BẢN NGÃ KHÔNG PHẢI
LÀ CON NGƯỜI THẬT CỦA BẠN
Phạm Nguyên Trường dịch
PHẦN III (1)
THẦN TÍNH CỦA ĐẠI NGÃ
Cam kết tâm linh được tiếp
thêm năng lượng bằng cách hoà điệu ý chí tâm linh (tầng hiệu chỉnh 850) với các
thuộc tính của Thần tính, đó là sự thật, tình yêu, tâm từ bi, trí tuệ và công bằng.
Dâng hiến cho đời sống của con người và thu hút những thứ hỗ trợ mục tiêu đó.
Trở thành tôi tớ của Chúa là tận hiến, trong đó mục tiêu được đặt lên trên tất
cả các định vị, sự hấp dẫn hoặc những thứ gây phân tâm khác.
***
Trong trường năng lượng của
tình yêu, chúng ta được bao quanh bởi tình yêu, và nó mang lại lòng biết ơn.
Chúng ta biết ơn cuộc sống của mình và tất cả những điều kỳ diệu của đời sống.
Chúng ta biết ơn những chú chó và chú mèo, vì chúng tượng trưng cho tình yêu.
Chúng ta biết ơn mọi hành động tử tế của người khác, tình cảm, sự quan tâm, và
chu đáo của họ.
***
Muốn hiểu được bản chất của
Chúa, chỉ cần biết bản chất của chính tình yêu. Thực sự biết tình yêu là biết
và hiểu Chúa, và biết Chúa là hiểu tình yêu.
***
Cái tối thượng và vĩnh cửu
siêu việt cả tính khách quan và chủ quan và vượt xa nhận thức. Trong văn học
tâm linh cổ đại, nó được gọi là “Linh hồn Tối cao”. Từ Đấng Tối Cao xuất hiện mọi
thứ hiển lộ và phi hiển lộ; mọi ý thức và nhận thức; mọi tồn tại; Mọi Thứ Đang
Là; hoặc có hình tướng hoặc không có hình tướng; mọi thứ tuyến tính và mọi thứ
phi tuyến tính; mọi thứ xuất hiện từ tạo hoá; mọi khả năng và hiện thực. Đấng Tối
Cao vượt ra ngoài tồn tại hoặc không tồn tại; vượt ra ngoài tồn tại hoặc hiện hữu;
vượt ra ngoài mọi vị Chúa, thiên đường hoặc hình thức tâm linh; vượt ra ngoài mọi
tên gọi hoặc định nghĩa; vượt ra ngoài mọi vị thần và biểu tượng tâm linh. Thần
tính nảy sinh từ Thượng Đế (Godhead), Thượng Đế lại nảy sinh từ Đấng Tối Cao.
***
Không thể vươn tới sự thật
và bỏ qua ý thức vì sự thật là sản phẩm của chính ý thức.
***
Cái là Thực tại vượt ra
ngoài mọi hình tướng nhưng là bản chất của nó. Hãy để hình tướng mặc khải bản
chất của chính nó—không cần phải tìm kiếm nó. Bản chất thực sự của hình tướng
là vô hình tướng, nghe có vẻ ngược đời.
***
Mỗi ý nghĩ yêu thương hoặc
từ bi đều mạnh hơn hàng ngàn ý nghĩ tiêu cực của người khác. Chúng ta thay đổi
thế giới không phải bằng những gì chúng ta nói hoặc làm mà là kết quả của con
người mà chúng ta đã trở thành. Do đó, tất cả những người khao khát tâm linh đều
phụng sự thế giới.
***
Đại ngã là nhận thức—cội
nguồn, sự trọn vẹn, tính toàn bộ, sự viên mãn và bản chất của nó. Đó là Thực tại
của Thực tại, là Nhất thể và Toàn thể của Bản sắc. Đó là bản thể “Tôi” tối cao
của chính ý thức, như là hiển lộ của cái phi hiển lộ. Do đó, cái không thể diễn
tả mới có thể được diễn tả.
***
Có một trường năng lượng
tình yêu không nhìn thấy được, bao trùm lên tất cả mọi người. Ở đó, Đại ngã cao
hơn hoặc linh hồn ngự trị, qua đó các cá nhân, ở các tầng ý thức khác nhau, tiếp
xúc với nhận thức hoặc, thật đáng tiếc, có thể bị cắt rời hoàn toàn khỏi nó.
***
Con đường thẳng nhất dẫn đến
tiến hóa tâm linh và các trạng thái ý thức nâng cao là thông qua chính trường ý
thức, đó là Ánh hào quang phi tuyến tính của Năng lượng Thần thánh, là nền tảng
của mọi thứ tồn tại. Điều kiện của chứng ngộ là Ánh hào quang thuần khiết tỏa
sáng như là Hiện diện/Đại ngã.
***
Sự sống là ánh hào quang của
Thiên Chúa tạo ra hiển lộ, như là vũ trụ được thể hiện thông qua quá trình tiến
hóa. Chúng ta vừa là sản phẩm vừa là nhân chứng của Đấng Sáng tạo như là quá
trình liên tục, vĩnh cửu.
***
Tất cả những gì thực sự
thuộc về Thiên Chúa đều mang lại hòa bình, hòa hợp và tình yêu và không có bất
kỳ hình thức tiêu cực nào. Những người có nhận thức tâm linh đều nhận ra rằng họ
chỉ có thể mang theo thông điệp này, vì chính sự thật bên trong là người thầy.
***
Cội nguồn tối cao của tồn
tại không có nguyên nhân cũng như không có khởi đầu hay kết thúc. Mô tả phù hợp
gần nhất được truyền đạt bằng các thuật ngữ “mãi mãi” hoặc “luôn luôn”. Phẩm chất
độc đáo này luôn hiện hữu và có sẵn như một phẩm chất chủ quan chính của Thực tại
của Chứng ngộ.
***
Vượt trên tầng 500, của cải
vật chất và nhu cầu trần tục sẽ không còn liên quan nữa, đó là lý do vì sao những
vị thầy chân chính không tìm kiếm hay mong muốn lợi ích vật chất.
***
Vạn vật đều ở trong rạng
thái vui mừng thầm lặng vì ý thức của chúng là trải nghiệm về Thần tính. Tính
chất của vạn vật là lòng biết ơn thầm lặng, luôn hiện hữu vì chúng đã được ban
tặng món quà là trải nghiệm hiện diện của Thiên Chúa. Lòng biết ơn này là hình
thức thể hiện sự tôn thờ. Vạn vật được tạo ra và tồn tại đều chia sẻ việc phản
chiếu vẻ đẹp huy hoàng của Thiên Chúa.
***
Hoàn toàn không có gì
trong trải nghiệm của người bình thường có thể so sánh với niềm vui của Sự hiện
diện của Tình yêu của Thiên Chúa. Để nhận ra Hiện diện thì không có sự hy sinh
nào là quá lớn, cũng không có nỗ lực nào là quá nhiều.
***
Đồng nhất với nội dung của
ý thức làm cho trải nghiệm của tự ngã là có giới hạn. Ngược lại, đồng nhất với
chính ý thức là biết rằng tự ngã thực sự của một người là vô hạn. Khi vượt qua
những giới hạn của nhận thức về tự ngã và nhận ra bản chất thật sự của mình là
ý thức thuần túy, thì trạng thái đó được gọi là “chứng ngộ”.
***
Vạn vật và mọi sự kiện đều
là biểu hiện của toàn bộ của Tất Cả Những Thứ Đang Là, giống như nó đang là ở bất
kỳ thời điểm nào khác. Một khi được nhìn thấy trong toàn bộ của nó, thì vạn vật
lúc nào cũng đều hoàn hảo và không có có gì cần nguyên nhân bên ngoài để thay đổi
nó theo bất kỳ cách nào.
***
Đại ngã cảm thấy như thế
nào? Nó là trung tâm, vững chắc, sâu sắc, tĩnh lặng, bất biến, phi định xứ, lan
tỏa, bao trùm tất cả, yên bình, tĩnh lặng, thoải mái, an toàn, niềm vui thầm lặng,
tình yêu vô biên vô tế, bảo vệ, gần gũi, an toàn, viên mãn hoàn toàn và cực kỳ
quen thuộc.
***
Đại ngã tự nhận thức vượt ra
ngoài các giác quan. Thần tính tỏa sáng như một mặc khải vĩ đại. Sự hiển nhiên
của nó mạnh mẽ và sắc nét như là hào quang. Bản chất của nó là chắc chắn và cuối
cùng, toàn bộ và trọn vẹn. Mọi cuộc tìm kiếm đều đã kết thúc.
***
Hiện diện của Thiên Chúa
như Tình yêu tự bộc lộ khi tính nhị nguyên của nhận thức không còn, đấy là hệ
quả của việc từ bỏ các định vị. Do đó, tình yêu là cánh cửa giữa các miền tuyến
tính và phi tuyến tính. Đó là đại lộ dẫn đến khám phá ra Thiên Chúa.
***
Từ quan điểm của chứng ngộ,
có thể nói rằng tuyến tính được quan sát từ bối cảnh phi tuyến tính. Nói cách
khác, tồn tại là biểu hiện của Thần tính dưới dạng hình tướng. Bản thân vũ trụ
do đó là vô hại. Quan điểm từ chứng ngộ siêu việt người trải nghiệm, người quan
sát, nhân chứng và thậm chí cả chính nhận thức.
***
Không có phân chia giữa Đấng
sáng tạo và cái được tạo ra. Tất cả đều tự sáng tạo như là biểu hiện của tâm
trí Chúa. Nhận thức tuyệt vời này là đặc điểm của tầng ý thức 700 trên Bản đồ Ý
thức, trong đó Đại ngã là Tất Cả Những Thứ Đang Là. Bởi vì vũ trụ tự tiến hóa
và tự hoàn thiện, nên không cần can thiệp. Tất cả đều trong sự cân bằng và hài
hòa hoàn hảo.
***
An bình Sâu sắc ngự trị
trong Tĩnh lặng, đánh dấu sự kết thúc của trải nghiệm về thời gian. Vọng tưởng
về thời gian ngăn cản An bình, vì nó tạo ra mong đợi, cảm giác mất mát hay dự
đoán.
***
Do đó, tất cả các trải
nghiệm đều đồng thời là nội dung (nhận thức, hình ảnh, suy nghĩ, cảm xúc, v.v.)
được chiếu sáng bởi trường phi tuyến tính của bối cảnh (ánh sáng của ý thức/nhận
thức)… Quan trọng là phải phân biệt trường năng lượng vô biên vô tế, nền tảng của
chính ý thức/nhận thức (điểm hiệu chỉnh từ 600 trở lên) với nội dung tuyến tính
của tâm trí có giới hạn của nó (ví dụ, suy nghĩ, hình ảnh, cảm xúc và ký ức).
***
Thiên Chúa là Tất cả Hiện
diện, đồng thời là hiển lộ và phi hiển lộ, là không và Toàn thể, là nhìn thấy
được và không nhìn thấy được, là tiềm năng và thực tế, là được thể hiện và
không được thể hiện.
***
Lòng nhân từ của Thiên
Chúa là vô biên vô tế và vô điều kiện.
***
Hạnh phúc đích thực xuất
hiện từ phi tuyến tính. Khi không còn phụ thuộc vào người trải nghiệm để có được
niềm vui và hạnh phúc, thì người ta phát hiện được rằng cội nguồn của hạnh phúc
là sự tồn tại của chính mình, và nhận ra Đại ngã chính là hạnh phúc.
***
Thôi đồng nhất mình với những
gì mình trải nghiệm là chuyển từ nội dung nhị nguyên của nội dung sang bối cảnh
phi nhị nguyên, và do đó, chuyển từ tự ngã sang Đại ngã.
***
Vì bản ngã xử lý hình tướng
và định nghĩa, nó không thể hiểu được Đại ngã—vượt ra ngoài mọi hình tướng,
nhưng nếu không có hình tướng thì dường như không tồn tại. Trong Thực tại,
không có chủ thể hay đối tượng; do đó, không có mối quan hệ nào cần được giải
thích.
***
Nhận thức và hiểu biết tối
thượng trong Hiện diện của Thiên Chúa là An bình. An bình tuyên bố an toàn và bảo
tồn vô biên vô tế với biện pháp bảo vệ vô biên vô tế. Đau khổ thậm chí là không
thể xảy ra.
***
Sự thật là chủ quan triệt
để. Vọng tưởng về nhị nguyên sụp đổ—trong đó có cái gọi là “thực tại” của một
“tự ngã” riêng biệt —chỉ còn trạng thái của “Tôi” Vô biên Vô tế, là biểu hiện của
Cái Phi Hiển Lộ như là Đại ngã.
***
Phó thác hoàn toàn cho
Thiên Chúa sẽ hé lộ Sự thật. Không có gì bị che giấu; chỉ có bản ngã là mù
quáng. Thực tại nằm ngay bên ngoài tâm trí. Vì sợ trở thành hư vô, ý thức phủ
nhận thực tại duy nhất của nó rằng nó là tất cả mọi thứ—Toàn thể vô biên vô tế,
vĩnh cửu, là cội nguồn của tồn tại.
***
Ngược lại với nhận thức của
bản ngã về Thiên Chúa, Thực tại Tuyệt đối của Đại ngã là biểu hiện của Chúa như
là cốt lõi của sự tồn tại của một người. Tình yêu của Hiện diện là siêu cá nhân
và được trải nghiệm như là an bình vô biên vô tế, an toàn vô biên vô tế và an
toàn vĩnh viễn đến mức không có “kết thúc” tưởng tượng nào để mà phải sợ hãi.
Chúa của Hiện diện thấm đẫm niềm vui của trọn vẹn. Tình yêu không phải là một
“phẩm chất” của Thiên Chúa mà là bản chất của Chúa.
***
Cũng giống như người leo
núi thành công vì có các công cụ cơ bản cộng với bản đồ, có hướng dẫn và kinh
nghiệm của người khác, người tìm kiếm Sự thật dựa vào trí tuệ tích lũy được và
thực tại có thể kiểm chứng được, có thể biết được bằng quá trình thực tế của
chính Nhận thức. Đấy là trạng thái cụ thể của Nhận thức, Nó là người thầy thực
sự và là Cội nguồn của những giáo lý của giác giả.
***
Nhận thức về Hiện diện của
Thần tính tự nó diễn ra khi bản ngã và các định vị của tri giác được buông bỏ.
***
Về mặt ngôn ngữ, dù người
ta có cho rằng Thiên Chúa là “Rama”, “Brahma” hay “Allah” thì thực ra là không
liên quan — Thiên Chúa không bị giới hạn bởi bất kỳ định vị hay đặc điểm nào mà
người ta có thể gán cho Ngài. Tương tự như thế, Thiên Chúa không phụ thuộc vào
tính nhị nguyên của cái này hoặc cái kia, mà đấy sẽ là cơ sở của của thiên vị.
***
Nhận ra rằng chúng ta là cội
nguồn hạnh phúc của mình và chúng ta có thể tạo ra nó bất cứ lúc nào, mang lại
cho chúng ta cảm giác trọn vẹn. Cảm giác trọn vẹn này song hành với trải nghiệm
cuộc đời, vì vậy nó trải nghiệm thể bị cắt đứt bất cứ lúc nào, nhưng vẫn cảm thấy
trọn vẹn.
***
Đại ngã thực sự là không
nhìn thấy được và không có đặc điểm nào để có thể dùng để đánh giá. Nó không có
đặc điểm nào có thể mô tả được, nó cũng không thể là chủ ngữ của bất kỳ tính từ
nào. Đại ngã chỉ đơn giản là và vượt trên các động từ, trạng từ và tính từ. Nó
thậm chí không “làm” bất cứ việc gì.
***
Những trải nghiệm chủ quan
đặc biệt về sự thật, vốn là lĩnh vực của nhà huyền môn, tạo được ảnh hưởng lên
toàn thể loài người bằng cách truyền năng lượng tâm linh vào ý thức tập thể.
***
Nhận thức không phải là
“thành quả” hay thành tích, cũng không phải là thứ được “ban tặng” như là phần
thưởng cho việc là người tốt—tất cả đều là những khái niệm có từ thời thơ ấu.
Chúa là bất biến và không thể bị thao túng để ban ân huệ, hoặc bị quyến rũ bằng
mặc cả hoặc nịnh hót. Thờ phượng có lợi cho người thờ phượng bằng cách củng cố
cam kết và cảm hứng. Thiên Chúa là tĩnh lặng, im lặng và bất động.
***
Biết rằng Đại ngã là bối cảnh
và ngược lại, bản ngã là nội dung đã là một bước tiến lớn. Người tìm kiếm ngây
thơ chỉ đơn giản là tiếp tục sắp xếp lại nội dung mà thôi.
***
Đại ngã nằm ở bên ngoài,
nhưng lại là bẩm sinh trong mọi hình tướng—phi thời gian, không có khởi đầu hay
kết thúc, không thay đổi, vĩnh cửu và bất tử. Từ Đại ngã xuất hiện nhận thức, ý
thức và trạng thái vô biên vô tế của “về đến nhà”. Đó là tính chủ quan tối thượng
mà từ đó xuất hiện ý thức về “Tôi” của mọi người. Thực tại Vô biên Vô tế thậm
chí không biết chính nó là “Tôi” mà là nền tảng của khả năng cho một tuyên bố
như thế. Nó vô hình và hiện diện khắp nơi.
***
Đại ngã là vô điều kiện;
nó không có đặc điểm và không phụ thuộc hoặc có thể giải thích được. Đại ngã
không có thời gian tồn tại, không có khởi đầu hay kết thúc, không có vị trí,
hình tướng, hay giới hạn. Chính Ánh Sáng của Đại Ngã soi sáng tồn tại; nếu
không có nó sẽ không có nhận thức. Đại Ngã nằm ngoài mọi tiến trình. Mọi miêu tả
đều không phù hợp và không thể áp dụng cho Đại Ngã.
***
Sự tự phát của sự sống là
biểu hiện của các bản chất tương tác phi nỗ lực. Phép màu của Sáng tạo là liên
tục, và mọi sự sống đều chia sẻ trong Thần tính của Cội nguồn của nó, vì tất cả
tồn tại đều do mệnh lệnh của Thần thánh. Khi tính thiêng liêng của sự sống được
tiết lộ, thì sau đó sẽ là có hiểu biết về ý nghĩa của cụm từ: “Vinh danh Thiên
Chúa trên các tầng trời!”
***
Chứng ngộ không phải là điều
kiện để giành được; nó chỉ đơn giản là sự chắc chắn mà người ta phải phó thác
cho nó, vì Đại ngã đã là Thực tại của chính bạn. Chính Đại ngã đang lôi cuốn bạn
đến với thông tin tâm linh.
***
Nguồn gốc của Đại ngã là
thực tại của Thần tính. Mặc dù nó là nguồn gốc của tồn tại, nhưng nó không phụ
thuộc vào tồn tại, và thuật ngữ như vậy cũng không áp dụng được.
***
Sự sống không chấm dứt mà
chỉ thay đổi hình tướng. Cội nguồn và bản chất của sự sống là Chúa, không bao
giờ chết. Người ta không thể mất cội nguồn của mình. Cái chết là hồi kết của một
chương trong một loạt câu chuyện cuối cùng sẽ kết thúc khi tác giả-bản ngã phó
thác cho cội nguồn của nó.
***
Đại ngã giống như bà nội ở
bên trong của một người, bà trông chừng đứa trẻ để nó không quên mang áo mưa hoặc
trả tiền thuê nhà. Chúa không phải là điềm gở mà là yêu thương; sợ hãi phát
sinh từ trí tưởng tượng.
***
Hiện diện của Đại ngã là
trọn vẹn, vĩnh cửu và viên mãn hoàn toàn—nó không cần gì hết. Mọi thứ xảy ra một
cách tự phát như là biểu hiện của bản chất nội tại của nó. Không có gì và không
có ai “gây ra” bất cứ điều gì.
***
Trong thực tại, Tình yêu của
Chúa, tương tự như mặt trời, chiếu sáng như nhau trên tất cả.
***
Hiện diện như là Đại ngã
soi sáng Toàn thể của Thực tại. Vạn vật đều bình đẳng, đấy là do Thần tính của
tồn tại của nó như là Đấng Tối cao Vô biên Vô tế, từ đó mọi tồn tại và sáng tạo
xuất hiện. Không có chọn lọc hay phân chia; tất cả đều có giá trị và vai trò
quan trọng như nhau.
***
Đại ngã biết, đấy là do bản
chất của nó, tất cả những gì tồn tại đều vượt ra ngoài thời gian và do đó nằm
ngoài ký ức.
***
Hiện Diện của Đại Ngã cấu
thành nên purusha (Linh hồn vũ trụ trong Ấn Độ giáo – ND), hay là Ánh
sáng Chói loà của Đại ngã như là Cội nguồn.
Đại ngã “biết”, đấy là do đồng nhất với chính Thần tính. Do đó nó là Nhận thức
của chính nó, và nhờ Hiện Diện của nó, nó tự làm cho mình “được biết” như là
“Người Biết”. Do đó, nó không biết “về”, mà là sự hoàn thiện bản chất của chính
nó.
***
Nhận thức và biết về Chúa
là hoàn toàn và thuần túy chủ quan. Thậm chí không có khả năng mang tính giả
thuyết nào nói rằng lý trí có thể vươn tới Sự thật. Sự thật chỉ có thể được nhận
biết bằng cách đồng nhất với chính nó.
***
Toàn thể của Thần tính được
khẳng định mạnh mẽ bởi sức mạnh to lớn của Tình yêu vốn có trong Sáng tạo và Thần
tính. Hiện diện của Tình yêu bao trùm khắp nơi và được trải nghiệm như là Đại
Ngã vốn có của con người. Nó hòa tan tính tuyến tính vào Nhất thế vừa nhẹ nhàng
tinh tế vừa—ngược đời là—mạnh mẽ vô biên vô tế. Tình yêu là Luật Tối thượng của
Vũ trụ.
***
Bằng quan sát bên trong,
người ta nhận ra một điều gì đó không thay đổi và giữ nguyên, dù bất cứ chuyện
gì xảy ra trong thế giới bên ngoài hoặc với cơ thể, với cảm xúc hoặc tâm trí. Với
nhận thức thế, sẽ xuất hiện trạng thái tự do hoàn toàn. Đã khám phá được Đại
ngã ở bên trong. Đã khám phá được trạng thái tĩnh lặng của Nhận thức nằm bên dưới
mọi chuyển động, hoạt động, âm thanh, cảm giác và suy nghĩ, đấy là chiều kích của
bình an phi thời gian.
***
Thần tính là Cội nguồn của
mọi Sự tồn tại, bao gồm cả bạn.
***
Sự thật tự nó hiển nhiên một
cách tự chủ, đấy là do sự tồn tại của nó như là Toàn thế.
***
Sự sống, tương tự như tồn
tại, không có đối lập—hệt như sự thật không có đối lập, thực tại giả tự tồn tại
như là dối trá. Sự thật hoặc là có hoặc là không. Thần tính, Chúa, Toàn thể, Nhất
thể và Tuyệt đối là Tất Cả Những Thứ Đang Là; đối lập với Chúa không thể tồn tại.
Chỉ có sự thật là sự thật; không có gì khác. Do đó, mọi sợ hãi đều do chấp trước
vào hình tướng, đấy là do vọng tưởng cho rằng hình tướng là đòi hỏi tất yếu của
tồn tại.
***
Với nhận thức về Thực tại,
tất cả quá trình học tập đều dừng lại. Tâm trí trở nên tĩnh lặng. Trong an bình
và tĩnh lặng, mọi thứ tồn tại đều tỏa ra ý nghĩa và chân lý của riêng nó và tiết
lộ rằng bản chất của tồn tại là thần thánh làm cho người ta phải kinh ngạc. Vạn
vật đều tỏa ra bản chất Thần thánh của nó như là bản thân Tồn tại. Cái Đang Là
và cái là Thiêng liêng là một và như nhau.
***
Sự thật là sự đơn giản và
hiển nhiên của Thiên Chúa. Đó là đơn nhất. Từ “đơn nhất” biểu thị sự trọn vẹn của
Bản ngã-bản sắc của sự tồn tại. Mọi thứ đều trọn vẹn nhờ vào bản chất của chính
nó. Không cần mô tả hay tên gọi nào; tất cả đều làm cho người ta xao lãng. Ngay
cả việc chỉ chứng kiến cũng không cần suy nghĩ. Không cần phải suy nghĩ về Thực
tại; nó không nâng cao những gì đang tồn tại mà thay vào đó làm giảm đi những
gì đang tồn tại.
***
Sự thật là thực tế; không
phải sự thật là giả dối vì nó chưa bao giờ tồn tại và do đó chưa bao giờ được
ghi lại, đó là lý do vì sao nó phản ứng là “dối trá” (không có sự thật) trong
quá trình kiểm tra trong nghiên cứu ý thức. Ý thức chỉ phản ứng với những gì
“đang là” hoặc “đã từng là” trong Thực tại. Cội nguồn của ý thức là Thực tại
Tuyệt đối, trước đây được gọi là Sự thật.
***
Sự thật Tâm linh là nguồn
năng lượng duy nhất mạnh hơn sức mạnh của bản ngã tập thể.
***
Nội lực của Sự thật chính
là phẩm chất của Tình yêu Thần thánh, với lòng từ bi vô hạn, nó hòa tan các định
vị vào Thực tại của Đại ngã.
***
Không có sự tách biệt giữa
Đấng sáng tạo và cái được tạo ra, không có chủ thể hay đối tượng; chúng là một
và như nhau. Những thuật ngữ như “mới” hay “cũ” chỉ là những quan điểm không tồn
tại, tương tự như “bây giờ” hay “lúc đó”. Chúng ta là nhân chứng liên tục của
Sáng tạo tại chính khoảnh khắc Sáng tạo. Những gì chúng ta chứng kiến là Bàn
tay của Chúa như là trải nghiệm. Nhận thức là “Mắt” hay nhân chứng, và Sáng tạo
là tác phẩm của Đại ngã vô biên vô tế.
***
Trong Hiện diện của Thiên
Chúa, mọi đau khổ đều chấm dứt. Người ta đã trở về Cội nguồn của mình, nó không
khác Đại ngã của chính người đó. Như thể người đó đã quên, hoặc lúc này đã thức
dậy, khỏi một giấc mơ. Mọi sợ hãi đều được tiết lộ là vô căn cứ; mọi lo lắng đều
là tưởng tượng ngớ ngẩn. Không có tương lai nào để phải sợ hãi, cũng không có
quá khứ nào để phải hối tiếc. Không có bản ngã/tự ngã sai lầm nào để phải cảnh
báo hay sửa chữa. Không có gì cần thay đổi hay cải thiện. Không có gì để phải cảm
thấy xấu hổ hay mặc cảm tội lỗi. Không có “người khác” nào để người ta có thể
tách rời. Mất mát là không thể xảy ra. Không cần phải làm gì, không cần nỗ lực
và người ta được giải thoát khỏi sự giằng xé bất tận của ham muốn và thiếu thốn.
***
Bắt đầu bằng cách chấp nhận
tuyên bố rất quan trọng nói rằng mọi sự thật đều là chủ quan. Đừng lãng phí cuộc
đời để đi tìm sự thật khách quan, vì nó không tồn tại. Ngay cả nếu có, thì cũng
không thể tìm thấy nó bên ngoài trải nghiệm hoàn toàn chủ quan về nó. Tất cả kiến
thức và trí tuệ đều là chủ quan. Không có gì có thể được cho là tồn tại nếu
nó không được trải nghiệm theo lối chủ quan. Thậm chí thế giới vật chất được
cho là hoàn toàn khách quan, nếu thế giới đó tồn tại, cũng chỉ có thể được cho
là tồn tại vì có trải nghiệm chủ quan của các giác quan của một người về nó.
Ngay cả người duy vật cuồng nhiệt nhất cũng bị mắc kẹt với thực tế là cuối
cùng, chỉ có nhận thức chủ quan của chính họ mới mang lại cho nó thẩm quyền về
độ tin cậy mà thôi.
***
Nhận thức chỉ ghi lại những
gì đang được trải nghiệm; nó không tạo được ảnh hưởng nào lên cái được trải
nghiệm. Nhận thức là trường điểm hút bao trùm tất cả hay trường sức mạnh vô
biên vô tế giống hệt như chính đời sống.
***
Giả dối không phải là cái
đối lập với sự thật mà chỉ đơn giản là không có sự thật. Trong thực tại, sự thật
không có đối lập, cũng như lạnh không phải là đối lập của nóng, ánh sáng không
phải là đối lập của bóng tối.
***
Tối thượng là cõi vô hình
tướng, vô giới hạn và phi định xứ; do đó, đó là cõi của toàn thể của Tất cả những
gì đã từng hiện hữu.
***
Chỉ có Tồn tại. Tồn tại
không cần nguyên nhân, và suy nghĩ như thế chẳng khác gì tạo ra ngụy biện về
logic. Dùng từ Tồn tại, là chúng ta muốn nói đến khả năng nhận biết thông qua
quan sát, và nó gán cho sự thay đổi mang tính giả định điều kiện từ không tồn tại
sang tồn tại. Tuy nhiên, cái đang tồn tại đã luôn luôn tồn tại trong sự trọn vẹn
của nó, vượt ra ngoài mọi thời gian; tìm kiếm một “nguyên nhân ban đầu” là tạo
tác của hoạt động tâm trí, phát sinh cùng với các khái niệm về thời gian và
không gian. Bên ngoài thời gian và không gian, không có sự kiện, không có khởi
đầu và không có kết thúc nào nằm ngoài các phạm trù của tư duy hoặc lý trí của
con người.
***
Bằng chứng đầu tiên về Hiện
diện của Thiên Chúa là sự tò mò hoặc quan tâm đang thức tỉnh đến các vấn đề tâm
linh. Đó là lỗ thủng trên hàng rào của bản ngã. Khi một người bắt đầu mong muốn
hoặc thực hành các mục tiêu tâm linh hoặc tìm kiếm kiến thức tâm linh, thì Hiện
diện đã bảo hộ đời sống của người đó.
***
Việc khám phá ra Hiện diện
của Thiên Chúa không phải do sợ hãi mà là do phó thác được sợ hãi thúc đẩy.
***
Khi thời gian ngừng lại,
cánh cửa sẽ đưa ta vào niềm vui vĩnh hằng; Tình yêu của Chúa trở thành Thực tại
của Hiện diện. Cái Biết Sự thật của tất cả Sự sống và Tồn tại hiện ra cùng với
Tự mặc khải làm cho người ta phải kinh ngạc. Sự kỳ diệu của Thiên Chúa bao trùm
tất cả và to lớn đến mức vượt qua mọi tưởng tượng. Cuối cùng thực sự và hoàn
toàn trở về nhà là sâu sắc trong toàn bộ sự trọn vẹn của nó.
***
Hiện diện của Thiên Chúa
là bình yên sâu sắc, tĩnh lặng và tình yêu. Nó tràn ngập trong chiều sâu của
nó. Nó bao trùm hoàn toàn, và tình yêu này mạnh mẽ đến mức đủ sức xoá tan mọi
“không yêu” do bản ngã còn sót lại nắm giữ.
***
Hiện diện vô biên vô tế của
vạn vật vượt ra ngoài tất cả thời gian và không gian, mãi mãi trọn vẹn, hoàn hảo
và toàn bộ. Mọi điểm quan sát đều biến mất, và Cái Biết Tất Cả có mặt khắp nơi
vì thực tế là nó Là Tất Cả. Khi Thực tại hiện ra với sự rõ ràng và bình an vô
biên vô tế của nó, thì dường như chính tâm trí, vốn không khác gì bản ngã -
chúng là một và như nhau, chính là trở ngại đối với Chứng ngộ.
***
Thuật ngữ “Đại ngã” nhấn mạnh
rằng Chúa được khám phá bên trong như Thực tại Tối thượng làm nền tảng cho sự tồn
tại thực sự của một người trong “ở đây và bây giờ” (trích dẫn Kinh thánh:
“Vương quốc của Chúa ở bên trong bạn”).
***
Buông bỏ đồng nhất với cái
được cho là “tôi” cho phép Tôi Thực sự tỏa sáng như là phẩm chất nội tại của Thần
tính, là cội nguồn của thực tại không bị cản trở của “Tôi”.
***
Cảm giác về “Tôi” là sự đồng
nhất, còn biết là những phẩm chất của Hiện diện Bên trong, cho phép khả năng biết
“Tôi” như là Đại ngã. Khi tước bỏ mọi giả định, cảm giác nội tâm về “tôi” chỉ
đơn giản là biết chính nó mà không có bất kỳ nội dung hay ý tưởng nào khác.
***
Không có khái niệm nào có
thể có trong Ánh sáng Vô biên Vô tế trong vẻ huy hoàng của Thiên Chúa. Có trạng
thái bình yên sâu sắc, an toàn và “ở nhà”. Trọn vẹn đã được hoàn tất.
***
Im lặng bên trong bao trùm
là ngưỡng cửa của nhận thức mới mẻ rằng mọi thứ đều tự diễn ra và không có gì
là nguyên nhân của bất kỳ cái gì khác; người ta nhận ra rằng những cơ cấu như
thế chỉ đơn giản là trò chơi của tâm trí mà thôi.
***
Người ta có thể nhận ra Đại
ngã như là Thực tại nguyên thủy, không thể quy giản từ bất kỳ điểm khởi đầu
nào. Không phải điểm khởi đầu là quan trọng mà là dâng hiến nhằm theo đuổi nó
không ngừng nghỉ cho đến tận gốc rễ của nó. Làm sáng tỏ được bản chất của trải
nghiệm sẽ dẫn đến Cội nguồn của người đó. Bất kỳ cái chân nào của con voi cũng
dẫn đến con voi.
***
Trường vô biên vô tế của Cội
nguồn của Tất cả Tồn tại là ánh hào quang rực rỡ đang toả ra, và hậu quả của nó
như là Sáng tạo mãi mãi hợp nhất. Đấng sáng tạo và Sáng tạo là một.
***
Trải nghiệm về Thần tính ở
bên trong như là Đại ngã, hay Thiên Chúa Toàn năng, hoàn toàn khác với niềm tin
vào Thiên Chúa Siêu việt. Chính vì thế mà Đức Phật khuyên không nên mô tả hoặc
đặt tên cho Thiên Chúa, vì chứng ngộ là trạng thái hoặc điều kiện mà trong đó Tự
biết là Bản sắc. Trong trạng thái hoặc điều kiện này, không có “cái này”, chẳng
hạn như bản ngã, để mô tả Đại ngã. Trạng thái hoặc điều kiện này được mô tả tốt
nhất là “Tự tỏa sáng”, và trong trạng thái đó, Biết là Thực tại của chính nó.
***
Bản ngã/tâm trí là một tập
hợp những đã hành vi đã học được, và mục tiêu cuối cùng là siêu việt các chương
trình và hoạt động của nó, dựa vào sức mạnh của Hào quang của Đại ngã, đưa đời
sống một cách nhẹ nhàng vào bối cảnh mới. Hiện diện của Đại ngã được trải nghiệm
như tâm từ bi đối với tất cả sự sống trong mọi biểu hiện của nó, trong đó có
quá trình tiến hóa của nó như là bản ngã cá nhân của một người. Do đó, tha thứ
thay thế cho lên án, đây là dấu hiệu cho thấy lúc này chúng ta có thể tiến sâu
hơn vào quá trình kiểm kê nội tâm nghiêm túc mà không bị căng thẳng quá mức.
***
Hòa làm một với các hiện
tượng, chứ không tách ra khỏi chúng, dẫn đến trải nghiệm sự sống động và Toàn
thể của Hiện diện được thể hiện như là Tất Cả Những Thứ Đang Tồn Tại. Tất cả những
gì đang tồn tại không chỉ thụ động “ở đó” mà thay vào đó dường như tự thể hiện trước
nhận thức như là phẩm chất của sự tồn tại của nó chứ không chỉ là ý định có chủ
ý. Do đó, vũ trụ dường như là một món quà đẹp đẽ tinh tế và hoàn hảo tỏa sáng với
Hào quang nội tại của Thần tính.
***
Tình yêu Thần thánh là trường
bao gồm tất cả, và phẩm chất của nó là không thể nào quên, bất kỳ người nào đã
trải nghiệm cận tử đều biết như thế. Về bản chất, nó thực sự là không thể diễn
tả được, và Hiện diện của nó giống như sự tan chảy trong tổng thể tinh tế, mang
tính trải nghiệm của nó. Không có gì trong cuộc sống trần tục thậm chí có thể tiến
gần tới nó. Nó vô cùng nhẹ nhàng, nhưng vô cùng mạnh mẽ, đấy là do sức mạnh vô biên
vô tế bên trong nó.
***
Tình yêu, bẩm sinh của Hiện
diện, là phẩm chất phi thời gian/mãi mãi. Ngay cả một khoảnh khắc ngắn ngủi của
Hiện diện trong trần gian cũng được người ta nhận ra thông qua Đại ngã là vĩnh
cửu. Đây là một dấu hiệu không thể nhầm lẫn. Do đó, biết được Cái Thực trong một
vài khoảnh khắc ngắn ngủi của thời gian là mãi mãi biết được nó.
***
Thần tính là Tình yêu Vô biên
Vô tế. Trong Hiện diện của nó, thậm chí từ bỏ sự tồn tại của thể xác cũng không
phải là “vấn đề” hay nguồn gốc của kháng cự… Khi bản ngã không còn, thì tất cả
sợ hãi và giả định của nó cũng không còn. Thực tại Bên trong miễn nhiễm với những
suy nghĩ hay nghi ngờ. Đại ngã là Chắc chắn.
***
Hào quang của Chúa là ánh
sáng của nhận thức, Nó mặc khải Thần tính của tất cả những gì tồn tại. Trong
tĩnh lặng của Hiện diện Vô biên Vô tế, tâm trí im lặng, vì không có gì có thể
nói; tất cả đều tự nói về chính mình một cách trọn vẹn và chính xác. Với nhận
thức như thế, người ta siêu việt tính nhị nguyên cuối cùng của tồn tại so với
không tồn tại, vì chỉ có tồn tại là khả thi mà thôi. Sự thật không có đối lập,
vì Thực tại loại trừ phi thực tại. Bình yên của Thiên Chúa trú ngụ trong nhận
thức này.
***
Thực ra là chính sợ hãi ngăn
cản nhận thức về Hiện diện của Thiên Chúa. Chỉ khi nó bị từ bỏ, thì buông bỏ một
cách sâu sắc bản ngã kháng cự mới mặc khải trạng thái bình yên vượt ra ngoài hiểu
biết.
***
Không có gì tuyệt vời hơn là
một lần nữa trở lại Cội nguồn của mình. Vọng tưởng là người ta vật lộn với quá
trình phát triển tâm linh bằng nỗ lực của chính mình; trên thực tế, chúng ta được
cuốn hút vào nhận thức lớn hơn là do Ý Chúa, được thể hiện như là Chúa Thánh Thần,
và tất cả những gì cần làm là cho phép điều đó xảy ra bằng cách phó thác hoàn
toàn. Vì thực sự, chỉ có Chúa mới là Chúa.
***
Cuối cùng, ngay cả vọng tưởng
về nhân chứng/người quan sát cũng tan biến thành chính nhận thức/ý thức, nó là
phi cá nhân và tự chủ. Không còn giới hạn của “nhân quả” hoặc “thay đổi” nữa. Vọng
tưởng về “thời gian” cũng tan vào Toàn thể của Hòa hợp Thần thánh. Không còn hấp
dẫn hay ác cảm nào đối với chính tồn tại, vì thậm chí hiển lộ cũng được coi là
hậu quả của sự phân biệt bởi ý thức như là khái niệm.
***
Phân tích bản chất của ý
thức cho thấy sự cứu rỗi xảy ra như là kết quả của sự trở lại trạng thái nguyên
sơ ban đầu của ý thức phi nhị nguyên. Nó chỉ có thể làm như thế bằng cách “phục
tùng” buông bỏ tính nhị nguyên của ý chí và sự ngoan cố của bản ngã trước tính
phi nhị nguyên của Sự thật của Chúa. Từ tính nhị nguyên của bản ngã quay trở về
tính phi nhị nguyên của linh hồn là rất khó khăn và không có khả năng xảy ra đến
nỗi chỉ có Ân điển của Chúa mới có thể thực hiện được. Do đó, con người cần một
vị cứu tinh để làm người ủng hộ, nguồn cảm hứng và điểm tựa cho sự cứu rỗi của
mình khỏi nỗi đau và đau khổ của bản ngã.
***
Bản ngã/tâm trí suy nghĩ,
trường (ý thức) biết và Đại ngã là.
***
Phi nhị nguyên nghĩa là
không có hình tướng, không có phân chia hay hạn chế—chẳng hạn như thời gian, địa
điểm hoặc sự suy nghĩ—bao gồm cả những giả định tuyến tính tùy tiện. Thần tính là,
bằng “phẩm chất” bẩm sinh của nó, toàn tri, có mặt khắp nơi và toàn năng; và tất
cả đều tiến hóa như là hệ quả của việc Phi Hiển Lộ trở thành Hiển Lộ như là Sáng
tạo đang tiến hóa.
***
Trong Thực tại, từ quan điểm
phi nhị nguyên, có thể quan sát được và trải nghiệm được rằng thực ra vạn vật diễn
ra một cách tự phát như là hiệu ứng của trường của hệ quả tự động của quá trình
hiển lộ tiềm năng thành thực tại. Vô hình là sức mạnh tiềm ẩn của bối cảnh vô biên
vô tế của Ý thức/Thực tại/Thần tính và tác động của nó lên nội dung. Trường sức
mạnh phi tuyến tính, vô biên vô tế hiện diện như nhau bên trong, bên ngoài và
bên trên. Tiềm năng trở thành hiện thực khi các điều kiện cho phép hoặc thuận lợi.
Quá trình này được trao quyền bằng ý định, cũng như phẩm chất phi cá nhân bẩm
sinh của chính ý thức.
***
Trong phi nhị nguyên của
nhận thức, ngay cả trình tự cũng không còn xảy ra nữa, và nhận thức thay thế
cho trải nghiệm. Không còn trải nghiệm về “khoảnh khắc” nữa, vì chỉ có Bây giờ
liên tục mà thôi. Chuyển động dường như là chuyển động chậm, như thể lơ lửng
bên ngoài thời gian. Không có gì là không hoàn hảo. Không có gì là thực sự chuyển
động hay thay đổi; không có sự kiện nào thực sự đang diễn ra. Thay cho trình tự,
có nhận xét rằng vạn vật đều đang trong giai đoạn mở ra, và mọi hình tướng chỉ
là hiện tượng phụ, có tính chuyển tiếp được tạo ra bởi tri giác và thói quen nhận
xét của hoạt động của tâm trí.
Trong Thực tại, mọi thứ đều
xuất hiện như là biểu hiện của tiềm năng vô biên vô tế của vũ trụ. Các trạng
thái đang tiến hóa là hậu quả của những điều kiện nhưng không phải do chúng gây
ra. Điều kiện quyết định cách chúng ta nhìn thấy, còn hiện tượng như là thay đổi
thực ra là kết quả của một điểm quan sát tùy tiện.
***
Trong Thực tại phi nhị
nguyên, không có đặc quyền, không có được, không có mất hay thứ hạng. Tương tự
như cái nút chai trên mặt biển, mỗi linh hồn trong biển ý thức, đều nổi lên hoặc chìm xuống tới tầng của nó, đấy là
do lựa chọn của chính nó—chứ không phải bởi bất kỳ sức mạnh hay sự ưu ái bên
ngoài nào. Một số bị thu hút bởi ánh sáng và một số tìm kiếm bóng tối, nhưng tất
cả đều diễn ra theo bản chất riêng của nó, đấy là do quyền tự do và bình đẳng Thần
thánh.
***
Vì toàn bộ vũ trụ và vạn vật
trong đó là một khối thống nhất về mặt nghiệp lực, Toàn thể của Thực tại là chứng
ngộ. Nếu tất cả là một khối thống nhất về mặt nghiệp lực, có xuất xứ từ cùng một
cội nguồn, thì nhìn thấy bất kỳ sự tách biệt nào cũng đều chỉ là sản phẩm của tri
giác mà thôi. Trong Thực tại, một và nhiều là như nhau.
***
Bản ngã nhỏ bé bị Đại ngã
làm cho tan rã. Thái độ mang tính chữa lành của Đại ngã đối với bản ngã là tâm
từ bi; bằng cách tha thứ mà người ta được tha thứ. Thái độ sẵn sàng buông bỏ
phát sinh từ Ân sủng của Chúa, cho phép sức mạnh của Chúa thông qua Chúa Thánh
Thần để đưa hiểu biết vào bối cảnh mới—và, bằng cách đó, phá bỏ sự thống trị của
tri giác và tính nhị nguyên đi kèm với nó, và đấy chính là cội nguồn của mọi
đau khổ. Giải thể tính nhị nguyên là món quà cuối cùng của Chúa, vì nó giải thể
chính cội nguồn và khả năng sinh ra đau khổ. Trong phi nhị nguyên, đau khổ
không thể xảy ra.
***
Ở tầng phi nhị nguyên, có quá
trình quan sát nhưng không có người quan sát, vì chủ thể và đối tượng là một. Bạn-và-tôi
trở thành Một Đại ngã trải nghiệm tất cả như là Thần thánh.
***
Trong phi nhị nguyên, định
vị là không thể xảy ra; do đó, tri giác bắt nguồn từ các định vị, là nguồn gốc
của những hiểu lầm về Thiên Chúa mà, đáng tiếc là, nhân loại đã phải trả giá
quá cao.
***
Siêu việt tuyến tính tới
phi tuyến tính là con đường của nhà huyền môn—con đường phi nhị nguyên—để nhận
ra ánh sáng bên trong của chính ý thức, Đại ngã Bất tử Đích thực. Mọi người đều
tin vào cảm giác bên trong về thực tại hay khả năng “biết” nằm bên dưới mọi trải
nghiệm và chứng kiến, không phụ thuộc vào nội dung. Nội dung của tâm trí suy
nghĩ, nhưng chỉ có trường phi tuyến tính “biết”, hoặc làm sao có thể biết được cái
đang được suy nghĩ?
Bởi vì mọi người đều thực
sự sống trong trải nghiệm tại mọi thời điểm, Cội nguồn của khả năng biết hoặc
trải nghiệm luôn ở ngay bên cạnh và là nguyên sơ. Tất cả mọi người đều trải
nghiệm rằng họ liên tục “trải nghiệm”, dù nội dung luôn thay đổi, có là gì thì
cũng thế.
Cảm ơn chú Trường đã chia sẻ tiếp cuốn sách thật hay này ở phần 3. Cháu đang mở trang nhà chú từ sáng sớm để chờ được đọc tiếp đây ạ.
ReplyDelete