Elisabeth Kubler-Ross
Phạm Nguyên Trường dịch
VII
Giai đoạn năm: Chấp nhận
Tôi
đã được phép nghỉ. Anh em ơi, hãy giã từ tôi! Tôi cúi chào tất cả các anh và
xin chia tay.
Đây
tôi giao lại chía khóa cửa – và bỏ hết quyền đối với căn nhà tôi. Tôi chỉ xin
các anh những lời thân ái cuối.
Chúng
ta là hàng xóm láng giềng đã lâu, nhưng tôi nhận nhiều hơn khả năng đền đáp.
Bây giờ ngày đã rạng đông, và ngọn đèn thắp trong góc phòng tôi đã tắt. Lệnh
đòi đã tới và tôi đã sẵn sàng cất bước đăng trình.
Tagore, Thơ dâng
Nếu bệnh nhân đã có đủ thời gian (nghĩa là
không chết đột ngột, bất ngờ) và đã được giúp đỡ trong quá trình vượt qua các
giai đoạn được mô tả bên trên, thì người đó sẽ đến giai đoạn không chán nản
cũng không phẫn nộ về “số phận” của mình. Bệnh nhân sẽ có thể thể hiện những cảm
xúc trước đây của mình, thể hiện sự ghen tị của người đó trước những người đang
sống và khỏe mạnh, sự phẫn nộ trước những người không phải đối mặt với cái chết
quá sớm như mình. Bệnh nhân sẽ khóc thương cho những mất mát sắp xảy ra của rất
nhiều người và nhiều nơi có ý nghĩa và bệnh nhân sẽ suy ngẫm về cái chết sắp tới
của mình với kì vọng thầm lặng. Bệnh nhân sẽ cảm thấy mệt mỏi và thường tỏ ra
khá yếu. Bệnh nhân cũng thường xuyên ngủ gật hoặc ngủ trong những giai đoạn nào
đó, nó khác với nhu cầu ngủ trong giai đoạn chán nản. Đây không phải là ngủ nhằm
trốn tránh hay thời gian nghỉ ngơi nhằm giảm đau, khó chịu hoặc ngứa. Thời gian
ngủ ngày càng tăng dần, rất giống với trẻ sơ sinh, nhưng theo thứ tự ngược lại.
Đó không phải là cam chịu và “từ bỏ” vì vô vọng, cảm giác “có ích lợi gì” hay
“tôi không thể chiến đấu lâu hơn nữa”, mặc dù chúng ta cũng nghe thấy những
tuyên bố như thế. (Chúng còn cho thấy khởi đầu của giai đoạn kết thúc cuộc chiến
đấu, nhưng kết thúc không phải là dấu hiệu của chấp nhận).
Không nên nhầm lẫn chấp nhận với giai đoạn
hạnh phúc. Nó gần như trống rỗng về mặt cảm xúc. Như thể cơn đau đã qua, cuộc
chiến đấu đã kết thúc và đã đến lúc “nghỉ ngơi lần cuối trước một hành trình
dài” như một bệnh nhân đã nói. Đây cũng là giai đoạn mà gia đình cần được giúp
đỡ, thấu hiểu và hỗ trợ hơn là chính bệnh nhân. Trong khi bệnh nhân sắp chết đã
tìm được bình yên và chấp nhận, những mối quan tâm của người đó đang thu hẹp lại.
Bệnh nhân muốn được ở một mình hoặc ít nhất là không bị khuấy động bởi những
tin tức và vấn đề của thế giới bên ngoài. Người đó không muốn khách tới thăm nữa
và nếu khách đến, bệnh nhân không còn tâm trạng để nói chuyện nữa. Bệnh nhân
thường yêu cầu giới hạn số lượng người tới thăm và thích những chuyến thăm ngắn.
Đây cũng là giai đoạn tắt tivi. Lúc đó, thông tin liên lạc của chúng ta trở nên
phi ngôn ngữ, chứ không dùng lời nói nữa. Bệnh nhân có thể chỉ dùng tay để mời
chúng ta ngồi xuống một lát. Bệnh nhân có thể chỉ cần nắm tay và đề nghị chúng
ta ngồi im. Những khoảnh khắc im lặng như vậy có thể là cách giao tiếp có ý
nghĩa nhất đối với những người không cảm thấy khó chịu khi có người sắp chết ở
đó. Chúng ta có thể cùng nhau lắng nghe tiếng hót của một con chim từ bên ngoài
vọng vào. Sự hiện diện của chúng ta có thể chỉ xác nhận rằng chúng ta sẽ ở đây
cho đến cuối cùng. Chúng ta có thể chỉ cần cho bệnh nhân biết rằng không cần
nói gì nữa, khi những việc quan trọng đều đã được giải quyết và việc người đó
có thể nhắm mắt vĩnh viễn chỉ là vấn đề thời gian. Nó có thể trấn an người đó rằng
anh ta không cô đơn khi không còn nói nữa và một cái nắm tay, một cái nhìn, đặt
đầu anh ta lên cái gối có thể nói lên nhiều điều hơn là ngồn từ “ồn ào”.
Thăm vào buổi tối có thể là tốt nhất vì đó
là cuối ngày của cả khách thăm và bệnh nhân. Đó là lúc hệ thống của bệnh viện
không làm gián đoạn, y tá không vào đo nhiệt độ, lao công không lau sàn - chính
khoảnh khắc riêng tư ngắn ngủi này có thể kết thúc một ngày tại bệnh viện, ngay
khi bác sĩ không tới thăm nữa, khi bệnh nhân không bị người khác làm phiền. Chỉ
mất một chút thời gian, nhưng bệnh nhân sẽ cảm thấy an tâm khi biết rằng mình
không bị mọi người lãng quên, trong khi người ta không thể làm gì hơn cho mình.
Người tới thăm cũng cảm thấy hài lòng, vì nó giúp người đó thấy rằng người chết
không đáng sợ, không khủng khiếp đến mức làm cho nhiều người muốn trốn tránh.
Có một số bệnh nhân chiến đấu đến phút
chót, chiến đấu và nuôi hy vọng làm cho họ gần như không thể đến được giai đoạn
chấp nhận. Một ngày nào đó, họ là sẽ nói: “Tôi không thể tiếp tục được nữa”,
ngày họ ngừng chiến đấu, cuộc chiến đấu cũng kết thúc. Nói cách khác, họ càng
chiến đấu nhắm tránh cái chết không thể tránh được, họ càng cố gắng chối bỏ nó,
thì họ càng khó đạt đến giai đoạn cuối cùng, giai đoạn chấp nhận với tâm bình
yên và phẩm giá. Gia đình và nhân viên bệnh viện có thể nghĩ rằng những bệnh
nhân này là người cứng rắn và mạnh mẽ, họ có thể khuyến khích cuộc chiến nhằm
giành sự sống cho tới phút chót, và họ có thể ngầm thông báo rằng việc chấp nhận
kết cục của một người được coi là từ bỏ là hèn nhát, lừa dối hoặc tệ hơn nữa là
từ bỏ gia đình.
Lúc đó, làm sao chúng ta biết khi nào thì
bệnh nhân bỏ cuộc “quá sớm”, khi chúng ta cảm thấy rằng bệnh nhân chỉ cần chiến
đấu thêm một chút, cùng với sự giúp đỡ của các bác sĩ và y tá, có thể cho người
đó có cơ hội sống lâu hơn? Làm sao phân biệt bỏ cuộc với chấp nhận, khi mong muốn
của chúng ta trong việc kéo dài đời sống của bệnh nhân thường mâu thuẫn với
mong muốn được yên nghỉ và chết một cách thanh thản của anh ta? Nếu chúng ta
không thể phân biệt hai giai đoạn này, chúng ta sẽ gây hại nhiều hơn là làm lợi
cho bệnh nhân, nỗ lực của chúng ta sẽ và sẽ biến cái chết của bệnh nhân thành
trải nghiệm đau đớn cuối cùng. Trường hợp sau đây của bà W. là tóm tắt ngắn gọn
về sự kiện như thế - đây là trường hợp mà người ta không phân biệt được hai
giai đoạn này.
Bà W., một phụ nữ 58 tuổi đã có gia đình,
nhập viện với một khối u ác tính ở bụng làm bà rất đau đớn và khó chịu. Bà có
thể đối mặt với căn bệnh hiểm nghèo của mình với thái đô can đảm và phẩm giá. Rất
hiếm khi bà ấy phàn nàn và cố gắng tự mình làm nhiều việc nhất mà bà có thể
làm. Bà khước từ mọi đề nghị giúp đỡ nếu bà có thể tự mình làm được và gây ấn
tượng với các nhân viên bệnh viện và gia đình bằng thái độ vui vẻ và khả năng đối
mặt với cái chết sắp xảy với thái độ bình thản.
Một thời gian ngắn sau lần nhập viện cuối
cùng, bà ấy đột nhiên chán nản. Nhân viên bệnh viện tỏ ra bối rối trước sự thay
đổi như thế và yêu cầu tư vấn tâm lý. Bà ấy không có mặt trong phòng khi chúng
đến tôi tìm và lần thứ hai, sau đó vài giờ, bà ấy vẫn không có mặt. Cuối cùng
chúng tôi tìm được bà ấy ở hành lang bên ngoài phòng chụp X-quang, bà ấy nằm
trên cáng không được thoải mái và rõ ràng là rất đau. Cuộc phỏng vấn ngắn cho
thấy rằng bà ấy đã chụp X-quang hai lần, khá dài và phải chờ để chụp những bức ảnh
khác. Bà ấy rất khó chịu vì bị đau lưng, và không ăn uống gì trong mấy giờ vừa
qua, và khó chịu nhất là phải đi vệ sinh gấp. Bà ấy kể lại tất cả những chuyện
này với giọng thì thầm, tự mô tả mình là “tê cứng vì đau đớn”. Tôi đề nghị bế bà
ấy sang phòng vệ sinh bên cạnh. Bà ấy nhìn tôi - lần đầu tiên bà mỉm cười một
cách yếu ớt - và nói, “Không, tôi không có dép, tôi đợi cho đến khi về lại
phòng của mình. Tôi có thể tự mình đến đó”.
Nhận xét ngắn gọn này cho chúng tôi thấy một
trong những nhu cầu của bệnh nhân: tự chăm sóc mình càng lâu càng tốt, giữ phẩm
giá và sự độc lập của mình càng lâu càng tốt. Bà ấy phẫn nộ vì sức chịu đựng của
mình bị thử thách đến mức sẵn sàng la hét ở chỗ đông người, sẵn sàng đi vệ sinh
ngay ngoài hành lang, bà ta suýt khóc trước mặt những người xa lạ, “những người
chỉ làm nhiệm vụ của mình”
Sau đó vài ngày, chúng tôi nói chuyện với
bà trong hoàn cảnh thuận lợi hơn, rõ ràng là bà ấy ngày càng mệt mỏi và sẵn
sàng chết. Bà ấy nói ngắn gọn về những người con của mình, về người chồng, ông
ta sẽ có thể tiếp tục chăm sóc gia đình khi bà ấy không còn. Bà ấy cảm thấy một
cách mạnh mẽ là đời sống của mình, đặc biệt là cuộc hôn nhân, là tốt đẹp và có
ý nghĩa và chẳng còn mấy việc mà bà phải làm nữa. Bà ấy yêu cầu được chết một
cách thanh thản, mong muốn được ở một mình - thậm chí yêu cầu chồng đừng dính
vào. Bà ấy nói rằng lý do duy nhất làm cho bà ấy vẫn còn tiếp tục là do chồng
bà không thể chấp nhận sự thật là bà ấy sẽ phải chết. Bà ấy giận chồng vì không
dám đối mặt với nó và bám víu một cách tuyệt vọng vào những thứ mà bà đã quyết
tâm và sẵn sàng từ bỏ. Tôi nói rằng bà muốn tách ra khỏi thế giới này và bà ấy
gật đầu với vẻ biết ơn khi tôi để bà ấy ở lại một mình.
Trong khi đó, cả bệnh nhân và tôi đều
không biết là các nhân viên phẫu thuật họp, có cả chồng bà tham gia. Trong khi
các bác sĩ phẫu thuật tin rằng một lần phẫu thuật nữa có thể kéo dài đời sống của
bà ấy, thì người chồng cầu xin họ làm mọi thứ mà họ có thể “nhẳm quay ngược đồng
hồ”. Đối với ông ta, mất vợ là điều không thể chấp nhận được. Ông ta không thể
hiểu được rằng W. không còn nhu cầu ở bên ông ta nữa. Việc W. cần tách ra, để
cho quá trình chết được dễ dàng hơn, lại được ông ta lại giải thích là thái độ
cự tuyệt mà ông ta không thể nào hiểu được. Không có người nào giải thích được
cho ông ta rằng, đây là tiến trình tự nhiên, thực sự tiến bộ, có lẽ là dấu hiệu
cho thấy người sắp chết đã tìm thấy sự bình yên của mình và đang chuẩn bị một
mình đối mặt với nó.
Các bác sĩ quyết định tuần sau sẽ tiến
hành phẫu thuật cho bệnh nhân. Ngay khi được thông báo về kế hoạch, bà ấy đã
suy yếu hẳn đi một cách nhanh chóng. Gần như chỉ sau một đêm, bà ấy phải tăng gấp
đôi thuốc giảm đau. Bà ấy thường đòi phải tiêm ngay khi vừa rút kim ra. Bà ấy bồn
chồn và lo lắng, thường gọi người giúp đỡ. Bà ấy hầu như không còn là bệnh nhân
của vài ngày trước đó; không còn là người phụ nữ tự trọng đến mức không thể đi
vào nhà vệ sinh vì không có dép!
Những thay đổi hành vi như thế sẽ làm cho
chúng ta phải cảnh giác. Chúng là thông tin liên lạc của bệnh nhân của chúng
ta, họ đang cố gắng nói với chúng ta điều gì đó. Không phải lúc nào bệnh nhân
cũng có thể công khai từ chối một ca phẫu thuật nhằm kéo dài đời sống trước mặt
chồng và những đứa con đang van xin, mong ước một cách tuyệt vọng là được đưa mẹ
về nhà một lần nữa. Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, chúng ta không
nên đánh giá thấp hy vọng dù rất mong manh của chính bệnh nhân là được chữa khỏi,
khi đối mặt với cái chết đang rất cận kề. Như đã nói bên trên, bản chất của con
người là không chấp nhận chết, mà không còn một chút hy vọng nào. Do đó, chỉ
nghe những giao tiếp bằng lời nói công khai của bệnh nhân là không đủ.
Bà W. thể hiện rõ rằng mình muốn được yên.
Bà ấy đau đớn và khó chịu hơn hẳn sau khi nhận được thông báo về kế hoạch phẫu
thuật. Càng gần đến ngày phẫu thuật thì bà ta càng lo lắng hơn. Chúng tôi không
có quyền hủy bỏ kế hoạch phẫu thuật. Chúng tôi chỉ nói rằng mình thấy rất lo và
cảm thấy chắc chắn rằng bệnh nhân sẽ không qua được lần phẫu thuật này.
Bà W. không đủ sức từ chối ca phẫu thuật,
cũng như không chết trước hoặc trong khi đang phẫu thuật. Bà ấy trở nên hoảng
loạn ngay trong phòng phẫu thuật, nói rằng bị ngược đãi, và tiếp tục la hét cho
đến khi được đưa trở lại phòng của mình, chỉ vài phút trước khi ca phẫu thuật dự
kiến sẽ diễn ra.
Bà ấy rõ ràng là bị vọng tưởng, ảo giác và
hoang tưởng. Bà ấy trông có vẻ sợ hãi và hoang mang và không thể hiện được ý của
mình trong khi giao tiếp với nhân viên bệnh viện. Tuy nhiên, trong tất cả những
hành vi hoang tưởng này, mức độ nhận thức và logic vẫn còn tạo được ấn tượng
khá mạnh. Khi trở về phòng, bà ấy yêu cầu được gặp tôi. Ngày hôm sau, ngay khi
tôi vừa tới, bà ấy nhìn người chồng đang bối rối của mình và nói: “Xin bà nói
chuyện với người đàn ông này và giúp cho anh ta hiểu”. Sau đó, bà ấy quay lưng
lại phía chúng tôi, thể hiện thái độ rõ ràng rằng bà ấy cần được ở một mình.
Đây là lần đầu tiên tôi gặp chồng bà ta, ông ta không nói nên lời. Ông ta không
thể hiểu nổi hành vi “điên rồ” của người vợ vốn có tiếng là đoan trang thục nữ.
Ông ta khó có thể đối phó với sự kiện là sức khỏe của vợ mình xấu đi quá nhanh,
nhưng ông ta hoàn toàn không thể hiểu nổi “cuộc đối thoại điên rồ của chúng tôi
là về chuyện gì”.
Chồng bà ta mếu máo nói rằng, ông ta hoàn
toàn bối rối trước sự thay đổi bất ngờ này. Ông ta nó rằng cuộc hôn nhân của
mình là vô cùng hạnh phúc và không thể chấp nhận được sự kiện là vợ lại mắc căn
bệnh nan y như thế. Ông ta hy vọng rằng ca phẫu thuật sẽ giúp họ một lần nữa được
“gần nhau như trước”, như họ đã từng cảm thấy hạnh phúc trong nhiều năm chung sống.
Thái độ thờ ơ của vợ làm cho ông ta lo lắng, và thậm chí còn lo lắng hơn thế nữa
trước những hành vi gần như điên rồ của bà ấy.
Tôi hỏi ông ta về nhu cầu của bệnh nhân,
chứ không phải nhu cầu của chính ông ta, ông ta im lặng. Dần dần ông ta mới nhận
ra rằng mình chưa bao giờ lắng nghe nhu cầu của vợ, mà cho rằng hiển nhiên là họ
giống nhau. Ông ta không thể hiểu được rằng người bệnh đã tiến tới điểm mà chết
là sự giải thoát to lớn, và bệnh nhân sẽ chết dễ dàng hơn nếu người ta tạo điều
kiện và giúp họ từ từ tách mình ra khỏi tất cả các mối quan hệ có ý nghĩa trong
đời sống của mình.
Chúng tôi nói chuyện rất lâu. Khi trò chuyện,
mọi thứ dần trở nên rõ ràng và đi vào trọng tâm. Ông ta đưa ra nhiều câu chuyện
mang tính giai thoại để xác nhận rằng bà vợ đã cố gắng trình bày nhu cầu của
mình, nhưng ông ta không thể nghe được vì nhu cầu của vợ trái ngược với nhu cầu
của chính ông ta. Rõ ràng là ông W. cảm thấy nhẹ nhõm khi đi ra và từ chối lời
đề nghị đi cùng với ông ta vào phòng bệnh nhân. Ông ta cảm thấy có đủ khả năng
nói chuyện thẳng thắn với vợ về kết quả của bệnh tình của vợ và gần như vui mừng
vì cuộc phẫu thuật đã bị hủy bỏ vì cô ấy “kháng cự” - theo cách nói của ông ta.
Phản ứng của ông ta đối với chứng rối loạn tâm thần của vợ mình là, “Chúa ơi,
có lẽ cô ấy mạnh mẽ hơn tất cả chúng tôi. Chắc chắn là cô ấy đã lừa chúng tôi.
Cô ấy đã nói rõ là không muốn phẫu thuật. Có lẽ rối loạn tâm thần là cách duy
nhất để không bị mổ mà không chết trước khi cô ấy đã sẵn sàng”.
Vài ngày sau, bà W. khẳng định mình không
thể chết cho đến khi biết rằng chồng mình đã sẵn sàng buông bỏ. Bà ấy muốn chồng
chia sẻ một số cảm xúc của mình chứ không “thường xuyên giả vờ là tôi sẽ ổn”.
Chồng bà đã cố gắng tạo điều kiện để bà nói về nó, mặc dù đấy là điều khó khăn
và ông ta đã nhiều lần “thoái lui”. Lúc thì bám víu vào hy vọng xạ trị, lúc
khác lại tìm cách gây áp lực bắt vợ trở về nhà, hứa là sẽ thuê y tá riêng để
chăm sóc cho bà.
Trong suốt hai tuần sau đó, ông ta thường
đến để nói về vợ và những hy vọng của ông cũng như về việc bà ấy sẽ chết trong
thời gian tới. Cuối cùng ông ta chấp nhận sự thật là bà ấy sẽ ngày càng yếu hơn
và ít có khả năng chia sẻ nhiều chuyện từng rất có ý nghĩa trong cuộc đời của họ.
Ngay sau khi ca phẫu thuật bị hủy bỏ, bà ấy
đã hồi phục, không còn hiện tượng loạn thần kinh nữa, chồng bà cũng chấp nhận rằng
bà sắp chết và chia sẻ với bà ấy như thế. Bà ấy đã bớt đau hơn trước và tiếp tục
đóng vai quý bà trang nghiêm, tiếp tục làm những việc mà cơ thể cho phép. Các
nhân viên y tế ngày càng trở nên nhạy cảm với những biểu hiện tế nhị và họ phản
ứng một cách khéo léo, luôn luôn ghi nhớ nhu cầu quan trọng nhất của bà ấy: sống
với phẩm giá cho tới phút chót.
Bà W. là đại diện cho hầu hết các bệnh
nhân đang hấp hối của chúng tôi, mặc dù bà là người duy nhất tôi từng thấy phải
sử dụng giai đoạn loạn thần cấp tính như thế. Tôi tin chắc rằng đây là biện
pháp phòng thủ, một nỗ lực tuyệt vọng, tuy quá muộn, nhằm ngăn chặn việc can
thiệp nhằm kéo dài sự sống.
Như đã nói trước đây, chúng tôi nhận thấy
rằng những bệnh nhân được khuyến khích thể hiện sự phẫn nộ, khóc trong giai đoạn
đau khổ mang tính chuẩn bị, và thể hiện nỗi sợ hãi và tưởng tượng của mình với
người có thể im lặng ngồi và lắng nghe là những người may mắn. Chúng ta phải nhận
thức được nhiệm vụ to lớn cần thiết nhằm đạt được giai đoạn chấp nhận, dẫn đến
sự tách biệt dần dần (decathexis[1]), không còn giao tiếp hai
chiều nữa.
Chúng tôi đã tìm ra hai biện pháp nhằm đạt
được mục tiêu này một cách dễ dàng hơn. Một kiểu bệnh nhân sẽ đạt được điều đó
mà không cần bất kỳ sự trợ giúp nào từ những người xung quanh – chỉ cần hiểu biết
thầm lặng và không can thiệp. Đấy là những bệnh nhân lớn tuổi, cảm thấy đã đến
cuối đời, họ đã làm việc và đau khổ, đã nuôi dạy con cái và hoàn thành nhiệm vụ
của mình. Bệnh nhân sẽ tìm thấy ý nghĩa trong cuộc đời mình và có cảm giác mãn
nguyện khi nhìn lại những năm tháng mình từng sống và làm việc.
Loại thứ hai là những người kém may mắn
hơn, những người này có thể đạt đến trạng thái thể chất và tinh thần tương tự
như loại bệnh nhân thứ nhất khi họ có đủ thời gian để chuẩn bị cho mình chết. Họ
sẽ cần giúp đỡ và hiểu biết nhiều hơn của những người xung quanh trong khi chiến
đấu để vượt qua tất cả các giai đoạn đã mô tả trong những phần trước. Chúng tôi
đã chứng kiến phần lớn bệnh nhân đều chết trong giai đoạn chấp nhận, giai đoạn
sống mà không sợ hãi và tuyệt vọng. Có lẽ tốt nhất nên so sánh với những điều
Bettelheim[2] mô tả về thời thơ ấu: “Thật
vậy, đó là giai đoạn mà người ta không đòi hỏi chúng ta bất cứ thứ gì và người
ta cho chúng ta tất cả những thứ chúng ta muốn. Phân tâm học coi giai đoạn thơ ấu
ban đầu là giai đoạn thụ động, thời kỳ ái kỷ nguyên thủy, khi chúng ta trải
nghiệm chính mình như là tất cả”.
Và vì vậy, có thể trong những ngày cuối
cùng, khi chúng ta đã làm việc và cho đi, tận hưởng và đau khổ, chúng ta sẽ
quay trở lại giai đoạn mà chúng ta bắt đầu làm người và vòng đời khép lại.
Hai cuộc phỏng vấn sau đây là những ví dụ
về việc vợ và chồng cố gắng đạt đến giai đoạn chấp nhận.
Bác sĩ G., một nha sĩ, có con trai 24 tuổi,
là một người rất sùng đạo. Chúng tôi đã dùng trường hợp của ông ta làm ví dụ
trong Chương IV về thái độ phẫn nộ, khi câu hỏi được đặt ra: “Tại sao lại là
tôi?” và ông ta nhớ tới ông George đã rất già và tự hỏi tại sao không bắt người
đàn ông đó chết mà lại bắt ông ta. Mặc dù trong cuộc phỏng vấn này, ông ta đã
trình bày bức tranh về sự chấp nhận, nhưng ông ta cũng cho thấy mình vẫn còn hy
vọng. Về mặt trí tuệ, ông ta nhận thức khá rõ về tình trạng bệnh tật của mình
và là một người chuyên nghiệp, ông ta công nhận rằng cơ hội tiếp tục làm việc
là rất mong manh. Tuy nhiên, ông không sẵn sàng hoặc không thể nghĩ tới việc
đóng cửa văn phòng của mình ngay trước khi diễn ra cuộc phỏng vấn này. Ông ta
giữ lại một cô nhân viên trong văn phòng để nhận điện thoại và hy vọng rằng
Chúa có thể một lần nữa tạo ra sự cố đã từng xảy ra với ông ta trong những năm
chiến tranh, khi ông ta bị bắn ở khoảng cách rất gần và thoát chết, “bị bắn từ
khoảng cách 5 tới 6 mét mà không trúng, thì chắc chắn là có một số sức mạnh
khác, chứ không chỉ là một Kitô hữu hay bất cứ thứ gì khác”.
Bác
sĩ:
Anh có thể cho biết đã nhập viện được bao lâu và lý do vì sao anh nhập viện
này?
Bệnh
nhân:
Vâng. Tôi là nha sĩ như chị có thể đã biết và đã hành nghề khá nhiều năm. Cuối
tháng 6 vừa qua, tôi bị đau bất thình lình và tôi nhận ra là cơn đau bất thường,
tôi đã chụp X-quang ngay lập tức và ngày 7 tháng 7 năm nay, lần đầu tiên tôi đã
được phẫu thuật.
Bác
sĩ:
Năm 1966?
Bệnh
nhân:
Năm 1966, vâng. Và tôi nhận ra rằng, khả năng 90% là ác tính, nhưng tôi không
quan tâm lắm, vì đó là lần đầu tiên tôi cảm thấy đau đớn. Tôi đã trải qua ca phẫu
thuật trong tình trạng rất tốt, hồi phục đáng kể, sau đó bị tắc ruột và phải
quay lại để phẫu thuật thêm vào ngày 14 tháng 9. Còn từ ngày 27 tháng 10 trở
đi, tôi không hài lòng với quá trình hồi phục của mình. Vợ tôi đã liên lạc với
một bác sĩ ở đây và chúng tôi đến đây. Vì vậy, tôi đã liên tục điều trị kể từ
ngày 27 tháng 10. Đấy là quá trình nhập viện của tôi, tôi có thể tóm tắt như thế.
Bác
sĩ:
Căn bệnh tiến triển đến giai đoạn nào thì ông biết thực sự ông bị bệnh gì?
Bệnh
nhân:
Tôi thực sự biết rằng nó rất có thể là khối u ác tính ngay khi vừa nhìn thấy
phim chụp X-quang, vì khối u ở khu vực cụ thể này có tới 90% là ác tính. Nhưng
như tôi đã nói, tôi không nghĩ rằng nó sẽ rất nghiêm trọng và tôi tiếp tục cảm
thấy rất khỏe. Bác sĩ không nói với tôi, nhưng đã nói với gia đình tôi về mức độ
nghiêm trọng của căn bệnh ngay khi họ vừa hoàn thành ca mổ. Và không lâu sau
đó, tôi cùng con trai cưỡi ngựa đến thị trấn gần đó. Chúng tôi luôn luôn là gia
đình rất gắn bó với nhau và chúng tôi phải nói về tình trạng của tôi, con trai
tôi nói: “Mẹ đã nói với bố về căn bệnh của bố chưa?” Tôi nói chưa, mẹ chưa nói.
Và vì thế mà tôi biết nó làm cho con trai tôi vô cùng đau khổ, nhưng nó nói với
tôi rằng khi họ thực hiện ca mổ đầu tiên, khối u không chỉ ác tính mà còn di
căn, nó đã lan vào tất cả các cơ quan của cơ thể, chỉ trừ gan và lá lách, may
quá. Không mổ được và tôi đã bắt đầu nghi ngờ. Con trai tôi biết Chúa khi nó mới
mười tuổi và trong nhiều năm, chúng tôi muốn chia sẻ một số trải nghiệm của nó
về Chúa, khi nó trưởng thành và vào đại học. Trải nghiệm này đã giúp nó trưởng
thành hơn rất nhiều.
Bác
sĩ:
Cháu bao nhiêu tuổi rồi?
Bệnh
nhân:
Chủ nhật này cháu vừa tròn 24. Sau cuộc trò chuyện của chúng tôi, tôi đã thấy
cháu rất trưởng thành rồi.
Bác
sĩ:
Ông phản ứng thế nào khi con trai nói chuyện đó?
Bệnh
nhân:
Vâng, thành thật mà nói, tôi đã ít nhiều nghi ngờ chuyện này, do tôi đã nhận thấy
được một số thứ. Bản thân tôi không hoàn toàn không có kiến thức; tôi đã gắn bó
với bệnh viện trong 20 năm, làm nhân viên bệnh viện trong thời gian lâu như thế,
và tôi hiểu những chuyện này. Lúc đó cháu còn nói với tôi rằng, bác sĩ trợ tá
đã nói với vợ tôi rằng tôi chỉ còn sống được từ bốn đến mười bốn tháng. Tôi
không cảm thấy gì cả. Tâm hồn tôi hoàn toàn bình yên từ khi tôi phát hiện ra việc
này. Tôi không chán nản. Tôi cho rằng hầu hết mọi người ở địa vị của tôi sẽ
nhìn vào người khác và nói, tại sao không phải là anh ta. Và ý nghĩ này đã đi
qua tâm trí của tôi mấy lần. Nhưng nó chỉ là giai đoạn thoáng qua. Tôi nhớ có lần
chúng tôi tới văn phòng để nhận thư và một ông già mà tôi đã biết từ khi còn là
một đứa trẻ. Ông ấy đã 82 tuổi, và theo những kẻ hữu sinh hữu tử chúng ta thường
nói thì ông ấy chẳng còn ích lợi gì trên thế gian này. Ông lão đó bị thấp khớp,
què quặt, bẩn thỉu, không phải là mẫu người mà người ta muốn trở thành. Ý nghĩ
đó ập đến rất mạnh mẽ, tại sao không thể là lão George mà lại là tôi. Nhưng đây
không phải là suy nghĩ sâu sắc. Đây có thể là điều duy nhất mà tôi nghĩ tới.
Tôi mong được gặp Chúa, nhưng đồng thời tôi cũng muốn ở lại trần gian càng lâu
càng tốt. Cái mà tôi cảm thấy sâu sắc nhất là chia tay với gia đình.
Bác
sĩ:
Ông có mấy người con?
Bệnh
nhân:
Tôi chỉ có một con.
Bác
sĩ:
Một con trai.
Bệnh
nhân:
Như tôi đã nói, chúng tôi là một gia đình gắn bó rất chặt chẽ.
Bác
sĩ:
Gần gũi như thế, và ông là nha sĩ, ông biết gần như chắc chắn rằng đây là bệnh
ung thư ngay khi nhìn thấy phim chụp X-quang, tại sao ông không bao giờ nói
chuyện này với vợ hay con trai mình?
Bệnh
nhân:
Vâng, tôi không biết chắc. Bây giờ tôi biết rằng vợ và con trai tôi hoàn toàn
kì vọng rằng đó là ca phẫu thuật lớn và chỉ khó chịu trong giai đoạn ngắn,
chúng tôi kì vọng rằng sẽ thành công. Tôi không muốn làm cho họ đau khổ thêm.
Tôi hiểu rằng vợ tôi đã chán nản hoàn toàn khi biết rõ sự thật. Con trai tôi,
đây là lúc mà sự trưởng thành của cháu đã có tác dụng, cháu là thành trì vững
chắc trong giai đoạn đó. Nhưng vợ tôi và tôi đã nói chuyện rất thẳng thắn về việc
này, và chúng tôi đang tìm cách chữa trị, vì tôi cảm thấy rằng Chúa có thể chữa
lành. Chúa có thể, và tôi chấp nhận bất cứ phương pháp điều trị nào mà Ngài sử
dụng để có thể chữa lành. Chúng ta không biết y học sẽ làm được gì, chúng ta
không biết khám phá y học có xuất xứ từ đâu. Làm sao mà người ta có thể đào một
cái rễ từ lòng đất và nói rằng tôi nghĩ cái này có thể hữu ích trong việc điều
trị bệnh này bệnh kia, nhưng nó đã thực sự xảy ra. Và trong tất cả các phòng
thí nghiệm của bệnh viện của chúng tôi, chị sẽ thấy những thứ nhỏ bé đang phát
triển rất nhiều vì họ cảm thấy rằng nó có quan hệ trực tiếp với công trình
nghiên cứu ung thư. Làm sao lại rút ra kết luận như thế? Thật bí ẩn và kỳ diệu
đối với tôi và tôi nghĩ rằng là do Chúa.
Cha
tuyên úy:
Đức tin của anh đã tạo ảnh hưởng rất lớn lên chính anh, tôi nghĩ vậy, không chỉ
trong thời gian bị bệnh, mà cả trước đó nữa.
Bệnh
nhân:
Vâng, đã tạo được ảnh hưởng. Tôi đã có hiểu biết về sự cứu rỗi của Chúa Jesus
Christ cách đây khoảng mười năm. Tôi đã có quan điểm như thế thông qua nghiên cứu
Kinh thánh mà trước đó tôi đã không đọc hết. Cuối cùng đã giải quyết được là
tôi nhận ra rằng mình là người có tội. Tôi đã không nhận thức được, vì tôi là
người tốt, luôn luôn là người tốt.
Bác
sĩ:
Cái gì làm cho anh bắt đầu công việc này cách đây mười năm?
Bệnh
nhân:
Nó có nguồn gốc xa hơn thế. Khi ở nước ngoài, tôi đã liên lạc với một giáo sĩ,
ông ta đã nói chuyện với tôi rất nhiều về những việc này. Và tôi không nghĩ rằng
một người nào đó có thể bị bắn hơn một lần và bị bắn trượt mà không nhận ra rằng
có thứ gì đó bên ngoài người đó đang có mặt ở đó, đặc biệt là khi người bắn đứng
cách mình có 5 hay 6 mét. Như tôi đã nói, tôi luôn là người tốt, tôi không chửi
thề, tôi không nói tục, tôi không uống rượu, tôi không hút thuốc, tôi không đặc
biệt quan tâm đến những thứ đó. Tôi không săn đuổi phụ nữ, không quá nhiều,
nghĩa là tôi luôn là một người tốt. Và vì vậy, mà tôi đã không nhận ra rằng
mình là người có tội; cho đến giai đoạn đặc biệt, tại một cuộc họp mà vị tu sĩ
kia tổ chức. Có khoảng ba nghìn người tham gia. Và khi kết thúc buổi lễ, tôi
không nhớ ông ấy đã giảng những gì, ông đề nghị mọi người tiến lên, hiến dâng
chính mình cho Thiên Chúa. Tôi không biết tại sao mình lại bước lên phía trước,
nhưng tôi bị thôi thúc. Sau đó, tôi nghi ngờ về quyết định của mình, như lúc
tôi mới lên sáu. Khi tôi được sáu tuổi, tôi nghĩ thế giới này sẽ là bông hoa
tươi đẹp và mọi thứ sẽ thay đổi. Sáng hôm đó mẹ tôi đi xuống lầu. Tôi đứng trước
một cái gương rộng khoảng 1 mét vuông trong phòng khách, và mẹ nói, “Chúc mừng
sinh nhật, Bobby”. Mẹ hỏi, “Con đang làm gì thế?” Tôi nói rằng tôi soi gương. Mẹ
hỏi, “Con nhìn thấy gì?” “Vâng,” tôi nói, “con sáu tuổi rồi, nhưng trông con vẫn
thế, con cảm thấy vẫn như thế, và lạy Chúa, con vẫn như thế”. Nhưng khi trải
nghiệm của tôi tiến sâu hơn, tôi phát hiện được rằng tôi không còn như trước nữa,
rằng tôi không thể chịu đựng được những thứ mà tôi đã từng chịu đựng được nữa.
Bác
sĩ:
Như thế nào?
Bệnh
nhân:
Vâng, như chị biết đấy, khi kết giao với những người mà ta gặp – hiện tượng mà
các doanh nhân thường xuyên gặp - thì bất ngờ họ nhận ra rằng mình đã thiết lập
được nhiều quan hệ trong các quán bar. Trước các cuộc họp, hầu hết đàn ông sẽ
lui tới quầy bar của nhà nghỉ hoặc khách sạn và ngồi đó uống rượu và giao lưu với
nhau. Chuyện đó không làm phiền tôi. Tôi không uống nhưng nó không làm phiền
tôi, nhưng sau này nó bắt đầu làm phiền tôi, vì tôi không tin chuyện đó. Và tôi
không thể chấp nhận nó. Tôi không còn làm những việc mà mình từng làm trước đây
và đây là lúc tôi nhận ra rằng mình là người khác biệt.
Bác
sĩ:Tất
cả những chuyện này có giúp ích gì cho anh khi anh phải đối mặt với cái chết và
căn bệnh nan y của chính mình?
Bệnh
nhân:
Vâng, giúp rất nhiều. Như tôi đã nói, tôi hoàn toàn thanh thản về mình sau khi
đầu tiên tôi thoát khỏi tình trạng mất cảm giác sau phẫu thuật. Tôi bình yên hết
mức mà tôi có thể.
Bác
sĩ:
Anh không sợ à?
Bệnh
nhân:
Tôi không thể thành thật nói rằng tôi sợ.
Bác
sĩ:
Anh là một người khác thường, thưa Bác sĩ G., ông biết đấy. Bởi vì chúng ta ít
khi thấy những người đàn ông đứng trước cái chết của chính mình mà không hề sợ
hãi.
Bệnh
nhân:
Vâng, đó là do tôi mong được ở nhà Chúa khi chết.
Bác
sĩ:
Mặt khác, anh vẫn có một số hy vọng được chữa khỏi hay khám phá y học, đúng
không?
Bệnh
nhân:
Vâng.
Bác
sĩ:
Tôi nghĩ đây là điều anh đã nói trước đây.
Bệnh
nhân:
Kinh thánh hứa sẽ chữa lành nếu chúng ta kêu cầu Chúa. Tôi đã kêu cầu Chúa và
thỉnh cầu lời hứa này. Nhưng mặt khác, tôi muốn ý Ngài được nên. Và điều này
trên hết, vượt trên suy nghĩa của cá nhân tôi.
Bác
sĩ:
Anh đã thay đổi những cái gì trong đời sống hàng ngày sau khi biết mình bị ung
thư? Có thay đổi gì không?
Bệnh
nhân:
Chị muốn nói ý nghĩa trong hoạt động? Chỉ vài tuần nữa tôi sẽ xuất viện và tôi
không biết sẽ xảy ra chuyện gì. Tôi gần như chỉ sống qua ngày trong bệnh viện.
Vì chị biết thời khóa biểu của bệnh viện, chị biết những việc diễn ra.
Cha
tuyên úy:
Nếu tôi nghe được chính xác những điều anh đã nói trước đó, tôi thấy rất quen
thuộc. Những điều anh nói cũng là lời Chúa Jesus nói trước khi người ta đưa
Ngài tới thập tự giá, “Xin ý Cha được nên, chớ không theo ý con![3]”
Bệnh
nhân:
Tôi đã không nghĩ về việc đó.
Cha
tuyên úy:
Đó là ý nghĩa của những điều anh đã nói. Anh ao ước nếu có thể hy vọng đó không
phải là thời điểm của anh, nhưng anh vượt qua điều ước đó với một điều ước sâu
sắc hơn, đó ý muốn của Chúa được nên.
Bệnh
nhân:
Tôi biết rằng mình chẳng còn sống được bao lâu nữa; với phương pháp điều trị mà
họ đang làm, có thể là vài năm mà cũng có thể là vài tháng. Tất nhiên, không ai
trong chúng ta có thể đảm bảo rằng chúng tôi sẽ trở về nhà ngay tối nay.
Bác
sĩ:
Ông có mường tượng cụ thể nào về việc nó sẽ diễn ra như thế nào hay không?
Bệnh
nhân:
Không. Tôi biết rằng nó đã được dự phòng, Kinh thánh cho chúng ta biết như vậy
và tôi hy vọng vào điều đó.
Cha
tuyên úy:
Tôi không nghĩ chúng ta nên tiếp tục. Mãi tới thời gian gần đây, Bác sĩ G. đã
không dậy nổi, có thể là vài phút nữa.
Bệnh
nhân:
Vâng, lúc tôi cảm thấy rất khỏe.
Cha
tuyên úy:
Đúng thế chứ? Tôi đã nói với bác sĩ rằng anh sẽ không bị giữ lại ở đây lâu.
Bác
sĩ:
Xin anh hãy nói khi cảm thấy hơi mệt nha. Cuộc nói chuyện cùng nhau rất thẳng
thắn về chủ đề đáng sợ như thế, nó làm cho anh cảm thấy thế nào, thưa bác sĩ
G.?
Bệnh
nhân:
Vâng, tôi không thấy chủ đề này đáng sợ một chút nào. Sau khi Linh mục I. và
Linh mục N. ra khỏi phòng sáng nay, tôi đã có một ít thời gian để suy nghĩ và
điều đó không ảnh hưởng đến tôi theo bất kỳ cách đặc biệt nào, ngoài việc tôi
hy vọng rằng mình có thể có giá trị đối với những người đang phải đứng trước sự
kiện này, trong khi người đó không có niềm tin mà tôi có.
Bác
sĩ:
Anh nghĩ chúng tôi có thể học được gì từ việc phỏng vấn những bệnh nhân sắp chết
và bệnh nhân nặng nhằm giúp chúng tôi hoạt động hiệu quả hơn trong việc giúp họ
đối mặt với nó, đặc biệt là những người không được may mắn như anh? Bởi vì anh
có đức tin và rõ ràng là đức tin thực có ích cho anh.
Bệnh
nhân:
Đây là điều mà tôi đã khám phá được một chút, kể từ khi tôi bị bệnh. Tôi có
tính là muốn biết tòan bộ tiên lượng, trong khi một số người khi họ phát hiện
được rằng mình mắc căn bệnh nan y nào đó, họ gần như rã rời hoàn toàn. Bây giờ
đây là cái mà tôi cảm thấy rằng chỉ có trải nghiệm mới có thể nói lên được rằng,
anh có thể làm gì khi tiếp cận bệnh nhân.
Bác
sĩ:
Đây là một trong những lý do tại sao chúng tôi phỏng vấn bệnh nhân ở đây, có mặt các y tá và các nhân viên khác của bệnh viện
có thể nhìn thấy. Gặp hết bệnh nhân này đến bệnh nhân khác, để tìm ra những người
thực sự muốn nói về nó và những người không muốn nói đến nó.
Bệnh
nhân:
Tôi nghĩ, những lần thăm đầu tiên của các vị nên có tính chất trung lập, cho đến
khi các vị tìm được bệnh nhân cảm thấy sâu sắc đến mức nào về chính mình và trải
nghiệm cũng như tôn giáo và đức tin của người đó.
Cha
tuyên úy:
Tôi nghĩ rằng Bác sĩ R. ám chỉ Bác sĩ G. là người may mắn, nhưng tôi nghĩ ở đây
anh đang nói những điều có ý nghĩa, xuất phát từ trải nghiệm, chẳng hạn như
quan hệ của anh với con trai, nó nằm ở tầng khác và đánh giá của anh đối với sự
trưởng thành của con trai sau trải nghiệm này.
Bệnh
nhân:
Vâng, tôi nghĩ chúng tôi cũng gặp may. Tôi đang định bình luận về việc này, vì
tôi không cảm thấy rằng khu vực đặc biệt này là cái gì đó may mắn. Việc biết
Chúa là Đấng Cứu Rỗi của mình không phải là điều may mắn; đó là trải nghiệm rất
sâu sắc và tuyệt vời và tôi nghĩ nó chuẩn bị cho người ta trước những thăng trầm
của đời sống, những thử thách - mà chúng ta sẽ gặp. Tất cả chúng ta đều phải đối
mặt với thử thách, hoặc bệnh tật. Nhưng nó giúp người ta chuẩn bị sẵn sàng để
chấp nhận, bởi vì chúng ta biết rằng như tôi đã nói một chút trước đây, bị bắn
từ khoảng cách 5 tới 6 mét và người đó bị bắn trượt, thế là người đó biết rằng
có một sức mạnh nào đó chứ không phải người đó né tránh giỏi hoặc bất cứ thứ gì
khác. Nhưng chúng ta đã nghe nói rằng không có người vô thần nào trong các hầm
trú ẩn cá nhân, đó là sự thật. Các vị nghe nói rằng người đàn ông trở nên rất gần
gũi với Chúa trong một cái hầm trú ấn, hay khi cuộc đời của họ gặp nguy hiểm,
không phải là hầm trú ẩn mà thậm chí gặp tai nạn nghiêm trọng và chợt nhận ra
là mình đang gặp tai nạn và họ tự động kêu cầu danh Chúa. Đó không phải là may
mắn. Đó là tìm kiếm và tìm thấy điều mà Chúa dành cho chúng ta.
Bác
sĩ:
Ý tôi không phải là may mắn theo cách thông thường, chỉ là một cơ hội xảy ra,
giống như hạnh phúc, may mắn.
Bệnh
nhân:
Tôi hiểu, vâng. Vâng, đó là trải nghiệm hạnh phúc. Thật đáng kinh ngạc khi người
ta có thể cảm nhận được trải nghiệm này trong thời kỳ bệnh tật như thế này, khi
người ta có những người khác cầu nguyện cho mình và nhận ra rằng những người
kia đang cầu nguyện cho mình. Đó là sự giúp đỡ to lớn đối với tôi. Nó là sự
giúp đỡ to lớn.
Cha
tuyên úy:
Thật thú vị là tôi đã nhắc cho Bác sĩ R. ngay khi chúng ta đến hội thảo - không
chỉ anh có trải nghiệm về việc mọi người nhớ đến anh mà vợ anh còn có thể tiếp
thêm sức mạnh cho những người có thân nhân đang hấp hối ở đây và dâng lời cầu
nguyện cho họ.
Bệnh
nhân:
Đây là chuyện khác mà tôi sẽ nói tới. Vợ tôi đã thay đổi khá nhiều trong giai
đoạn này. Cô ấy đã trở thành mạnh mẽ hơn hẳn. Cô ấy khá phụ thuộc vào tôi. Ông
có thể tưởng tượng rằng tôi là một người rất độc lập và tôi tin rằng mình sẽ
gánh vác trách nhiệm khi trách nhiệm tới. Vì vậy, cô ấy không có cơ hội để làm
nhiều việc mà một số phụ nữ vẫn làm, chẳng hạn như quản lý công việc kinh doanh
của gia đình, v.v., và nó làm cho cô ấy trở thành khá phụ thuộc. Nhưng cô ấy đã
thay đổi khá nhiều. Bây giờ cô ấy sâu sắc hơn và mạnh mẽ hơn hẳn.
Bác
sĩ:
Anh có nghĩ rằng sẽ có ích nếu chúng ta nói chuyện với chị ấy một chút về chuyện
này, hay nó sẽ quá sức đối với chị ấy?
Bệnh
nhân:
Ồ, tôi không nghĩ nó sẽ làm cho cô ấy đau một tí nào. Cô ấy là một Kitô hữu, cô
ấy biết Chúa là Chúa của mình và đã biết ngay từ khi còn nhỏ. Trên thực tế, khi
còn nhỏ, cô ấy đã được chữa lành một bên mắt. Các bác sĩ chuyên khoa đã sẵn
sàng đưa cô ấy đến bệnh viện ở St. Louis để cắt bỏ một bên mắt, mắt có vết loét.
Cô đã được chữa lành một cách kỳ diệu và trong khi chữa lành, cô đã đưa những
người khác, một bác sĩ, đến nhận thức về Chúa. Dù sao thì cô ấy cũng là một người
phụ nữ đầy sức mạnh, theo phái Giám lý, nhưng đây là yếu tố mang tính củng cố.
Lúc đó cô ấy mới khoảng mười tuổi, nhưng chính trải nghiệm với vị bác sĩ này là
yếu tố mang tính củng cố trong cuộc đời cô ấy.
Bác
sĩ:
Trước khi bị bệnh này, trong thời thanh niên, anh có bị stress nặng hay có chuyện
buồn gì đó hay không? Vì vậy, anh có thể so sánh cách sử dụng nó lúc đó so với
bây giờ.
Bệnh
nhân:
Không, tôi thường nhìn lại mình và tự hỏi làm sao tôi có thể làm được việc này.
Tôi biết mình làm được vì được Chúa giúp đỡ. Bởi vì tôi chưa bao giờ bị căng thẳng
sâu sắc nào, trừ trường hợp nguy hiểm ảnh hưởng tới tôi. Và tất nhiên, tôi từng
là người lính trong Thế chiến II. Đây là lần căng thẳng đầu tiên của tôi và
cũng là lần đầu tiên trong đời tôi thực sự đối mặt với chết chóc, tôi biết rằng
mình sẽ đối mặt với cái chết nếu làm cái này hay cái kia.
Bác
sĩ:
Tôi nghĩ chúng ta phải kết thúc thôi, có lẽ thỉnh thoảng chúng tôi có thể ghé thăm
anh.
Bệnh
nhân:
Tôi đánh giá cao buổi nói chuyện.
Bác
sĩ:
Cảm ơn anh rất nhiều vì đã tới.
Bệnh
nhân:
Tôi rất thích đến đây.
Bà G., vợ của bác sĩ G., tới khi chúng tôi
đang đưa bệnh nhân xuống sảnh để phỏng vấn. Cha tuyên úy đã biết chị ấy từ những
lần gặp trước, giải thích ngắn gọn cho chị nghe những việc chúng tôi đang làm.
Chị ấy thể hiện thai độ quan tâm và chúng tôi đã mời chị ấy tham gia cùng chúng
tôi trong giai đoạn sau. Trong khi chúng tôi phỏng vấn Bác sĩ G., chị đợi ở
phòng bên cạnh và chúng tôi mời chị vào khi chồng chị đã trở về phòng bệnh
nhân. Do đó, chị ấy có rất ít thời gian để suy ngẫm hoặc suy nghĩ lại. (Chúng
tôi thường cố gắng dành khá nhiều thời gian sau khi đề nghị được phỏng vấn và
thực sự phỏng vấn thực tế nhằm để cho người được phỏng vấn quyền tự do lựa chọn
thực sự).
Bác
sĩ:
Nó có thể làm cho chị hơi ngạc nhiên khi chị tới thăm chồng mình và sau đó tham
gia cuộc phỏng vấn này. Chị đã nói chuyện với cha tuyên úy về những chuyện này
rồi chứ?
Bà
G:
Đã nói chút chút ạ.
Bác
sĩ:
Chị xử lý như thế nào khi biết tin chồng mình lâm trọng bệnh một cách khá đường
đột?
Bà
G:
Vâng, tôi có thể nói rằng lúc đầu tôi đã rất run.
Bác
sĩ:
Cho đến mùa hè năm đó, anh ấy là người khỏe mạnh?
Bà
G:
Vâng, đúng thế ạ.
Bác
sĩ:
Không bao giờ ốm nặng hay phàn nàn, không gì hết?
Bà
G:
Vâng. Chỉ phàn nàn về một vài cơn đau.
Bác
sĩ:
Rồi sau đó?
Bà
G:
Chúng tôi đã kiểm tra, có người đề nghị chụp X-quang. Và sau đó chúng tôi đã tiến
hành phẫu thuật. Và thực sự là, cho đến lúc đó tôi mới thực sự nhận thức được rằng
nó thực sự nghiêm trọng.
Bác
sĩ:
Ai đã nói với chị và họ nói với chị như thế nào?
Bà
G:
Bác sĩ là người bạn rất thân với gia đình tôi. Vâng, trước khi tiến hành phẫu
thuật, anh ấy đã gọi cho tôi và nói với tôi, giờ đây có thể là một khối u ác
tính. Và tôi nói, “Ồ, không”. Anh ấy nói, “Vâng, vì vậy tôi chỉ báo cho chị
thôi”. Cho nên, tôi đã được chuẩn bị một chút, nhưng khi được thông báo rằng nó
nghiêm trọng hơn thì tôi chưa được chuẩn bị để hiểu đó là tin xấu. “Chúng ta
chưa thấy hết”, bác sĩ nói. Đấy là cái đầu tiên tôi nhớ. Vâng, tôi thực sự
choáng váng vì tôi nghĩ, bây giờ, nó không thể diễn ra quá lâu. Bác sĩ nói rằng
anh ấy chỉ còn khoảng ba đến bốn tháng và, làm sao có thể nắm bắt ngay được những
thứ này? Vì vậy, việc đầu tiên tôi làm là cầu nguyện. Trong khi anh ấy đang được
phẫu thuật, tôi đã cầu nguyện. Tôi đã cầu nguyện một cách rất ích kỷ, rằng nó
không phải là ác tính. Tất nhiên, con người là như thế. Người ta muốn nó diễn
ra theo cách của mình. Trước khi để nó diễn ra theo ý Chúa, tôi đã không có được
tâm bình an mà tôi thực sự nên có. Tất nhiên, dù thế nào thì ngày phẫu thuật
cũng tồi tệ, và đêm dài đó thật kinh khủng. Trong đêm đó, tôi thực sự tìm thấy
tâm thực sự bình yên, nó đã cho tôi can đảm. Tôi tìm thấy nhiều đoạn trong Kinh
thánh góp phần tiếp thêm sức mạnh cho tôi. Ở nhà chúng tôi có bàn thờ gia đình.
Tôi có thể nói, ngay trước khi xảy ra chuyện này, chúng tôi đã thuộc lòng một
câu trong Kinh thánh và chúng tôi thường nhắc đi nhắc lại. Đấy là trong
Jeremiah 33:3, nói rằng, “Hãy kêu cầu ta, ta sẽ trả lời cho; ta sẽ tỏ cho ngươi
những việc lớn và khó, là những việc ngươi chưa từng biết”[4] và tất cả chúng tôi đều
thuộc lòng câu đó.
Bác
sĩ:
Đó là trước khi biết về căn bệnh này?
Bà
G:
Mới khoảng hai tuần trước. Và chị biết rằng nó lập tức đến với tôi và tôi cứ lặp
đi lặp lại câu đó. Và sau đó, rất nhiều điều trong sách John đến với tôi. Nếu
nhân danh ta, con yêu cầu bất cứ điều gì, ta sẽ làm điều đó. Và tôi muốn ý
Chúa, nhưng chỉ nhờ đó, tôi mới tìm thấy chính mình. Tôi có thể đi tiếp vì
chúng tôi đã rất tận tâm và chúng tôi chỉ có một con trai thôi. Con trai tôi đi
học đại học ở xa. Sinh viên đại học có rất nhiều thứ phải làm, nhưng cháu đã
tham gia, cháu đến ngay với tôi và chúng tôi đã tìm kiếm Kinh thánh theo đúng
nghĩa đen của từ này để được giúp đỡ. Cháu đã cầu nguyện cùng với tôi, rồi những
người trong nhà thờ của chúng tôi cũng rất, rất tốt. Họ thường tới và chúng tôi
đọc những đoạn khác nhau trong Kinh thánh. Tôi đã đọc rất nhiều lần, nhưng chưa
tôi chưa bao giờ thấy ý nghĩa như những lúc này.
Cha
tuyên úy:
Lúc này, những đoạn Kinh thánh đó dường như nhận ra và gần như nói ra cảm xúc của
chị.
Bà
G:
Mỗi lần mở Kinh thánh, có một cái gì đó đứng đó, giống như đang nói với tôi.
Tôi mở ra đúng chỗ mà tôi nghĩ, vâng, bây giờ có lẽ sẽ có một số chuyện tốt. Đó
chỉ là cách tôi chấp nhận và hàng ngày tôi đều tìm được sức mạnh để đứng vững.
Chồng tôi rất tin tưởng và khi người ta kể cho anh ấy nghe tình trạng của mình,
anh ấy đã nói với tôi: “Em sẽ làm gì nếu người ta nói với em, rằng anh còn sống
được từ bốn đến mười bốn tháng?” Tôi sẽ giao tòan bộ vào tay Chúa và tin tưởng
Ngài. Tất nhiên là, trong lĩnh vực y học, tôi muốn người ta làm mọi thứ có thể
cho chồng tôi. Còn các bác sĩ của chúng tôi nói rằng không thể làm gì khác và
tôi thậm chí còn đề nghị dùng coban, hoặc thậm chí một số loại tia X hoặc bức xạ,
ông biết đấy. Họ không đề nghị làm như thế, họ nói rằng đó là chết người. Còn
chồng tôi cũng không phải là loại người bỏ cuộc. Vì vậy, khi tôi nói chuyện với
anh ấy, và tôi nói, anh biết Chúa, cách duy nhất Chúa có thể làm việc là thông
qua con người và Ngài truyền cảm hứng cho các bác sĩ. Rồi, tôi nói, chúng tôi
thấy bài báo này, một người hàng xóm mang tờ tạp chí tới và chúng tôi đã đọc,
tôi thậm chí còn không hỏi ý kiến chồng mình, tôi chỉ liên hệ với bác sĩ ở bệnh
viện này.
Bác
sĩ:
Có một bài báo?
Bà
G:
Vâng, trong một tờ tạp chí. Tôi nghĩ, bây giờ, họ đang rất thành công. Tôi biết
không có cách chữa trị, nhưng họ đang thành công. Tôi sẽ chỉ tiếp xúc với ông bác
sĩ. Tôi viết một bức thư và gửi theo đường chuyển phát đặc biệt và ông ấy đã nhận
được nó tại bàn làm việc của mình vào sáng thứ Bảy. Thư ký của ông ấy không có ở
nhà nên ông ấy đã gọi cho tôi. Ông ấy nói: “Tôi rất quan tâm đến bức thư của chị,
nó giải thích rõ, nhưng tôi cần một báo cáo vi phẫu. Chị có thể xin bác sĩ Z và
gửi nó giống như chị đã làm với bức thư này. Chị đã gửi sáng ngày hôm qua và
sáng nay tôi đã nhận được”. Vì vậy, đấy là những việc tôi đã làm. Tôi đã gửi.
Ông ấy gọi và nói: “Ngay khi tôi nhận được giường dành cho bệnh nhân, họ đang sửa
sang lại khu vực này, tôi sẽ gọi cho chị”. Bây giờ ông ấy nói, “Tôi không thể hứa
với chị quá nhiều, nhưng tôi chắc chắn không tin vào cách tiếp cận mang tính định
mệnh này”. Vì vậy, điều đó thực sự nghe có vẻ tuyệt vời đối với tôi. Bao giờ
cũng có những việc mà chúng tôi có thể làm, chứ không chỉ ngồi và chờ đợi như
các bác sĩ đã nói với chúng tôi.
Rồi hình như mọi thứ trôi đi quá nhanh.
Chúng tôi đi bằng xe cấp cứu. Và tôi có thể nói rằng cái đêm họ kiểm tra anh ấy,
họ không thể cho chúng tôi nhiều hy vọng. Chúng tôi gần như muốn quay lại và về
nhà. Và một lần nữa tôi cầu nguyện. Tôi rời bệnh viện đêm hôm đó để đến ở với
người bà con. Tôi không biết mình sẽ tìm thấy gì vào sáng hôm sau. Họ để cho
chúng tôi suy nghĩ xem có nên tiếp tục phương pháp điều trị này hay không. Một
lần nữa, tôi đến và cầu nguyện và chỉ nói rằng chúng tôi sẽ cố gắng hết sức có
thể. Tôi đã nghĩ đây là quyết định của chồng tôi chứ không phải của tôi. Sáng
hôm đó khi tôi đến bệnh viện, anh ấy đã hạ quyết tâm, “Anh sẽ tiếp tục”. Họ nói
rằng anh ấy sẽ giảm từ 20 đến 25 kg và anh ấy đã giảm rất nhiều qua hai lần phẫu
thuật. Tôi thực sự không biết phải làm gì. Tôi chỉ không quá ngạc nhiên, vì cảm
thấy nó sẽ diễn ra như thế. Và rồi, sau khi họ bắt đầu điều trị, anh ấy ốm rất
nặng. Nhưng như tôi đã nói, họ không hứa hẹn gì với chúng tôi, cho nên chúng
tôi chỉ có một tia hy vọng rằng phương pháp điều trị có thể giúp làm giảm khối
u và ruột sẽ thông. Chồng tôi bị tắc ruột và đây là một cơ hội. Trong suốt chặng
đường, tôi đã có những lúc nản lòng, nhưng tôi nói chuyện với những bệnh nhân
khác nhau, ở đây trong bệnh viện, đó là những người rất ốm yếu. Và tôi nghĩ, ở
đây tôi đang khuyến khích họ và thấy những thứ tối tăm đang nhìn về phía chúng
tôi rất nhiều lần. Nhưng, tôi cứ ở trong đó. Tôi vẫn có cách tiếp cận đó. Tôi
biết rằng nghiên cứu đang diễn ra trong lĩnh vực này và tôi biết một lần nữa rằng
Kinh thánh nói rằng, đối với Chúa không gì là không thể.
Bác
sĩ:
Mặc dù chị chấp nhận số phận, nhưng chị cũng có chút hy vọng rằng vẫn có thể xảy
ra một cái gì đó khác.
Bà
G:
Đúng vậy.
Bác
sĩ:
Chị dùng từ chúng tôi, chúng tôi phẫu thuật, chúng tôi quyết định tiến hành.
Như thể chị và anh ấy thực sự đồng điệu khi làm mọi việc cùng nhau.
Bà
G:
Tôi thực sự nghĩ rằng nếu anh ấy không khỏe lại, nếu đây là thời điểm của anh ấy,
tôi tin rằng đó là ý muốn của Chúa.
Bác
sĩ:
Anh ấy bao nhiêu tuổi rồi?
Bà
G:
Anh ấy 50 khi chúng tôi đến đây.
Bác
sĩ:
Ngày anh ấy đến bệnh viện.
Cha
tuyên úy: Chị có nói rằng trải nghiệm này đã làm cho
gia đình chị gắn bó với nhau hơn?
Bà
G:
Lạy Chúa tôi, nó làm cho chúng tôi gắng bó với nhau hơn. Nếu không có gì khác,
đó là dựa vào Chúa. Chúng tôi là những người tự chủ, chúng tôi nghĩ vậy, nhưng
trong những lúc như thế này, mới thấy rằng mình không mạnh mẽ lắm. Tôi đã học để
trở thành phụ thuộc và sống từng ngày một và từ bỏ kế hoạch. Chúng ta có ngày
hôm nay nhưng có thể không có ngày mai. Và tôi nói nếu nó làm cho chồng tôi chết,
tôi cảm thấy như nó chắc chắn ở trong tay Chúa, và có thể qua trải nghiệm của
chúng tôi, một người nào đó có thể có thêm hy vọng hoặc sức mạnh nơi Chúa.
Cha
tuyên úy:
Chị có mối quan hệ tốt với các nhân viên bệnh viện? Tôi biết chị có quan hệ dễ
chịu với những bệnh nhân khác bởi vì chúng ta đã nói chuyện với nhau về việc tìm
cách giúp đỡ thân nhân của những bệnh nhân khác. Tôi ngồi và nghe được một số
chuyện. Tôi đã nhớ những chuyện chị nói lúc trước. Chị thể hiện trong câu chuyện
với người khác bằng thái độ lạc quan. Một người từ bên ngoài thị trấn sẽ thấy
thế nào? Chị đã được nhân viên ở đây giúp đỡ những gì? Một thành viên trong gia
đình có trải nghiệm thế nào, khi có một người cận kề cái chết như chồng chị?
Bà
G:
Vâng, vì tôi là y tá nên tôi đã nói chuyện khá nhiều với các y tá. Tôi thấy có
một số y tá là Kitô hữu rất sùng đạo, họ nói rằng tin vào Chúa là quan trọng;
chiến đấu, không bỏ cuộc có liên quan rất nhiều tới đức tin. Nói chung, tôi nghĩ rằng mình có thể nói
chuyện với họ. Họ rất thẳng thắn và cởi mở, tôi rất thích thái độ của họ. Và
tôi tin rằng các thành viên trong gia đình bệnh nhân sẽ bớt hoang mang hơn nếu
người ta giải thích và nói với họ sự thật, dù hy vọng có tù mù đi nữa. Tôi nghĩ
người ta sẽ chấp nhận. Và tôi thực sự nghĩ rất nhiều về bệnh viện này, tôi thực
sự nghĩ rằng họ đã xây dựng được một đội ngũ đầy sức mạnh.
Cha
tuyên úy:
Chị có cho rằng nó không chỉ đúng với chị mà còn đúng với những những gia đình
khác đã từng ở đây?
Bà
G:
Vâng.
Cha
tuyên úy:
Họ muốn biết?
Bà
G:
Vâng. Nhiều gia đình sẽ nói, ồ, họ thật tuyệt vời ở đây, còn nếu họ không biết,
thì chẳng có ai biết. Đó là thái độ mà tôi phát hiện được, mọi người chỉ đi ra
ngoài hiên tắm nắng và nói chuyện với những người tới thăm khác nhau. Họ nói
đây là một nơi tuyệt vời. Họ rất tinh.
Bác
sĩ:
Có thể làm gì để cải thiện?
Bà
G:
Tôi cho rằng tất cả chúng ta đều có thể cải thiện. Tôi thực sự nhận ra rằng việc
chăm sóc còn chưa đầy đủ. Tôi nghĩ rằng đôi khi người ta không trả lời khi có
chuông reo, khi cần phải trả lời, nhưng nhìn chung, tôi nghĩ đây là hiện tượng
chung trong các bệnh viện. Chỉ là không đủ thôi, so với ba mươi năm trước, khi
tôi làm y tá, đã có thay đổi rất nhiều. Nhưng tôi thực sự nghĩ rằng những bệnh
nhân nặng rất được quan tâm mà không cần y tá đặc biệt.
Bác
sĩ:
Chị có câu hỏi nào không? Thưa chị G., ai nói với chồng chị là anh ấy bị bệnh
gì?
Bà
G: Tôi đã nói với anh ấy trước rồi.
Bác
sĩ:
Chị nói thế nào và khi nào?
Bà
G:
Ba ngày sau ca phẫu thuật thứ nhất ở bệnh viện, tôi đã nói với anh ấy. Trên đường
tới bệnh viện, anh ấy nói, “Bây giờ, nếu đây là căn bệnh ác tính, thì đừng mất
bình tĩnh em ạ”. Anh ấy dùng thuật ngữ đó. Tôi bảo, “Em sẽ không mất bình tĩnh,
nhưng không phải bệnh ác tính đâu”. Nhưng ngày thứ ba, ông bác sĩ, bạn của gia
đình chúng tôi đi nghỉ phép. Lúc đó là tháng Bảy, và tôi nói với anh ấy. Anh ấy
chỉ nhìn tôi, còn tôi thì nói, “Em nghĩ rằng anh muốn biết họ đã làm những gì”.
“Ồ”, anh ấy nói, “không ai nói với anh”. Tôi nói, “Ồ, họ đã cắt khoảng 50
centimet đại tràng của anh”. Anh ấy nói, “50 cemtimet?!” Anh ấy nói tiếp, “Tốt
lắm, sau đó họ móc vào mô khỏe mạnh”. Tôi không tiếp tục nói phần còn lại, cho
đến khi về tới nhà. Sau đó tôi đánh giá trong khoảng ba tuần sau ca phẫu thuật,
chúng tôi ngồi trong phòng khách, chỉ có hai người, và tôi nói với anh ấy. Anh ấy
nói, “Tốt, chúng ta chỉ cần tận dụng tốt nhất những thứ còn lại”. Đó chỉ là
thái độ của anh ấy. Vì vậy, sau hai tháng, anh ấy đã quay lại văn phòng và làm
việc. Chúng tôi đi nghỉ hè. Con trai tôi tạm nghỉ học và chúng tôi đi chơi ở
Công viên Estes. Chúng tôi thực sự có những ngày nghỉ tuyệt với. Anh ấy thậm
chí còn chơi gôn.
Bác
sĩ:
Ở Colorado?
Bà
G:
Vâng. Con trai tôi sinh ở Colorado. Chúng tôi ở đó khi chồng tôi đang phục vụ
trong quân đội. Chúng tôi thích khu vực đó và hầu như năm nào chúng tôi cũng đi
nghỉ ở đó. Và tôi xin cảm ơn vì chúng tôi đã có một khoảng thời gian ở bên
nhau, vì chúng tôi thực sự rất thích. Sau đó, chỉ khoảng một tuần là anh ấy
quay lại văn phòng, rồi bắt đầu có hiện tượng tắc ruột. Khối u mà họ đã cắt đi
lại tái phát.
Bác
sĩ:
Anh ấy có hoàn toàn đóng cửa văn phòng hay không?
Bà
G:
Anh ấy chỉ đóng cửa có năm tuần lễ thôi. Sau ca phẫu thuật đầu tiên anh ấy đã mở
lại. Anh ấy mở hẳn sau khi chúng tôi đi nghỉ về. Anh ấy chỉ ở đó khoảng một tuần,
anh ấy làm việc mười sáu ngày sau lần phẫu thuật vào ngày 7 tháng Bảy.
Bác
sĩ:
Bây giờ văn phòng ra sao rồi?
Bà
G:
Văn phòng vẫn đóng cửa. Có một cô gái trực văn phòng để nghe điện thoại. Mọi
người đều muốn biết khi nào anh ấy quay trở lại. Vì vậy, chúng tôi, tôi đã quảng
cáo để bán và chúng tôi muốn bán đi. Đó cũng là giai đoạn tồi tệ trong năm.
Tháng này sẽ có người đến để xem xét. Còn chồng tôi vừa bị ốm quá và họ đưa anh
ấy vào danh sách cần quan tâm đặc biệt. Tôi chỉ không thể về nhà, nhưng có rất
nhiều việc tôi phải làm, không thể về nhà được. Nhưng con trai tôi thì đi đi về
về.
Bác
sĩ:
Cậu ta học ngành gì?
Bà
G:
Cháu kết thúc rồi ạ. Con tôi bắt đầu ở với khoa dự bị nha khoa, nhưng sau đó
cháu chuyển ngành, còn hiện thì trông coi mọi việc ở nhà. Như tôi đã nói, cháu
đi học đều, còn sau khi bố cháu bị ốm nặng, hội đồng thi tuyển cho cháu hoãn
thi vài tháng. Vì vậy, cháu đang quyết định sẽ làm gì.
Bác
sĩ:
Tôi nghĩ chúng ta nên kết thúc. Chị G. có câu hỏi gì không?
Bà
G:
Các vị đang làm tất cả những chuyện này để xem liệu có thể cải thiện hay không?
Bác
sĩ:
Vâng, có vô số lý do. Lý do chính là để tìm hiểu những bệnh nhân ốm nặng xem họ
đang trải nghiệm những gì. Ví dụ như sợ hãi và tưởng tượng hoặc cô đơn mà họ trải
nghiệm và biện pháp mà chúng ta có thể tìm hiểu và giúp đỡ họ. Mỗi bệnh nhân mà
chúng tôi phỏng vấn ở đây đều có những vấn đề và xung đột khác nhau. Thỉnh thoảng
chúng tôi cũng muốn gặp gia đình bệnh nhân, xem họ đang giải quyết tình huống
như thế nào và nhân viên bệnh viện có thể hỗ trợ như thế nào.
Bà
G:
Đã có người nói với tôi, “Tôi không biết làm sao chị có thể làm được việc đó”.
Vì sao, tôi biết Chúa quan trọng đến mức nào trong cuộc sống của con người và
tôi luôn cảm thấy như thế. Tôi đã học khóa đào tạo y tá và tôi luôn may mắn vì
được gặp những Kitô hữu tốt bụng. Tôi đã nghe và đọc nhiều thứ khác nhau, kể cả
về các minh tinh màn bạc. Nếu họ có một đức tin và tin vào Chúa, thì dường như
đấy là cái có thể dựa vào. Đó là điều tôi thực sự nghĩ và tôi nghĩ một cuộc hôn
nhân hạnh phúc được xây dựng trên đức tin.
Bà vợ bác sĩ G. đã mô tả rất hay về phản ứng
của người thân trong gia đình trước thông tin bất ngờ về căn bệnh ác tính. Phản
ứng đầu tiên của bà ấy là bị sốc, sau đó là chối bỏ trong giai đoạn ngắn,
“Không, không thể là sự thật được”. Sau đó, bà ấy cố gắng tìm ra ý nghĩa trong
tình trạng lộn xộn này và tìm được an ủi trong Kinh thánh, vốn luôn là nguồn cảm
hứng cho gia đình này. Mặc dù đã hoàn toàn chấp nhận, bà ấy cũng hy vọng vào
“nghiên cứu đang được thực hiện” và cầu nguyện cho phép màu. Mặc dù thay đổi
như thế trong gia đình bà đã làm sâu sắc thêm trải nghiệm tôn giáo của họ,
nhưng nó cũng tạo điều kiện để bà có thời gian để trở thành tự chủ và độc lập
hơn.
Đặc điểm nổi bật của cuộc phỏng vấn kép
này có lẽ lại là hai câu chuyện khác nhau mà chúng ta nghe được về cách người
ta nói cho bệnh nhân nghe. Nó khá điển hình và phải hiểu nó, đấy là nói nếu
chúng ta không coi mọi thứ theo giá trị bề ngoài.
Bác sĩ G. giải thích con trai ông đã trưởng
thành như thế nào và cuối cùng, phải nhận trách nhiệm bằng cách chia sẻ tin xấu
với ông ta. Rõ ràng là ông ấy rất tự hào về con trai mình, coi cậu ta là người
đàn ông đã trưởng thành, chín chắn, có thể gánh vác trách nhiệm khi ông bỏ lại
người vợ khá phụ thuộc của mình. Mặt khác, bà G. khẳng định rằng, chính bà là
người đã đủ can đảm và dũng khí để nói với chồng về kết quả của ca phẫu thuật,
không bắt con trai gánh vác nhiệm vụ khó khăn này. Sau đó, bà ấy đã mâu thuẫn với
chính mình nhiều lần, làm cho phiên bản của bà ấy dường như không phải là sự thực.
Tuy nhiên, mong muốn được nói với chồng của bà ấy cũng cho thấy nhu cầu của bà ấy.
Bà ấy mong muốn mình là người mạnh mẽ, có thể đối diện với bệnh của chồng và
nói về nó. Bà ấy muốn là người chia sẻ với chống cả tin tốt cũng như tin xấu, đồng
thời tìm kiếm sự an ủi và sức mạnh trong Kinh thánh để chấp nhận bất cứ điều gì
có thể xảy đến.
Một bác sĩ có khả năng trấn an, thông báo
cho họ biết rằng, sẽ làm mọi thứ có thể và vị linh mục sẵn sàng đến thăm bệnh
nhân và gia đình người bệnh thường xuyên, tận dụng các nguồn lực mà gia đình đã
từng sử dụng trong quá khứ là những cách giúp đỡ hiệu quả nhất.
[1]
Decathexis – thuật ngữ trong phân tâm học có nghĩa là thôi truyền nghị lực,
tinh thần vào một người hay một đối tượng
– ND.
[2] Bruno Bettelheim (1903-1990) – nhà tâm lý học, học giả, gốc Áo, sinh sống tại Hoa Kỳ - ND.
[3] Tin Lành theo Lu Ca, 22:42 – ND.
[4] Tin
Lành theo Gieâ-reâ-mi 33:, nguyên văn viết là theo Isaiah. Có lẽ tác giả nhầm –
ND.
No comments:
Post a Comment