẵn sàng tiếp bất cứ nhà sử học nào của Cambridge, từ [Frederic] Maitland hay [William] Cunningham đến những sinh viên chưa tốt nghiệp khiêm tốn nhất, sẵn sàng giúp đỡ bất cứ ai với kho tàng kiến thức sâu sắc của mình. Ông ngồi sau bàn làm việc, khuất sau một mê cung các kệ sách cao mà ông dùng để xếp các cuốn sách lịch sử, mỗi cuốn lại có những mảnh giấy dán thò ra ngoài để đánh dấu những đoạn quan trọng.

Ông rất ân cần đối với tôi. Tôi nhớ lần hai người đi cùng nhau và cái chỗ trên đường Madingley, nơi ông nói với tôi rằng đừng bao giờ tin những người đánh giá thấp ông chú tôi [Thomas Babington Macaulay], vì mặc dù ông có những sai lầm như thế, nhưng nói chung ông vẫn là người vĩ đại nhất trong số các nhà sử học.

Từ khi Acton công nhận rằng ông sẽ không bao giờ viết lịch sử về tự do, ông đồng ý biên tập một loạt cuốn sách tập hợp đóng góp của nhiều người cầm bút đáng kính. Bộ Lịch Sử Hiện Đại do Cambridge ấn hành ra đời như thế đấy, bộ sách này đã rút cạn sức lực của ông.

Acton bị cao huyết áp và tháng 4 năm 1901, sau khi biên tập được hai tập đầu, ông bị đột quỵ và bị liệt. Ông về hưu và sống trong ngôi nhà ở Tegernsee, Bavaria. Ông qua đời ngày 19 tháng 6 năm 1902. Ông được chôn trong sân nhà thờ gần đó.

Di sản của Acton

Sai khi Acton qua đời, thư viện với 60.000 cuốn sách của ông ở Aldenham – bộ sưu tập chính của ông về đề tài tự do – được một doanh nhân người Mĩ trong lĩnh vực sắt thép là Andrew Carnegie mua và tặng cho John Morley, một trong những người theo phái tự do cổ điển cuối cùng của Mĩ. Đến lượt mình, Morley lại tặng những cuốn sách này cho Cambridge với mong ước rằng chúng sẽ được lưu trữ cùng nhau.

Trong mấy năm sau đó, hai giảng viên của Cambridge là John Neville Figgis và Reginald Vere Lawrence thu thập những công trình quan trọng nhất của Acton và kết quả là những tác phẩm với nhan đề Những bài giảng về lịch sử hiện đại (1906), Lịch sử của tự do và những tiểu luận khác (1907), Những tiểu luận và công trình nghiên cứu sử học (1908), Những bài giảng về Cách mạng Pháp (1910), sau đó là Tuyển tập thư từ của Lord Acton (1917).

Nhưng ông bị người đời lãng quên vì những người gọi là “tiến bộ”, những người ủng hộ chính sách kinh tế mới, những người xã hội chủ nghĩa và cộng sản, phát xít, quốc xã và những người theo phái tập thể khác nắm được quyền lực chính trị khổng lồ, quyền lực này đã hi sinh tự do nhân danh điều thiện.

Sau đó là số người chết: gần 10 triệu người trong Thế chiến I, 50 triệu người trong Thế chiến II, cộng với hàng chục triệu người bị Stalin ở Nga và Mao ở Trung Quốc – những tên sát nhân lớn nhất trong lịch sử – sát hại. Hàng trăm triệu người nữa là thần dân của những quốc gia đầy sức mạnh, những người thu thuế ở đó thu 40%, 50%, 60% hoặc hơn khoản tiền mà khó khăn lắm họ mới kiếm được.

Trong khi xảy ra những vụ thảm sát do những người theo chủ nghĩa tập thể gây ra, đã có một số người nhớ đến lời cảnh báo của Acton về sự khủng khiếp của quyền lực chính trị và lời kêu gọi tôn trọng quyền tự do nhân bản của ông. “Dường như chúng ta những người có vinh dự là hiểu ông, trong khi những người đương thời với ông thì không. Ông là người của thời nay, hơn là của thời ông. Ông là một trong những người đương thời vĩ đại nhất của chúng ta”, nhà sử học Gertrude Himmelfarb nhận xét như thế./.

Jim Powell - biên tập viên của Laissez Faire Books và là cộng tác viên cao cấp của Cato Institute. Ông từng viết cho The New York Times, The Wall Street Journal, Barron’s, American Heritage và hơn ba chục tòa soạn báo khác.

Nguồn bài viết https://fee.org/articles/lord-acton-political-power-corrupts/