July 7, 2024

THỰC TẠI, TÂM LINH VÀ CON NGƯỜI HIỆN ĐẠI (17)

 (Reality, Spirituality and Modern Man)

David Hawkins, M. D., Ph. D.

Phạm Nguyên Trường dịch


CHƯƠNG 16

 

Siêu việt thế gian

Dẫn nhập

Có nhiều trở ngại, ngăn cản, không cho người ta vươn tới tầng ý thức cao, vì chúng xuất phát từ cả bên trong lẫn bên ngoài. Do đó, trong một cuộc đời, tầng ý thức của một người trung bình chỉ thăng tiến được từ năm đến bảy điểm. Quá trình tiến hóa của tầng ý thức của nhân loại nói chung cũng diễn ra chậm như thế và có thể đứng yên một chỗ trong suốt nhiều thế kỷ hoặc thậm chí là dao động và giảm đi, như từng xảy ra vào năm 2006 (từ 207 xuống còn 204).

Tuy nhiên, vì có ý định và hòa điệu tâm linh, quá trình tiến hóa của người sùng đạo có thể diễn ta tương đối rất nhanh. Hiện nay nhiều thông tin đã sẵn sàng, kết quả của chính quá trình nghiên cứu ý thức đã làm gia tăng khả năng đạt được chứng ngộ lên hàng chục lần. Trên thực tế, chính việc nghiên cứu ý thức xuất hiện cũng là hệ quả của quá trình tiến hóa của ý thức của nhân loại.

Từ bên trong tự ngã, cơ cấu và động lực của bản ngã là rào cản đầy sức mạnh, ngăn cản quá trình khám phá Thực tại tâm linh. Ngoài ra, chất nền ngây thơ, trẻ con của tâm trí có thể bị những thứ trá ngụy lập trình, vì tâm trí không có khả năng phòng thủ ở bên trong, không có cơ chế xác định thông tin là thật hay giả. Do đó, bản ngã bị ảo tưởng cho rằng nó khả năng phân biệt làm cho mờ mắt. Ngược đời là, tâm trí không biết rằng khả năng của nó là có hạn và dễ mắc sai lầm. Vì không khiêm tốn, cho nên quá trình tiến hóa tâm linh mới dừng lại, phải có những sự kiện quan trọng hoặc vận may thì thói kiêu ngạo bẩm sinh của bản ngã mới bị rúng động.

Ngoài việc chính tâm trí của con người có những hạn chế nội tại bẩm sinh, thì còn có những vấn đề xuất hiện trong đời sống khi người ta sống trong thế giới, với những thông tin từ nhiều tầng khác nhau được liên tục được đưa vào, trong đó có cả các phương tiện truyền thông. Thông tin cũng bao gồm các tầng sinh học/thể chất, cảm xúc/tâm lý, tâm trí/tri giác và tâm linh/bối cảnh. Thế giới được trải nghiệm cũng thường xuyên tạo ra khó khăn, theo nghĩa là nó đặt ra vô số lựa chọn và lựa chọn khi bị áp lực về thời gian, buộc người ta phải liên tục quyết định.

Trong khi một người khao khát tâm linh từ bỏ thế gian và tới sống trong những khu vực an toàn của cộng đồng tâm linh tận tâm, thì đó không phải là lựa chọn của phần lớn những người tìm kiếm muốn thực hiện nhiệm vụ khó khăn trong quá trình tiến hóa tâm linh mà vẫn tham gia tích cực vào thế giới với những trách nhiệm và hoạt động hàng ngày. Tuy nhiên, sẽ dễ dàng thực hiện nhiệm vụ này nếu nhận thức được những thái độ và phong cách nhất định. Phần sau đây sẽ bàn về việc này.

Thế gian là gì?

Thế giới là “thực” hay “vọng tưởng” đã là đề tài được các triết gia thảo luận trong suốt chiều dài của lịch sử, nhưng không có người nào thực sự đưa ra phương tiện giải quyết mang tính thực dụng và thỏa đáng, đấy là do người ta không có câu trả lời dựa trên bản chất vốn có thực tại và khuynh hướng của chính ý thức của con người. Như vậy là, câu nói “Cố gắng thay đổi thế giới là việc làm vô ích, vì cái thế giới mà bạn nhìn thấy thậm chí không tồn tại”, đúng ở tầng ý thức 700, nhưng một người bình không thể hiểu được. Tương tự, để “Sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian” (St. Francis of Assisi) là đúng, nhưng một người bình thường làm sao làm được chuyện này?

Nói rằng sai lầm lớn nhất của con người là “vô minh (Chúa Jesus Christ, Đức Phật, Krishna, Socrates, v.v. đều nói như thế), cần được giải thích, vì tuyên bố này không giải thích được vô minh là bẩm sinh hay do khiếm khuyết về đạo đức, do cố ý, do số phận sinh học, hạn chế mang tính nghiệp báo hay bản chất của con người là dễ mắc sai lầm.

Trong bối cảnh này, “thế gian” có hai nghĩa: (1) thế gian như nó đang là trong thực tại/bản chất (res externa/extensa của Descartes), hoặc (2) thế gian như nó được tâm trí của con người nhận thức, quan sát, chứng kiến và giải thích (res cogitans/interna của Decartes). Bên cạnh những giải thích thế gian theo lối trải nghiệm, hiện nay còn có thêm vào những cách giải thích của vật lý học Newton và cơ học lượng tử nữa.

Các triết thuyết khác nhau, trong đó có siêu hình học, bản thể học, thần học và nhiều thứ khác đã từng giải thích thế giới trong suốt nhiều thế kỷ. Hiện nay thế giới còn được các phương tiện truyền thông phản ánh và giải thích, sau đó còn được các giác quan xử lý. Trong khi Socrates, Descartes và những người khác đã thể hiện rõ ràng thế tiến thoái lưỡng nan của con người, nhưng họ không đưa ra được cách giải quyết mâu thuẫn này, sự kiện này thể hiện rất rõ qua phiên tòa Scopes, cũng như những cuộc tranh luận chính trị hiện nay về sự hòa điệu các thế giới quan khác nhau, trong đó có chủ nghĩa thế tục và đức tin và các quyền được ưu tiên.

 

Các thế  giới quan khác nhau

Sau đây là những lựa chọn để nhìn thế giới

1. Được sinh làm người là điều may mắn và hiếm có và là kết quả của nhân lành.

2. Thế giới là một cái bẫy của vọng tưởng; do đó, sự cứu rỗi phụ thuộc vào không chấp trước với những phẩm chất tuyến tính và đầy cảm xúc của nó.

3. Thế giới tri giác được coi là kết quả của sự phóng chiếu của ý thức của con người, và do đó giống như quân bài Rorschach.

4. Do trí tuệ của con người bị hạn chế cho nên ta không thể biết được thực tại đích thực của thế gian.

5. Thế gian là một vở hài kịch, một vở bi kịch, một bàn cờ chính trị, và nhiều thứ nữa.

6. Đây là thế giới để con người chuộc tội, đầy khó khăn và đau khổ; do đó, hãy tìm kiếm thiên đường.

7. Thế giới là cơ hội hiếm có cho quá trình tăng trưởng và tiến hóa tâm linh cao nhất bằng cách trả nợ ác nghiệp và thực hành thiện nghiệp.

8. Thế giới là những cảm giác muôn hình vạn trạng cực kỳ vô nghĩa, và bất kỳ ý nghĩa nào cũng chỉ là phóng chiếu của con người mà thôi.

9. Thế giới là sân khấu để người ta diễn vở hài kịch cực kỳ vô lý.

10. Thế giới và đời sống con người là hậu quả của sự sa ngã của Adam và Eva, họ không vâng lời và bị thái độ tò mò cám dỗ. Vì vậy, cuộc sống là sự sám hối vì tội lỗi nguyên thủ.

11. Thế giới và nhân loại là Thiên Chúa tạo ra và do đó, được Thiên Chúa soi đường và về bản chất là thánh thiện.

12. Thế giới chỉ đơn giản là sản phẩm vật lý của vũ trụ vật lý.

13. Cuộc sống và do đó, nhân loại là sản phẩm hoàn toàn ngẫu nhiên của quá trình tiến hóa sinh học theo thuyết Darwin (giản lược mang tính cơ học). Sống sót là do chọn lọc tự nhiên,  kẻ phù hợp nhất sẽ sống sót.

14. Thế giới và vũ trụ chỉ là vọng tưởng thoáng qua, được bản ngã tạo ra nhằm làm cho mình tách biệt với Thiên Chúa.

15. Đời sống của con người là sự thể hiện của Ý Chúa, qua đó Chúa Ba Ngôi hoàn thành việc hiện thực hóa tiềm năng vô biên vô tế.

16. Con người hạ xuống từ các vì sao và từ thiên đường rơi xuống.

17. Con người xuất thân từ loài khỉ.

18. Thế giới và cuộc sống trần thế là con đường tối ưu cho quá trình tiến hóa của ý thức trong hình tướng của con người, từ nguồn gốc động vật để tiến tới chứng ngộ và cứu rỗi tâm linh. Do đó, con người là từ động vật trên đường tiến tới thiên thần.

19. Thế giới và đời sống của con người chỉ là một chiều kích của tồn tại trong số rất nhiều chiều kích.

20. Thế giới đại diện cho sự hợp nhất của tuyến tính và phi tuyến tính và thực sự tồn tại bên ngoài thời gian và nhân quả.

21. Thế giới ban tặng món quà sự sống thông qua hiện hữu và tồn tại, bằng cách đó ý thức trở thành trải nghiệm được và do đó, được cụ thể hóa thành Thực tại Tối thượng từ đó phát sinh năng lực để tồn tại/nhận thức.

22. Quá trình tiến hóa tâm linh xảy ra là do đời sống con người tạo điều kiện cho những khám phá ngẫu nhiện và nhận thức của con người về Thần tính như là Cội nguồn của nó. Như vậy là, buông bỏ bản ngã/tự ngã thì sẽ thấy Thực tại tâm linh của Đại ngã, bằng cách đó Thực tại của Thiên Chúa sẽ hiển lộ và được trải nghiệm theo lối chủ quan như là Đại ngã (Thiên Chúa Hằng Hữu).

23. Tất cả bối cảnh của thế giới đều là tư duy mang tính phỏng đoán, vì cuộc đời chỉ được sống bằng trải nghiệm chủ quan.

24. Con người chỉ là một loài vượn nhân hình (hominid) đã tiến hóa cao và do đó, chỉ đơn thuần là một loài sinh vật, còn tâm linh là sản phẩm của trí tưởng tượng.

25. Con người là thảm họa đối với môi trường, và loài người càng sớm tự hủy và nhanh chóng đưa thế giới trở về với Tự nhiên thì càng tốt.

26. Nhân loại đang trên đường cong học tập về quá trình tiến hóa sinh học/xã hội.

27. “Ý nghĩa” là cấu trúc ngữ nghĩa/ngôn ngữ, mà không có thực tai cố hữu nào; do đó, bất kỳ và tất cả các tuyên bố đều có hiệu lực như nhau.

28. “Tôi phát minh ra thế giới mà tôi nhìn thấy”.

29. Cố gắng cứu thế giới là việc làm vô nghĩa, vì thế giới mà bạn nhìn thấy thậm chí không tồn tại.

30. Thế giới là một nơi thích hợp để chuộc tội và cứu rỗi.

31. Nhận thức của một người về thế giới là kết quả của tầng ý thức của người đó.

32. Thế giới loài người là bệnh viện tâm linh và đơn vị phục hồi chức năng.

Thế giới khẳng định

Thế giới của đời sống thường nhật tạo được ảnh hưởng thông qua tâm trí và các giác quan và làm cho người ta yêu hay ghét cũng như tạo ra ý nghĩa và giá trị, tất cả đều có thể được đưa vào bối cảnh khác thông qua quá trình nhận thức và phát triển tâm linh. Cuộc đấu tranh vì người khao khát tâm linh phải tách tri giác khỏi bản chất và quá trình tư duy khỏi quá trình xác nhận giá trị theo lối trải nghiệm chủ quan. Người ta nhìn thấy thế giới như là sản phẩm của quá trình xử lý bằng cảm xúc/tâm trí, kết quả là sẽ nhận được ý nghĩa trừu tượng. Như đã trình bày trong những cuốn sách xuất bản trước đây, tầm nhìn và trải nghiệm về thế giới là thể hiện tầng ý thức giữ thế thượng phong của người đó.

Cùng với việc loại bỏ tên gọi, phỏng đoán và phóng chiếu, chỉ có thể thực sự nói rằng thế giới và mọi thứ trong đó chỉ đơn giản “đang là”. Suy ngẫm sẽ thấy rõ rằng cái đang “là”, chính xác là nó “có nghĩa” là như thế, không có tính từ và tư duy mang tính miêu tả. Sự phân loại của René Descartes res externa (thế giới như nó đang là) và res interna (thế giới như người ta nhận thức được) hòa tan vào nhau thông qua quá trình, trong đó tất cả các tuyên bố đều được coi là chỉ nằm bên ngoài thực tại mà họ đang cố gắng miêu tả.

Nói một cách triệt để, thì mọi thứ chỉ đơn giản là bản sắc của nó, và tất cả các ý nghĩa hoặc mô tả mà người ta nói tới đều là những phóng chiếu và nhận thức/tư duy bên ngoài, được xếp chồng lên mà thôi. Không có các mô tả, giá trị và ý nghĩa được phóng chiếu ra thì thế giới sẽ bộc lộ Ánh sáng Thần tính như bản chất của quá trình tiến hóa/sáng tạo của nó. Sự hoàn hảo của cái Toàn thể tỏa sáng rực rỡ và vạn vật đều là sự biểu hiện hoàn hảo và viên mãn bản chất của nó là do sự tồn tại đó.

Thế giới vốn dĩ hoàn hảo về mặt tâm linh như nó đang là, và như thế, nó là điều kiện thuận lợi nhất cho quá trình phát triển ý thức của con người, vì nó cung cấp cơ hội cao nhất cho quá trình thực thi thiện nghiệp và hoàn trả ác nghiệp thông qua sức mạnh tâm linh của ý chí. Nhìn thấy như thế sẽ làm cho người ta biết ơn cũng như có thái độ nhẫn chịu trước những trải nghiệm dường như là tiêu cực, tức là đau khổ.

Lĩnh hội được và hiểu biết được thực tại cơ bản phụ thuộc hoàn toàn vào việc lĩnh hội gía trị của bản sắc như là Hiện diện và Thực tại, qua đó, vạn vật, không có chủ ngữ hay vị ngữ, chỉ là những cái mà chúng đang là. Mặc dù, nói chung những câu này nghe có vẻ thừa, nhưng bên trong chúng là sự nhận thức, nhận thức là giải thoát.

“Ý nghĩa” của bất cứ thứ gì thực ra đều là cái nó đang là, vì nó là cái gì thì ý nghĩa của nó như thế. Với nhận thức như thế, bản chất của thế giới tỏa sáng với Ánh sáng của Thần tính như sự mặc khải, và người ta nhìn thấy tất cả đều đáng yêu, hoàn hảo, hoành tráng và đẹp. Xin khẳng định lại: Thế giới như nó đang là, là hoàn hảo cho sự thăng tiến của ý thức của con người, vì nó cung cấp cơ hội cao nhất để tích thiện nhiệp và xóa bỏ ác nghiệp thông qua những lựa chọn mang tính tâm linh của ý chí. Nhìn thấy như thế sẽ làm cho người ta biết ơn cũng như nhẫn chịu trước những trải nghiệm dường như tiêu cực, tức là đau khổ.

Trở thành “tâm linh” có nghĩa là ý định tập trung vào những mục tiêu, ý nghĩa mang tính tâm linh và đưa những sự kiện và trải nghiệm của đời sống vào bối cảnh tâm linh. Cũng có nghĩa là trân trọng món quà của chính đời sống, cũng như trân trọng đời sống của các chúng sinh khác. Chính ý định tâm linh sẽ đưa toàn bộ đời sống trong mọi biểu hiện của nó vào bối cảnh khác, và bằng cách đó, ý nghĩa và tầm quan trọng sẽ trở nên rõ ràng.

Tốt/Xấu – tiến thoái lưỡng nan

Đây có thể là một rào cản khó vượt qua, theo nghĩa là, thái độ phán xét đã ăn sâu bén rễ vào tâm lý của con người đến mức dù đã cố gắng hết sức, nó vẫn xuất hiện dường như là tự động. Đối lập tốt/xấu đã khắc sâu vào tâm trí ngay từ thời thơ ấu và được củng cố trong suốt cuộc đời. Ở hình thức nguyên thủy nhất, nó chỉ đơn giản là tô màu cho cảm xúc, “muốn” và “không muốn”. Bằng cách này, cái người ta mong muốn là “tốt”, còn cái người ta “không muốn” và làm cho người ta “khó chịu” là “xấu”. Nó trở thành nền tảng cho đạo đức và chuẩn mực ứng xử, rất khác nhau ở các thành phần xã hội khác nhau và trong các nền văn hóa khác nhau. Tuy nhiên, sự phân đôi tốt-xấu là bản chất bên trong của tất cả các nền văn hóa trong mọi thời đại và thậm chí người ta còn thấy trong hành vi của bầy đàn động vật.

Phần thưởng hay hình phạt càng củng cố thêm tính nhị nguyên, rồi sau đó chúng được tiếp thu như hài lòng hay chán nản và làm cho lòng tự trọng tăng lên hay giảm đi. Phê phán hay dạy đời là bản chất của xã hội loài người, và cũng như đã nói trong các tác phẩm trước, những công trình nghiên cứu gần đây đã phát hiện được khả năng là nó đã được cài đặt sẵn trong cấu trúc của thần kinh và sinh lý học của chính não bộ của con người (Gazzaniga, 2005; Ackerman, 2006).

Các dạng sống nguyên thủy nhất còn tồn tại hoặc không thể tồn tại là do có hay không có những nguồn năng lượng cần thiết ở bên ngoài; do đó, sự phân đôi giữa đúng với sai, thành công với thất bại, tốt với xấu và ăn được với không ăn được là đặc hữu của hình thức sống hữu cơ. Hành vi nhóm trong vương quốc động vật gần như giống hệt hành vi của con người, thậm chí ở cả tầng tranh giành quyền lực giữa các quốc gia để tồn tại, bành trướng lãnh thổ và thống trị (bá quyền).

Siêu việt sự phân đôi “tốt/xấu” mang tính phê phán làm ta khó chịu thực ra rất đơn giản: nhận ra rằng mọi thứ và mọi người đều là cái mà họ đang là, đơn giản chỉ là bản sắc của họ mà thôi. Tương tự như thế, người đó chỉ có thể là người mà họ đã trở thành và bất kỳ lúc nào họ cũng là con người mà họ đang là. Phân loại về mặt đạo đức chỉ có thể là giả định dựa trên quan điểm mang tính giả thuyết “đã có thể là”. Nếu như người ra thực sự “đã có thể” là người khác, thì họ đã là người khác rồi. Giả thuyết bao giờ cũng không có giá trị, vì nó là tưởng tượng lý tưởng hóa được người ta phóng chiếu ra bên ngoài, mà không có thực tại căn bản nào; do đó nó luôn luôn có điểm hiệu chỉnh là sai.

Các tùy chọn sẵn có phụ thuộc vào phạm vi của những khả năng giữ thế thượng phong, bằng chứng là nhận xét buồn bã: “Giá như lúc đó tôi đã biết những thứ tôi biết vào lúc này”. Rõ ràng là ở độ tuổi khác nhau hoặc trong các điều kiện khác nhau, bên trong hoặc bên ngoài, người ta có thể lựa chọn khác đi.

Nhận thức như thế cũng làm giảm bớt mặc cảm tội lỗi và tự lên án chính mình, vì con người lúc này không phải là con người trong thời điểm mắc sai lầm. Tuy nhiên, sự kiện đó không nhất thiết xóa bỏ trách nhiệm hay hậu quả của nghiệp lực, nhưng nó tạo được ảnh hưởng và làm cho tội lỗi giảm đi. Tin rằng người khác “nên” chấp nhận và sống theo những tiêu chuẩn, đạo đức và quy tắc ứng xử cũng như cách giải thích hiện thực của mình là không thực tế cũng như cuối cùng sẽ làm cho mình cảm thấy khó chịu. Thói răn dạy đạo đức mà người ta phóng chiếu ra ngoài luôn được thể hiện là “nên” và thường dẫn đến sự oán hận, căm ghét, hận thù hay thậm chí là trả thù và tất nhiên là chiến tranh (ví dụ, quan điểm ngây thơ của người Mỹ rằng tất cả các quốc gia khác “nên” trở thành chế độ dân chủ). Bằng cách lựa chọn, người ta có thể từ bỏ thói quen phán xét. Kết quả sẽ là sự bình an ở bên trong.

Trong quan hệ và nền chính trị quốc tế, người ta thường lờ đi sự kiện là thế giới quan của người này hoàn toàn khác với thế giới quan của người khác. Tâm từ bi nảy sinh từ việc chấp nhận giới hạn của con người và thấy rằng mọi người đều là tù nhân của chính thế giới quan của họ. Khi không còn chấp trước, thì cũng không còn áp lực phải tìm cách thay đổi thế giới hoặc thay đổi đời sống của những người có quan điểm khác với mình hoặc không đồng ý với họ để chứng tỏ rằng họ sai. Một người bạn đã tiến hóa, đồng thời cũng là một người thông thái và thông minh, cách đây nhiều năm đã nói: “Thật nhẹ nhõm khi nhận ra rằng tôi không cần phải có ý kiến về tất cả mọi vấn đề” (Richmond, 1979).

Chấp nhận/Hài hước

Muốn siêu việt thế gian thì cần có tâm từ bi và chấp nhận. Đây là kết quả của sự khiêm tốn ở bên trong, bằng cách đó người ta phó thác thế giới cho Thiên Chúa, tâm trí ngày càng bình an hơn. Một trong những những công cụ tâm linh có giá trị nhất mà trước đây người ta rất ít nói tới, đấy là giá trị to lớn của hài hước. Hài kịch là hậu quả của tâm từ bi: so sánh giữa tri giác và bản chất, và biện phải giải quyết là kết quả của việc chấp nhận những thứ mơ hồ.

Hài hước hoàn toàn khác với chế giễu hay ác ý, nó là từ bi, theo nghĩa là, chấp nhận những giới hạn và nhược điểm của con người, coi đó là bản chất. Do đó, nó giúp cho quan điểm “sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian” và thể hiện rằng, người ta sống sót tương tự như cây sậy uốn theo chiều gió, chứ không bị gẫy như cây sồi cứng nhắc.

Tiếng cười nhẹ nhõm thể hiện niềm vui vì đã giải quyết được xung đột và khả năng cười nhạo chính mình là cực kỳ quan trọng, thúc đẩy thái độ tự trọng tích cực. Phản ứng lại mọi thứ như thể đấy là sự kiện rất quan trọng lại là kết quả thái độ phù phiếm của cốt lõi ái kỷ của bản ngã (ví dụ, “nhạy cảm” hoặc “bị xúc phạm”). Hài hước đưa những trải nghiệm và sự kiện vào bối cảnh mới và do đó, tạo điều kiện cho niềm vui mà không cần thái độ phán xét theo lối đạo đức. Hài hước tiến hóa như thái độ chấp nhận mang tính triết học và có tác dụng chữa lành. Nhờ đó mà đau khổ, mâu thuẫn, cảm xúc tiêu cực giảm đi.

Cuộc sống là hằng hà sa số những mơ hồ, nếu không có thái độ hài hước thì không thể giải quyết được những mơ hồ này. Nếu sử dụng một cách thận trọng, hài hước thông qua chấp nhận sẽ dẫn đến an bình và khả năng thích ứng tăng lên chứ không phải là oán hận đầy thất vọng hoặc tư tưởng chủ bại. Bằng thái độ hài hước, chúng ta “vượt lên trên” hoàn cảnh mà vẫn giữ được phẩm giá ở bên trong chứ không còn xấu hổ, tức giận, oán hận hoặc làm giảm lòng tự trọng. Hài hước cũng tạo điều kiện thuận lợi trí huệ, theo nghĩa là, nó đưa những điểm yếu của con người vào bối cảnh mới, coi đó là bản chất của chính thân phận của con người và do đó, không còn mang tính cá nhân nữa.

Diễn viên hài Jack Benny đóng vai một nhân vật nổi tiếng keo kiệt và hà tiện. Một tên cướp chặn đường ông ta và nói, “Đưa tiền đây không tao bắn chết”. Benny do dự và sau đó chậm rãi, nhưng nói một cách có chủ ý và chu đáo: “Chà, không gấp như thế chứ”. Tất nhiên, bằng cách nói như thế, ông làm cho chúng ta cười, vì con người quá thiên về vật chất, con người không ngừng hy sinh mạng sống, niềm vui và hưởng thụ chỉ để kiếm được nhiều tiền.

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là sự hài hước mỉa mai, rút ra từ sự mơ hồ của ngay cả những trải nghiệm khủng khiếp nhất của con người và tạo điều kiện cho chúng ta thoát ta khỏi những trải nghiệm này và do đó, giảm bớt được đau đớn. Do đó, hài hước giúp cho quá trình siêu việt và giải thoát khỏi những ràng chấp trước nơi thế gian và những ham muốn đầy vọng tưởng.

Hài hước là biểu hiện của tự do và niềm vui, còn tiếng cười thì có tác dụng chữa lành về mặt sinh học. Trong khi trên Thang đo Ý thức, mặc cảm tội lỗi và sám hối theo kiểu “mặc áo tang và rắc tro lên đầu”, mà những thế kỷ trước thường coi trọng, có điểm hiệu chỉnh khá thấp. Chúa nằm ở trên cùng của Thang đó, chứ không phải ở dưới đáy. Đức tin, tình yêu và niềm vui là con đường cao tốc; chết và u ám chỉ dẫn đến buồn bã và tuyệt vọng. Căm ghét chính mình làm đui mù nhận thức về Đại ngã như một phản ánh của Sáng tạo Thần thánh

1 comment:

  1. Cảm ơn bác đã post bài mới liên tục hai ngày cuối tuần, sáng CN cháu vào bấm liên tục refresh bài mới mà chưa thấy, cháu đang nghĩ có thể bác sẽ dành post vào đầu tuần, thì chiều bác thông báo bài mới trên facebook rồi, cháu rất mừng ạ.

    ReplyDelete