12
Phải ba ngày sau
khi những vụ đụng độ ở Barcelona chấm dứt chúng tôi mới quay lại mặt trận. Sau
vụ đụng độ - nhất là sau cuộc đấu khẩu trên báo chí - thật khó mà nghĩ vể cuộc
chiến này một cách lí tưởng thơ ngây như trước được nữa. Tôi cho rằng không có
người nào từng ở Tây Ban Nha vài ba tuần mà không cảm thấy thất vọng, dù ít dù
nhiều. Tôi chợt nhớ đến người phóng viên mà tôi gặp trong ngày đầu tiên tới
Barcelona. Anh ta bảo: “Cuộc chiến tranh này cũng chỉ là một thủ đoạn giống như
mọi cuộc chiến tranh khác mà thôi”. Nhận xét của anh ta đã làm tôi choáng váng,
lúc đó (tháng 12) tôi cho là không đúng, còn bây giờ là tháng 5, cũng vẫn không
đúng, mà phải nói là quá đúng. Vấn đề là cuộc chiến nào cũng dẫn đến thoái hoá,
thời gian càng kéo dài thì thoái hoá lại càng gia tăng vì hiệu quả của các hành
động quân sự không thể song hành với tự do cá nhân và báo chí trung thực.
Bây giờ người ta có thể dự đoán được
các sự kiện sẽ phát triển theo hướng nào. Dễ dàng đoán được là chính phủ của
Caballero sẽ đổ và sẽ được thay bằng một chính phủ hữu khuynh hơn, chịu nhiều ảnh
hưởng của cộng sản hơn (chuyện này xảy ra sau đó một hoặc hai tuần), với mục
tiêu là đập tan sức mạnh của các tổ chức công đoàn. Tương lai - đấy là nói sau
khi đánh bại được Franco và để sang một bên những khó khăn to lớn của thời kì
tái thiết – cũng sẽ chẳng lấy gì làm tốt đẹp. Câu chuyện của báo chí nói rằng
“đây là cuộc chiến vì dân chủ” chỉ là những lời ba hoa chích choè mà thôi.
Không một người có lí trí nào lại hi vọng rằng sẽ có dân chủ - dù là dân chủ
theo kiểu ở Anh hay theo kiểu Pháp - ở đất nước Tây Ban Nha đầy chia rẽ và kiệt
quệ này, ngay cả sau khi chiến tranh đã kết thúc. Sẽ là chế độ chuyên chính và
rõ ràng là cơ hội thiết lập chế độ chuyên chính của giai cấp công nhân đã vĩnh
viễn qua rồi. Điều đó có nghĩa là sẽ hướng về chủ nghĩa phát xít. Không nghi ngờ
gì rằng chủ nghĩa phát xít với một cái tên tao nhã hơn, và – vì đây là Tây Ban
Nha – cho nên cũng nhân bản hơn và kém hiệu quả hơn là phát xít Đức và Ý. Chỉ
có mấy khả năng, đấy là nền độc tài tồi tệ của Franco hoặc là chiến tranh sẽ kết
thúc bằng việc chia cắt Tây Ban Nha với những đường biên giới thực sự hoặc
thành những khu vực kinh tế riêng biệt.
Kiểu nào cũng khổ. Nhưng như thế
không có nghĩa là không cần chiến đấu bảo vệ chính phủ, không cần chiến đấu chống
lại chủ nghĩa phát xít không che đậy và đã ăn sâu bén rễ của Farnco và Hitler.
Dù chính phủ thời hậu chiến có mắc sai lầm gì đi nữa thì chế độ của Franco chắc
chắn là vẫn xấu hơn. Đối với công nhân, tức là đối với người vô sản thành thị,
ai chiến thắng có lẽ cũng không phải là điều quan trọng. Nhưng Tây Ban Nha là đất
nước nông nghiệp và nông dân có phần chắc là sẽ được lợi nếu chính phủ cộng hoà
giành được chiến thắng. Nông dân sẽ giữ lại được một phần đất đai mà họ
đã chiếm đoạt được, rồi ruộng đất trong khu vực còn nằm dưới quyền kiểm soát của
phát xít cũng sẽ được đem chia, và chế độ nông nô từng tồn tại ở một vài khu vực
có lẽ sẽ không được tái lập nữa. Nếu chính phủ giành được chiến thắng thì nhất
định nó phải có tinh thần phản phong và bài giáo hội. Chính phủ sẽ hạn chế được
ảnh hưởng của nhà thờ, ít nhất là trong một thời gian nào đó; sẽ hiện đại hoá đất
nước, thí dụ như xây dựng đường sá, thúc đẩy giáo dục và bảo vệ sức khoẻ; ngay
cả trong thời chiến người ta cũng đã làm được một vài việc theo hướng này rồi.
Mặt khác, Franco, ngay cả nếu không coi hắn là bù nhìn của Đức và
Ý, gắn bó chặt chẽ với những điền chủ lớn và là tay sai của các thế lực tăng lữ-quân
phiệt phản động. Mặt trận nhân dân có thể là bịp bợm, nhưng Franco lại là hiện
tượng lỗi thời. Chỉ có những triệu phú hoặc những người viển vông mới mong cho
hắn thắng mà thôi.
Hơn nữa, còn có vấn đề uy tín của chủ
nghĩa phát xít quốc tế. Câu hỏi này, chẳng khác gì một cơn ác mộng, đã hành hạ
tôi suốt một hai năm nay. Từ năm 1930 đến nay, bọn phát xít đã giành hết chiến
thắng này đến chiến thắng khác. Đã đến lúc cho chúng một bài học, ai làm việc
đó không phải là quan trọng. Nếu chúng ta có thể hất cẳng được Franco và bọn
lính đánh thuê ngoại quốc của hắn thì tình hình thế giới sẽ được cải thiện một
cách đáng kể. Chỉ cần như thế cũng đáng phải thắng rồi, ngay cả nếu sau đó Tây
Ban Nha có rơi vào tay chế độ độc tài và những người con ưu tú nhất của nó có bị
tù đầy.
Trong thời gian đó tôi đã nghĩ như
thế. Có thể nói rằng hiện giờ tôi đánh giá chính phủ của Negrín cao hơn là khi
ông ta mới cầm quyền. Chính phủ đã kiên trì theo đuổi cuộc chiến đấu đầy khó
khăn với một tinh thần dũng cảm vô song và đã thể hiện thái độ khoan dung chính
trị không ai có thể ngờ được. Tuy nhiên, tôi vẫn tin rằng - trừ phi Tây Ban Nha
bị chia cắt với những hậu quả không thể lường trước được – chính phủ thời hậu
chiến sẽ ngả về phe phát xít. Một lần nữa tôi xin đưa ra ý kiến của mình như thế,
hãy để thời gian phán xét, cũng như đã từng phán xét hầu hết các nhà tiên tri
khác.
Vừa ra đến mặt trận, chúng tôi nhận
được tin là Bob Smillie đang trên đường trở về Anh thì bị bắt ở biên giới rồi bị giải về Valencia và tống vào tù. Smillie đến Tây Ban Nha vào tháng 10 năm ngoái.
Anh làm trong văn phòng P.O.U.M. mấy tháng, và khi những
thành viên khác của I.L.P. tới thì cùng với họ tham gia
lực lượng dân quân và ra ngay mặt trận với điều kiện là sau ba tháng sẽ trở lại
Anh để tham gia vào một đoàn tuyên truyền cổ động. Phải sau một thời gian chúng
tôi mới biết vì sao Smillie bị bắt. Anh bị biệt giam cho nên ngay cả luật sư
cũng không tiếp xúc được. Ở Tây Ban Nha – ít nhất là trên thực tế - người ta có
thể bắt giam người mấy tháng liền mà không cần đưa ra bản án chứ chưa nói tới
việc xét xử. Cuối cùng, có một người tù được thả cho chúng tôi biết rằng
Smillie bị bắt vì “mang theo vũ khí”. Sau này, tình cờ tôi mới biết được rằng
“vũ khí” ở đây là hai quả lựu đạn cổ lỗ sỹ được sử dụng hồi đầu cuộc chiến.
Smillie mang theo cùng với vài mảnh vỏ đạn và đồ lưu niệm lặt vặt khác để làm
“giáo cụ trực quan” trong những bài nói chuyện ở quê nhà. Mấy quả lựu đạn này
đã bị tháo hết thuốc và ngòi nổ, chỉ còn là mấy ống kim loại rỗng, hoàn toàn vô
hại. Rõ ràng đấy chỉ là cái cớ, Bob Smillie bị bắt là vì mối
liên hệ của anh với P.O.U.M. mà ai cũng biết.
Vụ đụng độ ở Barcelona vừa mới kết thúc và chính
quyền tìm mọi cách không để cho những người có thể phản bác cách giải thích của
chính phủ ra khỏi Tây Ban Nha. Kết quả là một số người đã bị bắt ở biên giới chỉ
vì những lí do rất vớ vẩn. Hoàn toàn có khả năng là đầu tiên người ta chỉ định
giữ Smillie mấy ngày thôi. Nhưng rắc rối là ở chỗ, ở Tây Ban Nha đã vào tù rồi
thì cứ ngồi đấy, ra toà hay không không thành vấn đề.
Chúng tôi vẫn đóng ở Huesca, nhưng lần
này bị đẩy xa hơn về phía bên phải. Trước mặt chúng tôi là đồn địch mà chúng tôi đã tạm chiếm
được cách đây vài tuần. Bây giờ tôi giữ chức teniente — có lẽ tương
đương với chức thiếu uý trong quân đội Anh - chỉ huy khoảng ba mươi chiến sĩ, cả
người Tây Ban Nha lẫn người Anh. Người ta đã đưa tên tôi vào danh sách phong
hàm quân đội chính qui, nhưng không chắc là sẽ được phong. Trước đây sĩ quan
dân quân không chấp nhận quân hàm chính qui vì nhận nghĩa là được thêm lương,
mà như thế là trái ngược với nguyên tắc bình đẳng của lực lượng dân quân, nhưng
nay thì bắt buộc phải nhận. Benjamin đã được phong hàm đại uý, còn Kopp thì
đang đợi phong hàm thiếu tá. Dĩ nhiên là chính phủ không thể không dùng các sĩ
quan trưởng thành từ lực lượng dân quân, nhưng chưa phong ai cao hơn cấp bậc
thiếu tá, có lẽ họ muốn giữ các cấp bậc cao hơn cho các sĩ quan quân đội chính
qui và học viên các trường sĩ quan. Kết quả là trong sư đoàn 29 của chúng tôi,
chắc chắn là các sư đoàn khác cũng thế, sư trưởng, các trung đoàn trưởng, các
tiểu đoàn trưởng, tất cả đều đeo lon thiếu tá!
Mặt trận vẫn bình lặng. Trận đánh
giành quốc lộ Jaca đã chấm dứt, phải mãi đến tháng 6 chiến sự mới tái tục. Ở
khu vực của chúng tôi rắc rối chủ yếu là bọn bắn tỉa. Chiến hào của bọn phát
xít cách chúng tôi chừng một trăm năm mươi mét, nhưng chúng ở cao hơn và bọc
chúng tôi từ cả hai phía vì chiến hào của chúng tôi có một góc nhọn đâm thẳng
vào chiến hào của bọn chúng. Cái góc này là chỗ nguy hiểm nhất, nhiều thương
vong do bọn bắn tỉa gây ra nhất. Đôi khi bọn phát xít còn bắn bằng súng phóng lựu
hoặc là những loại vũ khí tương tự khác. Lựu đạn nổ rất to và rất đáng sợ, vì
không thể biết trước mà tránh. Nhưng lại không nguy hiểm, nó chỉ tạo ra một hố
bằng cái thau. Đêm mát mẻ và dễ chịu, nhưng ngày thì nóng như thiêu như đốt, muỗi
bay như trấu và mặc dù có quần áo sạch sẽ mang từ Barcelona tới, chúng tôi gần
như có rận ngay lập tức. Trong những vườn cây ăn trái vô chủ trên khu đất tranh
chấp, hoa anh đào nở trắng xoá. Mưa xối xả kéo dài hai ngày liền, hầm trú ẩn đầy
nước, bờ công sự sụt lở; sau trận mưa chúng tôi phải đào suốt ngày, đất thì
dính mà xẻng Tây Ban Nha thì không có cán, lại cong queo chẳng khác gì những
chiếc thìa bằng thiếc.
Họ hứa cấp cho chúng tôi một khẩu
súng cối tầm ngắn. Nhưng chờ đến sốt ruột mà vẫn chưa thấy. Chúng tôi vẫn đi tuần
đêm như thường lệ. Nhưng bây giờ nguy hiểm hơn vì bọn phát xít có đông quân hơn
và chúng đã cảnh giác hơn, chúng vất vỏ đồ hộp bên ngoài hàng rào kẽm gai và
thường nổ súng ngay khi nghe thấy tiếng vỏ đồ hộp va chạm nhau. Ban ngày chúng
tôi nấp trong khu đất đang còn tranh chấp, hễ thấy tên nào ló ra thì bắn. Phải
bò khoảng một trăm mét mới tới cái hào có đám cỏ cao che kín, nắm ở đây có thể
nhắm bắn vào khoảng trống trên bờ công sự của bọn phát xít. Chúng tôi dựng một ụ
súng trên bờ hào. Nếu chịu khó đợi thì thế nào cũng có lúc trông thấy một người
mặc quần áo kaki vội vã chạy qua khoảng trống trên bờ công sự. Tôi đã bắn mấy lần.
Chẳng biết có trúng không, nhiều khả năng là không; tôi bắn rất kém. Nhưng mà
vui, bọn phát xít không biết đạn bắn từ hướng nào, còn tôi thì tin chắc rằng
trước sau gì tôi cũng hạ được một tên. Nhưng thật là đồ chó chết, tôi trúng đạn
trước. Tôi ra mặt trận khoảng mười ngày thì bị. Cảm giác trúng đạn cũng rất thú
vị và tôi nghĩ là xứng đáng được ghi chép lại một cách tỉ mỉ.
Lúc đó tôi đang đứng ở góc chiến
hào, mới năm giờ sáng. Đây là thời điểm nguy hiểm vì mặt trời mọc ở phía sau
lưng chúng tôi, chỉ cần thò đầu lên khỏi chiến hào là bị phát hiện ngay. Tôi
đang nói chuyện với mấy chiến sĩ sắp đổi gác. Bất thình lình, tôi chưa nói hết
câu thì cảm thấy - thật khó nói tôi cảm thấy cái gì dù rằng cảm giác vẫn còn sống
động như ngày nào.
Đại khái là tôi cảm thấy như đứng giữa
trung tâm của một vụ nổ. Tiếng nổ rất to và tia chớp loá mắt bao trùm tất cả, rồi
tôi thấy người mình giật bắn lên – không đau, chỉ bị giật mạnh, như điện giật,
người lả đi, như đang rữa ra và tan biến đi vậy. Những bao cát trước mặt tôi bỗng
lùi ra một khoảng cách rất xa. Tôi nghĩ là người bị sét đánh cũng có cảm giác
như thế. Tôi biết ngay là mình đã trúng đạn, nhưng vì tưởng là có tiếng nổ và
tia chớp cho nên tôi nghĩ là khẩu súng bên cạnh đã cướp cò và bắn phải tôi. Tất
cả xảy ra chỉ trong vòng chưa đến một giây. Đầu gối khuỵu xuống, tôi ngã, đầu đập
mạnh vào bờ hào, nhưng không thấy đau. Người tôi cứng đơ, mê đi, tôi biết mình
bị thương nặng, nhưng không thấy đau theo nghĩa thông thường của từ này.
Tay lính gác người Mĩ vừa nói chuyện
với tôi cúi xuống hỏi: “Này! Anh bị thương hả?” Đám đông bu lại xung quanh. Mọi sự bắt
đầu rối tinh lên, như vẫn thường thấy trong những trường hợp thế này. “Đỡ anh
ta dậy! Bị thương ở đâu? Cởi áo ra!” ..v.v.. và ..v.v.. Tay lính người Mĩ hỏi
xem ai có dao để rạch áo cho tôi. Tôi nhớ có một con dao trong túi áo và định
đưa tay tìm nhưng hoá ra tay phải của tôi đã bị liệt, không cử động được nữa. Vẫn
không đau, thậm chí còn cảm thấy hài lòng. Bà xã sẽ khoái lắm đấy, tôi tự nhủ.
Bà xã lúc nào cũng mong tôi bị thương, vì bị thương thì sẽ không bị giết. Chỉ đến
lúc này tôi mới bắt đầu nghĩ xem mình bị thương ở đâu, có nghiêm trọng không.
Tôi không có cảm giác gì, nhưng ý thức được rằng viên đạn đã bay từ đằng trước
tới. Tôi cố lên tiếng, nhưng hoá ra không nói được thành lời, chỉ có những tiếng
khè khè nhè nhẹ, nhưng rồi tôi cũng hỏi được là bị thương ở đâu. Vào cổ, họ bảo
thế. Harry Webb, chiến sĩ cứu thương của chúng tôi, mang băng
và một chai cồn dùng cho những trường hợp bị thương ngoài mặt trận. Tôi vừa được
đỡ ngồi dậy thì đã thấy máu từ miệng tuôn ra xối xả. Một chiến sĩ người Tây Ban
Nha đứng đằng sau tôi bảo rằng viên đạn bay xuyên qua cổ. Bình thường thì cồn rất
xót, nhưng lần này tôi lại thấy cảm giác mát dịu khi những giọt cồn đầu tiên
lan trên vết thương.
Trong khi đợi người ta mang cáng tới,
họ lại đặt tôi nằm xuống. Vừa nghe thấy nói đạn xuyên qua cổ là tôi đã chắc mẩm:
đời mình tiêu rồi. Tôi chưa từng nghe nói ai hay con vật nào bị đạn bắn xuyên
quả cổ mà sống sót. Máu vẫn rỉ ra bên khoé miệng. “Đứt động mạch rồi”, tôi tự
nhủ. “Không hiểu động mạch cảnh bị đứt thì còn sống được bao lâu? Chắc chỉ mấy
phút thôi”, tôi thầm nghĩ như thế. Mọi thứ như đang trôi trong màn sương mù dày
đặc. Tôi cảm thấy như mình đã chết rồi, chuyện ấy kéo dài độ hai phút. Cũng rất thú vị - ý tôi là thú vị khi biết ta đã nghĩ gì trong thời
gian đó. Cũng bình thường thôi, trước hết tôi nghĩ đến bà xã. Thứ hai, cảm thấy
rất hận khi phải từ biệt thế giới này, cái thế giới đầy những khiếm khuyết
nhưng rất hợp với tôi. Cảm giác này rất là sống động. Rủi thế, tôi muốn phát
điên lên được. Nhảm nhí quá thể! Trúng đạn, không phải ở giữa trận tiền mà
trong góc cái chiến hào chết tiệt này, chỉ vì một phút lơ đễnh! Tôi cũng nghĩ về
kẻ đã bắn trúng tôi – không hiểu đấy là người Tây Ban Nha hay người ngoại quốc,
liệu hắn ta có biết là đã bắn trúng tôi không .v.v.. Tôi không hề căm hận hắn.
Tôi mường tượng rằng vì hắn là một tên phát xít cho nên chắc chắn là tôi sẽ giết
nếu có điều kiện, nhưng nếu hắn bị bắt làm tù binh và được đưa đến trước mặt
tôi thì tôi sẽ chúc mừng hắn vì đã bắn trúng mục tiêu. Cũng có thể, một người
chết thật sẽ có những ý nghĩ hoàn toàn khác với ý nghĩ của tôi.
Họ vừa đặt tôi lên cáng thì cánh tay
phải cũng bắt đầu hồi sinh và đau không thể chịu nổi. Tôi mường tượng rằng tôi
đã làm gãy tay khi ngã, nhưng cơn đau lại làm tôi yên tâm vì tôi biết rằng khi
người ta hấp hối thì cảm giác không thể sắc bén như vậy được. Tôi bắt đầu cảm
thấy khá hơn và thấy ái ngại cho bốn chiến sĩ tải thương tội nghiệp, áo đẫm mồ
hôi, bước thấp bước cao, đang phải cáng tôi. Phải đi gần hai cây số mới tới được
trạm cứu thương, mà chiến hào thì trơn, đầy ổ trâu, ổ gà. Tôi biết rõ như thế,
vì trước đó một hai ngày đã từng giúp cáng một thương binh trên con đường này.
Đôi chỗ, cành bạch dương rủ xuống sát mặt chiến hào, lá bạch dương mơn man trên
má tôi. Tôi nghĩ thật hạnh phúc biết bao khi được sống trên thế gian, nơi có những
cây bạch dương như thế này. Trong khi đó tay vẫn đau không thể nào chịu nổi,
tôi đã mấy lần văng tục, nhưng rồi lại cố không văng tục vì mỗi lần thở mạnh là
máu lại sùi ra ở miệng.
Bác sĩ băng bó lại vết thương, tiêm
cho tôi một liều morfin rồi cho chở tôi đi Sietamo ngay lập tức. Bệnh xá ở Sietamo là những nhà gỗ tạm, thương binh thường chỉ được giữ lại trong vài
giờ rồi được chở đi Barbastro hoặc Lerida. Tôi bị say morfin, nhưng vẫn đau khủng khiếp, gần như không cử động nổi, máu vẫn chảy, tôi phải nuốt vì không nhổ ra được. Một cô y tá mang tới khẩu phần ăn của bệnh viện gồm một bát súp, mấy quả trứng luộc và một miếng thịt hầm béo ngậy - các bệnh viện Tây Ban Nha bao giờ cũng làm như vậy. Cô ý tá tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi không ăn. Tôi hỏi xin thuốc lá, nhưng đây là giai đoạn khan hiếm trầm trọng, bệnh viện không còn điếu thuốc lá nào. Một lúc sau có hai người bạn xin được phép đi thăm tôi xuất hiện.
“Chào! Thế là sống rồi hả?
Tốt. Hãy cho chúng tớ đồng hồ, súng lục, đèn pin nữa. Nếu cậu có dao thì cũng
cho xin luôn đi.”
Họ lấy hết những gì tôi có trong người.
Thương binh nào cũng thế - tất cả những gì anh ta có đều bị chia ngay lập tức.
Mà thế là đúng. Ngoài mặt trận đồng hồ, súng lục và những thứ khác đều là của
quí cả, còn thương binh mà mang theo người thì trước sau gì cũng bị ăn cắp sạch.
Buổi chiều, khi thương bệnh binh đã
nhiều, họ cho chúng tôi lên mấy chiếc xe cứu thương và chở đi Barbastro. Thật
là một chuyến đi hãi hùng! Người ta thường nói rằng trong cuộc chiến tranh này
nếu bị thương vào chân tay thì sống, còn bị thương vào bụng thì chết là cái chắc.
Bây giờ thì tôi hiểu vì sao. Vượt qua đoạn đường dài đã bị ô tô tải nặng cày
nát và từ hồi chiến tranh đến giờ vẫn chưa được sửa chữa lần nào mà lại còn bị
chảy máu nội tạng nữa thì sống làm sao nổi! Xe lao vào hết ổ gà nọ đến ổ gà
kia, rung lên bần bật. Nó làm tôi nhớ lại trò chơi “bập bênh”[1]
hồi còn bé. Người ta quên cột chặt chúng tôi vào cáng. May là tay trái tôi còn
khoẻ nên vẫn bám được, nhưng có một cậu bị rơi xuống sàn, chắc là đau lắm. Một
người khác, đi lại được, ngồi trong góc xe, nôn thốc nôn tháo suốt cả đoạn đường.
Bệnh viện ở Barbastro chật cứng người, giường kê sát nhau. Ngày hôm sau, một số
người được đưa lên mấy toa tầu bệnh viện để đi Lerida.
Tôi nằm ở Lerida năm hoặc sáu ngày.
Đây là một bệnh viện lớn, thương binh, bệnh binh và bệnh nhân bình thường nằm lẫn
lộn với nhau. Trong phòng tôi có những thương binh rất nặng. Bên cạnh tôi là một
thanh niên tóc đen, không biết uống thuốc gì mà nước tiểu xanh như ngọc bích.
Chai đựng nước tiểu của anh ta trở thành sự kiện lạ, thu hút khối người tò mò.
Nghe tin có một người Anh nằm viện, một đảng viên cộng sản Hà Lan nói được tiếng
Anh đã đến thăm tôi. Chúng tôi kết bạn với nhau, anh ta mang báo tiếng Anh đến
cho tôi đọc. Anh bị thương rất nặng trong trận đánh diễn ra hồi tháng mười, anh
tìm cách ở lại làm việc tại bệnh viện Lerida và đã kịp cưới một cô y tá làm vợ.
Vết thương làm một chân anh teo lại, bây giờ trông nó còn nhỏ hơn cả cánh tay
tôi. Có hai cậu dân quân đi phép ghé vào thăm tôi. Tôi đã gặp hai cậu này ngay
trong những ngày đầu tiên ra mặt trận, họ cũng nhận ra tôi. Hai cậu này còn rất
trẻ, chỉ khoảng mười tám là cùng. Họ đứng cạnh giường tôi, ấp a ấp úng, không
nói lên lời. Sau đó, họ rút hết thuốc lá trong túi ra và đưa cho tôi rồi chuồn
thẳng đến nỗi tôi không kịp trả lại nữa. Đấy là cách thể hiện tình cảm của họ.
Đặc sệt Tây Ban Nha! Sau này tôi mới biết rằng trong thành phố này không có chỗ
nào bán thuốc lá, họ đã cho tôi tất cả số thuốc lá được phát cho cả một tuần.
Sau vài ngày tôi đã có thể đứng dậy
và đi lại được, tuy tay vẫn còn phải băng và treo trước ngực. Không hiểu sao bỏ xuống
thì đau hơn nhiều. Vẫn còn rất đau ở bên trong, đấy là do tôi ngã. Giọng nói
thì mất hẳn, nhưng bản thân vết đạn thì không đau nữa. Có vẻ như ai cũng thế cả.
Chính cú va đập mạnh của đầu đạn đã làm tê liệt cảm giác; trong khi mảnh đạn
hay mảnh bom nham nhở, tuy va đập không mạnh bằng như lại gây đau đớn hơn nhiều.
Trong sân bệnh viện có một mảnh vườn khá xinh xắn và bể cá, có cả cá vàng và mấy
chú cá màu xám nhỏ nữa. Tôi thường ngắm chúng hàng giờ liền không biết chán.
Cách làm việc ở Lerida cho phép tôi hiểu được hệ thống quân y viện ở mặt
trận Aragon - ở những nơi khác có như thế hay không thì tôi không biết. Về một
số mặt, quân y viện ở đây phải nói là tốt. Các bác sĩ đều giỏi, thuốc và dụng cụ
y tế có vẻ như cũng không thiếu. Nhưng có hai khiếm khuyết nghiêm trọng, chắc
chắn đã làm hàng trăm, thậm chí hàng ngàn thương bệnh binh chết oan.
Một là, tất cả các quân y viện gần mặt
trận chỉ được sử dụng gần như là trạm băng bó. Kết quả là chỉ các thương binh nặng, không thể chuyển đi được mới được cứu chữa tại chỗ. Về lí thuyết thì hầu hết thương binh đều phải được chuyển thẳng đến Barcelona hay Tarragona, nhưng vì không có phương tiện nên phải một tuần,
thậm chí mười ngày sau họ mới được chuyển tới nơi. Thương binh nằm lăn lóc ở Sietamo, Barbastro, Monzon, Lerida và những nơi khác, trong khi chẳng được
chữa trị gì ngoài việc thay băng, đôi khi ngay cả băng cũng chẳng được thay. Vết thương sâu hoắm hay gãy chân gãy tay cũng chỉ được băng hay bó bột sơ sài, bệnh án thì được viết bằng bút chì lên trên, rồi cứ để như thế cho đến khi tới được Barcelona hay Tarragona, tức là mười ngày sau mới được tháo ra. Chữa
trị vết thương trên đường là việc gần như bất khả thi. Mấy ông bác sĩ đi theo
không thể làm xuể được. Họ thường chỉ chạy ngang qua, miệng lẩm bẩm: “Vâng,
vâng, ở Barcelona người ta sẽ chữa cho anh.” Lúc nào cũng thấy nói mañana (ngày mai) sẽ có tàu bệnh viện
đi Barcelona. Khiếm khuyết thứ hai là thiếu y tá có tay nghề. Rõ ràng
là Tây Ban Nha không có đủ số y tá có tay nghề, có thể là do trước chiến tranh
công việc này chủ yếu là do các bà xơ làm. Tôi không phàn nàn gì mấy cô ý tá,
bao giờ họ cũng rất nhã nhặn, chỉ có điều là tay nghề rất kém. Tất cả các nữ y
tá đều biết cặp nhiệt độ, một số người biết băng bó, tất cả kiến thức chỉ có thế.
Kết quả là những thương binh nặng không tự chăm sóc được thường bị bỏ mặc. Các
cô ý tá sẵn sàng để mặc người bị táo bón nằm như thế cả tuần lễ, họ cũng ít khi
tắm rửa những người yếu quá không tự tắm được. Tôi nhớ một anh chàng tội nghiệp
bảo với tôi là tay bị gãy, ba tuần liền không rửa được mặt. Chăn chiếu mấy ngày
liền cũng chẳng ai thay. Thức ăn thì quân y viện nào cũng tốt, quá tốt là khác.
Ở Tây Ban Nha người ta có thói quen cho người ốm ăn còn nhiều hơn là các nước
khác. Thức ăn ở Lerida nhiều khủng khiếp. Sáu giờ sáng, điểm tâm: súp, trứng
rán, thịt hầm, bánh mì, vang trắng, café; buổi trưa còn nhiều hơn – mà đấy là
trong lúc đa số dân chúng đang bị thiếu đói nghiêm trọng. Có vẻ như người Tây
Ban Nha không công nhận chế độ ăn kiêng. Cùng một khẩu phần cho cả người ốm lẫn
người khoẻ, nhiều năng lượng, nhiều mỡ, lại tưới đẫm dầu ô-liu.
Buổi sáng hôm đó người ta bảo rằng tất
cả mọi người trong phòng đều được chuyển đến Barcelona ngay. Tôi đã tìm cách gửi
điện thông báo cho bà xã là mình sắp về. Sau đó họ đưa chúng tôi lên ô tô ra
ga. Chỉ đến khi tàu đã chạy người hộ lí đi cùng mới làm như vô tình nói rằng tầu
không đi Barcelona mà đi Tarragona. Tôi cho rằng tay lái tàu đã đổi ý. “Đúng là
Tây Ban Nha!” – tôi tự nhủ. Nhưng còn Tây Ban Nha hơn nữa, khi họ đồng ý đợi
tôi gửi bức điện thứ hai rồi mới khởi hành. Bà xã không nhận được bức điện này,
đấy cũng là đặc trưng của Tây Ban Nha.
Họ đưa chúng tôi vào toa hạng ba, ghế
ngồi bằng gỗ. Nhiều thương binh nặng, đây là lần đầu tiên họ bước ra khỏi giường.
Chẳng bao lâu sau, vì nóng và sóc, một nửa số thương binh trong toa đã mệt rũ
ra, có người nôn ngay ra sàn. Tay hộ lí chạy qua chạy lại giữa đám thương binh
nằm ngổn ngang, tay cầm một cái bọc làm bằng da dê đựng đầy nước; thỉnh thoảng
anh ta lại phun thẳng vào miệng một người nào đó. Nước có mùi vị rất hãi, tôi vẫn
còn nhớ rõ. Chúng tôi đến Tarragona khi chiều tà. Đường tàu hoả chạy ngay sát bờ
biển. Khi chúng tôi vào thì một đoàn tàu khác chở quân nhân các Binh đoàn quốc
tế đang rời ga. Đám đông đứng trên cầu vẫy tay chào họ. Đoàn tàu này rất dài,
toa nào cũng đầy lính, pháo đặt trên những toa không mui, xung quanh cũng đầy
lính. Cảnh tượng sống động đó vẫn hằn sâu trong tâm trí tôi: đoàn tầu hoả khởi
hành trong ánh chiều vàng nhạt; những khuôn mặt đen nhẻm, rạng rỡ nụ cười bên cửa
sổ các toa tàu; nòng súng trường và những chiếc khăn quàng màu đỏ thắm - tất cả
lần lượt lướt qua một cách chậm rãi, đằng sau là mặt biển màu xanh ngọc.
“Extranjeros — người ngoại quốc”, có người nói, “Người Ý.”
Chắc chắn là người Ý rồi. Chỉ có người
Ý mới sôi động và đáp lại lời chào của đám đông một cách trang trọng như thế -
trang trọng ngay cả khi có đến một nửa số người trên tàu đang dốc ngược những
chai rượu vang sắp cạn lên tu. Sau này mới biết rằng đấy là một trong những đơn
vị đã giành chiến thắng trong trận đánh ở Guadalajara hồi tháng ba. Họ vừa trả
phép và được đưa ra mặt trận Aragon. Tôi nghĩ là chỉ sau đó mấy tuần đa số đã
hi sinh ở Huesca. Tất cả các thương binh có thể đi được đều đứng lên vẫy chào
các chiến sĩ người Ý khi đoàn tầu của họ lướt qua. Người giơ nạng ra ngoài cửa
sổ, kẻ đưa cách tay băng bó lên làm động tác chào. Thật là một bức tranh đầy ấn
tượng về cuộc chiến: một bên là đoàn tàu hoả với những chàng trai tươi rói đang
hùng dũng tiến ra tiền tuyến, còn bên kia là một đoàn tàu khác chở đầy thương
binh chậm chạp bò về hậu phương; còn hình ảnh những khẩu pháo trên những toa tầu
không mui lại làm tim đập rộn lên, làm sống lại cái tình cảm nguy hiểm nhưng rất
khó bỏ: dù sao mặc lòng, chiến đấu vẫn là vinh quang..
Quân y viện ở Tarragona thuộc loại rất
lớn, đầy thương bệnh binh từ khắp các mặt trận đổ về. Đủ loại thương tật! Một số
vết thương được điều trị bằng những phương pháp hiện đại nhất, nhưng chỉ cần
nhìn vào cũng đã sởn ra gà rồi. Vết thương được để hở hoàn toàn, không băng bó
gì, người ta chỉ che vết thương bằng mấy sợi tơ căng trên cái khung bằng dây
thép để không cho ruồi bám vào. Có thể nhìn thấy rõ những miếng thịt bày nhày,
đỏ chót trên những vết thương đang lên da non. Có một người bị thương vào mặt
và cổ thành ra đầu anh ta được che không chỉ bằng mấy sợi tơ mà được bọc trong
một cái lưới, trông như mũ bảo hộ; miệng ngậm một cái ống nhỏ làm lỗ thông hơi.
Anh chàng tội nghiệp trông rất cô đơn, cứ đi ra đi vào một mình, chỉ nhìn mọi
người mà không nói được. Tôi đã ở Tarragona được ba hoặc bốn ngày. Sức khoẻ đã
dần hồi phục, một hôm tôi đã lết tới tận bãi biển. Tôi lấy làm ngạc nhiên khi
nhìn thấy cuộc sống trên bãi biển vẫn diễn ra một cách bình thường. Những quán
café sang trọng dọc con đường ven biển, những nhà tư sản địa phương béo núc
ních tắm biển và nắm phơi nắng trên những chiếc ghế bố như thể chiến tranh đang
xảy ra cách đây hàng ngàn dặm vậy. Thế mà tôi lại nhìn thấy một người bị chết
đuối, thật không thể tưởng tượng được là có thể chết đuối trong vùng nước nông
và lặng sóng thế này.
Cuối cùng, sau khi rời mặt trận được
tám hay chín ngày, tôi được đưa đi kiểm tra vết thương. Trong phòng phẫu thuật, nơi những người mới tới được đưa vào khám, các bác sĩ dùng những chiếc kéo lớn rạch những tấm thạch cao mà ở các trạm cứu thương ngoài tiền duyên người ta dùng để bọc những người bị gãy xương sườn hay xương đòn gánh. Đằng sau những tấm thạch cao sù sì ấy là những khuôn mặt đầy lo âu, bẩn thỉu, râu ria tua tủa vì cả tuần chưa cạo. Một tay bác sĩ đẹp trai, nhanh nhẹn, tuổi chừng ba mươi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh tôi; anh
ta lấy một miếng gạc để lên lưỡi của tôi và kéo ra ngoài, rồi anh
ta đưa vào họng tôi một chiếc gương nhỏ và bảo nói “a”. Sau
khi làm lưỡi tôi chảy máu và nước mắt tôi trào ra, anh ta bảo rằng một dây
thanh âm của tôi đã bị liệt.
“Bao giờ thì tôi có thể nói được như trước?”, tôi hỏi.
“Nói
như trước? Anh không bao giờ có thể nói như trước được nữa”, tay bác sĩ vui vẻ
đáp.
Nhưng anh ta đã lầm. Trong vòng hai
tháng tôi chỉ có thể nói thầm, thế rồi bất ngờ tôi lại nói được. Hoá ra dây âm
thanh kia đã “gánh đỡ” được cho cái dây bị liệt. Cánh tay vẫn còn đau vì viên đạn
đã làm đứt bó dây thần kinh ở sau gáy. Đau đớn kéo dài cả tháng, nhất là ban
đêm, thành ra tôi gần như mất ngủ hoàn toàn. Các ngón tay trên bàn tay phải của
tôi cũng gần như bị liệt. Đến nay, đã năm tháng rồi mà các ngón tay vẫn còn tê
– cũng lạ, bị thương vào cổ mà lại liệt ngón tay.
Theo một nghĩa nào đó thì vết thương
của tôi cũng là hiện tượng lạ. Khá nhiều bác sĩ tới khám đã tặc lưỡi bảo: “May quá! May
quá!” Một ông còn bảo rằng viên đạn chỉ cách động mạch chủ “khoảng một
milimet”. Tôi không hiểu làm sao mà ông ta biết được như thế. Tất cả những người
tôi gặp hồi đó – bác sĩ, y tá, thực tập sinh, thương binh cùng phòng - đều khẳng
định rằng người bị thương vào cổ mà còn sống thì nhất định sẽ là người hạnh
phúc. Nhưng cá nhân tôi thì nghĩ rằng đã là người hạnh phúc
thì không thể nào bị thương được.
No comments:
Post a Comment