Phạm Nguyên Trường dịch
Chương 7
CÁC LOẠI THUẾ GÂY HẠI ÍT VÀ NHIỀU
Các chính phủ thời hiện đại phải huy động rất nhiều tiền thuế để tài trợ cho các hoạt động công cộng rộng lớn của mình. Để làm được việc này, họ thường dựa nhiều vào thuế thu nhập, đóng góp bảo hiểm xã hội, thuế bán hàng và thuế doanh nghiệp - và các loại thuế khác, nhưng mức độ thấp hơn. Tất cả đều có những nhược điểm riêng, nhưng xét đến nhu cầu tăng thu, cần tìm hiểu xem loại thuế nào gây thiệt hại nhiều nhất và loại nào ít nhất[1].
Thuế đánh vào doanh
nghiệp và vốn
Mặc dù thuế đánh vào doanh nghiệp và vốn có thể là những nguồn thu lớn, nhưng chúng được cho là loại thuế gây ra thiệt hại nhiều nhất, vì đánh vào năng lực sản xuất của đất nước và làm giảm đầu tư có thể tạo ra sự thịnh vượng trong tương lai.
Thuế doanh nghiệp. Về lý, các công ty có lợi nhuận lớn hoặc có doanh số khổng lồ phải nộp thuế dựa vào lợi nhuận hoặc doanh thu là đương nhiên. Đồng thời, cũng có quan điểm cho rằng, để đáp lại lợi nhuận đáng kể mà họ thu được, các công ty và những người sở hữu nên “đóng góp trở lại” một phần cho xã hội.
Nhưng các công ty và chủ sở hữu của họ đã đóng góp cho xã hội. Đóng góp của họ chính là lợi ích mà tất cả chúng ta được hưởng từ sự đa dạng của các sản phẩm hữu ích mà họ tạo ra. Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu tin rằng khoảng một phần năm thuế doanh nghiệp cuối cùng do người lao động đóng, chứ không phải chủ sở hữu công ty (xem Nunns 2012). Đó là do thuế làm cho các công ty có ít tiền hơn để đầu tư vào nhà máy, thiết bị và quy trình mới. Đến lượt mình, nó làm người lao động kém năng suất hơn so với đáng lẽ họ có thể có, và vì tiền lương phản ánh năng suất, nên tiền lương không tăng nhanh như đáng lẽ nó phải tăng.
Hơn nữa, thuế doanh nghiệp có thể làm cho các công ty tốn kém thêm, vì thuế không phải lúc nào cũng được đánh trên doanh số hoặc lợi nhuận đã công bố của công ty, mà dựa trên những biện pháp khác nhau, do cơ quan thuế quy định. Những biện pháp này có thể được thiết kế nhằm hạn chế khả năng trốn thuế của các công ty, nhưng lại yêu cầu họ phải lập thêm một bộ sổ sách kế toán khác. Ngoài ra, nghĩa vụ thuế cuối cùng phụ thuộc vào cách các cơ quan chức năng đặt ra các quy tắc - ví dụ, cho phép các công ty “khấu hao” chi phí thiết bị vốn trong sổ sách trong bao lâu.
Những quy định mà họ đặt ra có thể tùy tiện, nhưng lại có vai trò then chốt trong việc quyết định loại thuế đó có gây ra thiệt hại hay không. Ví dụ, trong một số hệ thống thuế, các quy định làm méo mó hoạt động của doanh nghiệp bằng cách ưu tiên tài trợ nợ hơn là tài trợ bằng vốn cổ phần, hoặc ưu ái các công ty trách nhiệm hữu hạn hơn là các doanh nghiệp gia đình. Và vì hệ thống thuế doanh nghiệp của một nước hiếm khi phù hợp với hệ thống của quốc gia khác, cho nên các công ty hoạt động tại nhiều khu vực pháp lý phải chịu thêm chi phí kế toán.
Các chính phủ thường dựa vào thuế doanh nghiệp để tạo ra phần lớn nguồn thu, nhưng một nghiên cứu của OECD năm 2008 đã xếp hạng loại thuế này là nguồn gây thiệt hại lớn nhất đối với tăng trưởng kinh tế (cùng với các nguồn thu lớn khác, thuế thu nhập và sau đó là thuế tiêu dùng, là những nguồn gây thiệt hại lớn thứ hai) (Johansson và cộng sự, 2008). Ngoài ra, như đã nói bên trên, vốn rất dễ lưu chuyển, và thuế cao có thể thúc đẩy các công ty chuyển đến những khu vực pháp lý có thuế thấp hơn, làm giảm cơ sở thuế, doanh thu thuế và tăng trưởng kinh tế của nước sở tại (Goodspeed, 2022).
Thuế đánh vào lãi vốn. Vì những lý do tương tự, thuế đánh vào lãi vốn và cổ tức do các công ty chi trả cũng gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Những người lập mô hình của Tổ chức Thuế phát hiện được rằng tăng thuế suất trong các khung thuế lãi vốn cao nhất của Hoa Kỳ thực sự làm giảm GDP và do đó sẽ không mang lại cho chính phủ bất kỳ khoản thu nhập ròng nào (xem McBride 2012)[2].
Nguyên nhân có thể là số vốn được tạo ra trong nền kinh tế có tính đàn hồi cao - tức là rất nhạy cảm với những thay đổi về lợi nhuận mà mọi người kỳ vọng nhận được từ vốn của họ. Chỉ cần tăng một chút trong thuế đánh vào lãi vốn có thể tạo ra sự khác biệt lớn trong việc mọi người quyết định xây dựng hàng hóa vốn, ví dụ, nhà máy và thiết bị, hay thay vào đó dành tiền cho tiêu dùng trong hiện tại.
Vốn tạo ra thu nhập và của cải trong tương lai, đồng thời thúc đẩy năng suất và tiến bộ. Do đó, thuế đánh vào vốn làm giảm khả năng tiêu dùng trong tương lai của chúng ta vì chính phủ đánh thuế thành tố tạo ra nó. Và bằng cách làm giảm thu nhập trong tương lai, chúng làm cho các thế hệ tương lai có ít tiền hơn để đầu tư vào sản xuất trong tương lai xa hơn, và cùng với thời gian, làm cho các khoản lỗ càng trầm trọng thêm.
Hơn nữa, thuế đánh vào lãi vốn không chỉ làm nản lòng việc hình thành vốn mà còn làm méo mó nghiêm trọng các quyết định đầu tư của dân chúng. Người ta sẽ vẫn tiếp tục đầu tư vào các khoản đầu tư cũ, kém hiệu quả, do dự không muốn rút ra vì lo ngại về hóa đơn thuế có thể phát sinh. Và (như đã giải thích trước đó, trong phần thảo luận về lạm phát), họ thậm chí có thể thấy rằng mình bị đánh thuế do lạm phát cũng như lợi nhuận thực tế. Mô hình đầu tư không tối ưu dẫn đến hậu quả là gây ra tổn thất cho toàn bộ nền kinh tế (Bracewell-Milnes 1995a).
Những biến dạng như thế là
lý do chính đáng để giảm thuế vốn - hoặc hoàn toàn không đánh thuế. Tuy nhiên,
các cơ quan chức năng có nguồn thu đáng kể từ thuế vốn, và cũng lo ngại rằng nếu
thuế suất đánh vảo lãi vốn thấp hơn thuế suất đánh vào thu nhập, thì một số người
có thể tránh thuế bằng cách coi thu nhập của họ là thu nhập từ vốn (chịu thuế
ít hơn) chứ không phải là thu nhập (chịu thuế cao hơn). Tuy nhiên, trong khi một
số ít người, chủ yếu là người giàu, có thể tránh thuế bằng cách sắp xếp lại
công việc, một số nhà kinh tế học (ví dụ: Bracewell-Milnes 1992) lại lập luận rằng,
so với những biến dạng lớn do thuế vốn gây ra, thì một số ít người tránh thuế
không phải là điều đáng lo ngại. Hơn nữa, các nhà phê bình cho rằng cân bằng
thuế suất, thu nhập từ lương thường chắc chắn hơn hẳn so với lợi nhuận từ hoạt
động kinh doanh, vốn có tính rủi ro cao hơn. Việc áp dụng mức thuế ngang nhau
giữa thu nhập và lãi vốn sẽ làm nản lòng những người muốn chấp nhận rủi ro, chẳng
hạn như thành lập doanh nghiệp mới[3].
Thuế giao dịch. Thuế đánh vào các giao dịch, chẳng hạn như chuyển nhượng tài chính hoặc bất động sản, cũng là những loại thế rất có hại. Những khoản thuế này thường không phải là nguồn thu chính, nhưng lại làm cho sự vận hành trơn tru của thị trường chậm lại và làm ảnh hưởng đến kế hoạch tiết kiệm, đầu tư và giao dịch của dân chúng. Tác hại có thể rất đáng kể: một nhà kinh tế học người Anh khẳng định rằng ảnh hưởng của thuế chuyển nhượng bất động sản (ví dụ, thuế trước bạ khi mua bán nhà đất) làm cho thuế giao dịch bất động sản gây ra thiệt hại gấp bốn lần so với thuế thu nhập và gấp tám lần so với thuế tiêu dùng (Southwood 2017).
Như đã nói bên trên, EU đang đề xuất thuế giao dịch tài chính (FTT) để tài trợ cho bộ máy hành chính trung ương của mình. Gọi là “Thuế Robin Hood”, đề xuất này cho rằng hàng tỷ euro có thể được trích xuất từ các nhà đầu tư giàu có và các tổ chức tài chính mà không ai cảm thấy quá đau đớn - và số tiền đó được chuyển đến các nhóm khó khăn hơn (Ủy ban Châu Âu 2013a,b).
Nhưng ngoài việc đặt câu hỏi liệu bộ máy quan liêu có thực sự dùng hàng tỷ đó cho những người cần giúp đỡ hay lại chi vào các dự án mà họ ưu tiên, ta còn phải xét đến ai mới thực sự là người gánh chịu các loại thuế như thế. Chúng có thể được thu từ các tổ chức lớn, nhưng cuối cùng, chúng được khách hàng của các tổ chức đó trả - ví dụ như những người bình thường tiết kiệm tiền lương hưu, hoặc những người đi nghỉ mua ngoại tệ hoặc những khách hàng thường ngày của các ngân hàng. Thay vì cướp của người giàu để hỗ trợ người nghèo, thuế FTT lại là gánh nặng của người dân thường (Worstal 2011).
Thuế đánh vào cá nhân
Thuế thu nhập. Tiếp theo trong danh sách các loại thuế gây thiệt hại nặng nề nhất là thuế thu nhập – đặc biệt là khi thu nhập chịu thuế suất cao nhất. Mặc dù dường như hiển nhiên rằng những người có thu nhập cao có thể đủ khả năng đóng nhiều thuế hơn, nhưng chính họ lại là những người có hiệu ứng thay thế mạnh mẽ nhất. Họ là những người có đủ khả năng tài chính để làm việc ít hơn và tận hưởng nhiều thời gian rảnh rỗi hơn. Họ năng động và có thể đi tới hoặc đưa doanh nghiệp của mình đến những khu vực pháp lý thuế suất thấp hơn. Họ có đủ khả năng thuê cố vấn để giúp né thuế.
Một lần nữa, Tổ chức Thuế phát hiện được rằng việc tăng thuế suất đánh vào những người có thu nhập cao nhất sẽ làm cho tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Mỹ giảm gần gấp ba lần so với số tiền thuế thu thêm được. Kinh nghiệm đã chứng minh sự kiện này: trong một số trường hợp khi thuế suất cao nhất được cắt giảm ở Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, những người có thu nhập cao nhất (như đã lưu ý trong Chương 1) thực sự đóng góp một phần lớn hơn vào doanh thu thuế thu nhập (Grecu 2004).
Công trình nghiên cứu mang tên Thuế và Tăng trưởng Kinh tế năm 2008 của OECD cho rằng chế độ thuế thu nhập giúp tăng trưởng GDP nhiều nhất sẽ là chế độ có thuế suất thấp và ít miễn trừ để có nhiều người nộp thuế hơn. Thật vậy, “thuế suất thấp, thì cơ sở thu thuế sẽ rộng” dường như là chính sách tốt nhất cho nhiều loại thuế khác nhau. Thuế suất thấp – thuế nói chung, chứ không chỉ thuế thu nhập – ít gây khó chịu (và ít né tránh) cho người nộp thuế và tạo ra ít thiệt hại kinh tế hơn. Ngoài ra, việc loại bỏ những rắc rối và miễn trừ giúp phân bổ gánh nặng thuế khoá cho nhiều người hơn, đồng thời giảm chi phí kế toán cho người nộp thuế và loại bỏ nghề “lập kế hoạch thuế” (tức là giúp người ta né thuế - ND) khổng lồ giúp mọi người giảm bớt nghĩa vụ thuế.
Có một số dấu hiệu cho thấy các chính phủ trên thế giới – có lẽ do phải đối mặt với sự kiện là những người có thu nhập cao dễ dàng di cư hơn trước – đã phần nào chấp nhận quan điểm này, vì từ thập niên 1960, thuế thu nhập đã không còn có tỷ lệ lũy tiến cao như trước nữa: hiện nay, rất ít nước còn áp dụng thuế suất trên 50% (Ortiz-Espina và Roser, 2016). Tuy nhiên, hình thức thuế thu nhập tối ưu nhất có thể là thuế suất cố định – tức áp dụng cùng một thuế suất cho tất cả các bậc thu nhập – không có miễn trừ, ngoại trừ trường hợp có thể miễn hoàn toàn cho nhóm có thu nhập thấp nhất; hiện nay, một số nước đã bắt đầu đi theo hướng này (xem The Economist, 2005).
Thuế tiền lương. Thuế tiền lương, thường được thể hiện dưới dạng đóng góp cho các hệ thống bảo hiểm do chính phủ điều hành như lương hưu, trợ cấp thất nghiệp hoặc chăm sóc y tế, do người sử dụng lao động thu, nhưng cuối cùng lại do người lao động đóng. Do đó, những khoản này làm gia tăng chi phí tuyển dụng lao động đối với người sử dụng lao động. Một lần nữa, nên tránh các loại thuế kết hợp này, vì chỉ làm méo mó thêm thuế thu nhập.
Thuế thừa kế. Lý lẽ ủng hộ thuế thừa kế là những người thừa kế bất động sản lớn, thường từ cha mẹ, không phải làm gì mà vẫn được hưởng tài sản đó. Sau khi thừa kế, họ vẫn là người khá giả hơn, ngay cả khi một phần tài sản thừa kế của họ bị đánh thuế. Và những loại thuế như thế là một biện pháp khác để chuyển giao tài sản từ người giàu sang người nghèo.
Nhưng cũng có những phản đối về mặt đạo đức và kinh tế. Trước hết, thuế thừa kế không phù hợp với bản chất con người: hầu hết các bậc cha mẹ đều mong muốn để lại tài sản cho con cái của mình. Và, thực sự, nghề “lập kế hoạch thuế thừa kế” rộng khắp đã xuất hiện để giúp họ làm điều đó (Bracewell-Milnes 2002).
Chi phí lập kế hoạch thuế thừa kế bất động sản không chỉ là lực cản đối với nền kinh tế, mà thuế còn khuyến khích dân chúng giữ tài sản của mình trong những tài sản không phải chịu thuế, hoặc bị đánh thuế ở mức thấp hơn, nhưng làm thế có thể không hiệu quả bằng những cơ hội đấu tư khác. Ví dụ, ở một số nơi, đất nông nghiệp được miễn thuế thừa kế, hoặc đủ điều kiện được giảm thuế, dẫn đến những người giàu (đặc biệt là khi nghỉ hưu) mua đất nông nghiệp – mặc dù không nhất thiết là họ sẽ canh tác một cách hiệu quả. Cũng như thuế lãi vốn, kết quả là vốn (đất nông nghiệp và thiết bị) được sử dụng kém hiệu quả hơn, và toàn bộ nền kinh tế bị ảnh hưởng. Tổ chức Thuế tính toán rằng thuế thừa kế làm giảm GDP của Hoa Kỳ nhiều hơn là số tiền thu được (Cole 2015). Tại Vương quốc Anh, nhà tư vấn kinh tế người Anh Barry Bracewell-Milnes (1931–2012) tính toán rằng, thuế thừa kế, trong suốt thế kỷ tồn tại nó, năm nào cũng tạo ra doanh thu âm (Bracewell-Milnes 1995b). Do không được ưa chuộng cũng như thành tích kém cỏi của nó trong việc tạo ra nguồn thu, một số nước đã bãi bỏ thuế thừa kế (được liệt kê trong Cole 2015).
Những lựa chọn ít gây
thiệt hại hơn
Thuế tiêu dùng. Mặc dù thuế tiêu dùng có thể là nguồn thu lớn, nhưng, nói chung, các nhà kinh tế học tin rằng chúng ít gây thiệt hại hơn các loại thuế khác. Thuế tiêu dùng không làm giảm năng suất lao động như thuế thu nhập, hay việc làm như thuế đánh vào doanh nghiệp và thuế đánh vào nơi làm việc. Loại thuế này cũng không gây ra thiệt hại lâu dài về mặt cơ cấu đối với năng suất như thuế đánh vào vốn. Thay vào đó, loại thuế này đánh vào các khoản chi tiêu của dân chúng, sẽ khuyến khích họ chi tiêu ít hơn và tiết kiệm nhiều hơn, để lại nhiều tiền hơn cho đầu tư và do đó thúc đẩy hiệu quả sản xuất của khu vực doanh nghiệp.
Tuy nhiên, những người chỉ trích cũng cho rằng thuế tiêu dùng thường có tính thoái lui (regressive). Loại thuế này ảnh hưởng mạnh nhất đến người nghèo vì các hộ gia đình nghèo hơn ít có khả năng chi trả giá cao hơn do thuế đánh vào những món hàng mà họ mua; ít ảnh hưởng tới các hộ gia đình giàu có hơn. Ngoài ra, người nghèo chi tiêu phần lớn hơn trong ngân sách hộ gia đình của mình so với người giàu, và khả năng tiết kiệm của họ vốn đã thấp hơn. Và, như chúng ta đã thấy, thuế tiêu dùng dưới dạng thuế tiêu thụ đặc biệt chiếm tỷ trọng lớn hơn trong giá của các sản phẩm rẻ hơn, mà các hộ gia đình nghèo hơn có nhiều khả năng mua hơn. Cuối cùng, nếu thuế tiêu dùng khiến dân chúng mua ít hơn, thì nhu cầu giảm sẽ tạo ra ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và tăng trưởng kinh tế.
Thuế tiêu dùng cũng có thể gây ra những biến dạng khác nữa. Ví dụ, một số loại thuế, như Thuế doanh thu Chung (General Sales Tax - một loại thuế đánh vào hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng mua, được tính theo tỷ lệ phần trăm của giá bán lẻ được niêm yết và được cộng vào giá mà người tiêu dùng phải trả) có thể tương đối dễ tính toán đối với các nhà bán lẻ, nhưng một số loại thuế khác, chẳng hạn như VAT, lại khó tính toán hơn; tạo ra chi phí kế toán cho các doanh nghiệp – đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ - có thể không có kỹ năng kế toán chuyên môn nội bộ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhỏ là các doanh nghiệp chịu tránh nhiệm về hầu hết hoạt động thương mại và việc làm – chi phí này đối với họ cũng trở thành gánh nặng cho nền kinh tế nói chung.
Thuế giá trị đất đai. Nhà kinh tế học người Mỹ Henry George (1839–1897) chủ trương chỉ áp dụng một loại thuế duy nhất, đấy là thuế đánh vào đất đai – có nguồn cung gần như cố định và không do nỗ lực của cá nhân tạo ra. Vì vậy, một loại thuế như thế sẽ không làm giảm sản xuất và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, nó sẽ khuyến khích việc sử dụng hiệu quả hơn nguồn tài nguyên quan trọng này và cung cấp cho chính phủ một nguồn thu ổn định và có thể dự đoán được.
Tuy nhiên, việc chuyển sang hệ thống như thế dường như là rất khó khăn về mặt chính trị. Chủ đất là một nhóm lợi ích đáng kể, họ có thể phản đối cả thuế và việc định giá đất đai mà loại thuế này đòi hỏi. Loại thuế này cũng sẽ dẫn đến những thay đổi kinh tế rất đáng kể, đặc biệt là trong việc sử dụng đất, có thể gây áp lực lên cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công hiện có. Và, dù sao mặc lòng, các chính trị gia thích áp dụng nhiều loại thuế, thay vì chỉ một loại, vì no làm cho quy mô thực sự của gánh nặng thuế khoá trở nên ít rõ ràng hơn và cho phép họ dành ưu tiên ưu đãi cho các hoạt động và nhóm người cụ thể.
Mở rộng cơ sở thuế. Chính phủ thường tìm cách tăng nguồn thu bằng cách mở rộng cơ sở thuế - nói cách khác, bằng cách đưa thêm nhiều người hoặc nhiều hoạt động hơn vào diện chịu thuế. Cách làm này có thể mang lại những tác động tích cực. Ví dụ, cắt giảm các khoản miễn trừ và khấu trừ (ví dụ, thuế thu nhập, thuế doanh nghiệp hoặc thuế tiêu dùng) và đơn giản hóa các quy định về thuế đối với các khoản đầu tư (ví dụ, tiết kiệm lương hưu cá nhân) có thể tạo được ảnh hưởng tích cực trong việc giảm chi phí tuân thủ cho người nộp thuế và chi phí hành chính cho chính phủ.
Nhưng làm cho nhiều người và nhiều hoạt động phải chịu thuế hơn, chính sách mở rộng cơ sở thuế có thể bị nhiều người phán đối. Những khoản miễn trừ, nhượng bộ và khấu trừ thuế thường là do một số nhóm lợi ích vận động, và nhiều người được hưởng lợi từ việc giảm thuế như thế. Ví dụ, ở Mỹ, nếu bãi bỏ quy chế miễn thuế đối với các chương trình bảo hiểm y tế tại nơi làm việc, hoặc ở Vương quốc Anh, bãi bỏ quy chế miễn thuế đối với quần áo trẻ em, hoặc đối với các trường học và tổ chức từ thiện ở nhiều nước khác, thì sẽ vấp phải sự phẫn nộ và phản đối mang tính chính trị từ những người đang hưởng lợi từ các khoản miễn trừ này.
Một ý tưởng khác nhằm mở rộng cơ sở thuế là đảm bảo nhân viên chính phủ đóng cùng mức thuế với dân chúng nói chung. Ví dụ, các quan chức OECD không phải trả thuế thu nhập, trong khi nhân viên chính phủ Hoa Kỳ được miễn thuế phụ cấp và phúc lợi tại nơi làm việc. Việc chấm dứt những đặc quyền này và đưa nhân viên chính phủ vào cùng một chế độ đóng thuế như tất cả những người khác dường như là công bằng và không gây ra những tác động tiêu cực - mặc dù một lần nữa, ý tưởng này sẽ bị phản đối dữ dội, và nguồn thu từ thuế có thể không đủ lớn để các chính trị gia chấp nhận những phản đối như thế.
Các loại thuế gây tổn hại ít nhất
Đồng thanh toán cho các dịch vụ. Trong số các loại thuế ít gây thiệt hại nhất là những loại thuế thực sự là phí cho một dịch vụ cụ thể, ví dụ như phí hộ chiếu, nhằm mục đích trang trải chi phí hành chính liên quan. Tuy nhiên, không giống như thuế, phí không phải lúc nào cũng bắt buộc. Ví dụ, có thể có thu phí vào cửa bảo tàng hoặc phí cầu đường, nhưng dân chúng không bị bắt buộc phải đến thăm bảo tàng hoặc sử dụng các tuyến đường cụ thể: họ có các lựa chọn khác.
Tuy nhiên, một số loại phí là bắt buộc chẳng khác gì thuế: cá nhân hoặc doanh nghiệp không thể tránh được. Ví dụ, phí quản lý, trang trải cho chi phí kiểm tra an toàn của các quán cà phê và nhà hàng. Nói về thiệt hại tiềm ẩn, có hai câu hỏi chính: liệu những khoản phí này chỉ phản ánh chi phí hành chính liên quan, và liệu nó có tạo được ảnh hưởng kinh tế đáng kể hay không, chẳng hạn như chủ quán cà phê quyết định thôi bán kem hoặc rượu, tức là những mặt hàng cần có thêm giấy phép, hoặc thậm chí hoàn toàn thôi kinh doanh. Lý tưởng nhất là những ảnh hưởng như thế nên được giảm đến mức tối đa, và phí sử dụng nên được giới hạn ở chi phí thực tế của việc cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ.
Chính phủ hiếm khi có thể thu được nguồn thu đáng kể từ phí sử dụng. Lý do chính là họ áp đặt chi phí của hàng hóa công lên những người sử dụng chúng và do đó tránh gây thiệt hại cho người khác.
Thuế Pigovian. Ít gây thiệt hại nhất là thuế Pigovian, tức là thuế đánh vào các hoạt động tạo ra ngoại ứng tiêu cực. Những loại thuế này chỉ đơn giản là điều chỉnh chi phí tư nhân của hoạt động nào đó với chi phí xã hội (ví dụ như ô nhiễm không khí hoặc nước) mà nó gây ra cho người khác. Do đó, loại thuế này giống như giá cả hơn là thuế, áp dụng giá phải trả cho các nguồn tài nguyên mà người ta mong muốn (ví dụ, không khí sạch hay nước sạch) mà trước đây chưa được định giá. Loại thuế này thúc đẩy việc sử dụng các nguồn tài nguyên đó hiệu quả hơn về mặt kinh tế. Nhưng nếu muốn thuế Pigovian không gây ra thiệt hại, thì loại thuế này chỉ nên phản ánh chi phí thực tế mà người khác phải chịu. Do đó, loại thuế này sẽ không bao giờ có khả năng trở thành nguồn thu đáng kể đối với chính phủ.
[1] Bài điểm sách về các công
trình nghiên cứu về ảnh hưởng có hại của các loại thuế khác nhau, trong Durante
(2021)
[2] Muốn biết tính toán của Tổ
chức Thuế về ảnh hưởng của thuế đánh vào lãi vốn đối với GDP ở Hoa Kỳ, sử dụng
Mô hình Cân bằng Tổng quát của Tax Foundation (2021), mời đọc Watson và York
(2021).
[3] Muốn biết thêm về ảnh hưởng
của thuế đối với tinh thần nghiệp chủ, xin mời đọc Butler (2020a).
No comments:
Post a Comment