October 2, 2025

Đại cương về thuế (9- Bài cuối)

 

Eamonn Butler

Phạm Nguyên Trường dịch

Chương 9

 

CÁC LOẠI THUẾ ĐƠN GIẢN HƠN, DỄ THU HƠN? 

Chưa đáp ứng kỳ vọng 

Thuế có vai trò quan trọng trong cách thức vận hành của các nền kinh tế trên thế giới. Xét cho cùng, trong hầu hết các nền kinh tế đã phát triển, thuế chiếm từ một phần ba đến một nửa thu nhập quốc dân. Việc huy động và chi tiêu những khoản tiền khổng lồ như thế tạo ra ảnh hưởng to lớn đến công bằng, động lực, sản xuất, hiệu quả và thịnh vượng. 

Vì vậy, có thể kỳ vọng rằng các hệ thống thuế được thiết kế cẩn thận, dựa trên tầm nhìn và nguyên tắc, đồng thời giảm đến mức tối đa những méo và làm người ta nản lòng. Nhưng kỳ vọng khác xa với thực tế. Thông thường, có lẽ là thường xuyên, các khoản thuế không phải là sản phẩm của những bộ óc có lý trí mà là kết quả rất thiếu mạch lạc của hàng ngàn sáng kiến chính trị không liên quan và thiếu cân nhắc, kéo về hướng này rồi lại về hướng khác, trong suốt nhiều năm và nhiều thập kỷ. Thuế khoá trở nên quá phức tạp và thường là lỗi thời. Có thể khó đạt được các mục tiêu (đôi khi là cạnh tranh với nhau) về việc làm, giá cả ổn định, tăng trưởng và thương mại. Trong nhiều trường hợp, hệ thống thuế khoá thậm chí còn không đáp ứng được các nguyên tắc cơ bản mà Adam Smith đề ra về công bằng, chắc chắn, tiện lợi và hiệu quả. 

Công bằng. Bất công trong hệ thống thuế khoá không phải là hiếm. Nhưng mục tiêu công bằng thường xung đột với các mục tiêu khác. Ví dụ, công bằng có thể gợi ý rằng những người có thu nhập cao hơn nên đóng thuế suất cao hơn, nhưng nó lại có nghĩa là phân biệt đối  xử, có nghĩa là bất công. Hoặc dường như bất công khi một số trẻ em được thừa kế một khối tài sản lớn, nhưng việc mọi người tiết kiệm để chu cấp cho gia đình lại là điều đáng khen. 

Chắc chắn. Luật thuế cũng thường không rõ ràng. Một lúc có quá nhiều loại thuế làm cho người dân khó biết họ thực sự phải đóng bao nhiêu. Nhiều khoản khấu trừ và miễn trừ đồng nghĩa với việc người dân phải thuê kế toán để điều chỉnh biểu mẫu thuế của mình. Và còn những khoản chi khổng lồ và sự không chắc chắn của các cuộc tranh luận pháp lý về việc diễn giải các quy tắc phức tạp này. 

Tiện lợi. Chính phủ luôn cố gắng tạo điều kiện thuận lợi cho người dân nộp thuế. Thuế thu nhập và thuế xã hội được khấu trừ ngay tại nguồn, thuế bán hàng được cộng vào giá mua, v.v. Nhưng một lần nữa, cách làm này che giấu gánh nặng thực sự của thuế, mâu thuẫn với trung thực và công bằng. 

Hiệu quả. Những loại thuế hiệu quả sẽ dễ thu và ít làm méo mó hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, hầu hết các nước đều chi rất nhiều tiền thì mới thu được (bộ máy thuế khoá quy mô lớn là bằng chứng) và làm méo mó thị trường – ví dụ, ưu tiên một số khoản đầu tư hoặc ngành công nghiệp cụ thể. 

Việc làm, giá cả, tăng trưởng, thương mại. Chính sách thuế chủ động không giúp chúng ta tránh khỏi những biến động lớn về thất nghiệp hay lạm phát. Nhiều nền kinh tế lớn đang phải vật lộn với tốc độ tăng trưởng thấp. Thuế xuất nhập khẩu đã thấp hơn trước, nhưng các loại rào cản khác thì vẫn còn (Butler 2021: 111–22). 

Doanh thu đủ. Chính sách thuế cũng không ngăn chặn được tình trạng chính phủ bị thâm hụt. Thay vào đó, chi phí chi tiêu trong hiện tại được chuyển sang cho các thế hệ tương lai dưới dạng nợ - một lần nữa mâu thuẫn với công bằng. 

Đơn giản. Các bộ luật thuế hiếm khi là đơn giản. Bộ luật của nước Anh gồm hơn mười triệu từ: chỉ đọc thôi cũng sẽ mất khoảng 50 ngày (và đêm). Các luật và quy định về thuế của Hoa Kỳ “chỉ” có bốn triệu từ, nhưng còn cần phải xem xét rất nhiều tập phán quyết của tòa án nữa. Khoảng 99% tổng số những câu chữ này được bổ sung từ sau năm 1935, và một nửa là từ năm 1990 (Bishop-Henchman 2014). Tuy nhiên, luật thuế càng dài thì càng không đơn giản và càng dễ xung đột với tính chắc chắn, hiệu quả và công bằng. 

Chính sự phức tạp của thuế khoá cũng là một loại thuế.

Chính trị gia Hoa Kỳ Max Baucus (1941–) 

Hiện đại. Các quy định về thuế khoá khó theo kịp những biến động của thị trường. Các cơ quan chức năng có thể tìm cách đánh thuế các loại sản phẩm hoặc hoạt động khác nhau, nhưng thị trường lại tạo ra những sản phẩm hoặc hoạt động mới không phù hợp với định nghĩa về đối tượng chịu thuế. Chính quyền thường phản ứng bằng cách bổ sung các quy định mới, làm cho tình hình càng trở nên phức tạp hơn. 

Đạt được mục tiêu 

Nhiều người mong muốn thuế đơn giản hơn và công bằng hơn. Nhưng một lần nữa, những nguyên tắc này lại mâu thuẫn với những mục tiêu khác. Thuế đơn giản hơn sẽ giúp làm giảm thời gian, tiền bạc và sự căng thẳng của người dân khi xử lý các biểu mẫu thuế, và có thể công bằng hơn hệ thống phức tạp mà chỉ những người có chuyên gia lương cao hỗ trợ thì mới có thể vận dụng được. Tuy nhiên, đơn giản hóa có thể mâu thuẫn với ý tưởng đặt thêm gánh nặng lên vai những người có khả năng chi trả cao nhất hay khuyến khích các hoạt động hữu ích như đầu tư và ngăn cản các hoạt động có hại như ô nhiễm môi trường. 

Chính sách thuế hợp lý sẽ làm cho thuế khoá trở thành đơn giản nhất có thể, nếu xét đến các mục đích xung đột với nhau, và đảm bảo rằng chi phí cho bất kỳ sự phức tạp nào đều được bù đắp bằng lợi ích thu được. Nhưng chính sách thuế khoá không chỉ được thúc đẩy bởi lý trí: chắc chắn là chính trị sẽ can thiệp. Thậm chí, các chính trị gia có thể hoan nghênh sự phức tạp, vì nó che giấu gánh nặng thực sự của thuế khoá và do đó làm giảm thái độ phản đối của dân chúng. Để giành được phiếu bầu, họ cũng có thể tạo ra các khoản miễn trừ phức tạp dành cho các nhóm được ưu ái. Bất kỳ kế hoạch nào nhằm cải cách thuế khoá đều phải nhận thức được những trở ngại như vậy. 

Một bản thiết kế được cân nhắc kỹ lưỡng về những yếu tố có thể cấu thành nên hệ thống thuế tốt được trình bày trong Báo cáo Mirrlees (Mirrlees Review), do nhà kinh tế học người Anh, Khôi nguyên Nobel – Sir James Mirrlees (1936–2018) – chủ trì, trong đó, đầu những năm 2000, ông đã tập hợp một nhóm các chuyên gia quốc tế để cùng xem xét vấn đề này[1]. Báo cáo kết luận, thứ nhất, hệ thống như thế nên được xây dựng một cách mạch lạc để đáp ứng nhu cầu tài chính tổng thể của chính phủ. Hệ thống phải minh bạch và không nên gắn cứng nguồn thu vào những mục đích cụ thể. Đồng thời, không nên cố buộc mọi sắc thuế phải phục vụ mọi mục tiêu, miễn là toàn bộ hệ thống vẫn đạt được các mục tiêu chung của nó. Thứ hai, hệ thống nên hướng đến tính trung lập, và bất kỳ những điểm khác biệt so với điều này (ví dụ, thuế đánh vào các hoạt động có hại cho môi trường, hoặc ưu đãi thuế để thúc đẩy nghiên cứu và phát triển) phải được giải trình đầy đủ. Thứ ba, hệ thống tổng thể nên mang tính lũy tiến, đánh thuế những người có khả năng chi trả cao nhất – nhưng dựa trên nguồn lực trọn đời của họ, chứ không chỉ dựa trên những gì họ có tại một thời điểm  nào đó (Adam et al. 2011: ch. 20). 

Nguyên tắc cải cách 

Thuế có hại. Nguyên tắc đầu tiên để công cuộc cải cách thuế thành công là thừa nhận rằng một số (hay thậm chí hầu hết) loại thuế chắc chắn sẽ có hại. Dân chúng tham gia vào các giao dịch tự nguyện - trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ để lấy tiền, vì cả hai bên đều có lợi. Nhưng thuế làm giảm giá trị được tạo ra vì chúng cản trở và bóp méo những giao dịch đó. Hơn nữa, thuế lấy tiền của các cá nhân và chuyển nó vào quy trình quan liêu, có thể sử dụng tài nguyên kém hiệu quả hơn là chính những cá nhân đó. 

Khi phần sinh kế của người dân bị trưng thu dưới hình thức thuế nhiều hơn mức cần thiết để đáp ứng những nghĩa vụ chính đáng của chính quyền và các chi phí cho việc quản trị tiết kiệm, thì trưng thu trở thành hành vi cưỡng đoạt tàn nhẫn và là vi phạm những nguyên tắc căn bản của chính phủ tự do.

Tổng thống Hoa Kỳ Grover Cleveland (1837–1908) 

Ngoại lệ là thuế Pigovian, nhằm mục đích ngăn chặn, để giá trị không bị xói mòn bởi các hoạt động gây ô nhiễm hoặc đánh bắt quá mức. Thật vậy, chúng nhằm mục đích thúc đẩy giá trị bằng cách cung cấp cho các thương nhân một chỉ báo hợp lý hơn về giá trị của mỗi nguồn tài nguyên. Nhưng thuế Pigovian có thể bị đặt nhầm ở mức thấp hơn hoặc vượt quá giá trị đó, và các chính trị gia có thể tăng thuế để tăng thu. Vì vậy, nếu không được cấu trúc tốt, ngay cả những loại thuế này cũng có thể làm giảm giá trị. 

Giảm thuế đến mức tối thiểu. Có lẽ cách dễ nhất để làm giảm đến mức tối đa tác hại do thuế gây ra là giữ các khoản thuế ở mức tối thiểu. Những người bên phía cung cho rằng cách tốt nhất để làm điều đó là giảm đến mức tối đa nhu cầu về thuế - tức là giảm đến mức tối đa các khoản chi tiêu công. Lúc đó, thuế có thể trở thành đơn giản hơn; ít cần đến các biện pháp chống trốn thuế, và chi phí thực thi (ví dụ, chống buôn lậu hay trốn thuế) cũng sẽ giảm. 

Thuế suất cao – đôi khi làm giảm tiêu thụ các mặt hàng bị đánh thuế, đôi khi lại khuyến khích nạn buôn lậu – thường mang lại cho chính quyền nguồn thu thấp hơn so với những gì có thể thu được từ mức thuế ôn hòa hơn.

Nhà kinh tế học người Scotland Adam Smith (1723–90) 

Kiềm chế những khoản chi tiêu của chính phủ 

Kiềm chế chi tiêu công không phải là việc dễ: lúc nào cĩung có áp lực từ các nhóm lợi ích và công chúng nhằm mở rộng chi tiêu. Nhưng qua nhiều thế kỷ, nhiều chiến lược khác nhau đã được đề xuất. 

Kiềm chế vay nợ. Trong thế kỷ XVIII, đã có những tranh luận ở cả Anh và Mỹ về những nguy hiểm mà “nợ quốc gia” gây ra. 

Cấm chính phủ đi vay đồng nghĩa với việc họ sẽ phải sống trong phạm vi nguồn thu thuế hiện có và không thể chuyển gánh nặng sang cho các thế hệ tương lai. Tuy nhiên, chính phủ có thể cần vay nợ để chống chiến tranh, đại dịch và các trường hợp khẩn cấp khác. Ngay cả trong những giai đoạn bình thường, việc chính phủ đi vay để tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng dài hạn như đường sá và cầu cống - giống như các gia đình vay tiền để mua nhà và ô tô - và hưởng lợi ngay lúc này chứ không phải chờ đợi hàng thập kỷ. 

Không gì có thể làm cho một đất nước rơi vào trạng thái tê liệt như chết hơn là hệ thống thuế khóa tràn lan và món nợ quốc gia khổng lồ.

 William Cobbett (1763–1835), nhà bình luận chính trị người Anh 

Do đó, nhu cầu kiểm soát vay nợ dẫn đến những lời kêu gọi về ngân sách cân bằng, tức là trong một khoảng thời gian nhất định – ví dụ, trong giai đoạn thăng trầm kéo dài bảy hoặc mười năm của một chu kỳ kinh doanh – sổ sách kế toán của chính phủ phải cân bằng. Do đó, nếu chính phủ đã vay trong nửa chu kỳ đi xuống, thì chính phủ phải tạo ra thặng dư tương ứng trong nửa chu kỳ đi lên. 

Nhưng chu kỳ kinh doanh không bao giờ diễn ra một cách đều đặn và có thể dự đoán được. Các chính phủ vay nợ nhằm vượt qua thời kỳ khó khăn có thể phát hiện được rằng thời kỳ khó khăn kéo dài hơn dự kiến, làm tiêu tan mọi triển vọng cân bằng trở lại. Và những cú sốc bất ngờ, chẳng hạn như mùa màng thất bát hoặc chuỗi cung ứng bị gián đoạn, một lần nữa, khiến quy tắc ngân sách cân bằng trở thành khó thực hiện. 

Quy tắc linh hoạt hơn có thể là chính phủ tiếp tục vay ở mức có thể quản lý được so với GDP – ví dụ, 3%. Nhưng cũng xảy ra những vấn đề cũng tương tự: cam kết vay nợ dài hạn có thể được thực hiện, nhưng GDP lại chững lại do một số cú sốc (như lệnh cấm vận dầu khí), hoặc một số trường hợp khẩn cấp (như chiến tranh hoặc đại dịch) có thể xảy ra. Và đề xuất nói rằng chính phủ chỉ nên vay để đầu tư đã vấp phải vấn đề về xu hướng của các chính trị gia khi gọi hầu hết các hình thức chi tiêu là “đầu tư”. 

Một đề xuất khác là chính phủ không nên công bố các khoản chi tiêu mới mà không đồng thời giải thích cách thức tăng thuế để tài trợ cho những khoản chi tiêu này. Đối với những khoản chi tiêu dài hạn, ví dụ như các chương trình hưu bổng của nhà nước, chính phủ nên xác định cả chi phí trong hiện tại lẫn tương lai để chứng tỏ rằng khoản chi tiêu này nằm trong khả năng chi trả. Nhưng điều này một lần nữa dường như chỉ là hy vọng mong manh: ngay cả khi chi tiêu và thuế được công bố cùng nhau, cử tri có thể sẽ hoan nghênh khoản chi tiêu ngay lập tức và không quá lo lắng về việc phải có những dự đoán chính xác về nguồn tài trợ trong tương lai. 

Tiếp theo, các chính phủ có thể áp dụng phương pháp lập ngân sách từ số không, theo đó, mỗi năm đều phải giải trình đầy đủ mọi khoản chi tiêu, thay vì để cho ngân sách tự động tiếp diễn từ năm này sang năm khác mà không bị chất vấn. Người ta cho rằng làm như thế sẽ tạo điều kiện loại bỏ những hoạt động của chính phủ có giá trị thấp, và sẽ tạo áp lực buộc công chức phải mang lại giá trị tối đa cho số tiền đã bỏ ra. Nhưng, cách tiếp cận chính sách chi tiêu hợp lý này cũng vấp phải thực tế chính trị. Xác định “giá trị” của nhiều khoản chi tiêu công là việc không dễ - chẳng hạn như chi tiêu phúc lợi, nghiên cứu hoặc chăm sóc xã hội. Và mỗi chương trình sẽ có những người ủng hộ - bao gồm cả những người làm việc trong đó hoặc hưởng lợi từ chương trình đó - những người sẽ bảo vệ chương trình và ngân sách của chương trình một cách quyết liệt. 

 Một đề xuất liên quan là luật “hoàng hôn”, theo đó các chương trình và cơ quan chính phủ được cấp một thời hạn hoạt động cố định, sau đó chúng phải được bỏ phiếu thì mới có thể tiếp tục hoạt động, nếu không sẽ hết hiệu lực. Mặc dù một số nước đã thành công trong việc loại bỏ các chương trình và cơ quan kém hiệu quả bằng phương pháp này, nhưng nó vẫn bị các nhóm lợi ích phản đối. Và với số lượng lớn các cơ quan và chương trình chính phủ, các nhà lập pháp thường thấy dễ dàng hơn khi chỉ cần bỏ phiếu cho họ làm thêm một nhiệm kỳ mới thay vì dành thời gian nghiên cứu xem liệu họ có xứng đáng với số tiền bỏ ra hay không. 

Khung nguyên tắc nền tảng về thuế (Tax constitution). Chuyển từ vấn đề chi tiêu sang thuế khóa, các nhà kinh tế học Hoa Kỳ Geoffrey Brennan (1924–2022) và James M. Buchanan (1919–2013) đề xuất “khung nguyên tắc nền tảng về thuế” nhằm kiềm chế quy mô và hạn chế việc chính trị hóa hệ thống thuế (Brennan và Buchanan, 1980). Giống như các quy tắc khác, đây sẽ là bộ quy tắc lâu dài, đòi hỏi sự đồng thuận của tuyệt đại đa số về loại thuế nào có thể được áp dụng và cách thức áp dụng. Khung nguyên tắc nền tảng về thuế giúp người ta dễ dự đoán hơn so với các hệ thống hiện tại, trong đó luật lệ thuế khoá thay đổi theo ngân sách hàng năm. Cách làm này sẽ tạo điều kiện cho mọi người lập kế hoạch tốt hơn cho tương lai và do đó, tăng năng suất. Nó sẽ giúp việc đánh thuế trở nên đơn giản hơn vì sẽ không có cơ hội cho ngân sách hàng năm tạo thêm thuế mới hoặc tô vẽ cho thuế cũ. Nó sẽ bảo vệ người nộp thuế khỏi những yêu cầu tốn kém của các nhà vận động hành lang vì hầu như tất cả mọi người sẽ phải đồng ý trước khi có thể áp thuế. 

Tuy vậy, thật khó hiểu vì sao giới chính trị gia lại chấp nhận bất kỳ cơ chế nào như thế, xét đến quyền tự do điều chỉnh thuế khóa mà họ đang nắm giữ hiện nay. Thêm nữa, có thể sẽ có những tình huống khẩn cấp đòi hỏi nguồn thu cao hơn ngay lập tức, trước khi kịp đạt được sự đồng thuận để sửa đổi “Khung nguyên tắc nền tảng về thuế”. 

Các giải pháp thay thế cho thuế 

Nói một cách đơn giản hơn, chính phủ có thể giảm thuế, và tác hại mà nó gây ra đến mức tối tiểu, bằng cách đặt ra một vài câu hỏi về chi tiêu của họ. 

Thứ nhất, liệu mỗi hoạt động của chính phủ có thực sự cần phải được thực hiện hay không? (Ví dụ, chúng ta có thực sự cần thư viện công cộng không?) Thứ hai, nếu cần thực hiện một hoạt động nào đó, thì liệu có cần chính phủ phải thực hiện hay không? (Liệu các tổ chức từ thiện tư nhân có thể cung cấp thư viện thay thế không?) Thứ ba, nếu chính phủ phải chịu trách nhiệm thực hiện chức năng nào đó, thì liệu chính phủ có cần tự mình thực hiện chức năng đó hay không? (Liệu chính phủ có thể thuê ngoài việc quản lý thư viện không?) Thứ tư, nếu chính phủ phải tự mình thực hiện hoạt động đó, liệu chính phủ có thể làm tốt hơn nữa hay không? (Liệu có cách nào rẻ hơn để đưa sách đến với công chúng không?) 

Về điểm cuối cùng này, có một số cách để giảm thuế đến mức tối thiểu: làm cho các hoạt động thiết yếu của chính phủ hiệu quả hơn về mặt chi phí, hoặc được tài trợ bằng các nguồn khác ngoài thuế, bao gồm những biện pháp sau đây. 

Cạnh tranh. Các dịch vụ của chính phủ có thể được giảm giá đáng kể bằng cách đưa chúng vào môi trường cạnh tranh[2]. Các doanh nghiệp nhà nước có thể được tư nhân hóa và trở thành các nhà cung cấp độc lập, phải cạnh tranh trên thị trường. Cạnh tranh đó sẽ giúp giảm chi phí và nâng cao chất lượng – điều mà các công ty độc quyền nhà nước còn yếu kém. Rất có thể toàn bộ chi tiêu của chính phủ - trước đây cần các khoản này để duy trì các hoạt động - có thể được tiết kiệm. Thậm chí có thể trở thành nguồn thu thuế ròng (ví dụ, xem Pirie 1988). 

Các dịch vụ cũng có thể được thuê ngoài. Chính quyền trung ương hoặc địa phương vẫn có thể chịu trách nhiệm về thu gom rác thải, bảo trì đường bộ, trường học, phòng cháy chữa cháy hoặc nước sạch, nhưng thuê các công ty tư nhân hoặc các nhóm phi lợi nhuận cung cấp. Đồng thời, cạnh tranh có thể được tạo ra, với nhiều nhóm khác nhau cạnh tranh để giành hợp đồng cung cấp dịch vụ, hoặc với các dịch vụ được phân chia giữa nhiều nhà cung cấp. Một lần nữa, kỳ vọng là chi phí sẽ giảm, chất lượng tăng và người nộp thuế sẽ tiết kiệm được tiền (xem Savas 2000)[3]. 

Phí sử dụng. Các dịch vụ mà chính phủ tiếp tục cung cấp không nhất thiết phải được tài trợ từ thuế. Ví dụ, nhiều cầu, đường hầm và hệ thống đường cao tốc được tài trợ từ phí cầu đường – tức là phí áp dụng cho người sử dụng. Phí cầu đường có thể tăng vào các giờ cao điểm để giảm ùn tắc, mà thuế không phải là giải pháp hữu hiệu. 

Công nghệ mới giúp các giải pháp thay thế này trở thành dễ dàng hơn. Ví dụ, xe cộ có thể được gắn thẻ thanh toán tự động tính phí khi đi qua trạm thu phí hoặc trên những tuyến đường đông đúc. Những phát triển tương tự cho phép thu phí sử dụng trên các tuyến đường thủy hoặc tại các công viên, viện bảo tàng và cơ sở giải trí do chính phủ cung cấp. 

Gộp dịch vụ. Một phương thức khác để cho phép thu phí là gộp dịch vụ. Như đã đề cập trước đó, hải đăng khởi nguồn từ việc các hoa tiêu hàng hải đốt lửa hiệu trên bờ để quảng bá dịch vụ của mình. Các tàu sẽ trả tiền cho hoa tiêu để được hướng dẫn vào cảng, với lửa hiệu cảnh báo được gộp vào. Sau đó, chính các cảng đã tính phí cập cảng, bao gồm cả chi phí cho những ngọn hải đăng, hướng dẫn tàu thuyền vào cảng an toàn (Geloso 2019). 

Một ví dụ hiện đại về gộp dịch vụ có thể là các công viên quốc gia - khó hạn chế người ta tiếp cận. Tuy nhiên, phí đỗ xe, nhà nghỉ, quán cà phê, cửa hàng và các tiện ích khác có thể được sử dụng để tạo ra ít nhất một phần doanh thu cần thiết để duy trì tài sản. 

Sử dụng và bán tài sản. Chính phủ thường sở hữu những vùng đất và tòa nhà rộng lớn nhưng không nhất thiết phải tận dụng tối đa giá trị của chúng. Các giải pháp khả thi có thể là thuê các chuyên gia quản lý tài sản của chính phủ, hoặc đơn giản là bán đất và tòa nhà mà chính phủ không sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả. Việc bắt buộc chính phủ phải duy trì bảng cân đối kế toán về tài sản và nợ phải trả sẽ giúp phát hiện được những tài sản tốn kém nào đang bị sử dụng không hết và nên được thanh lý. 

Gây quỹ cộng đồng và hoạt động từ thiện. Kinh nghiệm về gây quỹ cộng đồng cho thấy chúng ta không nên đánh giá thấp sự sẵn sàng của công chúng trong việc tự nguyện chi trả cho những thứ mà họ cho là quan trọng. Rất nhiều kênh truyền hình, viện bảo tàng và nhà hát dịch vụ công được duy trì không phải bằng nguồn thu thuế của chính phủ mà bằng các nguồn đóng góp tư nhân. Các nhà từ thiện cũng hỗ trợ các dàn nhạc, thư viện, phòng trưng bày nghệ thuật và các tổ chức văn hóa khác trên quy mô lớn. Liệu các dịch vụ công khác - đặc biệt là những dịch vụ không phải là “hàng hóa công” thực sự - có thể được tài trợ theo cách này, thay vì thông qua thuế hay không? 

Kết luận 

Dù có nhiều lựa chọn thay thế đến đâu, thuế vẫn dường như sẽ tiếp tục là biện pháp vừa cần thiết vừa không thể tránh khỏi nhằm duy trì các hoạt động và dịch vụ công ở quy mô như hiện nay. Có lẽ, mọi chính phủ đều nên coi việc khảo sát tất cả các lựa chọn là nghĩa vụ của mình, trước khi dễ dãi vươn tay tới những khoản thuế mới và thuế suất cao hơn. 

“Thuế,” vị thẩm phán Hoa Kỳ Oliver Wendell Holmes (1841–1935) viết: “là cái giá ta phải trả cho một xã hội văn minh.” Nhưng cũng có thể tồn tại nhiều cách khác — ít nhất là để góp phần trang trải chi phí cho nền văn minh ấy — và thậm chí là những cách ít gây tổn hại hơn.

 TÀI LIỆU CẦN ĐỌC 

Adam, S., et al. (2011) Tax by Design: The Mirrlees Review. Oxford University Press. 

Akcigit, U., Baslandze, S. and Stantcheva, S. (2016) Taxation and the international mobility of inventors. American Economic Review 106 (10): 2,930–81. 

Akcigit, U., Grigsby, J., Nicholas, T. and Stancheva, S. (2019a) Taxation and innovation in the twentieth century. NBER Working Paper 24982. 

Akcigit, U., Grigsby, J., Nicholas, T. and Stancheva, S. (2019b) Higher taxes tend to suppress innovation. London School of Economics blog, 6 July (https://blogs.lse.ac.uk/usappblog/2019/07/06/higher-taxes-tend-to-suppress-innovation/). 

Bishop-Henchman, J. (2014) How many words are in the tax code? Tax Foundation blog, 15 April (https://taxfoundation.org/blog/how-many-words-are-tax-code/). 

Blankson, S. (2007) A Brief History of Taxation. Practical Books. 

Bracewell-Milnes, B. (1992) False Economy: Losses from High Capital Gains Tax Rates. London: Adam Smith Institute. 

Bracewell-Milnes, B. (1994) Will to Succeed: Inheritance without Taxation. London: Adam Smith Institute. 

Bracewell-Milnes, B. (1995a) Captive capital: how lower gains  taxes unlock wealth. Report. London: Adam Smith Institute. 

Bracewell-Milnes, B. (1995b) Free wills: inheritance without taxes. Paper. London: Adam Smith Institute. 

Bracewell-Milnes, B. (2002) Euthanasia for Death Duties. Research Monograph 54. London: Institute of Economic Affairs. 

Brennan, G. and Buchanan, J. M. (1980) The Power to Tax: Analytical Foundations of a Fiscal Constitution. Cambridge University Press. 

Bunn, D. and Hogreve, L. (2022) International tax competitiveness index 2022. Tax Foundation, 17 October (https://taxfoundation.org/research/all/global/2022-international-tax-com petitiveness-index/). 

Burman, L. E., Gale, W. G., Gault, S., Kim, B., Nunns, J. and Rosenthal, S. (2016) Financial transactions taxes: an overview. Tax Policy Center (Urban Institute and Brookings Institution).

 Butler, E. (2007) Adam Smith: A Primer. London: Institute of Economic Affairs. 

Butler, E. (2010a) The problems of socialism. In Ludwig von Mises: A Primer. London: Institute of Economic Affairs. 

Butler, E. (2010b) Austrian Economics: A Primer. Adam Smith Institute. 

Butler, E. (2011) Milton Friedman: A Concise Guide to the Ideas and Influence of the Free-Market Economist. Harriman Economics Essentials. 

Butler, E. (2012a) Public Choice: A Primer. London; Institute of Economic Affairs. 

Butler, E. (2012b) Friedrich Hayek: The Ideas and Influence of the Libertarian Economist. Harriman Economics Essentials. 

Butler, E. (2015) Magna Carta: A Primer. London: Adam Smith Institute. 

Butler, E. (2020a) An Introduction to Entrepreneurship. London; Institute of Economic Affairs.

 Butler, E. (2020b) The moral case for lower taxes. In The Single Income Tax: The 2020 Tax Commission Final Report (A. Heath et al.). Taxpayers Alliance.

 Butler, E. (2021) An Introduction to Trade and Globalisation. London: Institute of Economic Affairs. 

Butler, E. (2022) An Introduction to Economic Inequality. London: Institute of Economic Affairs.

 Coase, R. (1960) The problem of social cost. Journal of Law and Economics 3: 1–44. Cole, A. (2015) Estate and inheritance taxes around the world. Tax Foundation, 17 March (https://taxfoundation.org/research/all/eu/estate-and-inheritance-taxes-around-world/). 

Dadush, U. (2013) Incentives to attract FDI. Carnegie Endowment Global Agenda Council on Global Trade and FDI, 1 May (https://carnegieendowment.org/2013/05/01/incentives-to-attract-fdi-pub-52270).

 

Delestre, I., Kopczuk, W., Miller, H. and Smith, K. (2022) Top income inequality and tax policy. Report. London: Institute for Fiscal Studies. 

Due, J. F. and Kay, J. A. (n.d.) Evolution of government borrowing. In ‘Money: Theory and History’ Britannica (https://www.britannica.com/money/government-budget/Evolution-of-government-borrowing). 

Durante, A. (2021) Reviewing recent evidence of the effect of taxes on economic growth. Tax Foundation blog, 21 May (https://taxfoundation.org/research/all/federal/reviewing-recent-evidence-effect-taxes-economic-growth/). 

Ebbs, C. (2014) Only a quarter of car tax is spent on roads. Auto Express, 29 October (https://www.autoexpress.co.uk/car-news/consumer-news/89224/only-a-quarter-of-car-tax-is-spent-on-roads). 

Economist, The (2005) The case for flat taxes. Special Report, 14 April (https://www.economist.com/special-report/2005/04/14/the-case-for-flat-taxes). 

European Commission (2013a) History of the proposal on financial transaction tax. Directorate-General, Taxation and Customs Union (https://taxation-customs.ec.europa.eu/system/files/2018-04/history-proposal-financial-transaction-tax_en.pdf). 

European Commission (2013b) Business, economy, euro: taxation and customs union: home: financial transactions tax: taxation of the financial sector (https://taxation-customs.ec.europa.eu/financial-transaction-tax_en). 

Feldstein, M. (2008) Effects of taxes on economic behaviour. National Tax Journal 51(1): 131–39.Friedman, M. (2004) Fox News interview, 15 May (https://www.foxnews.com/story/your-world-interview-with-economist-milton-friedman). 

Geloso, V. (2019) The lighthouse never justified state intervention. Adam Smith Institute blog, 10 June (https://www.adamsmith.org/blog/the-lighthouse-never-justified-state-intervention-1). 

Goodspeed, T. (2022) A recipe for growth: the economic effects of corporate tax reform in the UK. Paper. London: Adam Smith Institute. 

Grecu, A. (2004) Flat Tax: The British Case. London: Adam Smith Institute. 

Gwartney, J. D. (2003) Supply side economics. Econlib.org (https://www.econlib.org/library/Enc/SupplySideEconomics.html). 

Hansen, A. H. (1953) A Guide to Keynes. McGraw-Hill. 

Hanson, C. and Sandalow, D. (2006) Greening the tax code. Tax Reform, Energy and the Environment Policy Brief. Washington, DC: Brookings Institution and World Resources Institute.

 Hayek, F. A. (1976) The Mirage of Social Justice. Chicago University Press. 

Johansson, A., Heady, C., Arnold, J. M., Brys, B. and Vartia, L. (2008) Taxation and economic growth. OECD Economics Department Working Paper 620. OECD. 

Keck, E. (2022) Five of the strangest taxes in history. Taxpayers Alliance (UK), 21 May (https://www.taxpayersalliance.com/five_of_the_strangest_taxes_in_history). 

Keep, M. (2023) Tax statistics: an overview. House of Commons Library. 

Keynes, J. M. (1936) The General Theory of Employment, Interest and Money. London: Macmillan and Co. 

Kolasa-Sikiaridi, K. (2022) How the super rich paid taxes in Ancient Greece. Greek Reporter, 23 August (https://greekreporter.com/2022/08/23/how-rich-greeks-once-paid-taxes-back-in-ancient-times/). 

Mankiw, N. G. et al. (2009) Optimal taxation in theory and practice. Journal of Economic Perspectives 23(4): 147–74. 

Marshall, A. (1890) Principles of Economics. London: Macmillan and Co. 

McBride, W. (2012) What is the evidence on taxes and growth? Tax Foundation, 18 December (https://taxfoundation.org/research/all/federal/what-evidence-taxes-and-growth/). 

Mitchell, D. J. (2011) Why tax havens are a force for good. Forbes, 4 September (https://www.forbes.com/sites/beltway/2011/09/04/why-tax-havens-are-a-force-for-good/). 

Nunns, J. R. (2012) How TPC distributes the corporate tax. Report. Tax Policy Center. (The Tax Policy Center is formed by the Urban Institute and Brookings Institution.) 

OECD (2020) 1. Tax Revenue. Trends 2019, Revenue Statistics 2020, OECD iLibrary. 

OECD (2011) Society at a glance: OECD social indicators, 6.1 Biennial report. (Equity Indicators; Income Inequality). Paris: OECD Publishing. 

OECD (2022) Revenue statistics 2022 (https://www.oecd-ilibrary.org/taxation/revenue-statistics-2022_8a691b03-en). 

Ortiz-Espina, E. and Roser, M. (2016) Taxation: ‘Marginal income tax rates from a historical perspective’. Our World in Data, 20 September (https://ourworldindata.org/taxation). 

Palan, R. (2022) What is a non-dom? City University, 8 April (https://www.city.ac.uk/news-and-events/news/2022/04/what-is-a-non-dom-an-expert-answers-questions-about-the-tax-status-claimed-by-rishi-sunaks-wife-and-other-wealthy-people). 

Phillips, W. (1967) The origin of income tax. British Tax Review 113: 208–24. 

Pirie, M. (1988) Privatization: Theory, Practice and Choice. Avebury. 

Poole, R. W. (1980) Cutting Back City Hall. Universe Publishing. 

PWC (2023) Worldwide taxsummaries: tax credits and incentives, United States: corporate: tax credits and incentives. PWC, 8 August (https://taxsummaries.pwc.com/united-states/corporate/tax-credits-and-incentives). 

Quinn, B. (2012) A brief history of the pasty tax. The Guardian, 29 May (https://www.theguardian.com/politics/2012/may/29/pasty-tax-brief-history). 

Ramaswamy, S. V. (2023) Moving from California to Texas: why so many are eager. USA Today, 4 July (https://www.usatoday.com/story/money/2023/07/04/california-to-texas-move-rising-popularity/70374012007/). 

Rogers, J. and Marques, N. (2021) The tax burden on global workers: a comparative index. Institut Économique Molinari and Americans for Tax Reform Foundation. 

Savas, E. S. (2000) Privatization and Public–Private Partnerships. SAGE Publications. 

Schneider, F. and Williams, C. C. (2013) The Shadow Economy. London: Institute of Economic Affairs. 

Shannon, J. (2017) Pa’s hidden tax was supposed to be temporary – in 1936. York Daily Record, 12 April (https://eu.ydr.com/story/news/2017/04/12/pas-18-hidden-tax-supposed-temporary-1936/100343742/). 

Shenfield, A. A. (1968) The Political Economy of Tax Avoidance. London: Institute of Economic Affairs. 

Snowdon, C. (2018a) Of Course Sin Taxes are Regressive. London: Institute of Economic Affairs. 

Snowdon, C. (2018b) The Impact of WHO Food and Drink Taxes on a Typical Household. London: Institute of Economic Affairs. 

Southwood, B. (2014) Who Pays Corporation Tax. London: Adam Smith Institute. 

Southwood, B. (2017) Beyond the call of duty: why we should abolish stamp duty land tax. Paper. London: Adam Smith Institute. 

Taylor, R. (1992) The Market in Environment. London: Adam Smith Institute. 

Teather, R. (2005) The Benefits of Tax Competition. London: Institute of Economic Affairs. 

Tobin, J. (1978) A proposal for international monetary reform. Eastern Economic Journal 4(3–4): 153–59. 

Vermeer, T. (2022) The impact of individual income tax changes on economic growth. Tax Foundation, 14 June (https://taxfoundation.org/research/all/state/income-taxes-affect-econ

omy/). 

Watson, G. and York, E. (2021) Top combined capital gains tax rates would average 48 percent under Biden’s tax plan. Tax Foundation, 23 April (https://taxfoundation.org/blog/biden-capital-gains-tax-rates/). 

Weber, T. O., Fooken, J. and Herrman, B. (2014) Behavioural economics and taxation. Working Paper 41. European Commission Taxation Papers. 

Whyte, J. (2019) In defence of tax havens. Economic Affairs 39(2): 264–72. 

Worstal, T. (2011) The case against a financial transactions tax. IEA Current Controversies Paper 33. London: Institute of Economic Affairs. 

York, E. (2023) Summary of the latest federal income tax data,2023 update. Tax Foundation, 26 January (https://taxfoundation.org/data/all/federal/summary-latest-federal-income-tax-data-2023-update/).

Zuluaga, D. (2016) Why Corporation Tax Should Be Scrapped. London: Institute of Economic Affairs.

 Đọc thêm 

Adam, S., et al. (2011) Tax by Design: The Mirrlees Review. Oxford University Press. (This, the final report from the Mirrlees Review, outlines proposals for tax reforms that characterise a good tax system for any open developed economy and measures the UK tax system against that ideal.) 

Booth, P. (ed.) (2016) Taxation, Government Spending and Economic Growth. Institute of Economic Affairs. (This study concludes that the growth-maximising rate of government spending is in the range of 18.5–23.5 per cent of national income; the welfare-maximising range is 26.5–32.5 per cent and the maximum sustainable level of spending is 37–38 percent of national income.) 

Salin, P. (2021) Tax Tyranny: A Classical Liberal Analysis. Edward Elgar. (This book explores the economic effects of taxes, and how they diminish incentives to create, work, save and invest. We should focus not just on the overall burden of taxation but also on the damaging effects of specific taxes.)



[1] Kết luận của Đánh giá Mirrlees được tóm tắt trong Adam và cộng sự 2011. 

[2] Có rất nhiều ví dụ quốc tế trong Poole (1980)

[3] Savas cho rằng thuê ngoài thường xuyên sẽ mang lại khoản tiết kiệm khoảng 15%, mặc dù tiết kiệm có thể lớn hơn nhiều lần con số đó.

No comments:

Post a Comment