December 19, 2024

BẢN NGÃ KHÔNG PHẢI LÀ CON NGƯỜI THẬT CỦA BẠN (4)

 BẢN NGÃ KHÔNG PHẢI

LÀ CON NGƯỜI THẬT CỦA BẠN 

TRÍ TUỆ NHẰM SIÊU VIỆT TÂM TRÍ VÀ NHẬN RA ĐẠI NGÃ

DAVID HAWKINS, M.D.; Ph.D.

Phạm Nguyên Trường dịch 

PHẦN III (2) 

THẦN TÍNH CỦA ĐẠI NGà 

Tất cả mọi người đều là những nhà huyền môn và ngay từ khi sinh ra đã bị cuốn hút về phía chứng ngộ, dù họ có nhận thức được chuyện này hay không. Đó là phẩm chất của học hỏi và tò mò được mở rộng ra, mà đấy là bẩm sinh của tâm trí. Do đó, con đường “Bất nhị Sùng kính” mở ra cho tất cả mọi người và không có yêu cầu nào, ngoài khả năng trung thực ở bên trong và sự sẵn sàng hoà điệu với sự thật có thể xác minh được và đi theo nó cho đến Cội nguồn của nó.

***

Cái Biết xuất phát từ bên trong là bẩm sinh, dễ tiếp cận và mang tính trải nghiệm. Cái Biết như vậy cũng nằm ngoài định nghĩa hoặc mô tả, nó là nền tảng chính, có thể xác nhận và là phổ quát của sức mạnh và năng lượng—từ đó xuất hiện khả năng cũng như làm cho tồn tại trở thành hiện thực. Thực tại Tối thượng này được mặc khải bằng công trình nghiên cứu nền tảng và cội nguồn của chính ý thức, đó là bối cảnh phi tuyến tính tối thượng vượt ra ngoài mọi định nghĩa. Do đó, bằng con đường chứng ngộ, sẽ không có mối quan hệ tách biệt giữa “bạn-Thượng đế” với “tôi-con người”.

***

Trong Bất nhị Sùng kinh, có thể tránh được khả năng mắc sai lầm bằng cách dâng hiến cho những phẩm chất phi tuyến tính quan trọng nhất của chính Thần tính, chẳng hạn như tâm từ bi, nhất thể, tình yêu, sự thật, toàn tri, vĩnh cửu, vô biên vô tế, có mặt khắp mọi nơi và toàn năng—vượt qua hình tướng, địa điểm, thời gian, bản năng hoặc cảm xúc của con người.

***

Trong khi điều kiện tiên quyết chính để gắn bó với tôn giáo là đức tin, những phẩm chất thiết yếu cần thiết để đi trên con đường phi nhị nguyên là khiêm nhường, buông bỏ và tận tụy sùng kính với con đường mà mình đã chọn.

***

Có thể dễ dàng nhận xét rằng những người theo tôn giáo có đặc điểm là “Tôi biết” thông qua kinh sách, học thuyết của giáo hội, những sự kiện được coi là tiền lệ trong quá khứ..v.v. Ngược lại, đệ tử tâm linh của phi nhị nguyên bắt đầu từ quan điểm cơ bản, chân thực hơn: “Tôi, chính tôi, chẳng biết gì”.

***

Áp dụng con đường của Bất nhị Sùng kính sẽ đưa vào bối cảnh mới nghĩa vụ theo đuổi Sự thật chứ không dính líu với thế gian và hành động của thế gian. Cách phụng sự thế giới tốt nhất là phù hợp với nhận thức.

***

Cam kết là cốt lõi của chính Sự Thật, và nó không bị cám dỗ bởi sự truyền giáo hay những điều bí mật. Chỉ cần có thái độ tò mò và hấp dẫn đối với Sự thật—vốn là trọn vẹn, toàn bộ và tự đầy đủ.

***

Ngay cả hành động đơn giản nhất, chẳng hạn như gọt vỏ củ khoai tây, cũng có thể đi kèm với tâm oán hận hoặc tận tụy với cuộc đời vì niềm vui, biết rằng mình đang hỗ trợ đời sống thông qua cuộc đời mình. Để tỏ lòng biết ơn món quà cuộc đời, người ta hiến dâng cuộc đời đó như là món quà dành cho Thiên Chúa bằng cách phụng sự bất vị kỷ tất cả sự sống mà Ngài đã tạo ra. Với thái độ dâng hiến như thế, người đó xác nhận tính thiêng liêng của mọi sự sống và đối xử với nó với thái độ tôn trọng.

***

Vũ trụ đáp lại tình yêu bằng cách tiết lộ sự hiện diện của nó. Nó ẩn giấu trước nhận thức thông thường, nhưng nhận thức lại được chính tình yêu tinh chỉnh. Nhận thức là khả năng vượt ra ngoài các giác quan hoặc cảm xúc. Nếu ta ngừng phóng chiếu và giới hạn việc nhân tình hoá, thì sẽ thấy rằng mọi thứ tồn tại đều có ý thức bẩm sinh và toát ra tình yêu như là hệ quả của thần tính của Tạo hóa.

***

Quan trọng là biết rằng ý thức không có không gian cụ thể, không có khu vực vật lý và không có giới hạn. Ảo tưởng phổ biến là “Tôi trải nghiệm mọi thứ trong đầu mình”. Thực ra, chúng ta không trải nghiệm chúng ở trong đầu. Chúng ta trải nghiệm suy nghĩ ở đâu? Chúng ta trải nghiệm ý nghĩ ở bất kỳ chỗ nào; không có vị trí hay không gian cụ thể nào để chúng ta trải nghiệm một ý nghĩ. Bản chất của ý thức là nó không có hình tướng cụ thể nào; nó không có hình tướng. Nội dung của nó có hình tướng, nhưng chính trường ý thức thì giống như không gian, không có vị trí cụ thể nào.

***

Sự thật Tối thượng được nhận ra như là tính chủ quan thuần túy, triệt để. Nó tự bộc lộ và vượt ra ngoài mọi tranh cãi.

***

Những bậc thầy vĩ đại đã dạy Sự thật về Thần tính, chứ không dạy tôn giáo, phải nhiều thế kỷ sau mới xuất hiện tôn giáo. Mặc dù thái độ tôn kính đối với tôn giáo và kinh sách là điều dễ hiểu, nhưng sự thật và Chúa của tôn giáo mới là cái cần được tôn thờ và tìm kiếm.

***

Tôn giáo chủ yếu hướng tới thế giới nhị nguyên, trong khi chứng ngộ hướng đến phi nhị nguyên. Con đường nghiêm ngặt dẫn đến chứng ngộ nói rằng vì nhị nguyên là vọng tưởng, cho nên cố gắng hoàn thiện nó chẳng mang lại lợi ích gì. Do đó, phải siêu việt bản ngã và coi nó là vọng tưởng, như nó đang là. “Nhân cách tốt” là đáng khen ngợi, nhưng chính nó không dẫn đến chứng ngộ. Khả năng đạt được chứng ngộ dựa là hiểu biết sâu sắc về bản chất của chính ý thức.

***

Ngay cả việc nghe nói đến chứng ngộ cũng đã là một món quà hiếm hoi rồi. Bất kỳ người nào đã từng nghe nói đến chứng ngộ sẽ không bao giờ hài lòng với bất kỳ điều gì khác.

***

Hài hước là biểu hiện của tự do và vui vẻ, và tiếng cười là phương pháp chữa lành mang tính sinh học… Đức tin, tình yêu và niềm vui là đường cao tốc; bi quan và tuyệt vọng chỉ dẫn đến lo buồn và chán nản. Tự căm ghét chính mình làm lu mờ nhận thức về Đại ngã như là phản ánh của Tạo hóa Thần thánh.

***

Cái mà tôi là Toàn thể. Nhận ra rằng một người đã là và luôn là Tất Cả Những Gì Đang Là không để lại bất cứ thứ gì để có thể thêm vào.

***

“Tôi Vô biên Vô tế” là thực tại chủ quan nằm bên dưới “Tôi” cá nhân và cho phép trải nghiệm “tính Tôi” như là sự tồn tại của một người. Đó là “Tôi” tuyệt đối cho phép tuyên bố “Tôi”. Ý thức, hay khả năng nhận thức, là phi hình tướng và là nền tảng để nhận dạng hình tướng.

***

Cội nguồn của Sự thật Tâm linh cao nhất là phi tâm trí. Trí tuệ gặp khó khăn trong việc hiểu được sự thật quan trọng này, vì tâm trí vốn có tính nhị nguyên và hạn chế, nó kỳ vọng rằng “cái này” là do “cái kia”. Trong Thực tại tâm linh cao cấp, tính nhị nguyên tan biến vì “cái này” là “cái kia”. Siêu việt nhị nguyên thì Người tìm kiếm và Cái được tìm kiếm trở thành Một; nghĩa là, Nhận ra Đại ngã, Soi sáng và Chứng ngộ.

***

Khi các điều kiện—trong đó có tư duy, ý định và sự tận tụy—là thuận lợi, thì người ta có thể quyết định từ bỏ mọi thứ trên thế gian này. Khi đó, người đó có thể buông bỏ hoàn toàn, tiến lên không ngừng, hoàn toàn chú tâm vào buông bỏ khía cạnh người nhận thức/người trải nghiệm của bản ngã. Quá trình này sẽ đưa người đó nhanh chóng vượt ra khỏi tâm trí để tới giao điểm giữa tâm trí và thực tại của người trải nghiệm.

Giao điểm giữa tâm trí và thực tại này chính là trung tâm của cảm giác “tôi” thông thường, và nó tạo ra một độ trễ 1/10.000 giây giữa thực tế (thế giới như nó vốn là; Descartes gọi là “res extensa”) và thế giới mà người ta tri giác hay trải nghiệm được (Descartes gọi là “res cogitans”). Sự tách biệt này là cốt lõi và quỹ tích của vọng tưởng về tính nhị nguyên của bản ngã, làm cho người ta không hiểu được Thực tại ở bên trong của Phi nhị nguyên (Đại ngã). Sau khi siêu việt được vọng tưởng về một bản ngã riêng biệt, mang tính cá nhân, tách biệt, thì sẽ xuất hiện Hào quang và Nhất thể của Đại ngã—nhớ đó mọi sự sống, dù được biểu hiện như là chủ quan hay khách quan, đều được đưa vào bối cảnh mới của Nhất thể.

***

Chứng ngộ chỉ đơn giản là Sự thật xuất hiện khi những trở ngại đối với việc nhận ra Sự thật đã được loại bỏ.Tương tự như thế, ánh sáng mặt trời không phụ thuộc vào việc loại bỏ những đám mây; xua tan mây mù thì ánh sẽ trở nên rõ ràng hơn.

***

Con đường dẫn đến “đốn ngộ” là bám sát vào nhận thức tâm linh và các đặc điểm cụ thể của ý thức để có thể siêu việt nhân cách (bản ngã) chứ không phải là hoàn thiện tính cách.

***

Thuật ngữ “chứng ngộ” (enlightenment) là đúng về mặt ngữ nghĩa. Đó là công nhận và nhận ra rằng thực tại của một người là ánh sáng của Đại ngã—và nó bắt nguồn từ bên trong như là nhận thức và Thực tại sâu sắc, hiển nhiên.

***

Trong Thực tại, thời gian chỉ đơn giản là vọng tưởng và bề ngoài. Khi một người nào đó đã chọn mục tiêu tâm linh thì “thời gian” không thực sự bị lãng phí. Thực ra, cuối cùng, chứng ngộ kéo dài cả ngàn kiếp hay chỉ trong một kiếp cũng không có gì khác biệt. Cuối cùng, tất cả đều như nhau.

***

 

 “Người tốt” là một chuyện; chứng ngộ lại là chuyện khác. Người ta chỉ chịu trách nhiệm về nỗ lực chứ không chịu trách nhiệm về kết quả, nó phụ thuộc vào Chúa và vũ trụ.

Bản chất của con người bao gồm tiềm năng cho chứng ngộ. Sẵn sàng ngụ ý rằng người ta đã tiến hóa qua những tầng ý thức thấp hơn, vì vậy cảm hứng tâm linh giờ đây trở thành tia lửa soi sáng công cuộc tìm kiếm.

***

Hiểu được bản chất của ý thức giúp cho chứng ngộ trở nên khả thi. Về cơ bản, nó đòi hỏi phải nhận ra sự khác biệt giữa nhị nguyên và phi nhị nguyên, cũng như làm sao siêu việt được ranh giới nhị nguyên.

***

 

Con đường thẳng nhất dẫn tới chứng ngộ là siêu việt giới hạn của bản ngã/tâm trí bằng cách dâng hiến cho chính Sự thật đã được xác minh. Quá trình này phù hợp với nhân loại ngày nay và không xung đột với khoa học và tôn giáo.

***

Khi người ta ngừng đồng nhất với cơ thể hay tâm trí, các chức năng tiếp tục hoạt động theo lối tự chủ, nhưng chỉ không đồng nhất là “chính tôi”. Cảm giác về quyền tác giả biến mất. Sự sống vẫn diễn ta theo lối tự chủ, và tiếp tục là biểu hiện của ý thức trong liên minh của nó với Chúa Thánh Thần.

***

Từ quan điểm của ý thức và chứng ngộ, sợ hãi tiếp tục thống trị cho đến khi ham muốn tồn tại được phó thác cho Chúa. Trong sự tĩnh lặng diễn ra sau đó, người ta sẽ nhận thức được rằng tồn tại luôn luôn là do Hiện diện của Đại ngã, đã thu hút từ Vũ trụ mọi điều cần thiết cho sống còn.

***

Cứu rỗi đòi hỏi thanh lọc bản ngã; chứng ngộ đòi hỏi xoá bỏ hoàn toàn bản ngã. Mục tiêu của chứng ngộ đòi hỏi nhiều hơn và triệt để hơn.

***

Tìm kiếm chứng ngộ là cam kết rất to lớn—và thực tế là, đó là mục tiêu khó khăn nhất của con người. Trong mười triệu người mới có một người coi chứng ngộ là mục tiêu chính của cuộc đời mình.

***

Phải hiểu rõ rằng không phải con người cá nhân của “bạn” đang tìm kiếm chứng ngộ mà đấy là phẩm chất phi cá nhân của ý thức, nó chính là động lực.

***

Không có tách biệt trong Toàn thể của Tạo hóa, vì vậy, cái được tạo ra không thể tách biệt khỏi Đấng sáng tạo. Do đó, chứng ngộ là mặc khải của Đại ngã khi loại bỏ được vọng tưởng về thực tại của một bản ngã riêng biệt.

***

Con đường dẫn tới chứng ngộ không dành cho những con cừu luôn luôn than thân trách phận. Bị xúc phạm có nghĩa là người ta đang tự vệ, điều này, tự nó, chứng tỏ sự bám víu vào cái không phải là sự thật. Sự thật không cần tự vệ và do đó không có tính phòng thủ; Sự thật không có gì để chứng minh và không dễ bị tổn thương khi bị đặt câu hỏi để có câu trả lời.

***

Nhất thể của Đại ngã là nền tảng của hiện tượng được gọi là Mặc khải hay Nhận thức. Chứng ngộ là trạng thái hoàn thành xảy ra sau đó—và nó là vô điều kiện, toàn bộ và trọn vẹn.

***

 “Tôi” cá nhân là “nội dung”, trong khi “Tôi” của Thực tại là bối cảnh. Tương tự như thế, đám mây có thể thay đổi và tan rã. Thời tiết đến rồi đi, nhưng bầu trời thì vẫn không thay đổi. Chứng ngộ chỉ đơn giản là chuyển sự đồng nhất với đám mây sang đồng nhất với bầu trời.

***

Mô tả tốt nhất nhận thức đã chứng ngộ là một trạng thái hay một điều kiện, một cõi hoặc một chiều kích. Nó tự bộc lộ và giữ thế thượng phong. Nó làm lu mờ và thay thế quá trình tư duy, suy nghĩ trở thành không cần thiết và trên thực tế, sẽ là can thiệp và xâm phạm. Mặc khải là tinh tế, mạnh mẽ, mềm mại, nhẹ nhàng, tinh tế và bao trùm tất cả. Các giác quan bị lờ đi và tất cả tri giác về “cái này” hay “cái kia” đều biến mất. Rõ ràng là toàn bộ nội dung của mặc khải đã ở đó từ rất lâu rồi và đơn giản là người ta không trải nghiệm hoặc quan sát được. Tầm nhìn về cái “Đang Là” trong toàn bộ của nó hoàn toàn “Được biết”, đấy là do Đại ngã vốn đã là Tất Cả Những Thứ Đang Là. Bản sắc trao quyền tuyệt đối cho tri thức. Người quan sát, cái được quan sát và quá trình quan sát là một.

***

Trở thành chứng ngộ chỉ có nghĩa là ý thức đã nhận ra phẩm chất bẩm sinh, bên trong nhất của nó là tính chủ quan phi tuyến tính và khả năng nhận thức của nó.

***

Hãy kiên quyết, không chút do dự. Tránh xa cám dỗ của cõi trung giới. Hãy cẩn thận với những con sói đội lốt cừu, vì chúng bị thu hút bởi những người sùng đạo đang đạt được những tiến bộ đáng kể. Đừng chấp nhận cho bất kỳ người nào bước vào cuộc đời của bạn nếu họ không vượt qua được tầng Sự thật có thể hiệu chỉnh được. Luôn giữ mục tiêu tâm linh của bạn trong trạng thái tỉnh thức, hoạt động nào thì cũng thế. Hãy dâng hiến mọi nỗ lực cho Thiên Chúa. Ghi nhớ bản chất thực sự của Thiên Chúa và tránh bất kỳ giáo lý nào tuyên bố điều ngược lại.

***

Mong muốn tìm kiếm Thiên Chúa hoặc chứng ngộ đã là bằng chứng cho thấy bạn đã được truyền cảm hứng về mặt tâm linh. Khi bản ngã không còn, thì Hào quang của Đại ngã sẽ nâng bạn lên và truyền cho bạn cảm hứng. Từ đó trở đi, bạn không thể là người đơn độc nữa. Vào thời điểm quan trọng, cam kết và dâng hiến về mặt tâm linh sẽ mang tới sự giúp đỡ vô hình của các Đấng vĩ đại không còn trong cơ thể vật chất nữa—nhưng năng lượng của họ vẫn ở ngưỡng cửa vĩ đại của khoảnh khắc cuối cùng khi một người được Thánh Linh và trí tuệ của các bậc thầy về Sự thật nâng đỡ.

***

Con đường thẳng nhất dẫn đến chứng ngộ là hướng nội tìm, thiền định và chiêm nghiệm về hoạt động bên trong của bản ngã để hiểu được ý thức. Quá trình này được tiếp thêm năng lượng bởi ý định, dâng hiến và tận tụy; và nỗ lực tổng thể được hỗ trợ bởi cảm hứng tâm linh. Dâng hiến tập trung vào chính quá trình này như là phó thác cho Chúa. Tập trung cần phải mãnh liệt, và được tiếp thêm năng lượng bởi ý định thận trọng và không thay đổi. Đây là quá trình khám phá và dần dần sẽ trở thành tự bộc lộ.

***

Đi theo con đường nghiêm túc dẫn tới chứng ngộ là kỷ luật và cam kết cụ thể. Nó khác với thực hành tôn giáo. Mặc dù có nhiều giáo lý tôn giáo ủng hộ việc tìm kiếm chứng ngộ, nhưng cũng có nhiều giáo lý không ủng hộ và thực sự tạo ra chướng ngại. Sùng đạo là một chuyện; trở thành chứng ngộ là chuyện hoàn toàn khác.

***

Quan trọng là nhận ra rằng số phận của những người chọn chứng ngộ là chứng ngộ— còn người nào khác đi theo con đường đó? Chỉ đơn giản là tìm kiếm thanh lọc và nhận thức tâm linh đã là một món quà.

***

Chứng ngộ có nghĩa là bản sắc cá nhân trước đây và tất cả những gì đã từng được tin tưởng về nó đều đã bị xóa bỏ, loại bỏ, siêu việt, giải thể và thay thế. Cái riêng biệt đã được thay thế bằng cái phổ quát, các phẩm chất được thay thế bằng phi tuyến tính, và cái rời rạc đã được thay thế bằng cái vô giới hạn.

***

Khi chứng ngộ xảy ra, trạng thái tiếp theo cũng hoàn toàn tái tạo lại diện mạo của thế gian. Nhìn thấy vạn vật đều đang diễn ra theo cách riêng của nó. Không còn “tôi” (me) hay “tôi” (I) cá nhân nữa. Định hướng đối với thế gian hoàn toàn thay đổi, và không thể hoạt động hoặc rất khó hoạt động trong thế gian.

***

Trong trạng thái chứng ngộ, mọi thứ đều tự bộc lộ bản chất của nó như là tồn tại của nó. Vạn vật đã là cái mà nó “có nghĩa là”.

***

Vì không có ngôn từ nào để nói về trạng thái chứng ngộ, một thiền sư có thể đột nhiên hét lên “Ha!” và dùng gậy để đánh bạn. Hy vọng là một tia sáng bất ngờ, trong đó Thực tại không thể giải thích được tiết lộ.

***

Chứng ngộ là nhận thức thẩm mỹ tối thượng, vì nó cho phép vẻ đẹp của tạo hoá tỏa sáng với sự rõ ràng làm người ta phải kinh ngạc.

***

Một phép so sánh đơn giản khác là bóng râm không trở thành tia nắng, mà được thay thế bằng tia nắng. Bản ngã là bóng râm; chứng ngộ là hệ quả của ánh sáng của Đại ngã thay thế cho nó.

***

Chứng ngộ chỉ đơn giản là nhận thức đầy đủ, có ý thức rằng Sự thật bẩm sinh là cốt lõi của sự tồn tại của chính mình—và Thiên Chúa như là Đại ngã là soi sáng mà nhờ đó nhận thức đó trở thành khả thi. Sức mạnh Vô biên Vô tế của Chúa là sự hiển lộ của sức mạnh của Bối cảnh Vô biên Vô tế. Cái Không Hiển Lộ thậm chí vượt ra ngoài Bối cảnh Vô biên Vô tế.

***

Như Đức Phật đã chỉ ra, là thường nhân hữu sinh hữu tử thì sẽ tự động kéo theo đau khổ, đó là lý do vì sao Ngài dạy phải tìm kiếm chứng ngộ nhằm ngăn chặn quá trình tái sinh do nghiệp chướng quyết định. Ở những tầng rất cao, trải nghiệm chủ quan về tồn tại không còn bị giới hạn bởi bản ngã ái kỷ hoặc những rào cản tâm lý của các định vị. Tình trạng này là kết quả của việc buông bỏ từng bước một ở những tầng rất sâu tất cả các giới hạn và hệ thống niềm tin. Yêu cầu là “nhất tâm” một cách bền bỉ, xử lý những thứ còn sót lại từ cảm xúc/tâm trí của các tầng ý thức thấp hơn và buông bỏ tất các bản sắc-bản ngã và hệ thống niềm tin của tâm trí.

***

Khả năng vươn lên tới tình trạng hay trạng thái được gọi là “chứng ngộ” là hoàn thành tiềm năng của ý thức trong quá trình tiến hóa của nó.

***

Áp dụng một cách nhất quán bất kỳ nguyên tắc tâm linh nào cũng có thể bất ngờ dẫn đến một bước nhảy vọt rất lớn và đột ngột đến những tầng cao mà trước đó người ta chưa hề nghĩ tới. Lúc đó, ký ức có thể không còn khả dụng; thay vào đó, Hiểu Biết về Sự Thật Tâm Linh tự hiện ra một cách thầm lặng.

***

Thoải mái và tự tin có thể xuất phát từ thực tại có thể kiểm chứng sau đây: những người hiếm hoi thực sự bị cuốn hút vào chứng ngộ, coi đấy là mục tiêu của cuộc đời, bị cuốn thu là vì đó là số mệnh của họ. Tương tự như thế, chỉ những người sẽ chơi gôn mới học chơi gôn.

***

Chứng ngộ là kết quả của việc phó thác tất cả các vọng tưởng nhị nguyên cho Sự thật. Mọi đau khổ đều chấm dứt cùng với việc giải thề tất các các định vị của bản ngã. Vì vậy, chúng ta ca ngợi Chúa vì đã phát phóng Ánh sáng lên thế gian.

***

Tìm kiếm chứng ngộ là quyết định quan trọng. Do đó, chính quyết định này tương tự như quan điểm “dương”—nhưng sau đó, chính quá trình lại tương tự như quan điểm “âm” hơn. Trong khi bản ngã thường được lập trình để “nhận” (dương), thì ý định tâm linh lúc này lại chuyển sang “cho phép” (âm).

***

Dâng hiến cho Tự nhận thức và chứng ngộ là con đường thẳng và hẹp, đòi hỏi tuân thủ kỷ luật. Do đó, đệ tử nghiêm túc được khuyên nên bỏ qua thái độ tò mò và những hấp dẫn đối với đứa trẻ ở bên trong trước những hiện tượng tâm linh và huyền bí, điều kỳ diệu thường được bán và chào bán như những kỹ năng có thể học được.

***

Tiến hóa tâm linh là cam kết trọn đời và là một cách sống mà thế gian và tất cả các trải nghiệm đều phục vụ cho ý định tâm linh… Các sự kiện kỳ lạ chỉ đơn giản là hiện thực hóa tiềm năng, chúng sẽ xuất hiện khi có các điều kiện phù hợp… Từ tầng ý thức cao hơn mà nói, thì rõ ràng là thực ra tất cả các hiện tượng đều xảy ra một cách tự phát như là kết quả của quá trình tiến hóa của chính vũ trụ , và do đó, đời sống không chỉ hoàn hảo ở mọi thời điểm mà còn là một sự mặc khải liên tục, trong đó người ta vừa là người tham gia vừa là người quan sát.

***

Tâm trí tỉnh táo không dễ bị ảnh hưởng bởi những định vị hoặc phán đoán tầm thường cũng như không bị mắc kẹt trong những nỗ lực điên cuồng. Nó thường dễ tính và ôn hòa và thích quan sát hơn là tham gia vào các vở kịch của thế gian. Tâm trí tỉnh táo không dính mắc vào các định nghĩa thế gian về được hay mất.

***

Do đó, trạng thái chứng ngộ là Thực tại tiềm tàng, nó thay thế cho những vọng tưởng của tri giác của bản ngã. Ý định, nỗ lực và quyết định mang tính tâm linh thúc đẩy quá trình tiến hóa của ý thức từ tuyến tính có giới hạn đến Toàn thể phi tuyến tính của Thực tại.

***

Chúa là cội nguồn và sự hiện diện của an bình, tình yêu, tĩnh lặng và cái đẹp. Chúa vượt ra ngoài mọi vũ trụ và vật chất, nhưng lại là cội nguồn của Tất Cả Những Thứ Đang Là.

***

Tìm kiếm chứng ngộ một cách nghiêm túc là kỷ luật rất nghiêm ngặt; do đó phải tránh, không để bị lôi kéo tham gia vào các phong trào được cho là tâm linh, nhưng thực ra lại là chính trị và bè phái. “Thay đổi thế giới” (tất nhiên là theo hướng tốt hơn) có sức hấp dẫn đối với những đứa trẻ theo phái lý tưởng ngây thơ và cùng với quá trình trưởng thành, người ta sẽ vượt qua được. Bản chất của đời sống con người là kết quả tự động của tầng ý thức tổng thể của người đó. Do đó, muốn mang lại lợi ích cho thế gian, cần phải thay đổi không phải thế gian mà thay đổi chính con người mình—vì cái mà người đó trở thành tạo được ảnh hưởng vì bản chất của nó (phi tuyến tính) chứ không phải là do hành động (có giới hạn và tuyến tính).

***

Năng lượng của sự sống là sự tỏa sáng từ trường ý thức, đó là phương thức của Hiện diện của Thần tính, hiển lộ trong vật chất như là Sáng tạo. Khả năng chứng ngộ chỉ đơn giản là kết quả của ý thức quay trở về cội nguồn của nó, đó là Thần tính Có mặt khắp nơi như là Đại ngã.

Bản ngã/tự ngã đồng nhất với các chức năng và phẩm chất khác nhau của nó và dán nhãn cho chúng như là “tôi” (me) và nói rằng “tôi là người đó”. Điều này dẫn đến sự phù phiếm của uy quyền, một sai lầm bắt nguồn từ quá trình tiến hóa, như là hệ quả của việc đồng nhất với trải nghiệm của các giác quan. Do đó, dẫn đến kết luận điển hình nói rằng “tôi” ngứa, mà đáng lẽ là “cơ thể” ngứa. Lỗi như thế về quyền tác giả/quyền sở hữu cũng xảy ra với cảm xúc và suy nghĩ, trong đó nhân chứng đồng nhất với chủ thể và nội dung của người trải nghiệm.

Chức năng của người trải nghiệm là một máy dò thông tin, nó thu thập dữ liệu tuyến tính và do đó là “nó” chứ không phải là “tôi”. Nó là đơn vị xử lý chức năng, chỉ tương tự như khứu giác hay xúc giác mà thôi.

***

Chứng ngộ là kết quả của sự chuyển dịch to lớn của nội dung và nhận dạng. Tiêu điểm của người trải nghiệm giống như một tấm màn che Thực tại và tự động rơi xuống khi các đạo cụ được gỡ bỏ. Đây là hậu quả của việc phó thác ý chí cho Thiên Chúa. Cảm giác về thực tại của bản ngã thực ra chỉ là do Hiện diện tiềm ẩn của Đại ngã.

***

Cần nhớ rằng cả Sự thật lẫn chứng ngộ đều không phải là cái gì đó có để tìm được, tìm kiếm, thủ đắc, đạt được hay sở hữu. Cái là Hiện diện Vô biên Vô tế luôn luôn có đó, và nó tự nó xảy ra khi những trở ngại đối với nhận thức được loại bỏ. Do đó, không cần thiết phải nghiên cứu sự thật mà chỉ cần buông bỏ những thứ sai lầm. Xua tan những đám mây không làm cho mặt trời chiếu sáng mà chỉ đơn giản là tiết lộ những gì đã từng ẩn giấu bấy lâu nay.

Do đó, công việc tâm linh chủ yếu là buông bỏ những thứ mà người ta nghĩ rằng đã biết để tìm kiếm những thứ chưa biết—với sự khuyến khích từ những người đã nhận ra Hiện diện Vô biên Vô tế, nói rằng nỗ lực này sẽ được đền đáp một cách xứng đáng.

***

Nhìn vào bên trong để tìm cội nguồn thực sự của tình yêu sẽ dẫn đến khám phá ra Đại ngã. Giống như mặt trời, Đại ngã luôn có đó, vô điều kiện và không chịu sự chi phối của suy nghĩ, ý kiến ​​hoặc thái độ. Đại ngã chỉ có thể yêu vì đó là bản chất của nó. Tình yêu của Đại ngã không phải là thứ kiếm được, xứng đáng hay chịu sự hạn chế. Đại ngã là cội nguồn của sự sống và là nhận thức chủ quan về tồn tại… Nó vượt ra ngoài mọi nhị nguyên; không có nhị nguyên giữa Đại ngã và tồn tại. Cái Không Hiển Lộ và Cái Hiển Lộ là một và như nhau. Ý thức có thể bao gồm nội dung hoặc có thể không bao gồm. Tương tự như thế, không gian không phụ thuộc vào sự hiện diện của các hành tinh hoặc vũ trụ, nhưng nó bao gồm tất cả.

***

Ý thức không công nhận tách biệt, đó là hạn chế của tri giác. Trạng thái chứng ngộ là “Nhất thể” trong đó không có phân chia thành các phần. Chỉ có tri giác khu biệt mới thấy một cách rõ  ràng phân chia như thế; nó chỉ là một quan điểm ngẫu nhiên mà thôi.

***

Muốn phụng sự thế giới một cách tốt nhất, hãy tìm kiếm chứng ngộ và siêu việt vọng tưởng, chứ đừng góp phần làm cho vọng tưởng phồng to lên.

***

Tiềm năng Vô biên Vô tế, Tối thượng là Thực tại của Tồn tại. Do đó, “Tất Cả Những Thứ Đang Là” là bẩm sinh Thần thánh, nếu không thì nó không thể tồn tại được. Biểu hiện tuyệt đối của Thần tính là Tính Chủ Quan. Nếu tôi tồn tại, thì Chúa tồn tại. Chứng ngộ là xác minh rằng tất cả tồn tại không chỉ là kết quả của Sáng tạo, mà chính tồn tại không khác Đấng sáng tạo. Cái được tạo ra và Đấng sáng tạo là một và như nhau.

***

Thông qua hoà điệu, ý định và tận tụy tâm linh—được hỗ trợ bởi thiền định, chiêm nghiệm, hướng dẫn đúng đắn và Sự thật; và được hỗ trợ bởi trường năng lượng của một đạo sư cao cấp—những bước nhảy vọt lớn của ý thức có thể xảy ra một cách bất ngờ. Do đó, quan trọng là phải biết từ trước - được xác nhận bằng nghiên cứu ý thức - về những bước nhảy vọt này.

Cơ hội để trở thành người chứng ngộ hiện nay cao hơn một nghìn lần so với bất kỳ thời điểm nào khác trong quá khứ, có nghĩa là vươn tới tầng Tình yêu vô điều kiện (điểm hiệu chỉnh 540) là mục tiêu rất có thể vươn tới được và thực hiện được. Từ tầng Tình yêu vô điều kiện, con đường ngày càng vui hơn. Ở tầng 600, xuất hiện tĩnh lặng và bình yên vô biên vô tế—và quá trình thăng lên từ đó trở đi phụ thuộc vào Ý Chí của Thiên Chúa, nghiệp lực và cái Biết tiềm năng đang nảy mầm bên trong hào quang tâm linh.

***

Người ta nhận ra Sự thật. Nó tự xuất hiện với một trường nhận thức đã được chuẩn bị để cho phép nó tự bộc lộ. Sự thật và chứng ngộ không phải là thứ có thể thủ đắc hay đạt được. Chúng là những trạng thái hoặc hoàn cảnh tự xuất hiện khi có các điều kiện phù hợp và trở ngại được loại bỏ.

***

Mọi con đường tìm kiếm đều dẫn đến cùng một câu trả lời tối thượng. Khám phá ra rằng không có gì bị che giấu và Sự thật có mặt khắp nơi là chìa khóa dẫn tới chứng ngộ về những vấn đề thực tế đơn giản nhất và số phận của nhân loại. Trong quá trình xem xét cuộc sống hàng ngày của mình, chúng ta có thể thấy rằng tất cả sợ hãi của chúng ta đều là do dối trá mà ra. Thay thế dối trá bằng sự thật là bản chất của quá trình chữa lành mọi thứ cả hữu hình lẫn vô hình. Và lúc nào cũng thế, câu hỏi cuối cùng sẽ xuất hiện đối với tất cả những người tìm kiếm—câu hỏi lớn nhất: “Tôi là ai?”

***

Công cuộc nghiên cứu bản chất của ý thức sẽ dẫn trực tiếp đến cội nguồn của chứng ngộ, vì Ánh sáng của Ý thức là điều kiện của chứng ngộ. Nhờ Ánh sáng của nó, người biết và cái được biết được hợp nhất trong nhận thức về Đại ngã như là Thiên Chúa Có mặt khắp nơi.

***

Bạn phải từ bỏ vọng tưởng cho rằng bạn biết mình là ai. Trong trạng thái Thần thánh này, không có gì để “biết” vì bạn là nó. Thực hiện bước nhảy này là khó—nhưng đột nhiên, nó tự xảy ra, và sau đó người đó được tự do mãi mãi. Không chắc chắn được thay thế bằng niềm vui bất tận. Sau đó, cuộc sống của con người sẽ là một vở hài kịch bất tận! Bạn không phải là “ai” mà là “cái gì”.

***

Một trong những lý do làm cho sự chậm trễ dường như kéo dài bất tận là thái độ nghi ngờ, nó nên được buông bỏ như là kháng cự. Quan trọng là phải biết rằng thực ra người cam kết với Sự thật Tâm linh đến mức nghiêm túc tìm kiếm chứng ngộ là cực kỳ hiếm, và những người cam kết làm như thế vì họ thực sự có số phận là vươn tới chứng ngộ.

***

Tôi là ai? Ai đang hỏi? Bạn tìm được người đang hỏi, và nó trả lời toàn bộ câu hỏi. Đó không phải là “ai” mà là “cái gì”.

***

Không thừa nhận Hiện diện của Thiên Chúa sẽ là phủ nhận Toàn thể và Thần tính của Chúa; đối với người đã chứng ngộ đó là điều không thể xảy ra.=

***

Ở ngưỡng cửa cuối cùng dẫn đến chứng ngộ là thử thách cuối cùng của bản ngã, đó là niềm tin cốt lõi trung tâm rằng nó là cội nguồn và là nơi chốn không chỉ của bản sắc mà còn của chính đời sống. Lúc đó, một người hoàn toàn đơn độc và bị tước mất mọi biện pháp bảo vệ hoặc chỗ dựa có tính an ủi, hệ thống niềm tin, hoặc thậm chí là ký ức. Trong hào quang của người đó chỉ còn duy nhất tần số cao của rung động trong ý thức của vị Thầy đã Chứng Ngộ, với hiểu biết đã được mã hóa. Bước cuối cùng được trực giác như là kết thúc mà không thể quay lại, và do đó, có sự bàng hoàng trước tính tuyệt đối của kết thúc. Sau đó, hiểu biết xuất hiện để bước thẳng về phía trước, dù chuyện gì xảy ra thì cũng thế, vì tất cả sợ hãi đều là vọng tưởng. Khi bước cuối cùng này được Ý chí Tâm linh thực hiện, người ta trải nghiệm cái chết, nhưng thống khổ dữ dội chỉ kéo dài trong vài khoảnh khắc. Cái chết của bản ngã là cái chết thực sự duy nhất mà người đó có thể trải nghiệm, ngược lại với những lần chết trước đó, rời khỏi cơ thể là tương đối tầm thường. Trải nghiệm về cái chết kết thúc bằng sự kinh ngạc trước mặc khải của Thực tại Tối thượng—và sau đó ngay cả kinh ngạc cũng biến mất và Đại ngã siêu việt tính nhị nguyện của Tồn tại so với Không tồn tại, Toàn thể so với Không có gì, và Hiện diện khắp nơi so với Hư vô.

***

Đệ tử nghiêm túc cần biết trước rằng ở ngưỡng cửa cuối cùng (Ngưỡng cửa cuối cùng có điểm hiệu chỉnh ở 999), anh ta sẽ phải đối mặt với sẵn sàng từ bỏ chính đời sống của mình—hoặc ít nhất là cái mà người ta tin từ khi bắt đầu quá trình tiến hóa là cốt lõi của chính đời sống. Rất hiếm người vượt qua được ngưỡng cửa cuối cùng này, và một trong những lý do là không được chuẩn bị, không chắc chắn và còn nghi ngờ cuối cùng rất to lớn.

***

Cuối cùng, đối với người sùng đạo thực sự, theo đuổi thực tại tâm linh thế chỗ cho tất cả các tính toán khác. Cam kết trở thành người chứng ngộ là quyết định dù chuyện gì xảy ra thì bạn cũng cương quyết không từ bỏ.

 ***

Vào khoảnh khắc cuối cùng, những dấu vết cuối cùng của nghi ngờ và nỗi sợ hiện sinh có thể nổi lên từ những tầng sâu thẳm. Lúc đó, đức tin vào những lời dạy của các bậc thầy hướng dẫn chúng ta “Hãy đi thẳng về phía trước, dù chuyện gì xảy ra thì cũng thế” xuất hiện và chứng minh là đúng, vì vinh quang của Chúa đang chờ đợi ở phía bên kia của rào cản lớn cuối cùng này.

 

GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ

 

Phần giải thuật ngữ này là tập hợp các đoạn trích đã được biên tập từ các tác phẩm của Tiến sĩ Hawkins.

 

Ý thức: Ý thức là trường năng lượng vô biên vô tế, hiện hữu khắp nơi, phổ quát, là sóng tải thể và kho chứa tất cả các thông tin có sẵn trong vũ trụ—và quan trọng hơn, đó chính là bản chất và nền tảng của khả năng biết hoặc trải nghiệm, tri giác hoặc chứng kiến. Quan trọng hơn nữa, ý thức là phẩm chất chính yếu, không thể quy giản của tất cả tồn tại —trường năng lượng vô hình tướng, không nhìn thấy được có chiều kích và tiềm năng vô hạn, không phụ thuộc vào thời gian, không gian hoặc vị trí, nhưng lại bao hàm tất cả và hiện diện khắp nơi.

Ý thức là phẩm chất phi cá nhân của Thần tính được thể hiện dưới dạng nhận thức và là phi nhị nguyên và phi tuyến tính. Nó giống như không gian vô hạn có khả năng nhận thức và là phẩm chất của Bản chất Thần thánh.

 

Bối cảnh: Toàn bộ trường quan sát, được khẳng định bởi một quan điểm. Bối cảnh bao gồm bất kỳ sự kiện quan trọng nào đủ sức làm rõ ý nghĩa của một lời tuyên bố hoặc sự kiện. Dữ liệu là vô nghĩa trừ khi xác định được bối cảnh của nó. “Lấy ra khỏi bối cảnh” là bóp méo ý nghĩa của một tuyên bố bằng cách không xác định các điều kiện phụ trợ góp phần làm rõ hàm ý của ý nghĩa.

 

Tính nhị nguyên: Thế giới của hình tướng có đặc điểm là tách biệt rõ ràng của các đối tượng, được phản ánh trong tách biệt mang tính khái niệm như “cái này/cái kia”, “ở đây/ở đó”, “lúc đó/bây giờ” hoặc “của bạn/của tôi”. Cảm giác về sự giới hạn của con người xuất phát từ các giác quan của chúng ta, bởi vì chúng ta thường có xu hướng nhìn từ một góc độ cố định.

 

Bản ngã (hay tự ngã (self) với chữ s viết thường): Bản ngã là người làm mà người ta tưởng tượng ra phía sau tư duy và hành động. Người ta tin chắc rằng cần phải có nó và nó cực kỳ cần thiết cho sự sống còn. Lý do là phẩm chất chính của bản ngã là tri giác, và là tri giác, nó bị giới hạn bởi hệ hình nhân quả.

Bản ngã có thể được gọi là trung tâm xử lý và lập kế hoạch; là trung tâm tích hợp, điều hành, chiến lược và chiến thuật; chuyên làm công việc dàn xếp, đối phó, phân loại, lưu trữ và truy xuất. Nó có thể được coi là một tập hợp các thói quen tư duy đã ăn sâu bén rễ, là kết quả của sức cuốn hút của các trường năng lượng không nhìn thấy được đang chi phối ý thức của con người. Những thói quen tư duy này lại được củng cố bằng cách lặp đi lặp lại và sự đồng thuận của xã hội.

Chính ngôn ngữ cũng giúp củng cố bản ngả. Suy nghĩ bằng ngôn ngữ là một hình thức tự lập trình. Sử dụng đại từ “tôi” làm chủ ngữ, và do đó là nguyên nhân của mọi hành động, là sai lầm nghiêm trọng nhất và tự động tạo ra tính nhị nguyên của chủ thể và đối tượng.

Nói cách khác, bản ngã là tập hợp các chương trình, mà lý trí hoạt động thông qua một loạt các thuật toán phức tạp, nhiều lớp, trong đó, suy nghĩ đi theo một số cây quyết định có trọng số khác nhau, đấy là do kinh nghiệm trong quá khứ, quá trình nhồi sọ và các lực lượng xã hội; do đó, nó không phải là hoàn cảnh tự tạo ra. Động lực mang tính bản năng gắn liền với các chương trình, do đó, làm cho các quá trình sinh lý phát huy tác dụng.

 

Chứng ngộ: Trạng thái nhận thức khác thường, thay thế cho ý thức thông thường. Bản ngã được thay thế bằng Đại ngã. Trạng thái này nằm ngoài thời gian hoặc không gian, im lặng và tự thể hiện như là mặc khải. Trạng thái này xảy ra khi bản ngã bị xoá bỏ. Người ta thấy mọi thứ diễn một cách tự chủ chứ không phải là kết quả của quan hệ nhân quả.

Nghiệp: Về bản chất, nghiệp của mỗi cá nhân là một gói thông tin (tương tự như con chip máy tính) tồn tại trong miền phi vật chất của ý thức. Nó chứa mã thông tin được lưu trữ vốn có trong, và là một phần của, cơ thể tâm linh hay linh hồn. Nó là nơi ngưng tụ tất cả các trải nghiệm trong quá khứ, cùng với các sắc thái liên quan của suy nghĩ và cảm xúc. Linh hồn vẫn giữ được quyền tự do lựa chọn, nhưng phạm vi lựa chọn đã được định hình sẵn.

Nghiệp là tuyến tính, lan truyền qua linh hồn và được thừa hưởng như là hậu quả của những hành động quan trọng của ý chí. Thực ra “Nghiệp” có nghĩa là trách nhiệm giải trình—và, như đã trích dẫn trong các công trình nghiên cứu tâm linh trước đây, mọi thực thể đều phải trả lời trước vũ trụ. Tóm lại, như mọi người đều biết, nghiệp (số phận tâm linh) là hậu quả của những quyết định của ý chí và quyết định số phận tâm linh sau khi người ta chết về mặt thể xác (các tầng trời, địa ngục, luyện ngục hoặc cái gọi là cõi trung giới bên trong). Bao gồm cả lựa chọn tái sinh trong miền vật lý của con người, điều này, như được chứng minh bằng nghiên cứu hiệu chỉnh ý thức, chỉ có thể được thực hiện bắng cách thoả thuận với ý chí cá nhân. Vì vậy, tất cả mọi người, bằng thỏa thuận, đã chọn con đường này. Ngoài ra, nghiên cứu ý thức xác nhận rằng tất cả mọi người đều được sinh ra trong điều kiện tối ưu nhất cho quá trình tiến hóa tâm linh, không phụ thuộc vào hình dáng bên ngoài. Nếu bạn không đồng ý thì bạn đã không được sinh ra.

Tuyến tính: Đi theo tiến trình hợp logic của vật lý Newton và do đó, có thể giải quyết được bằng toán học truyền thống bằng cách sử dụng các phương trình vi phân.

Phi nhị nguyên: Khi siêu việt được giới hạn của một vị trí cố định của nhận thức, thì sẽ không còn vọng tưởng về sự tách biệt, không còn không gian và thời gian như chúng ta biết. Ở tầng phi nhị nguyên, có quá trình quan sát nhưng không có người quan sát, vì chủ thể và đối tượng là một. Bạn và tôi trở thành Một Đại Ngã trải nghiệm tất cả như là Thần tính. Trong phi nhị nguyên, ý thức trải nghiệm chính nó như là cả hiển lộ và phi hiển lộ, nhưng không có người trải nghiệm. Trong thực tại này, thứ duy nhất có khởi đầu và kết thúc là hành động tri giác chính nó.

Định vị: Các định vị là những cấu trúc thiết lập toàn bộ cơ chế tư duy đang vận hành và kích hoạt nội dung của nó. Các định vị là các chương trình, không phải là Đại ngã thực sự. Thế giới nắm giữ một loạt quan điểm, đấy là những giả định tùy tiện và hoàn toàn sai lầm. Các định vị nguyên thủy là: (1) Những tư tưởng có ý nghĩa và vai trò quan trọng; (2) Có ranh giới phân chia giữa các mặt đối lập; (3) Có quyền tác giả—những suy nghĩ có giá trị vì chúng là “của tôi”; (4) Suy nghĩ là cần thiết nhằm kiểm soát, và sự sống còn phụ thuộc vào quyền kiểm soát. Tất cả các định vị thế đều là tự nguyện.

Đại ngã (Self – chữ S viết hoa): Đại ngã vượt ra ngoài - nhưng lại là bẩm sinh ở bên trong - mọi hình tướng—phi thời gian, không có khởi đầu hay kết thúc, bất biến, vĩnh cửu và bất tử. Từ đó xuất hiện nhận thức, ý thức và trạng thái vô biên vô tế của “ở nhà”. Đó là tính chủ quan tối thượng, từ đó xuất hiện ý thức về “tôi” của mọi người. Thực tại Vô biên Vô tế thậm chí không biết chính nó là “tôi” mà là chính  nền tảng của khả năng cho tuyên bố như thế. Nó vô hình và hiện hữu khắp nơi. Đại ngã là Thực tại của thực tại, là Nhất thể và Toàn thể của Bản sắc. Đó là “tôi” tối thượng của chính ý thức như là hiển lộ của cái phi hiển lộ. Do đó, cái không mô tả được lại được mô tả.

Tính chủ quan: Cuộc sống chỉ được sống ở tầng trải nghiệm và không có cách nào khác. Mọi trải nghiệm đều là chủ quan và phi tuyến tính; do đó, ngay cả việc mô tả “thực tại” theo lối tuyến tính, mang tính tri giác, tuần tự cũng không thể được trải nghiệm, ngoài trải nghiệm theo lối chủ quan. Mọi “sự thật” đều là một kết luận chủ quan. Mọi sự sống về bản chất đều là phi tuyến tính, không thể đo lường, không thể định nghĩa. Hoàn toàn mang tính chủ quan.

Sự thật: Sự thật là tương đối và chỉ “đúng” trong một bối cảnh nhất định. Mọi sự thật chỉ là sự thật trong một tầng ý thức nhất định. Ví dụ, tha thứ là điều đáng khen ngợi, nhưng ở giai đoạn sau, người ta thấy thực ra không có gì để tha thứ. Không có “người khác” nào để được tha thứ. Bản ngã của mọi người đều không thực như nhau, kể cả bản ngã của chính mình.

Trí giác không phải là thực tại. Sự thật xuất hiện từ tính chủ quan và hiển nhiên và là tự bộc lộ. Sự thật là chủ quan triệt để. Với sự sụp đổ của vọng tưởng về tính nhị nguyên, trong đó có “thực tại” được cho là của một “tự ngã” riêng biệt, thì chỉ còn lại trạng thái của “Tôi” Vô biên Vô tế, là sự hiển lộ của Phi Hiển Lộ như là Đại ngã. Sự thật không có sự đối lập, chẳng hạn như dối trá hay “không đúng”.

Không có gì bị che giấu khỏi trường ý thức. Sự thật tối thượng vượt ra ngoài tính hiện hữu, hoặc bất kỳ động từ không cần bổ ngữ nào khác. Bất kỳ nỗ lực nào để định nghĩa Đại ngã, chẳng hạn như “Tôi là Cái mà Tôi là”—hoặc thậm chí chỉ là “Tôi là”—đều là thừa. Thực tại Tối thượng nằm ngoài mọi tên gọi. “Tôi” biểu thị tính chủ quan triệt đẻ của trạng thái Chứng ngộ. Nó chính là tuyên bố trọn vẹn về Thực tại.

 

SÁCH THAM KHẢO

 

Discovery of the Presence of God: Devotional Nonduality

Dissolving the Ego, Realizing the Self: Contemplations from the Teachings

of David R. Hawkins, M.D., Ph.D.

The Eye of the I: From Which Nothing Is Hidden

Healing and Recovery

I: Reality and Subjectivity

Letting Go: The Pathway of Surrender

Power vs. Force: The Hidden Determinants of Human Behavior

Reality, Spirituality and Modern Man

Transcending the Levels of Consciousness: The Stairway to Enlightenment

Truth vs. Falsehood: How to Tell the Difference

 

VỀ TÁC GIẢ

 

Sir David R. Hawkins, M.D., Ph.D., là bác sĩ tâm thần, nhà nghiên cứu ý thức, diễn giả tâm linh và nhà huyền môn nổi tiếng thế giới. Ông là tác giả của hơn tám đầu sách, trong có cuốn bán chạy nhất Power vs. Force, các tác phẩm của ông đã được dịch ra hơn 17 thứ tiếng. Trong những năm 1970, ông là đồng tác giả cuốn Orthomolecular Psychiatry cùng với Linus Pauling, Khôi nguyên Nobel, đã tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực tâm thần học. Tiến sĩ Hawkins từng xuất hiện trên các chương trình truyền hình như The MacNeil/Lehrer NewsHour, The Barbara Walters Show, và the Today show. Ông đã thuyết trình tại Tu viện Westminster, Diễn đàn Oxford, Đại học Argentina, Notre Dame, Stanford và Harvard; đồng thời là cố vấn cho các tu viện Công giáo, Tin lành và Phật giáo. Là người đoạt giải thưởng Huxley Award, được Dòng Hiệp sĩ Thánh John của Jerusalem phong tước Hiệp sĩ, được đề cử trao giải Templeton Prize và được tôn vinh ở phương Đông với danh hiệu Tae Ryoung Sun Kak Tosa (“Đạo sư hàng đầu về con đường chứng ngộ”), công trình của Tiến sĩ Hawkins tiếp tục có ảnh hưởng sâu sắc đến toàn thể loài người.

 

Scott Jeffrey là tác giả của nhiều cuốn sách, trong đó có Creativity Revealed: Discovering the Source of Inspiration. Hiện tại ông đang soạn cuốn tiểu sử về Tiến sĩ David R. Hawkins.

 



No comments:

Post a Comment