October 1, 2025

Cứu thế gian hay siêu xuất khỏi thế gian?

 


Cứu thế gian là vọng tưởng, siêu xuất mới là thật 

Không có thế gian nào khác để đem thế gian này tới. Đây chính là thế gian của con người, và nó phù hợp với con người. Không có thế gian thứ hai. Người tu tập tâm linh nhận ra rằng chính thế gian này, với đủ mọi cung bậc của thất tình lục dục và khổ đau, lại là ngôi trường tuyệt vời nhất cho việc tu tâm dưỡng tính. 

Có người sẽ hỏi: nếu không cứu được cả thế gian, vậy cứu một dân tộc thì sao? Giả sử có người nói muốn cứu dân tộc Việt Nam, đưa họ trở thành dân tộc Thụy Sĩ. Nhưng nếu cả dân tộc Việt Nam được đưa đến Thụy Sĩ, thì vùng đất ấy sẽ biến thành Việt Nam, chứ không còn là Thụy Sĩ nữa. Chỉ khi đưa một số ít người sang, họ mới có thể dần đồng hoá với người Thụy Sĩ. Nhưng đưa cả dân tộc thì là điều bất khả. Nói rộng ra, nếu có một vũ trụ nào đó hay một tinh cầu nào đó để có thể đưa cả loài người tới thì họ cũng sẽ biến vũ trụ đó hay tinh cầu đó thành vũ trụ như trái đất này mà thôi. 

Mọi nỗ lực “cải tạo thế gian” đều lặp lại nghịch lý này. Chính vì vậy, các bậc giác ngộ chưa từng nói đến việc cứu cả thế gian. Các Ngài chỉ hứa cứu những ai thật sự muốn được cứu, và muốn bước lên con đường siêu xuất mà thôi.

Cứu thế gian có khác gì bước vào một khu rừng nguyên sinh rồi cố làm cho tất cả cây cong trở thành thẳng? Hay như đến đồng cỏ Serengeti ở Tanzania và ra lệnh cho sư tử, báo đốm đừng ăn thịt linh dương và ngựa vằn? Thế gian loài người cũng có khác gì cánh rừng nguyên sinh hay đồng cỏ châu Phi? 

Loài người vốn là cõi mê. Trong lịch sử, thời nào cũng có những bậc đại thiện, như Đức Phật, Chúa Giê-su, Mahatma Gandhi, Mẹ Teresa… Nhưng song song với đó, thời nào cũng có những kẻ đại ác như Nero, Ivan Bạo Chúa, Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot, Putin… Đa số dân chúng thì chìm trong vô minh, không phân biệt được thật giả, nên dễ bị lôi kéo vào vòng xoáy của những kẻ đại ác, để rồi hết lần này đến lần khác lao vào xung đột, giết chóc, chiến tranh. 

Cái đẹp có cứu được thế gian không?

Có người nói: cái đẹp sẽ cứu thế giới. Nhưng thế nào là đẹp? Không có một tiêu chuẩn duy nhất. Cây thông mọc thẳng hiên ngang giữa trời là đẹp. Nhưng cây thông cong cũng là đẹp, khi được trang hoàng thành cây Noel. Ngay cả khi người ta tạm đồng thuận một chuẩn mực, ví như cùng nhau thưởng ngoạn tranh, tượng trong viện bảo tàng Louvre, thì vừa bước ra khỏi cánh cửa ấy, mâu thuẫn quyền lợi cũng đủ khiến họ tranh cãi, thậm chí giết hại lẫn nhau. 

Tình yêu có cứu được thế gian không?

Người khác lại nói: tình yêu sẽ cứu thế giới. Nhưng tình yêu của Mẹ Teresa hay của Mahatma Gandhi có thể bị một số chiến binh cực đoan coi là uỷ mị, đáng khinh, là tình yêu “phi giai cấp” và có thể giết họ vì coi họ là trở ngại của con “đường cách mạng” mà mình theo đuổi. Và ngay cả khi nhân loại cùng đồng thuận tôn vinh Mẹ Teresa hay Gandhi như biểu tượng của tình yêu, thì chỉ một xung đột quyền lợi nhỏ bé thôi cũng đủ làm bùng phát hận thù và bạo lực. Nhưng đấy chính là nhân loại, nếu không có ác thì làm sao ta nhận diện được thiện, không có ma thì làm sao ta nhận ra Phật, không có những kẻ đại ác thì làm sao ta nhận ra người Đại Thiện?. Rõ ràng, tình yêu – như con người thường hiểu – không thể cứu thế gian. 

Cái đẹp cũng như tình yêu đều không thể nào cứu được thế giới. Đấy chỉ là những tu từ, nghe có vẻ hay, có vẻ rất trí thức và triết lý, nhưng là những cụm từ không có nội hàm, giá trị là bằng không. 

Ngay cả các bậc giác ngộ cũng không hứa cứu thế gian

Thậm chí ngay cả Đức Phật hay Chúa Giê-su cũng chưa bao giờ hứa cứu cả thế giới. Các Ngài chỉ hứa cứu những ai thực sự muốn được cứu, và dám sống theo giáo lý giải thoát của các Ngài. Cứu thế gian là một ảo tưởng; siêu xuất khỏi thế gian mới là con đường chân thật. 

Những người siêu xuất và sức mạnh ảnh hưởng

Điều đáng kinh ngạc là: những người siêu xuất khỏi thế gian, những người không màng danh lợi trên thế gian; những người tự tuyên bố là “sống trong thế gian nhưng không để thế gian sống trong mình” hay “mặc thế giới như mặc một manh áo mỏng”, những người không muốn gì ở thế gian và cũng không cố ý làm gì cho thế gian, thì thay vì tách biệt, lại tạo được ảnh hưởng vô cùng lớn lao. David Hawkins viết: “Người khao khát tâm linh từ bỏ sự phù phiếm của ý kiến và nhiệm vụ cứu rỗi thế gian. Tiến hóa tâm linh ở bên trong của người đó có giá trị lớn hơn đối với xã hội, lớn hơn bất kỳ hình thức hành động nào khác. Từ bi tỏa ra và đóng góp thầm lặng cho trí huệ của nhân loại”. Trong tác phẩm Power vs. Force, ông chỉ ra rằng mặc dù chỉ có 15% dân số thế giới đạt tầng ý thức trên 200 – mức can đảm và tích cực – nhưng nội lực tập thể của họ đủ để đối trọng với ảnh hưởng tiêu cực của 85% còn lại.

Bởi vì thang đo ý thức vận hành theo hàm logarit, nên chỉ cần một bậc Thánh đạt mức 1.000 – mức Ý thức cao nhất – là đã có thể đối trọng được với toàn bộ ảnh hưởng tiêu cực của cả nhân loại. Kết quả từ kiểm tra động lực học cho thấy:

Một người ở tầng 700 có thể đối trọng với 70 triệu người ở tầng dưới 200.

Một người ở tầng 600 đối trọng với 10 triệu người ở tầng dưới 200.

Một người ở tầng 500 đối trọng với 750.000 người ở tầng dưới 200.

Một người ở tầng 400 đối trọng với 400.000 người ở tầng dưới 200.

Một người ở tầng 300 đối trọng với 90.000 người ở tầng dưới 200.

Và mười hai người ở tầng 700 hợp lại thì tương đương sức ảnh hưởng của một bậc Thánh ở tầng 1.000.

Có thể bạn không tin những con số này. Nhưng hãy thử nhớ lại: khi ta ngồi cạnh một người thật sự từ bi, lòng ta tự nhiên an lạc hơn, và khó mà khởi ác niệm. Ảnh hưởng đó không cần lời hứa cứu thế gian – nó tự nhiên toả sáng. 

Như vậy là, chính khi một người siêu xuất khỏi thế gian, thì họ lại mang đến cho thế gian ảnh hưởng sâu xa nhất. Một Đức Phật, một Chúa Giêsu, một Lão Tử, một Gandhi… – tất cả đều không chủ trương cải tạo thế gian, nhưng nhờ siêu vượt khỏi nó, họ lại trở thành ngọn đèn soi sáng cho hàng triệu con người. Khi không còn bị chi phối bởi tham – sân – si, khi sống bằng chân lý giải thoát, thì sự hiện hữu của họ tự nhiên trở thành trường năng lượng an lành, lay động và biến đổi cả nhân loại. 

Những người cải cách xã hội vẫn đáng quý.

Dĩ nhiên, những người dấn thân cải cách xã hội cũng rất đáng trân trọng. Họ góp phần giảm bớt đau khổ, bất công, áp bức trong cõi người. Nhưng con đường ấy luôn đầy gian nan, vì phải lệ thuộc vào thiên thời – địa lợi – nhân hòa. Khi hợp thời, hợp vận, công việc trở nên nhẹ nhàng mà hiệu quả lớn; còn khi trái thời, trái vận, thì hao tâm tổn lực mà thành quả chỉ như muối bỏ bể. Lịch sử cho thấy nhiều cuộc cách mạng rốt cuộc chỉ là việc trao lại giá treo cổ và máy chém cho một nhóm người mới. Chỉ có Cách mạng Anh và Cách mạng Mỹ là thật sự tạo ra bước ngoặt bền vững cho nhân loại. 

Tóm lại: Người cải cách có thể đem đến đổi thay cho xã hội, nhưng đổi thay ấy vẫn còn trong vòng xoay của thời thế: hợp vận thì thành, trái vận thì tan. Lịch sử đã chứng kiến biết bao cuộc cách mạng kết thúc chỉ bằng việc đổi kẻ nắm dao chém đầu, đổi người cầm thừng treo cổ mà thôi. Chỉ có Cách mạng Anh và Cách mạng Mỹ mang ý nghĩa cách mạng đúng nghĩa. 

Trong khi đó, người siêu xuất khỏi thế gian lại bước đi nhẹ nhàng, không cần cây gậy quyền lực, không cần dựng cờ cách mạng. Họ lặng lẽ như gió, mà sức gió ấy xoay chuyển lòng người; họ tĩnh như ngọn núi, mà bóng núi ấy che mát cả ngàn năm. 

Bởi thế, con đường không phải là cứu thế gian, mà là siêu xuất khỏi thế gian. Khi một người ra khỏi vòng được – mất, hơn – thua, khi tâm họ tĩnh lặng như mặt hồ, thì chính sự hiện hữu của họ đã là một cuộc cách mạng thầm lặng. Và từ cuộc cách mạng ấy, thế gian tự nhiên đổi thay. 

Giữa cõi đời chao đảo, họ giống như ngọn đèn nhỏ trong đêm, không xua tan được bóng tối của cả vũ trụ, nhưng đủ để những ai khát ánh sáng tìm thấy lối đi. Như bông sen mọc giữa bùn, không hứa sẽ làm bùn thành nước trong, nhưng chính sự hiện hữu thanh khiết của nó đã là minh chứng rằng: giải thoát là có thật. 

Kết luận: Như vậy, “cứu thế gian” là vọng tưởng. Thế gian này vốn như nó đang là. Cái cần là siêu xuất – vượt lên khỏi mê lầm, trở thành ngọn đèn chiếu sáng trong bóng tối. 

Nhưng David Hawkins lại viết: “Khi xem xét một cách cẩn thận, người ta thấy rằng tất cả các ý kiến đều vô giá trị. Tất cả đều là phù phiếm và không có tầm quan trọng hoặc giá trị nội tại nào hết. Tâm trí của mọi người đều chứa đầy những ý kiến bất tận, và khi được nhìn nhận đúng bản chất của chúng, thì ý kiến thực ra chỉ là hoạt động của tâm trí.” 

Nếu vậy, bài viết này cũng chẳng có giá trị gì hay sao? 

Đúng là trong ánh sáng tuyệt đối, mọi ý kiến tan biến như mây bay. Nhưng khi còn ở trong cõi mê, con người vẫn cần những “ý kiến” mang trường lực cao – giống như ngón tay chỉ mặt trăng. Ngón tay không phải là trăng, nhưng nhờ ngón tay mà kẻ lạc lối biết hướng nhìn. Bài viết này cũng vậy: nó không phải Chân lý tối hậu, nhưng có thể là một cây cầu tạm, giúp ai đó bước thêm một nhịp ra khỏi vòng mê lầm. Khi đã qua cầu, cây cầu có thể bỏ lại. Nhưng nếu không có cầu, nhiều người sẽ chẳng bao giờ khởi hành. 

Tuy vậy, có một cạm bẫy tinh vi: khi nói ra những ý kiến như thế này, bản ngã dễ phồng to ra, thì thầm rằng ta hiểu biết, ta hơn người. Nhưng chính đó lại là bài học. Bởi ý kiến nào cũng chỉ là ngón tay, không bao giờ là mặt trăng. Nếu đồng nhất với nó, ta lại rơi vào mê. Ngược lại, nếu thấy bản ngã vừa lóe lên ta mỉm cười buông bỏ, thì ngay cả ý kiến này cũng trở thành phương tiện tu tập: vừa chia sẻ chút ánh sáng cho đời, vừa rèn luyện cho chính mình sự khiêm hạ và tự do nội tâm.

No comments:

Post a Comment