Reality, Spirituality and Modern Man)
David Hawkins, M. D., Ph. D.
Phạm Nguyên Trường dịch
CHƯƠNG 15
Trờ thành người cầu
nguyện: Chiêm nghiệm và Thiền định
Dẫn nhập
Nhiệm vụ mà người tìm
kiếm tâm linh, người sùng đạo hoặc đệ tử tâm linh phải giải quyết là làm sao hiện
thực hóa thông tin tâm linh mang tính khái niệm thành hiện thực khách quan, có
thể trải nghiệm được. Do đó xuất hiện nhu cầu áp dụng các kỹ thuật và thực
hành, để tiến hóa từng bước một thành một quá trình, nhờ đó tiềm năng trở thành
thực tế. Bên cạnh việc cầu nguyện sùng kính và có nguồn tài liệu nói về sự thật
đã được chứng thực, còn có con đường lớn, cơ bản, được kính trọng vì đã có từ
lâu, đấy là thiền định và chiêm nghiệm, ý định và tận tâm càng làm cho hiệu quả
của nó gia tăng.
Chiêm nghiệm
Suy ngẫm một cách bình
tĩnh và hướng nội tìm tạo điều kiện cho thông tin được tích hợp, liên kết với
nhau và được đưa vào bối cảnh mới. Như vậy là, khi chiêm nghiệm người ta cảm thấy
thoải mái hơn, cởi mở hơn, tự phát hơn và có tính trực giác hơn là những hoạt động
hướng tới mục tiêu. Chiêm nghiệm tạo điều kiện để kết luận và nguyên tắc chung được
hình thành một cách tự phát, vì nó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phân
biệt bản chất chứ không phải là tìm cho ra những đặc điểm của logic tuyến tính.
Lợi ích của nhận thức theo lối chiêm nghiệm là sự bộc lộ ý nghĩa và tầm quan trọng.
Trong khi thiền thường
liên quan đến việc rút khỏi thế gian và các hoạt động của nó, thì chiêm nghiệm
chỉ đơn giản là liên quan đến cả những trải nghiệm bên trong và bên ngoài của đời
sống, cho phép người ta tham gia nhưng không dính líu. Làm việc có chủ đích tập
trung vào kết quả, trong khi chiêm nghiệm liên quan đến việc bộc lộ phi nỗ lực.
Có thể nói tư duy có mục đích có tính chất khá “dương”, trong khi chiêm nghiệm là
rất “âm”. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phó thác và buông bỏ những
thứ hấp dẫn, ác cảm và mọi hình thức mong muốn hoặc nhu cầu.
Chiêm nghiệm có tính chất
mời gọi tới nhận thức về ý nghĩa và mức độ trừu tượng ngày càng gia tăng. Suy
nghĩ là tuyến tính; hiểu biết là bối cảnh và phi tuyến tính. Mở rộng bối cảnh gia
tăng tầm quan trọng, giá trị và ý nghĩa của suy nghĩ; do đó, chiêm nghiệm có xu
hướng mời gọi ảnh hưởng của Đại ngã để làm lu mờ hoạt động của tự ngã.
Trong khi mục tiêu của bản
ngã/tâm trí chủ yếu là làm, hành động, đạt được, hoặc thực hiện, thì ý định của
chiêm nghiệm là “trở thành”. Trong khi trí tuệ muốn biết “về”, chiêm nghiệm tìm
kiếm chính Hiểu biết và trí huệ. Tư duy duy lý có liên quan đến thời gian, tuần
tự và tuyến tính, trong khi chiệm nghiệm xảy ra bên ngoài thời gian, không theo
lối tuần tự. Nó là phi tuyến tính và liên quan đến hiểu biết về bản chất. Chiêm
nghiệm sùng kính là con đường hoặc phong cách hiện hữu trong thế gian, và bằng
cách đó đời sống của một người trở thành lời cầu nguyện.
Cùng với việc tu tâm, có
hai quá trình bắt đầu đồng thời xảy ra. Một phần của tâm trí có thể quan tâm đến
xử lý những cơn tức giận hay oán hận, đồng thời, phần kia của tâm trí có thể
đang tìm kiếm giải pháp tâm linh, sao cho bằng cách đưa vào bối cảnh mới, bằng
cách siêu việt, xung đột sẽ được giải quyết. Quá trình bên trong giống như một
đứa trẻ có cha mẹ - linh hồn là cha mẹ còn bản ngã là con. Bản ngã/tự ngã trẻ con
là phản ứng và tập trung vào những lợi ích ngắn hạn, trong khi Đại ngã tâm linh
của cha mẹ khôn ngoan lại quan tâm đến quá trình tiến hóa và những hậu quả
trong dài hạn. Trong khi bản ngã thích chìm đắm trong cảm xúc, thì Linh hồn tìm
cách siêu việt cảm xúc bằng cách đưa vào bối cảnh mới. Như vậy là, tu tâm quan
tâm nhiều hơn đến việc thay thế cảm xúc dựa trên bản năng bằng hiểu biết tâm
linh.
Trải nghiệm bên trong về
quá trình siêu việt là hệ quả của việc chuyển từ tầng ý thức thấp lên tầng ý thức
cao hơn, ban đầu có thể cần phải nỗ lực và xử lý, nhưng cuối cùng, nó trở thành
quen thuộc và là thói quen, vì sẵn sàng, tận tâm, khiêm tốn và dâng hiến cho Sự
thật sẽ giúp đỡ, mà tình yêu là mục tiêu quan trọng nhất. Cùng với thời gian,
những cách trải nghiệm thế giới theo lối cũ biến mất, những cảm giác và tri
giác tiêu cực sẽ tan rã. Nhìn mọi thứ khác đi tự nó đã là phần thưởng và thường
dẫn đến cảm giác như thể mình đã được tái sinh.
Hòa điệu đời sống của mình
với ý định tâm linh sẽ mở rộng ý nghĩa và tầm quan trọng. Trong khi tuổi thọ của
bản ngã/cơ thể/tâm trí là hữu hạn và vô thường, thì đời sống của linh hồn là vĩnh
cửu, và do đó, tầm quan trọng của nó làm lu mờ những lợi ích nhất thời, chỉ là
thỏa mãn của bản ngã mà thôi. Vì vậy, cái nhỏ hơn phải quy thuận cái lớn hơn bằng
cách hòa điệu, cam kết và thỏa thuận. Vì nó được lựa chọn một cách tự do chứ
không bị áp đặt, cho nên sức chống cự sẽ gảm bớt phần nào.
Tiến bộ tâm linh cũng
là khám phá, nó mang về phần thưởng lớn hơn là những phần thưởng do những động
lực và mục đích nhỏ hơn mang lại cho người ta. Đời sống bình thường vẫn vui vẻ
như thường lệ, nhưng niềm vui này hòa điệu hơn với việc viên mãn những tiềm
năng chứ không phải là những cảm xúc chóng qua. Niềm vui và sự hài lòng độc đáo
ở bên trong, đấy là hoàn thành sự phát triển tiềm tàng và mở rộng nhận thức về vai
trò quan trọng của đời sống đích thực của người đó. Nó cũng làm cho người ta
hài lòng khi khám phá ra rằng không cần phải đẩy mình về phía trước, mà thay
vào đó, người ta có thể đơn giản là cho phép mình tiến về phía trước khi những rào
cản đã được loại bỏ. Vì vậy, người ta được tương lai kéo đi, chứ không phải bị
quá khứ lôi lại.
Nhận thức có xu hướng ngày
càng lan tỏa hơn, bao trùm hơn, dung hợp hơn, và thâm nhập khắp nơi, đấy là hệ
quả việc tự ngã dần dần tan vào Đại ngã. Tin vào quan hệ nhân quả biến mất,
thay vào đó là nhìn thấy tiềm năng biến thành hiện thực, như là quá trình mở ra
của tính liên tục của Tạo hóa. Khái niệm “tôi” cá nhân thu nhỏ dần thành “mọi
thứ” dung hợp tất cả, tự phát của toàn thể của sự hài hòa cố kết với nhau, qua
đó cái dường như là bất khả phân (tự ngã) hòa tan vào cái toàn thể của Đại ngã.
Bên dưới chuỗi trải
nghiệm phi thường của ý thức bình thường, người đó phát hiện được sự tĩnh lặng ban
sơ, sự an bình và im lặng không thể bị xáo trộn. Người đó sẽ thấy mọi hiện tượng
đều là những bước quá độ của tiềm năng đang trở thành hiện thực, nó diễn ra một
cách tự động như là một bô phim quay chậm. Quá trình vừa cực kỳ nhẹ nhàng vừa vô
cùng mạnh mẽ như là biểu hiện của chính vũ trụ. Người đó di chuyển từ trạng
thái trọn vẹn này tới trạng thái trọn vẹn khác, như là thực tại lan tràn khắp
nơi.
Nhận thức chủ quan về bản
chất của việc đời sống và vũ trụ được đưa vào bối cảnh mới đang nổi lên cũng
phù hợp với những khám phá mới nhất của cơ học lượng tử và vật lý lý thuyết cao
cấp. Hiện nay người ta đã xác nhận được theo lối khoa học những tuyên bố được trình
bày trong các công trình trước đây (Hawkins, 1995-2006), nói rằng thời gian, địa
điểm và không gian là những phóng chiếu của ý thức và không hề có thực tại bên
trong. (Được Harokopos khẳng định trong bài báo “Power As a Cause of Motion”;
Lynds khẳng định trong bài “Time and Quantum Mechanics”; và những bài viết của
Stapp trong tác phẩm Mindful Universe).
Nhận thức mở rộng về bản
chất của thực tại xuất phát từ vật lý cao cấp và cơ học lượng tử tương quan với
những nhận thức chủ quan của các nhà huyền môn (Hawkins, 2003, 2006; Grace,
2007). Mô hình mở rộng về thực tại xóa bỏ mọi vọng tưởng về sự khác biệt giữa đức
tin và lý trí. Mặc khải thiêng liêng cung cấp cho chúng ta giải thích từ trên
xuống về Sáng tạo, trong khi đó, có thể so sánh lý thuyết khoa học với cách giải
thích từ dưới lên – giải thích vũ trụ theo lối tuyến tính hơn.
Nhận thức sau chót nói
rằng tất cả đều hoàn hảo, đấy là kết quả của việc tiềm năng trở thành hiện thực
bên ngoài thời gian, như là biểu hiện của Sáng tạo. Cội nguồn và tiềm năng tối
thượng được gọi là “Chúa Ba Ngôi”, Thần
tính của Nó được thể hiện qua sự xuất hiện của toàn thể của Sáng tạo phi thời
gian và sự phát triển mang tính tiến hóa của nó. Khi tư duy khái niệm cùng với xu
hướng phân loại và giải thích cùa nó biến mất, Toàn thể, Nhất thể, Hài hòa và Toàn
thể của Thực tại Thiêng liêng tỏa sáng hiện ra trong vẻ đẹp huy hoàng và tinh tế
vốn có và bẩm sinh cho mọi Sáng tạo. Như vậy là, bên trong cái dường như là hình
tướng lại là Cội nguồn của nó, là vô hình tướng. Phức tạp không còn, thì đơn giản
sẽ tự bộc lộ, vì mọi thứ đều đơn giản là sự thể hiện hoàn hảo bản chất của nó,
nghĩa là, chỉ là cái đang là chứ không phải là cái mà nó được người ta mô tả
hay cảm nhận; mô tả hay cảm nhận không phải là bản chất thực sự của Tồn tại.
Thiền
định
Là chủ đề nghiên cứu, hiện
có rất nhiều thông tin sẵn có về thiền định và có thể được soạn thảo công phu cũng
như bao gồm những màu mè hoa lá được thiết chế hóa và chẳng có liên quan gì tới
thiền định.
Tuy nhiên, thiền là
phương pháp đã có từ lâu, giúp người tu hành tiếp cận với sự thật tâm linh
thông qua mặc khải chủ quan, bằng cách trải nghiệm. Cũng có thể xảy ra những bước
nhảy vọt trong nhận thức và siêu việt một cách nhanh chóng các tầng ý thức.
Như mọi người đều biết,
có rất nhiều kỹ thuật đặc thù được phát triển trong suốt nhiều thế kỷ, trong
các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau. Ngoài ra, còn có nhiều công trình nghiên
cứu khoa học về quá trình thay đổi sinh lý não và chụp ảnh từ, cùng với nghiên
cứu điện não đồ các tần số sóng não. Nói chung, những công trình này cho thấy tần
số sóng và biên độ đều giảm và xuất hiện sóng theta chậm, thay thế cho sóng
beta cũng như sóng alpha nhanh.
Kỹ thuật thiền có thể
bao gồm kỷ luật và phong cách được quy định rõ ràng, chẳng hạn như Zen và nhiều
môn yoga, trong đó có tưởng tượng ra hình ảnh, điều tức và tư thế, tất cả đều
được thiết kế nhằm hỗ trợ dòng chảy của năng lượng tâm linh kundalini chảy qua
hệ thống luân xa. Những cách tu tập này có thể mang lại những lợi ích to lớn,
nhưng tầng hiệu chỉnh của ý thức cũng phải tăng lên theo. Như vậy là, trải nghiệm
ngộ (satori) có thể là đỉnh điểm
thoáng qua và biến mất khi người ta trở lại đời sống thường nhật.
Từ quan điểm của chính
ý thức, đây là quá trình chuyển từ ý thức về tự ngã ra khỏi tư duy tuyến tính
và chức năng cảm xúc sang ý thức ngày càng bao trùm hơn, mang tính bối cảnh hơn
và vượt ra bên ngoài những hấp dẫn của ý nghĩ, hình ảnh và cảm xúc. Người ta
tìm kiếm nhận thức và nhận dạng chủ quan cùng với trường bối cảnh phi tuyến của
chính ý thức, đó là Ánh sáng của Nhận thức và chất nền, từ đó xuất hiện tồn tại
và hiện hữu (mời đọc I: Reality and
Subjectivity).
Một trong những lợi ích
của thiền là khám phá ra rằng, về bản chất, trường năng lượng của tâm trí về cơ
bản là không có những ý nghĩ, cảm xúc và hình ảnh, và những hoạt động này thực
sự chỉ chiếm khoảng 1% toàn bộ trường tâm trí. Tương tự như mặt biển bên dưới
những con sóng, 99% tâm trí là tĩnh lặng, im lặng và trống rỗng, nếu nói cho
các đện tử biết thì họ có thể phát hiện và trực giác được sự kiện này. Tâm trí chưa
được đưa vào kỷ luật bị cuốn theo và lôi kéo vào nội dung của tâm trí, với những
cuộc diễu hành muôn hình vạn trạng của những suy nghĩ, hình ảnh và cảm xúc của
nó, vì những phần thưởng theo lối ái kỷ mà những hoạt động này mang lại. Muốn
tâm trí tĩnh lặng, thì cần phải chú ý đến
những phần thưởng liên tục và tinh tế, sẵn sàng buông bỏ những lợi ích đầy vọng
tưởng này, và thay vào đó, đồng nhất với tâm trí như là trường năng lượng im lặng
không bị hạn cuộc vào tự ngã cá nhân. Nên nhớ
rằng, bản ngã nghiện tư duy và khao khát những trò giải trí không ngừng
nghỉ và kích thích liên tục, ngay cả khi nó là tiêu cực.
Ngay khi “tôi” (I) vật
lý, tương tự như một chiếc máy ảnh, ghi lại hình ảnh và đối tượng, tâm trí là “tôi”
của tự ngã liền duy trì vọng tưởng về một bản sắc cá nhân độc đáo, riêng biệt,
và tự ngã sẽ được coi là người nghĩ, người có ý định, có mong muốn, v.v. Cùng với
việc từ bỏ vọng tưởng ái kỷ này, người ta sẽ thấy rõ ràng rằng, tất cả các khía
cạnh của đời sống cá nhân mà người ta tưởng là thực lại là những sự kiện diễn
ra một cách tự chủ và tự phát.
Sau những bước tiến lớn,
người đó có thể cảm thấy sợ chết hoặc sợ biến mất vào “hư vô”. Nó là phản kháng
và cuộc chiến đấu của cốt lõi ái kỷ của bản ngã, đang tìm cách duy trì chủ quyền.
Vì nó là sợ hãi, tương tự như những sợ hãi khác, đều được xây dựng trên vọng tưởng,
có thể phó thác cho Thiên Chúa, đấy là cách xóa bỏ những rào cản để nhận thức được
Đại ngã như là Hiện diện của Thiên Chúa Hằng Hữu.
Hội nhập
Thiền định và chiêm nghiệm
không tách rời cũng không phải là những phải hoạt động riêng biệt, mà thay vào
đó, chỉ vì tiện lợi mà tách ra, như thể đây là những đề tài nghiên cứu khác
nhau. Trên thực tế, chúng hòa nhập vào nhau và phát triển thành phong cách nhận
thức-ý thức và sẽ trở thành thói quen. Trong cả thiền định và chiêm nghiệm người
ta thường nhấn mạnh vào bối cảnh phi ngôn ngữ, mang tính chủ quan, phi tuyến
tính, từ đó xuất hiện nhận thức về chính Nhận thức như là trường bối cảnh của ý
thức. Chuyển từ nội dung của nhận thức tâm trí sang nhận thức được rằng chứng
kiến và quan sát là những hiện tượng tự trị, tự xảy ra là công việc tương đối
đơn giản.
Như lịch sử đã dạy,
nghiên cứu ý thức cũng xác nhận rằng, trường năng lượng tần số cao của hào
quang của sư phụ giúp đỡ thêm cho tiến bộ tâm linh, cho thực hành thiền định và
chiêm nghiệm. Có thể đọc các trước tác của sư phụ, tưởng tượng hình ảnh của sư
phụ, và mạnh mẽ nhất là có mặt trực tiếp trong vòng hào quang của sư phụ. Sau
đó tần số năng lượng này sẽ liên kết vĩnh viễn vào trường hào quang tâm linh của
đệ tử và tiếp tục tái sinh trong những giai đoạn rất dài. Mục đích là sự mở ra thầm
lặng của Cái Biết, cực kỳ quan trọng trong các trạng thái ý thức đã tiến hóa.
Những trạng thái này là phi khái niệm và phi tuyến tính.
Ở trạng thái ý thức rất
cao, sẽ không còn trí nhớ hay tư duy. Từ tình trạng dường như Hư vô tĩnh lặng xuất
hiện Cái Biết, tạo điều kiện cho việc buông bỏ những tàn dư cuối cùng của bản
ngã/tự ngã. Sau đó, “trạng thái” hoặc “điều kiện” sẽ giữ thế thượng phong, chứ
không còn nhân cách hay bản sắc riêng biệt nữa.
Tóm tắt
Nhờ hòa điệu tâm linh,
ý định và dâng hiến lại được thiền định, chiêm nghiệm, hướng dẫn đúng đắn, và sự
thật, cùng với trường năng lượng của sư phụ giúp đỡ, có thể bất ngờ xuất hiện những
bước nhảy vọt lớn trong ý thức. Do đó, quan trọng là phải biết trước những bước
này, như nghiên cứu về ý thức đã khẳng định. Hiện nay cơ hội trở thành chứng ngộ
lớn hơn cả ngàn lần so với bất kỳ giai đoạn nào khác trong quá khứ; do đó, vươn
lên tầng Tình yêu Vô Điều Kiện (điểm hiệu chỉnh 540) là mục tiêu rất thực tế và
có thể đạt được. Từ tầng Tình yêu Vô Điều Kiện con đường tu tập sẽ ngày càng
vui hơn. Tầng 600 sẽ là sự tĩnh lặng và an bình vô biên vô tế, và sau đó tiến bộ
sẽ phụ thuộc vào Ý Chúa, nghiệp và Cái Biết tiềm tàng hình thành trong vòng hào
quang tâm linh.
Vương quốc của tĩnh lặng
Bản ngã/tâm trí tập
trung vào nội dung tuyến tính của tâm trí và quá trình xử lý bất tận những hình
ảnh, ý nghĩ, ký ức và cảm xúc. Nó bị cái mới lạ cuốn hút cũng như tìm cách làm giảm
lo lắng bằng cách giải quyết và chuẩn bị trước cách giải quyết các vấn đề. Cảm xúc
tiêu cực, ví dụ như đau buồn vì mất mát hay mặc cảm tội lỗi và hối tiếc về những
sai lầm và nhầm lẫn, có thể giữ thế thượng phong. Thường thì ý chí dường như bất
lực và người đó cảm thấy như thể mình là nạn nhân của những dày vò bất tận của
tâm trí. Muốn làm gián đoạn những câu chuyện lan man bất tận của tâm trí, cần
phải tìm cho ra động cơ ẩn dấu của nó và buông bỏ những lợi ích hão huyền mà nó
mang lại. Như vậy là, buông bỏ chứ không kháng cự có thể làm giảm đi sự kiểm
soát dường như là của tâm trí.
Bản ngã say mê quá
trình tư duy tuần tự của chính nó, mặc cho những phản đối là phải làm ngược lại.
Nó cảm thấy hài lòng khi xử lý những suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực. Nó yêu và
thích lòng thù hận, nó mang lại lợi, ví dụ như “ghét” những người nổi tiếng. Cần
phải từ bỏ và buông bỏ sự hài lòng và lợi ích bí mật này. Tất cả những cảm xúc
tiêu cực vẫn tồn tại dai dẳng, vì chúng có những khoản tưởng thưởng bí mật. Khi
những khoản tưởng thưởng này giảm đi, các ý nghĩ cũng giảm dần rồi biến mất.
Lúc đó tâm trí có xu hướng “trở thành trống rỗng”, nó lại làm người ta sợ cảnh buồn
chán.
Bằng quan sát, có thể
thấy rõ rằng tâm trí bận rộn dự đoán tương lai (sợ hãi), hoặc bám víu vào quá
khứ (hối tiếc, hận thù, tội lỗi), hoặc tận hưởng quá khứ để tìm kiếm niềm vui bằng
cách tái hiện lại những câu chuyện/sự kiện trong quá khứ. Như vậy là, tâm trí
trở thành tâm điểm của trò giải trí, như thể “đang làm” gì đó.
Mặc dù người ta thường
tin rằng có có thể thấy được im lặng “giữa” các ý nghĩ, những bằng cách thực
hành sẽ phát hiện được rằng, đây thực sự không phải là sự kiện có thể trải nghiệm
được. Ý nghĩ xảy ra trong 1/10.000 giây, nhanh hơn chức năng tâm trí của “người
nhận thức”. Như vậy là, khi tâm trí nhận thức được ý nghĩ bắt đầu, thì nó đã xử
lý rồi. Trước chức năng của người nhận thức/bộ xử lý là chức năng của người
quan sát/nhân chứng, mà chức năng này là tự chủ, là chức năng/khía cạnh bẩm
sinh, phi cá nhân của trường ý thức. Người quan sát/nhân chứng không suy nghĩ,
chính ý thức cũng không suy nghĩ (chỉ có tâm trí “suy nghĩ”). Khả năng nhận biết
của ý thức thuần khiết là trạng thái ban sơ thầm lặng luôn luôn có đó, không có
ý chí và không bàn cãi.
Bằng chiêm nghiệm/thiền
định, người ta sẽ phát hiện được rằng trạng thái im lặng, vô hình tướng là chất
nền nguyên thủy vượt ra ngoài tính nhị nguyên của tồn tại và không tồn tại. Đó
là trạng thái của Phật, tương tự như không gian, không bị ô nhiễm bởi nội dung vô
thường chóng qua. Sự im lặng thuần khiết, vô hình tướng là Bối cảnh Tối thượng
và nằm ngoài tất cả tên gọi, mặc dù trước đây, đôi khi được gọi là “Phật tánh”.
Mặc dù phi hình tướng, trạng thái tối thượng bao gồm tất cả, vì Toàn thể trái
ngược với Hư vô của Không (điểm hiệu chỉnh 850). Sự kiện này được thảo luận một
cách chi tiết trong hai tác phẩm Transcending the Levels of Consciousness và
Discovery of the Presence of God.
No comments:
Post a Comment