October 1, 2025

Đại cương về thuế (8)

 

Eamonn Butler

Phạm Nguyên Trường dịch

Chương 8

 

THUẾ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC 

Đánh thuế là chính đáng về mặt đạo đức 

Nhiều người đồng ý rằng đánh thuế là chính đáng về mặt đạo đức. Trước hết, thuế nhằm phục vụ mục đích cốt lõi của chính quyền: bảo vệ công dân trước những hành động xâm lược từ bên ngoài và tội phạm ở trong nước. Thuế tài trợ cho quốc phòng, cảnh sát và hệ thống tư pháp, bằng cách đó, cung cấp môi trường an toàn để công dân có thể sống bình an và theo đuổi cuộc sống mà họ cho là tốt nhất cho mình và gia đình mình. Chỉ khi đó mới có thể sống cuộc đời đức hạnh. Thuế thậm chí còn có thể chi trả cho việc mọi người đều được tiếp cận dịch vụ pháp lý, để người nào cũng có thể được hưởng công lý, mà không phụ thuộc vào điều kiện kinh tế của mình. 

Thuế còn mang lại lợi ích cho cuộc sống của người dân bằng những cách khác nữa. Thuế chi trả cho cơ sở hạ tầng, ví dụ như đường sá và bến cảng, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại và kinh doanh, giúp nền kinh tế tư nhân hoạt động hiệu quả hơn, do đó tiết kiệm công sức của con người và giúp lan tỏa thịnh vượng trong cộng đồng. Chính sách thuế có thể giúp quản lý nền kinh tế hướng tới ổn định và tăng trưởng trong dài hạn, tạo nền tảng dễ dự đoán hơn cho đời sống hàng ngày và giúp công việc trở thành hiệu quả và thưởng xứng đáng hơn. 

Thuế tạo điều kiện trong việc cung cấp các hàng hóa và dịch vụ công cộng khác, ví dụ như công viên, viện bảo tàng, dàn nhạc, phòng trưng bày và triển lãm, có vai trò vô cùng quan trọng đối với văn hóa và sự thịnh vượng của nhân loại. Thuế có thể giúp khắc phục thất bại của thị trường – đấy là những tình huống mà động lực hành động của cá nhân không tạo ra kết quả có lợi cho xã hội – ví dụ như ngăn chặn những hoạt động làm ô nhiễm không khí và nước hoặc làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Thuế có thể thúc đẩy nghiên cứu và phát triển, mang lại lợi ích lâu dài cho cả cộng đồng. 

Thuế có thể khuyến khích chúng ta lựa chọn lối sống có lợi cho mình, nhưng có thể không xuất hiện một cách tự nhiên. Ví dụ, thuế có thể thúc đẩy chúng ta chuẩn bị các khoản thu nhập trong giai đoạn nghỉ hưu và các hình thức an sinh khác như trợ cấp thất nghiệp hoặc thương tật, hoặc tránh những lối sống có khả gây hại như hút thuốc. Thuế có thể giúp đảm bảo để trẻ em được giáo dục đầy đủ, chuẩn bị cho cuộc sống tương lai và cung cấp các dịch vụ xã hội để bảo vệ trẻ em, để chúng không bị lạm dụng hoặc bỏ bê. Thuế có thể tài trợ cho các dịch vụ phúc lợi, ví dụ như hỗ trợ cho thu nhập và nhà ở xã hội, để ngay cả những người nghèo nhất cũng có thể có đời sống có thể chấp nhận được; vì chỉ khi có đời sống tạm ổn họ mới có thể lựa chọn và hành động nhằm hiện thực hóa những nhu cầu và nguyện vọng cơ bản của mình. Thuế có thể được sử dụng để cung cấp bảo hiểm xã hội cho các trường hợp tàn tật, thất nghiệp và chăm sóc y tế, nhằm bảo đảm rằng không ai phải chịu cảnh thiếu thốn và khốn khó mà không phải do lỗi của mình. Xa hơn nữa, thuế cũng có thể được sử dụng để tạo ra xã hội bình đẳng và công bằng hơn bằng cách phân phối lại thu nhập và của cải từ người giàu sang người nghèo. 

Ở tầng sâu thẳm nhất, thuế là hiện thân của ý tưởng về khế ước xã hội. Thuế tạo điều kiện để ban hành và thực hiện các quyết định tập thể về các ưu tiên trong lĩnh vực công, đảm bảo rằng nhu cầu và sở thích của tất cả mọi người đều được xem xét. Và còn nhắc nhở mọi người về nghĩa vụ của họ đối với những người có thể kém may mắn hơn, và thành công của cá nhân phụ thuộc phần lớn vào sự hỗ trợ tập thể của cộng đồng chứ không chỉ nỗ lực và may mắn của cá nhân. 

Thuế, nói một cách giản dị, là khoản đóng góp mà công dân phải nộp như phần chia sẻ của mình trong các chi phí để duy trì hoạt động của chính quyền.

Nhà kinh tế học người Pháp Paul Leroy Beaulieu (1843–1916)

Đấy là đạo đức của thuế. Những luận cứ mang tính đạo đức nhằm phản đối thuế khoá thường ít được nói ra, mặc dù có rất nhiều luận cứ mạnh mẽ làm người ta phải ngạc nhiên[1].

 Bạo lực và đạo đức 

Trước hết, đánh thuế có thể là cần, nhưng nó vẫn dựa vào bạo lực. Thuế ở mức cao kỷ lục như hiện nay chỉ khả thi vì những người không chịu nộp thuế có thể bị phạt hoặc bị tù. Để ngăn chặn cái xấu hơn (ví dụ như xâm lược hoặc khủng bố), những biện pháp ép buộc có thể được biện minh. Nhưng bạo lực là xấu về mặt đạo đức: liệu nó có thể được biện minh nhằm  tạo điều kiện cho tất cả những việc mà các quan chức dân cử làm hay không? 

Hơn nữa, đánh thuế buộc dân chúng phải trả tiền cho những thứ mà họ có thể phản đối về mặt đạo đức cơ bản, ví dụ như phá thai do nhà nước tài trợ, chiến tranh ở nước ngoài hoặc trường học dành cho cả học sinh nam và học sinh nữ. Thế nhưng, họ vẫn bị ám ảnh rằng mình đang đóng góp cho những điều mà mình cho là sai trái, thậm chí là hại người. 

Và làm sao chúng ta biết được rằng xã hội thực sự nhận được lợi ích từ các hoạt động được tài trợ bằng thuế? Lợi ích của những người được hưởng và tổn thất của những người nộp thuế là những cảm xúc mang tính cá nhân, hoàn toàn chủ quan. Chúng ta không thể đo lường những cảm xúc này theo lối khách quan, thế thì làm sao chúng ta biết sự cân bằng đó xứng đáng với những biện pháp ép buộc? 

Ngay cả khi dân chúng chấp nhận rằng tiền thuế của họ có mang lại một số lợi ích, họ vẫn có thể tin rằng bộ máy quan liêu, chính trị, hoặc tham nhũng lãng phí quá nhiều tiền thuế. Liệu chúng ta có thể biện minh cho việc buộc dân chúng phải trả tiền cho hệ thống mà họ cho là bất lợi cho mình hay không? 

Ép buộc người ta cung cấp kinh phí để truyền bá những ý tưởng mà người đó không tin và ghê tởm là tội lỗi và độc đoán.

            Tổng thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson (1742–1826)

 Nhà nước và cá nhân 

Thuế hạn chế khả năng của mỗi người trong việc sử dụng nguồn lực của mình theo cách mà họ tin là đúng đắn và tốt nhất cho mình và gia đình mình. Nó làm cho họ trở thành những con người không hoàn thiện về mặt đạo đức, ít có khả năng chịu trách nhiệm cho những hành động của chính mình. Con người chỉ có thể được coi là có đạo đức hoặc vô đạo đức nếu họ kiểm soát được những việc mình làm. Thuế tước đoạt phần lớn quyền kiểm soát cá nhân của họ. 

Không có sự chuyên chế nào tồi tệ hơn là buộc người ta phải trả tiền cho những thứ mà người đó không muốn chỉ vì ai đó nghĩ rằng nó sẽ tốt cho anh ta.

Tác giả người Mỹ Robert A. Heinlein (1907–88) 

Có thể có lý do để chính phủ dân cử thay mặt công dân đưa ra một số quyết định, nhưng đó là con dốc dễ làm người ta trượt chân. Nếu ta trao cho nhà nước quyền uy đạo đức để can thiệp vào một số lựa chọn của dân chúng, thì rốt cuộc giới hạn sẽ nằm ở đâu? Dường như chẳng có ranh giới hợp lý nào hết. Xin nhớ rằng, chỉ cá nhân mới có giá trị quan; còn những thiết chế, ví dụ như nhà nước thì không có giá trị quan. Con người có thể liên kết với nhau để thực hiện các dự án chung, ví dụ như quốc phòng, nhưng liên kết ấy không phải là thực thể siêu nhân với giá trị quan riêng có thể áp đặt lên giá trị quan của từng cá nhân. Chỉ con người mới có giá trị quan và đạo đức. Thế nhưng, thuế lại tìm cách áp đặt một thứ đạo đức được cho là “tập thể” lên trên những giá quan trị đó. 

Trách nhiệm cá nhân. Thuế (tiếp tục bị chỉ trích) làm suy yếu trách nhiệm cá nhân. Ví dụ, người ta có thể muốn chăm sóc cha già mẹ yếu, hay cho con em được học hành tử tế hơn. Nhưng các dịch vụ được tài trợ bằng tiền thuế lại thay thế những lựa chọn đó bằng những ưu tiên của người khác. 

Hơn nữa, đóng thuế có thể làm cho dân chúng tin rằng họ không còn nghĩa vụ xã hội nào khác. Người ta nói với dân chúng rằng tiền thuế của họ là dùng để chi trả cho các dịch vụ thiết yếu như giáo dục, phúc lợi và cảnh sát. Vì thế, họ có thể không cảm thấy bất kỳ sự thôi thúc đạo đức nào nhằm can thiệp khi thấy trẻ em bị bỏ mặc hoặc khi có những hành vi phá hoại, vì tin rằng đó là trách nhiệm của các cơ quan mà họ đã đóng thuế làm những việc đó. 

Thuế lấn át các khoản đóng góp của tư nhân 

Các khoản đóng góp từ thiện là rất quan trọng đối với những mục đích tốt đẹp như tài trợ cho trường học, bệnh viện, thư viện, phòng trưng bày nghệ thuật, dàn nhạc, nghiên cứu y khoa và viện dưỡng lão, nhưng thuế khoá cao làm cho các nhà tài trợ tiềm năng có ít tiền hơn, không thể hỗ trợ các hoạt động này theo cách mà họ muốn. Và khi dân chúng tin rằng nhà nước sẽ chu cấp, thì họ sẽ có ít lý do hơn để tự mình đóng góp: Vì sao phải hỗ trợ giáo dục, nghiên cứu y khoa hoặc chăm sóc xã hội khi chính phủ đã đảm nhận những trách nhiệm này? Một người làm sao có thể tạo ra khác biệt khi chính phủ nắm được nguồn lực khổng lồ như thế?[2] 

Người Mỹ có truyền thống hoạt động từ thiện từ rất lâu rồi. Ví dụ, năm 1901, Andrew Carnegie, người gốc Scotland, đã bán công ty thép của mình với giá 480 triệu đôla và dùng phần lớn số tiền đó để tài trợ cho nghiên cứu khoa học, trường học, thư viện và các trường đại học[3]. Còn hiện nay, Bill và Melinda Gates đang đóng góp gần như toàn bộ tài sản thu được trong lĩnh vực phần mềm cho giáo dục, chăm sóc sức khỏe và xóa bỏ bệnh sốt rét[4]. Một phần lý do vì sao công dân Hoa Kỳ đóng góp nhiều hơn cho các hoạt động từ thiện so với các nước khác là vì Hoa Kỳ thu ít tiền thuế hơn hẳn các nước và khuyến khích hoạt động từ thiện tư nhân[5]. Ở những nước thu nhiều thuế hơn, hoạt động từ thiện của dân chúng giảm, đấy là do họ đã phải đóng nhiều tiền thuế. 

Xung đột lợi ích

Một vấn đề khác là người đóng thuế rất ít có quyền trong việc quyết định tiền mình đóng góp được chi tiêu như thế nào. Các cuộc bầu cử cách nhau khá xa. Khi tổ chức bầu cử, người ta bảo dân chúng đi bỏ phiếu, nhưng không phải bỏ cho các chương trình chi tiêu riêng biệt, mà bỏ cho toàn bộ gói chi tiêu – rất đa dạng, ví dụ, giáo dục, phúc lợi, giao thông và quốc phòng. Nó làm các nhà lập pháp hiểu sai các ưu tiên của người đóng thuế, và cuối cùng, cử tri bỏ phiếu cho cả những hạng mục trong gói chi tiêu mà họ phản đối về mặt đạo đức. 

Hơn nữa, như các nhà kinh tế học Trường phái Lựa chọn Công đã chỉ ra, thuế được cho là được chi tiêu vì lợi ích công. Nhưng các quyết định về chính sách công lại chứa đầy những lợi ích cá nhân – chẳng hạn như lợi ích mang tính đảng phái của các chính trị gia và lợi ích cá nhân của các quan chức. Những hiện tượng như thế khó có thể là cơ sở đạo đức cho việc đánh thuế (Butler 2012a). 

Các nhóm lợi ích. Khu vực công càng phát triển, số lượng người (ví dụ, công chức và những người hưởng lương hưu và phúc lợi nhà nước) có khả năng được lợi khi bỏ phiếu để tiếp mở rộng khu vực công sẽ càng đông. Vì vậy, nhà nước phình to ra, không phải vì nhu cầu, cũng không phải vì lợi ích công cộng, hay vì lý do đạo đức, mà đơn giản là vì lợi ích cá nhân. Nhà nước càng lớn, thì người dân càng ít nghĩ đến lợi ích công và càng nghĩ rằng họ nên được hưởng phần chi tiêu lớn hơn của nhà nước. 

Càng nhiều tiền chảy qua tiến trình chính trị, thì các chính trị gia, quan chức và những người vận động hành lang càng có nhiều cơ hội để thúc đẩy lợi ích cá nhân của họ mà người đóng thuế phải trả Càng có nhiều cơ hội mua phiếu bầu, với các khoản trợ cấp và hỗ trợ được điều hướng đến những người ủng hộ, còn các ngành công nghiệp thì vận động hành lang để được ưu đãi đặc biệt – đôi khi để đổi lấy tài trợ cho đảng hoặc thậm chí hối lộ. Thuế thu càng cao, các nhóm lợi ích sẽ càng tranh giành dữ dội hơn và dòng tiền sẽ càng bị chệch hướng khỏi những mục tiêu xứng đáng hơn về mặt đạo đức. 

Bầu cử chẳng khác nào cuộc đấu giá trước cho những món “hàng” lấy được của dân.

Nhà văn châm biếm người Mỹ H. L. Mencken (1880–1956)

 Như F. A. Hayek (1976) nhận xét, làm thế là thúc đẩy xung đột giữa các nhóm người trong xã hội[6]. Trên thị trường, những người khác nhau có thể lựa chọn những sản phẩm khác nhau: bạn mua iPhone không ngăn cản tôi mua Android. Nhưng, trong chính trị, cơ quan lập pháp quyết định thay cho tất cả mọi người – ví dụ, nên chi bao nhiêu cho quốc phòng thay vì nghệ thuật, hay liệu lương của bác sĩ có nên cao hơn lương của giáo viên hay không. Vì vậy, các nhóm khác nhau, với các giá trị quan khác nhau, trở thành những lực đối địch với nhau trong cuộc chiến giành ngân sách chính phủ cho nhóm mình. Sự cạnh tranh phe phái như thế làm suy yếu đạo đức của xã hội. 

Chi tiêu tiền thuế kém hiệu quả 

Hầu hết mọi người đều tin rằng có thể chi tiêu tiền của mình hiệu quả hơn là chính phủ. Họ hoàn toàn có thể đúng. Như Milton Friedman (2004) đã nói, khi bạn mua thứ gì đó cho mình sử dụng, bạn muốn đấy là thứ có chất lượng tốt với giá cả phải chăng. Khi bạn mua thứ gì đó cho người khác (ví dụ: quà sinh nhật), bạn tập trung nhiều hơn vào giá cả hơn là chất lượng. Khi bạn dùng tiền của người khác để chi cho bản thân (ví dụ, bữa trưa được tính vào chi phí), bạn tập trung nhiều hơn vào chất lượng hơn là giá cả. Khi bạn chi tiền của người khác cho người khác (ví dụ, khu vực công), bạn ít quan tâm tới giá cả hay chất lượng. 

Các tổ chức từ thiện và các nhóm tình nguyện có thể chi tiêu tiền của người khác hiệu quả hơn chính phủ (những người chỉ trích nói như thế) vì họ có khả năng đối xử tốt hơn với mọi người như những cá nhân và điều chỉnh hỗ trợ một cách sáng tạo theo nhu cầu của người nhận, trong khi các công chức phải tuân theo các quy tắc cứng nhắc. Vì vậy, tổ chức từ thiện có thể giúp người thất nghiệp hiệu quả nhất bằng một khóa học về kỹ thuật phỏng vấn, trong khi công chức chỉ có thể trợ cấp bằng tiền mặt. 

Các chính trị gia nói rằng “chúng ta” không đủ khả năng giảm thuế. Có lẽ chúng ta cũng không đủ khả năng chi tiền cho các chính trị gia.

Nhà xuất bản và nhà hoạt động người Mỹ Steve Forbes (1947–) 

Hoài nghi và xói mòn đạo đức 

Thuế càng tăng, người dân càng có thể coi thuế là tịch thu bất công thay vì trả tiền cho các dịch vụ, và tự coi mình bị giới tinh hoa bóc lột, chứ không phải là những người đóng góp tự nguyện cho các hoạt động công thiết yếu. Họ cũng có thể tin rằng tiền của mình đang được chi cho những hoạt động tầm thường, vô nghĩa hoặc thậm chí là không đáng mong muốn. 

Chính quyền thường phản ứng trước sự phản kháng của người đóng thuế theo hai cách. Thứ nhất, họ có thể thắt chặt các quy định và tăng hình phạt đối với hành vi không tuân thủ – tức là tăng cường cưỡng chế. Nhưng làm thế lại tạo ra thêm phẫn nộ và đẩy nhanh vòng xoáy suy thoái đạo đức. 

Thứ hai, họ có thể cố gắng tăng doanh thu bằng những biện pháp khó thấy hơn – ‘thuế lén lút’, như đã nói bên trên đó. Tuy nhiên, làm thế chính là lừa dối. Công ty thương mại mà che giấu các khoản phí của mình như chính phủ thì chẳng bao lâu sau sẽ bị truy tố. Và về mặt đạo đức, đó đơn giản là không trung thực. 

Thuế và bản chất của con người 

Luận cứ mang tính đạo đức đầy sức mạnh nói rằng những người sáng tạo ra của cải vật chất và đạt được thành công nên được hưởng thành quả của quá trình sáng tạo và lao động chăm chỉ của họ. Làm thế là khuyến khích các hoạt động sản xuất, và cuối cùng sẽ mang lại lợi ích cho toàn thể cộng đồng. 

Nhưng những người phê phán cho rằng thuế đánh vào thu nhập, thuế đánh vào tiết kiệm và thuế quà tặng mâu thuẫn với bản chất con người. Chẳng hạn, khát vọng mạnh mẽ của con người muốn chăm lo cho chính con cái mình bị cản trở bởi thuế thừa kế – loại thuế đánh vào đúng thời điểm đau buồn nhất (sau khi mất người thân) và bị căm ghét đến mức người ta tìm đủ mọi cách để né tránh (Bracewell-Milnes 1994). 

Khi các khoản thuế và phí áp lên thần dân ở mức thấp, họ sẽ có năng lượng và mong muốn làm việc. Các hoạt động văn hóa gia tăng và mở rộng, vì thuế thấp làm cho dân chúng hài lòng.

Nhà xã hội học, triết gia và sử gia Ả Rập Ibn Khaldun (1332–1406)

 Thuế có phải là trộm cắp? Vậy thì thuế có phải là một hình thức trộm cắp? Thuật ngữ này mang tính chất cường điệu, có lẽ không phù hợp với thảo luận đạo đức. Khác với trộm cắp, thuế có lý do chính đáng (ít nhất là về nguyên tắc): Chỉ được áp đặt theo quyết định của đa số, sau khi đã tranh luận công khai, và vì mục đích công cộng chứ không phải vì mục đích cá nhân. 

Tuy nhiên, những người phê phán nói rằng cũng chẳng khác gì trộm cắp: Nếu hai người khoẻ mạnh, lại dùng vũ lực lấy tiền của người thứ ba và chi tiêu cho bản thân mình, thì chắc chắn chúng ta phải gọi đó là trộm cắp. Nếu 51% dùng lực lượng tư pháp để lấy tiền của 49% còn lại và chi tiêu theo ý mình, thì liệu có thực khác với trộm cắp hay không? 

Thu thuế nhiều hơn mức thực sự cần là hành vi cướp bóc được hợp pháp hóa.

Tổng thống Hoa Kỳ Calvin Coolidge (1872–1933)

 Kết luận 

Vì thế, thuế không nên được coi là dấu ấn của xã hội hào phóng về mặt đạo đức. Thuế dựa trên cưỡng ép, làm xói mòn trách nhiệm cá nhân, lấn át lòng bác ái, gieo rắc chia rẽ, thưởng công cho quyền lực và làm nản lòng đối người lao động, tiết kiệm và sáng tạo. Một số loại thuế có thể là cần thiết để xã hội vận hành trôi chảy và an toàn, nhưng cũng không có nghĩa là không được xét đoán và giám sát về mặt đạo đức.


[1] Chương này trích từ Butler (2020b). 

[2] Ví dụ điển hình là Viện Cứu hộ Quốc gia Hoàng gia Anh (RNLI), được thành lập năm 1824, nhưng sau đó đã rơi vào giai đoạn khó khăn. Vì vậy, năm 1854, tổ chức này đã nhận 2.000 bảng Anh tiền tài trợ của chính phủ. Nhưng cứ mỗi 1 bảng Anh chính phủ đóng góp, RNLI lại mất 1,50 bảng Anh tiền quyên góp tự nguyện. Năm 1869, tổ chức này lại được nới lỏng và từ đó đã phát triển mạnh mẽ nhờ vào các khoản đóng góp tư nhân.

[3] Mời đọc Andrew Carnegie: Pioneer. Visionary. Innovator. Carnegie Corporation of New York (https://www.carnegie.org/interactives/foundersstory/#!/).

[4] Bill Gates cam kết quyên góp “gần như toàn bộ” khối tài sản trị giá 113 tỷ đôla cho quỹ mang tên ông. The Guardian, ngày 15 tháng 7 năm 2022 (https://www.theguardian.com/us-news/ 2022/jul/15/bill-gates-billions-fotune-donate-foundation).

[5] So sánh quốc tế về hoạt động từ thiện. Charities Aid Foundation, 2006

[6] Tóm tắt ngắn gọn, xin mời đọc Butler (2012b: ch. 8, The social justice myth)

No comments:

Post a Comment