Nhà văn Tạ Duy Anh
(Trích hồi kí Lách qua luật ngầm)
LTG:
Trong đời làm biên tập tổng cộng chẵn 20 năm của mình, trái với
vài người “khôn ngoan” cho rằng chẳng dại gì mà phải chết cho một cuốn sách,
tôi luôn làm ngược lại: đặt việc xuất bản cuốn sách nào đó quan trọng hơn công
việc của mình, nếu nó xứng đáng phải được xuất bản.
Nhưng phải nói ngay một sự thật: Tôi sẽ không thể làm được những
gì như đã làm, nếu không có những đồng nghiệp tài năng, bản lĩnh, uy tín và
lương tâm nghề nghiệp rất lớn, chấp nhận đứng mũi chịu sào.
Bắt đầu là giám đốc Nguyễn Phan Hách, tuy công khai nói mình
nhát, nhưng luôn lắng nghe và bảo vệ cấp dưới. Nhà văn Nguyễn Khắc Trường là
một tài năng và bản lĩnh lớn. Sau này, thời nhà văn Trung Trung Đỉnh làm giám
đốc, tôi có cơ hội TOÀN QUYỀN làm theo ý mình. Sang thời nhà thơ Nguyễn Quang
Thiều, về cơ bản ông ủng hộ mọi đề xuất của tôi, cùng hợp sức để vượt qua những
giới hạn cấm kị và giống như Trung Trung Đỉnh, sẵn sàng nhận và chịu mọi trách
nhiệm.
Nhờ những lãnh đạo như vậy, dù chỉ là một biên tập viên (về sau,
do sự nài nỉ của Trung Trung Đỉnh suốt hơn một năm, tôi chấp nhận làm trưởng
ban biên tập nhưng việc chính thì không thay đổi), tôi đã giúp cho ra đời và
“xóa án” (tái bản những cuốn sách bị coi là có vấn đề) một số tác phẩm văn học
quan trọng.
Tôi giúp tái bản Cơ hội của chúa (Nguyễn Việt Hà), Những mảnh
đời đen trắng (Nguyễn Quang Lập), Những đứa trẻ chết già (Nguyễn Bình Phương),
Chiều chiều (Tô Hoài), Miền hoang tưởng (Hoang tưởng trắng-Nguyễn Xuân Khánh),
Lão Khổ, Đi tìm nhân vật (Tạ Duy Anh)…Khi một cuốn sách nào đó bị coi là có vấn
đề mà được tái bản (thường không dễ) thì kể như án đình chỉ áp cho nó trước đó
coi như bị xóa. Tại thời điểm những cuốn sách vừa kể được tái bản, không ở đâu
ngoài Nhà xuất bản HNV dám làm.
Tôi đã nỗ lực để xuất bản bộ sách gần 10 ngàn trang (11cuốn) của
nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Trần Bạt, cùng các tác phẩm văn học: Thời của
thánh thần (Hoàng Minh Tường); Những ngã tư và những cột đèn, Đêm núm sen (Trần
Dần); Xem đêm (Phùng Cung); Hồi kí Phạm Cao Củng; Lê Vân yêu và sống (Bùi Mai
Hạnh); Để gió cuốn đi (Ái Vân), Cung đàn số phận (Kim Dung-Kỳ Duyên); Trư cuồng
(Nguyễn Xuân Khánh); Lưng rồng (Đỗ Hoàng Diệu); Phép tính của một nho sĩ (Trần
Vũ); Tuổi hai mươi yêu dấu (Nguyễn Huy Thiệp); Tuyển tập Hoàng Ngọc Hiến; Tuyển
tập Phạm Vĩnh Cư; Tập sách vinh danh Nguyễn Đăng Mạnh giữa lúc tên ông bị đánh
dấu đen sau khi cuốn hồi kí phát tán; Phê bình thế kỉ 20 (Thụy Khuê); Từng đoạn
đường văn (Lại Nguyên Ân); Bát phố và các tập thơ của Bảo Sinh; Thang máy Sài
Gòn, Chỉ còn bốn ngày là đến 30 tháng tư (Thuận); Tập phê bình của Phạm Xuân
Nguyên (khi ông có tên trong Ban vận động Văn đoàn độc lập); Đọc tôi bên bến lạ
(Cầm Thi); Bút kí và các tập thơ của Du Tử Lê; Trần Lệ Xuân, quyền lực bà rồng
(Monique Brinson Demery); Lolita (Nabocop); Chỉ tại con chích chòe (Dương
Tường); Người sông mê (Phạm Toàn); Đất trời vần vũ ( Nguyễn Một); Phố hoài
(Trần Thị Trường); Người Trung Quốc xấu xí (dưới cái tên Khoe bàn chân nhỏ-Bá
Dương); Tư bản thân hữu ở Trung Quốc (Minxi Pei); Hoa đường tùy bút (Phạm
Quỳnh); Một trời gió bụi (Thiên Sơn); các tập thơ thế sự của Phạm Xuân Trường;
Con đường Hồi giáo (Phương Mai); Bức xúc không làm ta vô can, Thiện, ác và
smartphone (Đặng Hoàng Giang); Đêm ngồi ngã ba sông (Nguyễn Thành Phong)…(Tôi
không thể nhớ và kể ra hết). Chúng là những tác phẩm hầu như không thể xuất bản
kể cả khi chấp nhận không còn nguyên vẹn ở đâu khác ngoài NXb Hội nhà văn. Khi
ra đời nhiều tác phẩm trong số đó bị thu hồi, đình chỉ phát hành, cấm tái bản, còn
lại hầu hết đều bị công văn cảnh cáo, yêu cầu sửa chữa….
Những gì vừa nói vừa là tư liệu, vừa cho tôi cảm hứng để viết
cuốn hồi kí “Lách qua luật ngầm” . Tôi viết xong từ lâu, kết thúc ở việc tiểu
thuyết “Mối chúa” bị đình bản. Sau khi về hưu năm 2020, tôi bổ sung chút ít và
kết thúc ở việc xuất bản tiểu thuyết “Đất mồ côi”. Như vậy thời gian diễn ra
các sự kiện trong cuốn sách kéo dài chẵn 20 năm, chính là thời gian tôi làm
công việc biên tập sách tại Nhà xuất bản Hội nhà văn. Lường trước việc có lúc trí
nhớ phản lại tác giả, vì thế những gì tôi chưa chắc chắn là sự thật, tôi thấy
tốt nhất là không nói tới. Tôi luôn duy trì nguyên tắc cứng rắn: Để một cuốn
hồi kí không vô dụng và không vô đạo đức, không nhất thiết sự thật nào cũng
phải được nói ra, nhưng những gì đã quyết định nói ra thì phải là sự thật.
Hy vọng sẽ có lúc tôi đủ cảm hứng và can đảm xuất bản cuốn sách.
Dưới đây, xin tặng bạn đọc phần nói về sự kiện xuất bản tiểu
thuyết “Trại súc vật”, một sự kiện xuất bản rõ ràng là lớn nhất, tạo ra nhiều
thuyết âm mưu nhất, gây chấn động nhất trong dư luận cũng như đối với các cơ
quan quản lý. (Có tất cả 6 kỳ)
------------------------------------
KỲ 1-GEORGE ORWELL VÀ TIỂU THUYẾT TRẠI SÚC VẬT
Nhà văn George Orwell (1903-1950) tên thật là Eric Arthur Blair
(25/6/1903 – 21/1/1950), là một trong những cây bút tiếng Anh được hâm mộ và
tranh cãi nhất ở thế kỷ 20. Sinh tại Ấn Độ, trong một gia đình như ông tự
miêu tả là "nhóm dưới của tầng lớp thượng- trung lưu". Lên 5 tuổi
ông được đưa đến trường nam sinh ở Henley-on-Thames. Nhờ học giỏi năm 14
tuổi, George Orwell nhận học bổng King’s Scholar vào trường Eton. Sau khi
tốt nghiệp ông làm việc cho Indian Imperial Police (Lực lượng Cảnh sát
thuộc địa) tại Miến Điện. Những hiện thực tại đây đã làm ông nhận ra
bản chất tàn bạo của chủ nghĩa thực dân đế quốc. Năm 1927 ông quyết
định từ chức và quay trở về Anh. Tác phẩm Burmese Days (Những ngày ở Miến
Điện) xuất bản năm 1934 mang một cái nhìn tăm tối vào chủ nghĩa thực dân Anh
tại Miến Điện chính là những trải nghiệm của ông khi còn ở xứ sở
thuộc địa này.
Năm 1937, ông tới Tây Ban Nha, tham gia chiến đấu cho nền Cộng
hòa chống lại lực lượng phát xít do Francisco Franco cầm đầu, mà như ông
viết trong thư: “Nhất định phải ngăn chặn chủ nghĩa phát xít”. Theo ông,
“quyền tự do và nền dân chủ đi liền với nhau, và cùng những thứ khác, bảo đảm
tự do cho người nghệ sỹ; nền văn minh tư bản hiện hành bị tha hóa, nhưng chủ
nghĩa phát xít là một thảm họa luân lý”.
Orwell sau đó bị thương nặng, và phải chuyển sang sống
một thời gian tại Morocco trước khi trở về Anh. Những ngày chiến đấu
chống độc tài Franco ảnh hưởng sâu sắc tới thế giới quan của Orwell
và các tác phẩm sau này của ông như “Animal Fram” (Trại súc vật-Chuyện
ở nông trại) hay “1984”.
Ông mất ngày 21 tháng Một năm 1950 trong một bệnh viện ở London.
Trại súc vật là một truyện ngụ ngôn mang màu sắc trào
phúng lấy bối cảnh nông thôn nước Anh, kể về một nhóm gia súc nổi
dậy đuổi ông chủ trại tên Joens đi và chiếm quyền quản lý. Thoạt đầu
chúng đề ra những nguyên tắc bình đẳng rất cao cả và mang tính lý tưởng, với
mong muốn tất cả mọi công dân trong Trại súc vật đều được sống một cuộc sống
tươi đẹp, ấm no. Nhưng dần dần một số gia súc cứ từng bước nắm trọn
quyền hành và trở nên tha hóa biến chất, cuộc sống trong nông trại
ngày càng xa rời mục đích cao đẹp ban đầu. Cuối truyện, lũ gia súc
trở lại liên minh với loài người, thế lực mà trước đây theo chúng là “kẻ thù
thực sự duy nhất”. Cuộc sống trong trại lại trở về cảnh lam lũ như ngày
còn chủ trại Jones.
Ngay từ khi ra đời, Trại súc vật đã gây nhiều tranh cãi.
Giống như nhiều ngụ ngôn khác, tác phẩm có thể được diễn giải theo
nhiều hướng khác nhau, có thể phù hợp hoàn toàn hay một phần với
các sự việc, nhân vật trong thực tế lịch sử. Đặc biệt, do Trại súc
vật ra đời ngay sau Thế chiến II, thời kỳ khởi đầu của Chiến tranh
lạnh nên đây cũng là cuốn sách chịu nhiều ảnh hưởng chính trị, và
bị các bên đưa ra các phán đoán chủ quan với mục đích riêng. Tới nay,
tựu trung có 3 luồng ý kiến:
-Luồng thứ nhất, do các học giả của các nước tư bản
thời kỳ 1950 khởi xướng, coi Trại súc vật là một câu chuyện thu nhỏ
chế độ Stalin, trong đó miêu tả đậm nét cuộc tranh giành ảnh hưởng
và quyền lực giữa Stalin và Trosky. Luồng ý kiến này đặc biệt được
khai thác trong thời kỳ chiến tranh lạnh, với mục đích bôi nhọ Liên
Xô.
-Luồng thứ hai, chỉ ra những ngụ ý của Orwell trong Trại
súc vật với những diễn biến có thực dưới chế độ phát xít Đức, đặc
biệt là những tương đồng giữa nhân vật Nã Phá Luân trong truyện với
lãnh tụ đảng Quốc xã Adolf Hitler, bên cạnh đó là các chi tiết trùng
hợp: vụ Nã Phá Luân say rượu tưởng bị mưu sát trong truyện với những
cuộc mưu sát Hitler ngoài đời thật, vụ tàn sát cướp trứng nhóm gà
mái với cuộc diệt chủng tàn bạo người Do Thái dưới chế độ phát
xít, công cuộc xây cối xay gió với những kế hoạch to lớn của nước
Đức quốc xã, vụ Nã Phá Luân giết 4 con lợn với cuộc thanh trừng các
nhân vật chống đối năm 1937 v.v. Nhà tuyên truyền Joseph Göbbels, Bộ
trưởng Bộ Thông tin Quần chúng và Tuyên truyền được xem là hình mẫu cho
nhân vật Mồm Loa (Squealer) trong truyện.
-Luồng thứ ba, coi Trại súc vật đơn giản là một câu truyện
ngụ ngôn, như chính Orwell đã đặt nhan đề phụ cho cuốn sách: “Animal
Farm, a fairytale” với tất cả những đặc thù lâu đời của loại truyện
này, từ ngụ ngôn Esop cho tới ngụ ngôn La Fontaine. Tác phẩm mượn cuộc
sống của các con vật để thể hiện những tình cảm phổ quát của con
người: tình yêu thương đồng loại, căm ghét bạo tàn, cũng như những
bài học đã thành quen thuộc: quyền lực khi không được giám sát sẽ
mau chóng bị tha hóa và di hại khôn lường.
George Orwell viết bản thảo của cuốn sách trong khoảng cuối năm
1943 đầu 1944. Ấn bản đầu tiên được Nhà xuất bản Secker and Warburg xuất bản
năm 1945.
Cuốn sách luôn được vinh danh trong hầu hết các danh sách hay
bảng xếp hạng uy tín. Tạp chí Time đã chọn cuốn sách này là một trong 100 tiểu
thuyết hay nhất bằng tiếng Anh (1923 tới 2005). Đến nay, tác phẩm đã được in
nhiều triệu bản, được dịch ra 70 thứ tiếng trên thế giới và thường xuyên được
tái bản.
Trung Quốc là quốc gia có nhiều bản dịch nhất. Theo
thống kê chưa đầy đủ hiện đã có tới gần 20 bản dịch khác nhau tác phẩm này.
Nhà xuất bản Thượng Hải cũng đã xuất bản Trại súc vật từ năm 1989, bản dịch mới
nhất do Nhà xuất bản Văn học nhân dân xuất bản năm 2012. Năm 2004, Trại súc vật
được Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nam, Trung Quốc giới thiệu trong series “100 tác
phẩm nổi tiếng ảnh hưởng tới cuộc đời trẻ thơ”.
Còn ở Việt Nam thì sao?
Việc xuất bản “Animal Farm” ở Việt Nam được tiến hành
khá sớm, ngay những năm 50 của thế kỷ trước đã có bản dịch mang tên
“Cuộc cách mạng trong trại súc vật”. Tới năm 1975 lại có một bản
dịch của Giáo sư Đỗ Khánh Hoan mang tên “Trại súc vật”. Tuy nhiên do
những hiểu lầm, ngộ nhận, cùng nhiều tranh cãi như đã nói trên,
“Animal Farm” trở thành một vấn đề cấm kỵ bất thành văn trong công
tác xuất bản, và một thời gian dài không có thêm bản dịch nào chính
thức ra đời. Đây cũng là nguyên nhân khiến hiện nay có nhiều bản dịch
trôi nổi trên mạng, hoặc được in không chính thức với chất lượng
dịch, biên tập khó kiểm chứng và nội dung không được kiểm soát.
(Còn tiếp)
XUẤT BẢN TRẠI SÚC VẬT
(Trích hồi kí Lách qua luật ngầm)
KỲ 2- CÁC BÁO ĐẢNG ĐUA NHAU ĐƯA TIN VỀ TRẠI SÚC VẬT
“Trại súc vật”, sau khi đổi tên thành “Chuyện ở nông trại”,
được phát hành bởi Nhã Nam, thông qua Nhà xuất bản HNV, dựa trên bản dịch
của An Lý, nghe nói còn rất trẻ.
Cho đến giờ tôi vẫn chưa từng một lần gặp mặt dịch giả, cũng
không biết tí gì về thân thế, sự nghiệp của cô ta. Về mặt lý thuyết thì cuốn
sách tuân thủ đúng các quy trình theo Luật xuất bản hiện hành, được
dịch và biên tập kỹ lưỡng, phát hành rộng rãi một cách công khai cho
đến khi có lệnh thu hồi.
Thực sự tận khi nhận bản thảo “Trại súc vật”, tôi mới biết đến
cuốn tiểu thuyết đình đám này, còn trước đó, hầu như tôi chỉ biết chút ít về nó
cùng cái tên tác giả, nhờ một bài báo ngắn mà tôi không thể nhớ mình đọc ở đâu.
Nếu không lầm thì đó là vào khoảng những năm 1989, khi phong
trào Cải tổ đang vào giai đoạn cao trào ở Liên –Xô, một tờ báo của ta đã đưa
dòng tin ngắn là lần đầu tiên, cùng với "Quần đảo địa ngục",
"Lolita", tiểu thuyết "Trại súc vật" của George Orwell được
xuất bản ở Liên-Xô. Tác giả bài báo, trong mục thông tin văn nghệ, chỉ tóm tắt
sơ qua về nội dung, đại ý nó phê phán độc tài, thói giả nhân giả nghĩa và những
cuộc tàn sát ngầm người bất đồng quan điểm dưới thời Staline (hay là Hitler gì
đó mà tôi không nhớ rõ).
Tại Liên-Xô thời gian đó, Gooc-ba-chốp vừa có bài diễn văn nổi
tiếng tố cáo những tội ác man rợ của Staline. Báo Nhân Dân của Việt Nam, ngày
nào cũng dành một góc trang trọng phía phải, bên trên của trang nhất để in ý
kiến, chỉ thị, phát biểu, những việc làm của M.X Gooc-ba-chốp tít tận Liên Xô
xa xôi, coi như những lời vàng ý ngọc của lãnh tụ lớn lãnh đạo phong trào cộng
sản thế giới. Lúc bấy giờ chưa có sự kiện bức tường Berlin sụp đổ, chưa có Hội
nghị Thành Đô trong khi Bắc Kinh thì đang tràn ngập sinh viên đòi dân chủ trên
quảng trường Thiên An Môn. Trong không khí đó, việc đưa tin "Trại súc
vật" được xuất bản sau gần nửa thế kỷ bị cấm tiệt tại tất cả các nước xã
hội chủ nghĩa, trở thành một cái tin bình thường. Thậm chí người ta còn dám
công khai cả chuyến hồi hương của văn hào Alexandre Soljenitsyne bằng giọng
điệu đầy trìu mến và ca ngợi sự giản dị của văn hào khi ông đi tầu chợ, ở khách
sạn bình dân, từ chối giải thưởng văn học Nhà nước Nga chứ không phiền đến
Chính phủ của Ngài Enxin, vốn rất muốn bù trì cho nỗi khổ cực mà ông từng phải
chịu bằng bất cứ ưu đãi nào mà ông muốn.
Tuy thế tôi cũng không bị thu hút quá mạnh vào thông tin về cuốn
sách, như đáng lẽ nó phải thế. Bởi vì cái tên George Orwell hầu như vẫn xa lạ
tuyệt đối với thế hệ mù ngoại ngữ, bị bưng bít toàn phần như lớp tuổi tôi. Khi
có điều kiện tìm hiểu thì tính thời sự của nó qua mất.
Tôi chỉ lưu trong đầu đúng cái tên tiểu thuyết.
Nhưng hóa ra không chỉ mình tôi như vậy.
Khi “Chuyện ở nông trại” chính thức ra mắt, Nhã Nam tiến hành
họp báo giới thiệu. Tất cả vẫn vô cùng hồn nhiên. Cả người chủ trì là Nhã Nam
và các phóng viên, cùng chung một tâm trạng háo hức. Chỉ sau vài tiếng đồng hồ,
mấy chục tờ báo điện tử trong hệ thống đảng, từ trung ương đến địa phương đều
đồng loạt đưa tin lên trang nhất với cái tít lớn: “Truyện ngụ ngôn nổi tiếng
của George Orwell đã đến Việt Nam”. Có báo còn đưa luôn cả thông tin về tác
phẩm nằm trong số 100 cuốn sách hay nhất của thế kỉ hai mươi, đứng thứ 31theo thứ
tự xếp hạng, đã được dịch và in ở trên 70 quốc gia.
Xin kể tên một số tờ báo và trang mạng đưa tin vào loại nhanh
nhất: Báo Quân đội nhân dân cuối tuần, Tạp chí Tuyên giáo, Tạp chí xây dựng
Đảng, Báo Hà Nội mới, Trang thông tin của Cổng chính phủ, Báo Đà Nẵng, Báo Hưng
Yên, Báo gia đình…Các báo vừa ghi tên Chuyện ở nông trại, vừa mở ngoặc chú thêm
tên nguyên bản là Trại súc vật, trương lên chiếc bìa một vàng rực và đập vào
mắt mọi người.
Sau đây là nội dung bài giới thiệu in trên báo Hà Nội Mới
online, vào lúc 15:57 ngày 04/3 năm 2013, kí tên Hoàng Lân, với hàng tít nổi
bật: "Truyện ngụ ngôn kinh điển thế giới có mặt tại Việt Nam".
"Truyện ngụ ngôn kinh điển của tác giả “George
Orwell”-Chuyện ở nông trại -vừa được Công ty văn hoá và truyền thông Nhã Nam phát
hành và giới thiệu tại Việt Nam. Chuyện ở nông trại đã in được hàng triệu bản,
được dịch ra 70 thứ tiếng trên thế giới đồng thời đứng ở vị trí 31 trong Danh
sách tiểu thuyết hay nhất thế kỷ 20.
Đây là tác phẩm ngụ ngôn kinh điển về xã hội của thế kỷ 20, song
cũng lại là một câu chuyện giản đơn về việc những ý định tốt có thể dễ dàng bị
biến đổi ra sao nếu như mỗi người chỉ tư lợi cho bản thân. Sau hơn nửa thế kỷ
từ lần xuất bản đầu tiên, Chuyện ở nông trại đã in được hàng triệu bản. Sách có
mặt trong 100 tiểu thuyết hay nhất bằng tiếng Anh của Tạp chí Time. Tại Trung
Quốc, Chuyện ở nông trại cũng đã được xuất bản từ rất sớm. Tới nay đã có khoảng
gần 20 bản tiếng Trung.
“Chuyện ở nông trại” mở đầu khi bọn gia súc trong một nông trại
nằm ở một vùng nông thôn của nước Anh nghe theo lời Ông Cả, một chú lợn thông
thái tiến hành khởi nghĩa,lật đổ ông chủ trại Jones chiếm lấy quyền điều hành
nông trại, với mục đích cao cả là đem lại bình đẳng cho mọi con vật, giải thoát
chúng khỏi sự áp chế của loài người. Chúng âm thầm chuẩn bị, nhưng phải đến sau
khi Ông Cả qua đời, bọn gia súc mới nổi dậy thành công dưới sự lãnh đạo của hai
chú lợn, Nã Phá Luân và Tuyết Cầu. Khi trại đã về tay gia súc,chúng đề ra những
nguyên tắc đẹp đẽ, mọi súc vật trong trại đều phải tuân theo,với mong muốn từ
nay tất cả mọi thành viên đều được sống một cuộc sống tươi đẹp, ấm no và “mọi
con vật đều bình đẳng”.
Thế nhưng những ngày tươi đẹp sau khởi nghĩa của lũ gia súc
không kéo dài lâu, giữa Nã Phá Luân và Tuyết Cầu nhanh chóng nảy sinh mâu thuẫn
về tương lai của nông trại, mà thực chất là biểu hiện của cuộc cạnh tranh quyền
lực giữa chúng. Cuối cùng, những điều tệ nhất của nông trại này đã lại xảy ra.
Nhà văn nổi tiếng George Orwell viết bản thảo của cuốn sách
trong khoảng cuối năm 1943 đầu 1944. Việc xuất bản cuốn sách ban đầu gặp nhiều
khó khăn nên đến năm 1945 bản in đầu tiên mới được NXB Secker and Warburg xuất
bản.
Nhưng sau những trở ngại đầu tiên, Chuyện ở nông trại đã trở
thành một thành công nhanh chóng. Việc thiếu giấy sau Thế chiến II tại Anh đã
khiến số bản in tại nước này bị giới hạn, nhưng tính đến 1950 vẫn có đến 25.500
bản sách được ra đời tại Anh và 590.000 bản tại Mỹ. Cuốn sách luôn được vinh
danh trong hầu hết các danh sách hay bảng xếp hạng uy tín. Tạp chí Time đã chọn
cuốn sách này là một trong 100 tiểu thuyết hay nhất bằng tiếng Anh (1923 tới
2005)"
(Hết trích)
Tuy nhiên, chỉ sau khoảng ba, bốn ngày, (có tờ chỉ sau chưa đầy
một ngày) là tất cả những báo trên đều rút bài, đóng cửa kiểm điểm nhau chí tử.
Điều đó chứng tỏ, ấn tượng về cuốn sách không có trong rất nhiều người. Phần
lớn những vị “lính gác cửa của chế độ” đều chưa từng một lần nghe tên của “kẻ
đáng chết nhất mọi thời đại” khi hắn chế ra “quả bom bẩn” đặt vào chân móng chế
độ. Nếu biết rằng quy trình duyệt in bài của những báo đó nghiệt ngã thế nào,
thì sẽ thấy "Trại súc vật" thậm chí còn không nằm trong kho từ phải
cảnh giác cao độ.
Nhưng hóa ra, trước đó không lâu, "Trại súc vật" được
xuất bản với đúng cái tên ấy bởi Nhà xuất bản Giấy Vụn của nhóm Mở miệng ở thành
phố Hồ Chí Minh, do một dịch giả nổi tiếng chuyển ngữ. Nhưng nó không gây nên
sự ồn ào nào đáng kể trong số đông độc giả đang mua sách hiện nay. Giải thích
về hiện tượng đó cực kỳ đơn giản nhưng không phải ai cũng biết hoặc công nhận.
Với thói quen chuộng chính thống ngấm vào từng mao mạch của người Việt, với
hàng nửa thế kỷ bị nhồi sọ tinh thần địch-ta, đa số bạn đọc hiện nay vẫn giữ
nguyên não trạng thứ gì chính thống, hợp pháp mới là thứ đáng tin. Vì thế, tính
chính danh của một cuốn sách chưa khi nào thôi quan trọng, nếu muốn thu hút sự
quan tâm của độc giả. Nhiều người không thừa nhận điều này. Với họ thì việc in
ở các trang cá nhân, in ở nước ngoài, với in ở Nhà xuất bản của Nhà nước chẳng
có gì khác nhau. Đúng là chẳng có tí gì khác nhau về nội dung văn bản. Thậm chí
lấy trên mạng còn dễ hơn đi mua một cuốn sách với nội dung y hệt nhau. Nhưng
tác dụng xã hội của chúng thì, bất chấp mọi lý lẽ, lại vẫn cứ khác nhau rất xa,
ít ra là trong bối cảnh cụ thể Việt Nam với thói quen văn hóa như tôi vừa nói. Phần
lớn bạn đọc vẫn mặc nhiên coi những gì in trên các trang mạng, nhà xuất bản
không chính thức là không đáng tin, thậm chí còn đi xa hơn khi gán cho nó là do
bọn phản động tuyên truyền. Đã là phản động thì đương nhiên họ phải tố cáo xã
hội, tố cáo những người lãnh đạo, moi móc hoặc bịa ra những tiêu cực, vẽ ra mọi
sự thối nát để bôi xấu chính quyền, thể chế. Khi đã bị tâm lý đó chi phối, thì
người ta thờ ơ với mọi vấn đề, không coi nó là thật, chứ chẳng riêng gì sách.
Mà đã không coi là thật, thì theo quy luật tâm lý, vấn đề đó không tạo ra bất
cứ xúc tác nào mang tính lan truyền.
Nhưng cũng vấn đề ấy, cuốn sách ấy mà đọc trên báo chính thống,
được xuất bản bởi một nhà xuất bản chính thống, thì đầu tiên người ta tin ngay
những gì có trong nội dung đều là thật. Chỉ sự thật mới có thể gây sốc về tâm
lý, trước khi dẫn hướng tới các phản ứng khác: Căm phẫn, khinh bỉ, không chấp
nhận…Bất chấp sự không công nhận của những người theo chủ nghĩa tự do, thực tế
đó (rõ ràng là bất công) hiện tại vẫn chưa thay đổi nhiều. Những nhà quản lý tư
tưởng của chế độ luôn là những người hiểu hơn ai hết thực tế tâm lý này. Vì
thế, họ làm tất cả để ngăn cản tối đa sao cho càng ít càng tốt sự ra đời, lan
truyền bài báo, cuốn sách nào mà họ không thích tìm được cách chính thống hóa
trước khi đến với độc giả.
Tôi thì gọi đó là sức mạnh của tính hợp pháp.
(Còn nữa)
XUẤT BẢN TRẠI SÚC VẬT
(Trích hồi kí Lách qua luật ngầm)
KỲ 3- DƯ LUẬN VÀ CÁC THUYẾT ÂM MƯU
Có rất nhiều lời đồn đoán cũng như các giả thiết mang mầu sắc
thuyết âm mưu về việc “Trại súc vật” được xuất bản chính thức tại một nhà xuất
bản lớn.
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đầy tự tin khẳng định có sự đánh đấm hạ
bệ nhau từ Bộ chính trị và bọn Trung Trung Đỉnh, Tạ Duy Anh chỉ là mấy kẻ được
nhờ đánh thuê. Ông cho rằng nếu không có phe nhóm nào tầm cỡ Bộ chính trị bật đèn
xanh rồi chống lưng, thì “mấy thằng cha kia” có cho mật gấu cũng không dám.
Quan điểm này được Nguyễn Huy Thiệp bảo lưu nhiều năm sau, ngay cả khi mọi sóng
gió về cuốn sách đã tạm lắng lại.
Tôi không nghe trực tiếp từ Nguyễn Huy Thiệp, mà nghe qua lời kể
của nhà thơ Bảo Sinh, người bạn vong niên tâm giao nhất của ông hiện vẫn đang
rất khỏe mạnh và lãng mạn.
Theo nhà thơ Hữu Thỉnh, thì có hẳn cả một nhóm chống phá đảng
nằm mai phục suốt 70 năm qua. Chúng rất kiên trì và nham hiểm, ém rất sâu, chỉ
chờ đảng ta “sơ suất” là đặt bằng được “quả bom bẩn” vào tận móng chế độ. Nhà
thơ Chủ tịch Hội nhà văn còn đưa ra cả “các bằng chứng” theo ông không thể
thuyết phục hơn để khẳng định ý kiến không chỉ của ông, mà của cả cơ quan chức
năng. (Xin mời đọc phần sau).
Một hôm, sau khi Trại súc vật đã “nằm trên thớt”, vào lúc đã khá
khuya, nhà thơ Trần Quang Quý gọi điện cho tôi thông báo ông nghe tin có mấy
nhà văn cùng tố cáo tôi lên cấp trên, rằng Tạ Duy Anh là “kẻ chống cộng số một”
trong Hội nhà văn vì thế ông ta đang rất ‘khoái chí” vì xuất bản thành công
Trại súc vật. Trần Quang Quý sau đó cứ hỏi tôi có đọc kỹ tác phẩm không, nếu
đọc kỹ chả lẽ không biết nội dung của nó nhằm vào chế độ Staline? Tôi bèn bảo
Trần Quang Quý rằng cứ để họ muốn hiểu thế nào cũng được.
Một luồng dư luận thầm thì khác thì cho rằng, cả tôi là biên tập
và những người đọc duyệt đều không đọc bản thảo, nên không biết nội dung của nó
nói về chuyện gì. Tức là cuốn tiểu thuyết ra đời được là do Nhà xuất bản điếc
nên không sợ súng. Nhà báo nổi tiếng Phạm Đoan Trang, người đang thụ án 9 năm
tù về tội “chống phá nhà nước!?” trả lời một tờ báo nước ngoài xuất bản bằng
tiếng Việt rằng, cô không bao giờ tin những người cấp phép xuất bản "Trại
súc vật" gan to đến thế? Theo ý cô “Chỉ có thể là họ không đọc”.
Luồng ý kiến đông đảo nhất và cũng đáng buồn nhất là nhiều người
trách móc Nhà xuất bản đã cho ra đời một cuốn sách “có nội dung độc hại”. Trong
số những người đó có khá nhiều đồng nghiệp của chúng tôi. Một nhà văn vốn rất
có thiện cảm với Nhà xuất bản, vẫn thường khen chúng tôi mạnh mẽ và có gu thẩm
mỹ, nhưng gặp tôi ông cũng nhăn mặt nhăn mày bảo: “Nói gì thì nói, việc các cậu
cho in Trại súc vật là không thể chấp nhận được. Cái gì cũng có giới hạn của nó
thôi chứ”.
Bạn tôi, cán bộ ngân hàng, một lần phải tham gia lớp tập huấn
chính trị. Trong chương trình có buổi lên lớp của một ông báo cáo viên, về tình
hình an ninh chung của đất nước. Ông này coi việc xuất bản Trại súc vật là một
sự cố an ninh nghiêm trọng.
Còn vô số câu hỏi khác, vô số lời thì thầm truyền tai nhau, vô
số thắc mắc, vô số giả định…về sự có mặt của cuốn tiểu thuyết.
Đúng là-như một câu châm ngôn phương Tây-khi nhân chứng im lặng
thì xuất hiện huyền thoại.
(Còn nữa)
XUẤT BẢN TRẠI SÚC VẬT
(Trích hồi kí Lách qua luật ngầm)
KỲ 4-CUNG ĐÌNH NỔI GIẬN
Về nhiều mặt, Đinh Thế Huynh không có gì so được với Hữu Thỉnh.
So với uy tín văn chương, báo chí, Đinh Thế Huynh luôn chỉ là bậc đàn em của
Hữu Thỉnh.
Nhưng Hữu Thỉnh không là gì, so với Đinh Thế Huynh, về mặt quyền
lực. Là Ủy viên Bộ chính trị, dưới mắt Đinh Thế Huynh thì Chủ tịch Hội nhà văn
chỉ là người giúp việc đúng nghĩa.
Việc để lọt Trại súc vật đã khiến Cung đình nổi giận. Qua chính
miệng Hữu Thỉnh, thì ông bị Trưởng ban truyên giáo là Đinh Thế Huynh “gọi” lên
mấy lần chỉ trong một thời gian ngắn. Nỗi uất ức của Hữu Thỉnh là có thật. Và
ông không thể không trút nó lên một ai đó.
Tuy nhiên, sức ép lên lãnh đạo Hội nhà văn càng ngày càng mạnh
không chỉ đến từ các cơ quan chức năng. Sức ép còn đến từ nhiều nhà văn đồng
nghiệp của chúng tôi.
Hữu Thỉnh không còn lựa chọn nào khác là phải ra tay.
Trong cuộc họp chính thức với Nhà xuất bản Hội nhà văn về cuốn
Chuyện ở nông trại, ngoài Hữu Thỉnh là chủ tịch Hội, cơ quan chủ quản của Nhà
xuất bản, có thêm nhà văn Khuất Quang Thụy, trưởng ban kiểm tra, nhà thơ Nguyễn
Hoa, trưởng ban tổ chức của Hội cùng vài ba người khác mà tôi không nhớ cụ thể.
Vào cuộc họp, Hữu Thỉnh đề nghị ban giám đốc Nhà xuất bản phát
biểu theo tinh thần phải nhận ra tội lỗi nghiêm trọng của mình. Ông nhắc đi nhắc
lại là ông chỉ nghe những lời nhận tội, chứ không nghe thanh minh, giải thích.
Còn thanh minh, giải thích tức là chưa nhận thức được tính nghiêm trọng của vấn
đề. Trong khi tội lỗi-ông nhấn mạnh-thì rõ ràng như ban ngày rồi. Cuốn sách có
nội dung chống cộng là điều không cần phải bàn cãi, thậm chí là cuốn sách chống
cộng số một cũng không cần phải bàn cãi.
Sau khi mào đầu gay gắt như vậy, Hữu Thỉnh ngồi nghe chăm chú,
nét mặt lộ ra (lần này thì tôi không biết là thật hay ông vẫn lại đang đóng
kịch?) vẻ đau khổ pha sự căm giận. Có lẽ tôi thấy ông nghiêm túc nhất từ trước
tới nay khi tham gia một hội nghị và vì thế mà cũng tức cười nhất.
Trung Trung Đỉnh phát biểu đầu tiên. Khi Trại súc vật ra khỏi
nhà in, Nhã Nam mang cho tôi 5 cuốn. Vừa lúc ra tết, nhà phê bình Ngô Thảo mời
Trung Trung Đỉnh và tôi đi ăn món nướng Hàn Quốc. Tôi bèn cầm theo một cuốn làm
quà cho ông. Trước mặt Trung Trung Đỉnh, tôi bảo với Ngô Thảo:
-Tặng bác cuốn này, để từ nay về sau bác chớ có coi thường tụi
em.
Ngô Thảo đón cuốn sách, cười, bảo:
-Oách đấy!
Trong khi Trung Trung Đỉnh không hề biểu lộ một cảm xúc nào.
Sau đó tôi còn đưa vài cuốn nữa cho vài người, trước mắt Trung
Trung Đỉnh, khiến một hôm ông hỏi:
-Cuốn sách có cái đéo gì hay mà tao thấy mày tặng ai mặt cũng
hớn hở thế?
Tôi bảo ông:
-À, truyện ngụ ngôn ấy mà. Nay mai rồi bác cũng biết thôi.
Khi cuộc họp này diễn ra, Trung Trung Đỉnh đã biết nội dung cuốn
sách nói gì. Nhưng ông chẳng hề biểu lộ sự lo lắng, ít nhất thì cũng vờ lo
lắng. Vẫn với lối nói mà người nghe rất khó chắp nối nội dung, cố giấu đi vẻ
bông lơn, Trung Trung Đỉnh thú nhận ông chỉ đọc cuốn sách sau khi có dư luận ồn
ào và bị cấp trên yêu cầu. Ông lý sự: “Tôi là giám đốc, làm sao tôi đọc hết mọi
bản thảo đưa duyệt”.
-Nhưng mà thú thực là tôi thấy cuốn sách rất hay-Trung Trung
Đỉnh hồn nhiên dội cả một gáo nước lạnh vào đầu Hữu Thỉnh. Đã thế ông lại còn ê
a nói thêm rằng ông rất thích cuốn tiểu thuyết này, không nghĩ là nó lại chống
cộng như mọi người vừa chỉ cho ông thấy. Vì thế ông nhận toàn bộ trách nhiệm về
mình. Ông đề nghị nếu có kỷ luật thì chỉ kỉ luật mình ông.
Trung Trung Đỉnh nói xong thì cười rất “đáng ghét”, như thói
quen của ông ta mỗi khi bàn những chuyện cấp trên coi là nghiêm trọng. Hữu
Thỉnh cực kỳ nhạy cảm khi phán đoán thái độ người khác nên nghe Trung Trung
Đỉnh nói xong, ông thể hiện ra mặt sự không hài lòng. Ông muốn cấp dưới phải tỏ
thái độ hối lỗi sâu sắc, hối lỗi toàn diện trong từng âm tiết phát ra. Ông muốn
cấp dưới phải hơi run sợ một chút, lập cập trong ăn nói một chút. Nhưng cách nhận
tội của Trung Trung Đỉnh thì lại ngầm tỏ ra là ông ta bất cần, thậm chí còn như
muốn nói, chuyện đã xảy ra rồi, giờ các vị muốn làm đéo gì nhau thì làm đi.
Nhất là cái kiểu cười cợt không đúng lúc rất khó chịu của Trung Trung Đỉnh làm
Hữu Thỉnh thấy điên tiết.
Nhưng Hữu Thỉnh quyết định ngồi im, nghe tiếp lời phát biểu của
Trần Quang Quý, phó giám đốc, trực tiếp ký duyệt nội dung. Ông Quý vốn là người
lợi khẩu, trình bày vấn đề gì đều rất có lớp có lang, khúc chiết, logic, có lúc
nhẩn nha, có lúc hùng hồn, lên bổng xuống trầm, thu hút được người nghe. Thế
nhưng lần này Trần Quang Quý tỏ ra có chút lúng túng. Lý do của sự lúng túng ấy
thì chỉ mình tôi biết. Ông rất muốn nói là ông chưa đọc khi đặt bút kí duyệt
nhưng cũng không muốn người khác hiểu là ông không biết gì về cuốn Trại súc
vật. Mà có nói thật thế thì cũng chẳng ai tin. Một nhà văn cộng sản mà mất cảnh
giác với Trại súc vật, nhất là khi nó được coi là cuốn sách chống cộng số một,
là điều khó tha thứ, còn nặng hơn là hồ đồ thiếu trách nhiệm ký bừa. Sau một
hồi vòng vo, nhưng kết lại Trần Quang Quý cũng nhận trách nhiệm về mình mà
không đổ lỗi cho bất cứ ai.
Khi ông Quý phát biểu xong, không ai bảo ai nhưng mọi người cùng
đổ dồn mắt về phía tôi. Hữu Thỉnh thì chỉ liếc nhanh rồi ngồi lại tư thế của
một ông phán quan, mặt lạnh tanh hay là ông cố làm ra thế. Một vài ánh mắt lo
lắng cho tôi. Đáp lại, tôi cũng thể hiện thái độ là tôi đang rất nghiêm túc.
Khi tôi nói thì Nguyễn Hoa và Hữu Thỉnh cầm bút và sổ ghi chép. Lần này thì tôi
biết rõ là ông đóng kịch, vì ông quá thừa kinh nghiệm để hiểu rằng những gì
diễn ra tại căn phòng này sau đó đều đến tai cấp trên trực tiếp của ông không
sót một chi tiết. Thậm chí nó đang được tường thuật trực tiếp theo một cách nào
đó. Bằng cách nào thì sẽ còn là bí ẩn. Họ, những người mà Hữu Thỉnh rất sợ, sẽ
căn cứ vào vẻ mặt và thái độ, lời nói của ông để đánh giá ông có thành khẩn
nhận lỗi buông lỏng quản lý hay không? Lập trường tư tưởng của ông có vững
vàng, kiên định hay không? Ông có thực lòng nghiêm khắc với sai sót nghiêm
trọng của cấp dưới hay không để đánh giá thái độ chính trị của ông? Đó sẽ là
chỉ số của lòng trung thành mà, tiếc thay cho ông vẫn luôn không đủ để chiếm
được điểm cao nhất từ một số lãnh đạo, dù ông đã miệt mài nỗ lực chứng minh
bằng nhiều cách trong suốt nửa thế kỉ.
Bắt đầu bài phát biểu, trước hết tôi nói một chút chuyện ngoài
lề. Tôi bảo trong hơn mười năm công tác tại Nhà xuất bản, đã có khoảng vài chục
cuốn do tôi biên tập được Hội nhà văn, Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật
trao giải, trong đó có cả cuốn thơ của chủ tịch Hữu Thỉnh. Nếu giải thưởng của
Hội được coi là có giá trị, thì cũng phải ghi công cho tôi chứ. Nhưng mấy chục
cuốn ấy thì không ai nhắc đến, trong khi cứ nhè những cuốn bị coi là có vấn đề
(so với quan điểm chính thống chứ thực ra đều là những cuốn thực sự có giá trị
cao về tư tưởng và nghệ thuật, chẳng hạn Lolita của Nabocob) để quy kết tôi tội
này tội khác. Cứ nhắc tên tôi là người ta nghĩ ngay đến những cuốn sách bị coi
là vượt rào về quan điểm. Nhưng tôi bảo tôi không quan tâm đến những đánh giá
đó. Tiện có chủ tịch ở đây, tôi chỉ nói thế thôi.
Sau đó tôi trình bày diễn biến của quá trình biên tập. Tôi nói
thật là TRƯỚC ĐÂY tôi chưa hề đọc cuốn nào của nhà văn George Orwell. Có muốn
đọc cũng không có. Nhà nước cấm đoán ngặt như vậy thì đọc vào đâu. Vì thế, khi
đọc cuốn Chuyện ở nông trại, tôi thấy nó rất hay, mang tính phê phán độc tài
rất cao, vạch trần thói đạo đức giả rất thâm thúy, lại được cả thế giới vinh
danh là một trong một trăm cuốn sách hay nhất của thế kỷ 20. Một cuốn sách như
vậy không lý gì mà bạn đọc Việt Nam lại không được đọc. Tôi, với tư cách là
người làm cầu nối giữa tác giả và bạn đọc, không thể bỏ qua cơ hội quý báu như
vậy. Vì thế mà tôi đã làm bản thẩm định mà bất cứ lãnh đạo nào đọc được cũng
phải cầm bút kí duyệt cho xuất bản.
Mọi người ngồi nghe tôi nói thì im phăng phắc, khung cảnh chỉ
thấy trong các tòa án khi chờ tuyên tội. Hữu Thỉnh nhìn lên trần nhà để khỏi
phải lộ ra vẻ mặt một trăm phần trăm không tin. Khuất Quang Thụy nhìn ra cửa,
trong khi Nguyễn Hoa thì thật thà xúc động. Trung Trung Đỉnh và Trần Quang Quý
không biểu lộ sắc thái tình cảm đồng tình hay nghi ngờ, mà theo đuổi ý nghĩ của
những kẻ cùng một giuộc, cười thầm trong bụng.
-Về nội dung có tính ám chỉ-tôi nói tiếp-Nghe mọi người bảo là
ám chỉ Staline và chủ nghĩa cộng sản, thì tôi cũng mới biết, chứ trong thâm tâm
khi đề nghị duyệt in, tôi đinh ninh cuốn sách ám chỉ Hitler và đồng đảng của
hắn. Việc hai nhân vật này giống nhau về hành vi, bản tính và việc hai chế độ
Cộng sản và Quốc xã có nét tương đồng khiến các vị suy diễn, là điều tôi không
quan tâm vì chính các vị không công nhận. Các vị cứ đọc kỹ mà xem. Hitler và
đảng Quốc xã cũng xưng với nhau là đồng chí. Nhân vật Nã-phá-luân gần như mô
phỏng nguyên si tính cách của Hitler: Tàn bạo, độc đoán, giả nhân giả nghĩa.
Nhân mật Mồm Loe thì còn ai khác ngoài Gơ-ben, bộ trưởng tuyên truyền của Đức
quốc xã.
Phòng họp im phăng phắc, nhưng là sự im lặng của nỗi sợ cơn sấm
sét sắp nổ ra. Vẫn chỉ có Nguyễn Hoa là thật thà xúc động. Còn lại, mọi người
đều biết tôi đang diễn vở kịch để chế nhạo là chính, biến toàn bộ cấp trên
thành đám hề.
-Tôi thấy ý kiến của Tạ Duy Anh có cơ sở đấy-thêm một người tỏ
ra thật thà-Đúng là có hình bóng của Hitler trong nhân vật Nã-phá-luân. Nếu
không có dư luận từ trước bảo cuốn sách chống cộng, thì có thể nói đó là cuốn
sách chống Phát-xít cũng hoàn toàn hợp với nội dung và tôi cũng tin như vậy.
Lời phát biểu của ông Phó giám đốc Trần Quang Quý rõ ràng là rơi
tõm ngay vào im lặng. Về phần mình, tôi coi như đã nói hết, vì thế tự đưa ra
kết luận và nó nguyên văn như sau:
-Tôi nhận toàn bộ trách nhiệm về việc để ra đời cuốn sách Chuyện
ở nông trại. Tôi đã viết một lời thẩm định không chỉ ông Quý, ông Đỉnh mà bất
cứ ai cũng sẽ kí duyệt. Nay tôi nhận mọi hình thức kỉ luật và không liên quan
đến ai khác. Các hình thức ấy là khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, chuyển
sang làm việc khác, buộc thôi việc, ra khỏi Hội nhà văn hoặc bất cứ hình thức
nào nữa nếu Hội muốn và cấp trên nào đó muốn. Tôi vui vẻ chấp nhận tất và không
có bất cứ thắc mắc hay oán thán nào.
(Còn nữa)
XUẤT BẢN TRẠI SÚC VẬT
(Trích hồi kí Lách qua luật ngầm)
KỲ 5-LUẬN TỘI
Lần này thì ngay cả nhìn vào đâu cũng là lựa chọn khó khăn cho
Hữu Thỉnh và những người dự họp. Mất một lúc lâu Khuất Quang Thụy mới phá vỡ bế
tắc bằng lời phát biểu. Nghe đồn ông nhà văn này nổi tiếng khôn ngoan, nên mọi
người rất tò mò chờ ý kiến của ông, với tư cách là “quan thanh tra”. Ra mặt phê
phán Nhà xuất bản trong đó có tới những bốn đồng nghiệp đang làm việc từng là
đồng môn, chắc chắn không phải là lựa chọn thức thời. Nhưng ông phải thể hiện
thái độ vì ông là đảng viên, là trưởng ban Kiểm tra của Hội, là cấp dưới thân
cận của Hữu Thỉnh. Cuối cùng, phải công nhận là lời đồn về Khuất Quang Thụy
không sai, khi ông bảo rằng, ông biết đến cuốn Trại súc vật từ hồi đi thăm và
dự trại sáng tác văn học tại Liên Xô.
-Mọi người khen lắm. Khen hết lời luôn. Các thầy giáo dạy tôi
cũng rất khen. Có thể nói cuốn sách được đón nhận nồng nhiệt khắp nơi.
Khuất Quang Thụy dừng lại. Mọi người thở phào, coi như có thêm
một phiếu ủng hộ cho phe “làm loạn”.
-Nhưng-Khuất Quang Thụy nói tiếp-hồi đó ở Liên-Xô đang diễn ra
cuộc cải tổ, tâm lý chung của dân chúng là ghét Cộng sản, ghét ghê gớm. Đâu đâu
cũng muốn vạch tội Cộng sản. Có thể vì thế mà người ta rất thích Trại súc vật.
Thế là mọi người muốn hiểu thế nào cũng được. Một cuốn sách được
nhiều người thích, chắc phải là cuốn sách hay. Nhưng cái đám thích ấy là những
kẻ đang muốn bài trừ Cộng sản, chắc cuốn sách phải có tư tưởng, giá trị phù hợp
với họ. Ông không nói cuốn sách chống Cộng, nhưng cũng khó để hiểu là nó không
chống Cộng. Người nào hiểu thế nào, sẽ phải chịu trách nhiệm về cách hiểu của
mình.
Đúng là Khuất Quang Thụy! Không bao giờ ông tự đẩy mình vào chỗ
nguy hiểm.
Theo đúng thủ tục, Nguyễn Hoa cũng phải có vài lời. Ông nhà thơ
này vốn hiền lành, lại từng tai biến nên nói năng nhỏ nhẹ, ba phải, ề à, chung
chung chẳng chết ai nhưng cũng chẳng cứu ai. Chỉ cứ thấy “dưng mà, dưng mà, mới
lại”…Đại ý Nhà xuất bản cần rút kinh nghiệm và nên lắng nghe ý kiến lãnh đạo.
Giờ là giây phút đáng chờ đợi nhất: Hữu Thỉnh phát biểu. Ông sẽ
phân tích, mổ xẻ, đưa ra quan điểm và kết luận về mức độ sai phạm của Nhà xuất
bản và từng cá nhân liên quan, từ đó có hình thức kỉ luận thích đáng.
Thoạt đầu ông nhìn mọi người, cười cười nhưng là lối cười nhạt,
cười hàm ý biết hết bụng dạ người khác, không giấu chút lạnh nhạt, rất đặc
trưng Hữu Thỉnh khi cần phải mỉa mai ai đó. Bất ngờ ông nhìn thẳng vào tôi nói
bằng thứ giọng nhẹ nhàng nhưng có gang có thép:
-Hôm nay tôi sang đây không phải để nghe ông Tạ Duy Anh kể công.
Ai chả biết ông Tạ Duy Anh biên tập nhiều cuốn sách được giải-giọng ông không
giấu sự giễu cợt.
Ông còn nói những gì nữa, vẫn bằng thứ giọng như vậy, nhưng tôi
không để tâm. Sau đó ông quay sang vấn đề chính là cuốn Trại súc vật. Ông nói
về tầm mức cực kì nghiêm trọng của việc để lọt lưới một tác phẩm chống Cộng vô
cùng khốn nạn. Ông nhắc đi nhắc lại cụm từ cực kì nghiêm trọng. Ông tường thuật
lại những lần lên làm việc với lãnh đạo Bộ Chính trị, nghe lãnh đạo đánh giá,
nhận định, có đối chiếu với thông tin chứ không nói suông. Ông truyền đạt lại ý
kiến của các chuyên gia, của các thành viên trong Hội đồng lý luận trung ương,
của Ban chấp hành Hội nhà văn, của công an văn hóa…Tất cả đều thống nhất là vụ
việc cực kì nghiêm trọng.
-Bảy mươi năm đảng ta canh chừng cẩn thận từng giây từng phút,
vậy mà chỉ sơ sểnh hở ra mấy tích tắc là kẻ thù mang ngay được quả bom bẩn đặt
vào tận móng nhà, với chủ định đánh sập-Miệng Hữu Thỉnh uốn lượn, mở ra, khép
vào, bĩu môi sang trái sang phải, lên xuống theo cảm xúc của ông-Phải nhận ngay
đây là một tội trạng lớn, một việc làm nhục nhã, không thể tha thứ-ông nhấn
mạnh và khẳng định gay gắt-Không lý lẽ nào bao biện được rằng đây không phải là
cuốn sách chống Cộng số một, một quả bom nguyên tử đánh vào hệ tư tưởng, một
quả bom bẩn về văn hóa nhằm vào tim của chế độ với ý đồ rõ ràng là bôi nhọ rồi
đánh sập. Đánh sập, đánh sập…tôi nhắc lại, không phải chuyện nhỏ đâu.
Tôi nghe hết ý kiến của nhà văn Tạ Duy Anh-Hữu Thỉnh không nhìn
tôi mà quay sang những người khác-tôi nghe hết, hơ hơ… -ông Chủ tịch Hội cười
nhưng mặt lạnh tanh-ông Tạ Duy Anh không ngây thơ thế đâu. Ông ấy bảo không có
một từ Cộng sản nào trong cuốn sách thì sao bảo nó chống Cộng. Tôi nói luôn
nhé: Nếu có một từ Cộng sản, ông Tạ Duy Anh sẽ chửi cái thằng nhà văn kia là
kém, quá kém, không cao tay và ông ấy sẽ không kí biên tập để cho in. Chỉ cần
một từ Cộng sản thôi, ông Tạ Duy Anh sẽ không kí cho in.
Ông nhìn lướt mọi người, trừ tôi, có lẽ vì ông không muốn thấy
tôi đang cười thầm.
-Nhưng-Hữu Thỉnh tỏ thái độ là ông đi guốc vào bụng tôi-vì không
nhắc gì đến Cộng sản, thì giá trị chống Cộng của nó mới cao, nó mới đáng để ông
Tạ Duy Anh tìm mọi cách cho in ra. Tôi nói với các anh các chị, không đơn giản
chỉ là việc in ra cuốn sách đen ấy, mang vào nhà quả bom bẩn ấy, mà ở đây là cả
một kế hoạch, một âm mưu thâm độc, cực kì thâm độc, được cả một tổ chức ém sẵn,
nằm im phục kích suốt nửa thế kỷ qua, chính xác là bảy mươi năm qua, lên kịch
bản chi tiết, chuẩn bị ròng rã ngày này sang tháng khác để đưa bằng được quả
bom bẩn ấy vào cửa nhà chúng ta. Tại sao lại in rất nhanh và nộp lưu chiểu vào
sát Tết? Vì thời điểm ấy mọi người đều thiếu tập trung trong công việc? Quá kinh
khủng! Quá thâm độc…Những câu hỏi này không dễ trả lời đâu. Một sự tính toán
cực kì kĩ, chi tiết, có chỉ đạo, rất kiên nhẫn mai phục.
Bỗng Hữu Thỉnh gần như kêu lên đau đớn, toàn bộ cơ mặt của ông
co lại thành từng nếp xô lệch (kẻ nào không tin ông đau đớn thật thì quá là vô
cảm!):
-Tôi đau đớn lắm các đồng chí ạ! Tôi đau đớn lắm-có cảm giác tim
ông sắp nổ tung-Chó, lợn, gà, ngựa…chúng nó gọi nhau là đồng chí-giọng ông
nghẹn lại như sắp khóc-làm sao lại không đau đớn cho được. Chó, lợn cũng xưng
hô là đồng chí, giời ôi là giời, còn gì để nói nữa, còn trời đất nào nữa.
(Khi Hữu Thỉnh kêu lên thảm thiết như vậy, tôi nghĩ nhanh trong
đầu: Còn có nhiều đứa dưới mức súc vật nó vẫn xoen xoét gọi nhau là đồng chí
đấy thôi, bác biết thừa).
Hữu Thỉnh bỗng quát lên, mắt long lanh quét một lượt:
-Chúng nó định làm nhục ai?
Tất nhiên là không ai trả lời ông. Nếu không cố kìm, tôi có thể
đã phá lên cười. Có thể hầu hết những người dự họp nghĩ là Hữu Thỉnh đau đớn
thật, thành tâm thấy có lỗi với cấp trên, muốn trừng trị thói ngang tàng coi
trời bằng vung của tôi và lãnh đạo nhà xuất bản. Nhưng tôi thì biết rõ, cả lần
này, Hữu Thỉnh cũng đang vờ diễn. Ông chả coi việc cuốn sách ra đời là cái gì
ghê gớm. Nó in đầy ra kia, dưới mọi hình thức, ai muốn đọc lúc nào mà chả có.
Vào Google gõ một phát ra cả đống, tải về bao nhiêu chả được! Tất nhiên in ở
những chỗ khác và in ở nhà xuất bản Hội nhà văn là hai hiệu ứng khác nhau và
ông có dự phần trách nhiệm. Nhưng nó rất vừa phải thôi. Đừng nghĩ là ông đang
bóc mẽ tôi để trừng phạt. Ông biết là tôi chả coi danh vọng, bổng lộc, thưởng
phạt…là thứ gì ghê gớm. Vả lại trừng phạt tôi không dễ, trong khi đó tiếng xấu
sẽ để đời.
Với lại, phải nói thật là Hữu Thỉnh không có tâm địa hại tôi.
Ông bắt buộc phải làm thế, trước hết và quan trọng nhất, để vừa lòng những
người tin tưởng ông, đồng thời một công đôi việc, tiện thể dằn mặt cái “ổ nhóm”
cứng đầu luôn gây cho ông những cơn nhức đầu. Chỉ có điều, rõ ràng là vì hoảng
sợ, vì giận quá hóa mất khôn hay vì lý do nào khác, ông đã mất kiểm soát về
ngôn từ trong việc lên lớp, chấn chỉnh cấp dưới.
Những gì ông nói về tôi vượt qua cả ý muốn tố giác tội phạm và
chỉ có thể gọi là vu cáo trắng trợn, điều chắc chắn sẽ khiến ông hối hận. Nhưng
nói thật là tôi không mảy may để bụng, không mảy may trách móc Hữu Thỉnh. Thậm
chí tôi thấy có phần thương ông. Có khi nào tôi thấy Hữu Thỉnh bày ra tất cả sự
thảm hại, thì chính là lúc ông “bán đứng” tôi. Nó cũng cho thấy ông rất yếu
đuối, yếm thế với cấp trên. Người yếu đuối nào cũng đáng thương hơn là đáng
trách.
Sau khi chỉ ra chiến thuật “giả ngố” của tôi, để khẳng định một
lần nữa sự thành khẩn của mình trong việc nhận sai sót do buông lỏng quản lý,
kiên quyết nghiêm trị cấp dưới, Hữu Thỉnh nhấn thêm:
-Nhà xuất bản phải thành thật nhận ra tội lỗi nghiêm trọng của
mình-Và ông kết luận- Không thẩm định, xem xét gì nữa. Rành rành ra rồi. Quả
bom bẩn rành rành ra rồi. Đánh phá chế độ rành rành ra rồi. Mọi lời nói của các
anh các chị đều là bao biện hết. Phải nhận thấy tội của mình. Tội rất nghiêm
trọng. Dứt khoát phải như vậy-lần này thì ông liếc nhìn tôi, hạ giọng- Việc kỉ
luật ai, hình thức thế nào chưa bàn ở đây, ông Tạ Duy Anh ạ. Hôm nay chúng tôi
mới sang nghe và xem các anh thành khẩn đến đâu, chứ chưa có quyết định cụ thể.
Chưa.
Ông nuốt khan, dằn và kéo dài giọng, tay chém mạnh xuống:
-Chưa!... Nhưng nhất định phải kỉ luật.
(Còn nữa)
XUẤT BẢN TRẠI SÚC VẬT
(Trích hồi kí Lách qua luật ngầm)
KỲ 6-ĐƠN GIẢN NHƯ SỰ THẬT
Chẳng có nhóm chống phá nào rình rập tận 70 năm.
Chẳng có bất cứ tổ chức nào đứng ra thuê mướn rồi chống lưng cho
việc xuất bản Trại súc vật.
Chẳng có âm mưu thâm độc nào cả.
Chẳng có ai là kẻ chủ mưu.
Chỉ có BA THẰNG chúng tôi tham gia vụ “tày trời” này: Hai ông
Nhã Nam và tôi.
Hai ông Nhã Nam là các nhà tư bản, vì thế, mục đích chính của họ
là kinh doanh, nói thẳng ra là tiền.
Còn với tôi là quyền được ra đời của một cuốn sách văn học,
quyền của độc giả được đọc một cuốn sách văn học, nhất là khi nó lại có giá trị
lớn về tư tưởng.
Mọi bí mật về xuất bản cuốn sách, từ khâu đầu đến lúc có quyết
định phát hành, được cả ba giữ kín tuyệt đối cho đến phút chót. Và chúng tôi đã
thành công.
Sự thật chỉ đơn giản vậy thôi. Nhưng vì nó quá đơn giản, vì thế
nó thường khó tin và khó nuốt.
Và nó đây:
Vào một hôm, Nhã Nam chuyển cho tôi bản thảo có tên Trại súc
vật. Cầm bản thảo, đầu tiên tôi nhớ ngay đến bài báo mình đọc cách nay đã hơn
hai mươi năm. Vì nó khá mỏng nên tôi quyết định thỏa trí tò mò ngay. Tôi mang
về nhà, đọc đúng một đêm thì xong. Đọc xong, tôi bắt đầu đọc lời giới thiệu,
của một nhà văn Rumani hay Anbani, hay của nước nào đó thuộc Đông Âu, để biết
về lai lịch cuốn sách và vì sao nó bị cấm triệt để trong toàn khối xã hội chủ
nghĩa.
Cảm nhận đầu tiên và khá dai dẳng của tôi về cuốn sách là vô
cùng thích thú. Mặc dù các nhân vật đều là những con vật, nhưng chúng lại xưng
hô với nhau là đồng chí, với lời nói, thái độ, tâm trạng hoàn toàn là con
người, những kẻ mà tôi biết đã tạo ra bóng tối cho trái đất này và trùm lên cả
đất nước mình suốt bao nhiêu năm. Nỗi ấm ức của kẻ bị lừa dối suốt thời tuổi
trẻ khiến tôi vừa buồn cười vừa đau đớn. Sao mà cái thế giới lợn, chó, ngựa…kia
lại giống với những gì tôi thấy ở thế giới con người đến thế. Nói chung nó
khiến tôi cứ suýt xoa reo lên: Tuyệt quá! Đúng quá! Bọn chó chết gây thảm họa
là đây chứ đâu.
Thành thật mà nói thì tôi ít thấy sự ám chỉ mang tính chống
cộng, như người ta tố cáo, của cuốn sách, hơn là chế nhạo một bộ máy quyền lực
thối nát đến tận xương tủy, chung cho mọi chế độ độc tài. Tức là nó có thể là
bất cứ chính quyền độc tài nào chứ chẳng riêng gì Hitler hay Stalin.
Tôi thực sự bái phục cô bé dịch giả, khi cô mới chỉ ngoài ba
mươi mà dám dịch một cuốn sách khổng lồ về tầm vóc và khó vô cùng về hành ngôn
như Trại súc vật. Tôi không biết khi đọc nguyên bản bằng tiếng Anh nó hay đến
đâu, nhưng cứ như bản dịch đã thấy quá tuyệt vời. Tôi cứ cười thành tiếng một
mình khi đọc bài thơ đã chuyển ngữ của nhân vật tên là Út Em:
"Đồng chí Nã Phá Luân ôi!
Người là hạnh phúc trên đời chẳng sai
Người là bạn kẻ mồ côi
Người là cám bã ở nơi máng thùng
Hồn tôi thiêu đốt bừng bừng
Khi tôi nhìn sững vào trong mắt người
Uy nghiêm mà vẫn thảnh thơi
Như vầng dương đỏ trên trời bao la!
Người là đấng vẫn ban quà
Mà súc sinh cứ mãi là mong thôi:
Ngày ăn hai bữa rốn lồi
Đi nằm thì có rơm tươi rúc vào
Trẻ già lớn bé thế nào
Vào chuồng yên ấm chiêm bao giấc nồng
Nã Phá Luân chẳng mơ mòng
Đồng chí thao thức giắng trông muôn loài
Con tôi lợn sữa thơ ngây
Còn bú chán mới đến ngày bằng ai
Dẫu còn nhỏ tựa cái chai
Hay chày lăn bột quẳng nơi xó nhà
Với Người con học thật thà
Một lòng tin tưởng bao giờ cho nguôi!
Tiếng đầu con éc trên môi:
“Nã Phá Luân” chính tên người chứ ai".
Tôi không thể không liên tưởng tới bài thơ Ca ngợi Stalin củaTố
Hữu, đặc biệt là cái câu cuối cùng của bài thơ trong cuốn sách.
"Tiếng đầu con éc trên môi:
“Nã Phá Luân” chính tên người chứ ai".
Chữ "ÉC" không thể tuyệt vời và thâm thúy hơn.
Ý nghĩ trong đầu tôi lúc đọc xong cuốn sách là phải in ra bằng
được, với bất cứ giá nào. Phải cho những kẻ nào đó, nhiều nhan nhản, thấy nhục
nhã khi đọc xong cuốn sách. Phải khiến họ không yên khi tiếp tục làm những việc
nhơ nhuốc với lịch sử. Hơn nữa, không thể có chuyện vô lý khi hầu hết người dân
thế giới được đọc, trong khi người Việt thì không.
Hôm sau tôi nhắn cho người của Nhã Nam đến gặp tôi ở Nhà xuất
bản. Người của Nhã Nam hỏi ngay là liệu có qua nổi không. Tôi bảo nhất định
phải in bằng được, với điều kiện đổi tên tiểu thuyết. George Orwell có thể lọt
lưới, chứ Trại súc vật thì e khó. Vì nó quá lộ. Thứ hai, phải bỏ đi bài giới
thiệu ở đầu sách. Đó chỉ là quan điểm của một nhà văn nước ngoài thôi. Hãy để
cho bạn đọc hiểu theo cách của mình.
Thực ra là tôi nói dối. Bỏ bài giới thiệu đi thì không có bằng
chứng bảo là tôi đã biết cuốn sách chống Staline. Cứ cãi nhau sòng phẳng dựa
trên văn bản thì quá lắm chỉ hòa cả làng.
Người của Nhã Nam cầm bản thảo về, trong lòng có vẻ khá tâm
trạng. Mãi lâu sau mới thấy cậu ta trở lại, với bản thảo đã đổi thành tên
Chuyện ở nông trại và cắt đi lời giới thiệu, đúng như tôi yêu cầu. Cái tên
Chuyện ở nông trại là do Nhã Nam đặt chứ không phải tôi như nhiều người có nhã
ý ngợi ca tôi thông minh. Lúc bấy giờ có nhiều bản dịch Trại súc vật nhưng Nhã
Nam chọn bản dịch của An Lý. Tôi không tiện hỏi lý do. Sau này có người bảo
tiếc là không chọn bản dịch của một dịch giả nổi tiếng hơn ở Vũng Tầu. Có thể
đó là sự thật nhưng tôi thì coi đó là số phận của một cuốn sách. Được vậy cũng
là tốt rồi.
Không ngờ nhất là cái tên Chuyện ở nông trại, với tác giả George
Orwell, lại dễ dàng lọt qua bộ máy canh gác nhiều tầng, vốn vươn ăng ten đánh
hơi “phản động” suốt ngày đêm và giăng ra ở khắp nơi. Đó là chưa kể mạng lưới
an ninh văn hóa dày đặc, cắm chân tại những cơ sở có dính dáng đến xuất bản, in
ấn. Lại còn cả mạng lưới cộng tác viên nữa, cũng nhiều nhan nhản. Nhưng tất cả
đều “mất cảnh giác” để lọt lưới cuốn sách mà họ canh chừng gắt gao nhất. Thế
mới biết, để lưu tên tuổi vào trí nhớ bạn đọc khó biết là chừng nào. George
Orwell, nhà văn được gán cho tội chống Xô-Viết số một, bị Staline tử hình vắng
mặt (nghe nói vậy) lại chẳng hề được biết đến ở những cơ quan chuyên đánh dấu
tên các tác giả để đưa vào diện theo dõi đặc biệt. Ngay lập tức tôi làm một bản
thẩm định tác phẩm khá kỹ lưỡng. Nội dung của thẩm định đó đại thể như sau (Tôi
không thể nhớ nguyên văn):
“Cuốn sách lấy bối cảnh nước Anh đầu thế kỉ 20, với các nhân
vật, địa điểm, sự kiện, kể cả bài hát quốc ca đem ra chế nhạo cũng đều của nước
Anh, vào thời kì chủ nghĩa tư bản thối nát nhất, từ đó xây dựng nên một câu
chuyện ngụ ngôn thú vị, nhằm chế giễu sự chuyên quyền, đạo đức giả của giới chủ
tư bản. Tác phẩm có giá trị phê phán và đề cao công bằng, vạch trần thói giả
dối của những kẻ nắm trong tay sức mạnh tiền bạc, cấu kết với giới chính trị
nhằm chà đạp nhân phẩm của người nghèo.
Đề nghị duyệt in”.
Tôi đem cả bản thảo và tờ thẩm định sang cho ông Trần Quang Quý.
Ông quý đọc qua lời thẩm định, nhìn bản thảo thấy nó có vẻ mỏng manh, lại của
tác giả nước ngoài, hỏi tôi như thông lệ:
-Có vấn đề gì không?
-Chả có vấn đề gì, chuyện ngụ ngôn Anh Quốc ấy mà.
Ông Quý lật qua vài trang, nhìn vào những cái tên và địa danh
phiên âm từ tiếng Anh, rồi đặt bút kí.
Tôi chuyển lại toàn bộ bản thảo và hồ sơ cho Nhã Nam để lấy giấy
phép.
Đó là thời gian tôi sống với nhiều cảm xúc nhất mỗi khi đọc bản
thảo nào đó. Tôi biết là mình vừa làm xong một việc tày trời, có thể lên giàn
hỏa thiêu, nhưng đáng để một biên tập có lương tâm phải làm.
Bẵng đi thời gian dài, khi gặp lại người của Nhã Nam, tôi hỏi
thăm xem Trại súc vật ra chưa, sao để lâu thế. Tôi bảo cậu ta thời cơ ngàn năm
có một đấy, không có hai nữa đâu, thì cậu ta trả lời là bọn em còn cân nhắc,
cũng thấy hơi ghê ghê. Nhìn thái độ của cậu ta thể hiện sự nghiêm trọng, tôi
hoàn toàn thông cảm. Vì Nhã Nam là doanh nghiệp tư nhân. Vị thế của doanh
nghiệp tư nhân, lại làm công việc kinh doanh có điều kiện, luôn bị theo dõi sít
sao, thường là rất thấp. Vì thế, tôi đắn đo khá lâu mới nói khích:
-Chịu trách nhiệm pháp lý là Nhà xuất bản, là anh, thì không sợ,
còn nơi chỉ biết in ra như các chú thì lại sợ. Tùy các chú thôi nhưng anh nhắc
lại là không còn có cơ hội thứ hai đâu nhé.
Chẳng biết người của Nhã Nam nghĩ gì nhưng sau đó mọi việc vẫn
im thin thít.
Lần ấy có hai ông Nhã Nam cùng đi viếng người thân của một cán
bộ cơ quan. Trong khi chờ làm lễ truy điệu, chúng tôi lôi nhau ra một chỗ
khuất, thảo luận về Trại súc vật. Hai ông Nhã Nam vẫn chần chừ chưa dám đưa in,
vì sợ những hệ lụy không lường hết. Tôi bèn nói lại với cả hai là thời cơ chỉ
đến một lần thôi. Tôi nói bằng thứ giọng khá gay gắt, lộ rõ sự trách móc. Thật
lòng tôi nghĩ, giả sử có quan chức nào đó, do hiếu kì, đọc Trại súc vật, mà họ
lại chưa mất hết liêm sỉ, thì họ sẽ xấu hổ, sẽ ngẫm nghĩ và biết đâu mọi sự
thay đổi từ đó. Nhưng những ý nghĩ như vậy chỉ thoảng qua thôi. Cái chính với
tôi là việc thưởng thức cuốn sách thuộc về di sản văn hóa thế giới, là quyền
không thể trì hoãn của bạn đọc Việt và tôi tự thấy có nghĩa vụ đạo đức phải đưa
đến cho họ.
Nghe tôi nói, cả hai ông Nhã Nam đều cảm thấy được khích lệ.
Bỗng cả ba chúng tôi cùng đặt tay vào nhau rồi nâng lên cao, hô to: “Quyết in!
Quyết in!” Tôi thì nhanh miệng bảo thêm: “Đéo sợ!”
Thế là không bàn cãi lăn tăn gì nữa. Ba chúng tôi cứ như là vừa
làm nghi lễ thề bồi cảm tử trước trận đánh lớn.
Khoảng vài tuần sau thì sách ra khỏi nhà in. Khi đó là cuối năm,
gần tết âm lịch, tôi bảo Nhã Nam chờ nộp lưu chiểu. Đó là thời điểm ở các cơ
quan nhà nước không ai còn có tâm trạng nào để làm việc. Mọi người chỉ chờ để
liên hoan, bàn chuyện mua sắm và quan trọng nhất là nhận phong bì quà Tết. To
nhận to, bé nhận bé, ngay cả bảo vệ quét dọn cũng có quà. Mọi người đều dỏng
tai hướng ra ngoài, chờ được mời gọi đi nhận quà. Bất cứ ai từng làm việc trong
cơ quan nhà nước sẽ thấy mô tả của tôi vào loại khá tồi. Thực tế cuộc sống sinh
động và hấp dẫn hơn nhiều lần. Không khí tiền bạc, lộc lá, biếu xén…khiến mọi
người đều háo hức, hỉ hả, rộng lượng, hàm ơn, cảm động, tự hào vì mình may mắn
hơn người. Nói chung là không còn tâm trí đâu nghĩ đến công việc, nếu không
phải kẻ nào đó dở hơi, ấm đầu hoặc chơi cùn! Sách vở, tài liệu cứ tạm xếp vào
kho, chờ ra Tết giải quyết. Có chết ai đâu. Ra Giêng ngày rộng tháng dài, giải
quyết cũng chưa muộn. Và cứ phải qua rằm tháng Giêng mới thực sự làm việc trở
lại.
Đó cũng là quãng thời gian lưu chiểu vừa đủ theo luật Xuất bản,
để có thể phát hành một cách hợp pháp.
Tất cả đều được thực hiện hoàn hảo như kế hoạch CHỈ DO MỘT MÌNH
tôi vạch ra.
Tận lúc Trại súc vật gây dư luận ầm ỹ, nhiều người trong cơ quan
tôi mới biết nó được Nhà xuất bản Hội nhà văn cấp phép.
(Còn nữa)
XUẤT BẢN TRẠI SÚC VẬT: VÀI LỜI CUỐI
(Chỉ liên quan đến Hữu Thỉnh và tôi)
Hồi kí “Lách qua luật ngầm” dày khoảng 400 trang in, thì có tới
50 trang chân dung Hữu Thỉnh. Những gì bạn đọc vừa thấy về ông, chỉ là một nét
rất sơ khai. Ông hấp dẫn, phức tạp, kỳ lạ hơn thế nhiều. Chân dung ông là một
phần không thể thiếu của cuốn sách, bởi chính ông đã “vượt qua mọi nỗi sợ hãi”
để đưa bằng được tôi về Nhà xuất bản Hội nhà văn, như ông từng làm thế khi nhận
Bảo Ninh về báo Văn Nghệ; như ông đã làm thế và hơn thế để cứu Trần Huy Quang
khỏi án hình sự mười mươi trong vụ Linh Nghiệm. Biết tôi quyết định về hưu,
chính ông cử người thuyết phục tôi ở lại. Tôi tin là ông chân thành.
Nhưng tôi chọn về Ở ẨN tại gia.
Hữu Thỉnh có những ứng xử rất kì lạ, có lẽ chỉ với riêng tôi.
Không bao giờ tên tôi được nhắc đến, gắn với sự ra đời của một cuốn sách nào
đó, trên tất cả các tờ báo của Hội do ông lãnh đạo. Thậm chí, khi Hội nhà văn
Hà Nội dưới thời nhà văn Hồ Anh Thái, tổ chức hội thảo cuốn “Thiên thần sám
hối”, và 4 năm sau, khi Viện Văn học tọa đàm cuốn tiểu thuyết “Giã biệt bóng
tối” ông đều cho người đến dự, nhưng một dòng tin, trên toàn bộ các ấn phẩm của
Hội, thì tuyệt đối không.
Nhưng không dưới 3 lần ông nài nỉ tôi làm hồ sơ để xét Giải
thưởng nhà nước. Tất nhiên là tôi từ chối. Không dưới ba lần khác ông mời tôi
sang Hội nhận “tài trợ sâu”, tức ở mức cao nhất, cho việc sáng tác. Lần nào ông
cũng rào đón “Biết bây giờ chú giầu rồi, không cần vài chục triệu đồng, nhưng
đây là tấm lòng của Hội với chú”. Khi tôi lịch sự từ chối, ông vẫn không nản.
Lần khác khi mời tôi, ông nói như giãi bày: “Có đứa năm nào cũng đòi tài trợ,
nhưng không viết nổi một trang cho tử tế. Chú chả nhận gì thì cứ ra sách gây
sóng gió ầm ầm. Không thể bất công thế được”.
Hoặc một lần ông gọi cho tôi, nói là ông rất cô độc, muốn mời
tôi đi ăn tối và “chỉ hai anh em”. Nhưng đó lại là lần ông khiến tôi ê chề.
Thậm chí nếu không phải là tôi, mà là ai khác, có thể họ sẽ tổn thương và hận,
tránh xa Hữu Thỉnh đến lúc chết!
Mỗi lẫn ra sách, tôi đều mang tặng ông. Nhưng một lần, đúng vài
lúc ông đanh bức xúc với tôi liên quan đến cuốn sách của ông Nguyễn Trần Bạt,
khi tôi đưa tặng ông cuốn sách mỏng, ngay trước mắt tôi, ông liệng một phát vào
cái đống sách tặng to lù lù ở góc phòng làm việc của ông mà tôi tin không bao
giờ ông sờ tới. Kể từ bấy tôi không bao giờ tặng sách ông nữa. Nhưng bi kịch ở
chỗ, dù không tặng, nhưng những cuốn sách sau này của tôi ông đều PHẢI đọc. Sự
thật thì không một cuốn sách nào của tôi ra đời lại không khiến ông bị liên
lụy. Ông đã “mệt muốn chết”-lời ông-Trong vụ tiểu thuyết “Đi tìm nhân vật” của
tôi. Ông “mệt bã người”-cũng lời ông-trong vụ Mối chúa…
Nhưng chuyện này mới cho thấy sự phức tạp của Hữu Thỉnh. Trong
phần tôi viết về chân dung ông, có một đoạn thế này:
“Hữu Thỉnh chỉ thờ ơ, không quan tâm đến những người thực lòng
yêu quý ông, sống quân tử với ông. Ông thờ ơ nhưng trong lòng thì kính nể. Ông
thờ ơ không phải vì ông thiếu tình người, mà vì ông không bị bức bách phải lo
về họ. Ông biết dù ông có làm gì họ thì họ cũng không hại ông. Trong khi đó
những kẻ bu lấy ông hàng ngày, nịnh bợ ông bằng những lời lẽ khiến ai cũng phải
phát ngượng, luôn được ông ban lộc lá (ông dùng thẳng từ THÍ CHO, “Thí cho nó
cái giải thưởng”), trở thành thân cận, thì với ông thực chất chỉ đáng là thứ giẻ
lau chân .Trên thực tế, đó cũng là những người mà ông tuyệt đối canh chừng cảnh
giác, coi như rắn độc. Đáng phải cảnh giác bởi vì họ bất tài mà lại háo danh,
háo lợi, sẵn sàng tráo trở khi có món lợi lớn hơn. Ông biết hết và ông biết cả
cách dùng họ vào việc gì”.
Một lần ông sang NXB dự lễ tổng kết cuối năm gì đó. Rượu ngà
ngà, tôi bảo với ông là tôi viết về ông. Ông háo hức hỏi: “Thế à?” Tôi hỏi:
“Bác có muốn nghe một đoạn không?” Ông bảo: “Tốt”.
Và ông vào phòng tôi, nghe tôi đọc cái đoạn vừa trích ở trên.
Đang nghe ông bắt tôi dừng lại, xua tay:
-Chú sai. Không phải “giẻ lau chân”, mà là…LAU ĐÍT.
Suốt đời Hữu Thỉnh có một nỗi sợ mà tôi tạm gọi là SỢ CẤP TRÊN
NGHI NGỜ.
Không bao giờ tôi chọn hoặc chấp nhận sống như ông.
Nhưng bạn muốn phán xét về ông, cũng như tôi muốn làm điều đó,
hoàn toàn không dễ.
Tôi là người ngay thẳng, sòng phẳng và công bằng. Với tôi mỗi
người đều phải chịu trách nhiệm của mình trước lịch sử, về những việc mình làm.
Vì thế, bạn hãy chờ đọc toàn bộ 50 trang tôi viết chân dung Hữu Thỉnh, hãy bày
tỏ ý kiến của mình về ông, nếu bạn thật lòng tin vào ngòi bút của tôi.
Giờ chưa phải lúc. Giờ là lúc chúng ta quay lại đoạn kết của câu
chuyện về xuất bản Trại súc vật.
Trung Trung Đỉnh và Trần Quang Quý bị Hội nhà văn cảnh cáo,
không xét tăng lương một năm (khi hai ông đều kịch khung lương từ lâu). Nhận
thông báo, Trung Trung Đỉnh cười như vớ được hoa hậu, còn Trần Quang Quý cũng
cười nhưng kèm câu chửi thề.
Hội nhà văn giao cho Nhà xuất bản quyết định hình thức kỉ luật
tôi. Gặp tôi, Trung Trung Đỉnh bảo: “Lão Thỉnh đá quả bóng xử lý mày sang cho
tao, tao đéo dại nhé. Dại gì động vào chú. Nhỡ chú thành nhân vật lịch sử thì
bỏ mẹ anh hà hà…Hội thích thì cứ chơi thẳng”.
Rồi cười tít mắt.
Chờ mãi không thấy NXB báo cáo hình thức kỉ luật tôi, Hội vài
lần thúc giục. Nhưng lãnh đạo NXB vẫn cứ “ì” ra, khiến cũng có một số người hậm
hực, nóng mắt. Nhưng rồi chả thấy ai nói đến nữa.
Vốn đã ít gặp nhau, sau vụ Trại súc vật, Hữu Thỉnh và tôi gần
như tuyệt giao. Nghe nói cứ ai vô tình nhắc đến tên tôi là ông lại giận sôi
lên, coi tôi là nguyên nhân của biết bao rắc rối mà ông phải chịu lây. Tôi thì
đương nhiên là bất cần. Ông muốn làm gì tôi để đẹp lòng cấp trên thì cứ làm.
Cũng có vài lần bất đắc dĩ chúng tôi chạm mặt nhau khi họp về
sách dự án. Nhưng hoặc là tôi chủ động lảng đi, hoặc là ông không thèm nhìn mặt
tôi. Họp xong tôi về luôn, không chào bất cứ ai.
Chắc lần này thì cạch mặt nhau đến chết.
Nhưng hóa ra Hữu Thỉnh vẫn luôn khiến người khác bất ngờ. Trong
một dịp tổng kết cuối năm, khi vết thương tai nạn do Trại súc vật gây ra đã
liền miệng (nhưng không bao giờ lành hẳn), Hữu Thỉnh-trái với lời thề không bao
giờ sang Nhà xuất bản nữa để lại phải thấy mặt chúng tôi-đã nhận lời mời của
Trung Trung Đỉnh, dự bữa cơm liên hoan. Có lẽ ông muốn chứng tỏ, miệng ông nói
thế nhưng lòng ông không thế.
Lúc ông từ trên xe bước xuống thì tôi đang đứng trước cổng Nhà
xuất bản. Tôi cố ý quay mặt đi để ông khỏi bị làm khó và cũng do tôi không thấy
có nghĩa vụ phải làm lành với ông. Tôi sẽ chờ ông đi qua rồi mới quay lại.
Nhưng hóa ra ông nhìn thấy tôi từ khi còn ở trong xe. Ông chứng kiến toàn bộ
hành động của tôi. Vì thế, ông đến đứng phía sau tôi, dùng hai tay đặt lên vai
tôi xoay mạnh người tôi lại. Mặt chạm mặt, ông nhìn sâu vào mắt tôi, như nhìn
một thằng em ngốc, dứ dứ ngón trỏ, cười rất thân thiện. Tay kia ông lần tay
tôi, bóp chặt:
-Chú em sao định tránh anh? Tao chưa thấy đứa nào dốt như mày.
Sao mày lại giận anh nhỉ? Anh Thỉnh đã làm gì chú? Anh Thỉnh dọa đánh chú nhưng
đã đánh chưa? Người ta bảo giơ cao đánh khẽ, nhưng ngay cả giơ roi với chú anh
Thỉnh cũng chưa? Hớ hớ…
Nói rồi, ông quay sang mọi người cười to, ý muốn bảo, các vị
xem, tôi đã làm gì nó mà nó giận tôi.
Ông lại lắc tay tôi một cái, bóp mạnh hơn như ra ám hiệu: “Xong.
Tôi với chú vẫn là anh em”.
Thành thật thì chính tôi cũng không hiểu vì sao Hữu Thỉnh vẫn
quý tôi, sau những gì phiền muộn mà tôi gây cho ông. Lúc nào người ta cũng nhắc
ông phải làm gì đó mạnh tay với tôi (Kỉ luật, đưa khỏi Nhà xuất bản…) nhưng ông
đã tìm mọi cách để lờ những yêu cầu đó đi. Thậm chí ông còn đấu lại thẳng
thừng.
Như trường hợp một cán bộ của một Ban “quan trọng” nào đó cứ
nhân danh Ban liên tục ép Hữu Thỉnh phải bằng cách nào đó đưa tôi đi khỏi Nhà
xuất bản Hội nhà văn. Lúc đầu ông cũng à ừ cho qua. Nhưng rồi cứ bị ép quá, một
lần Hữu Thỉnh gay gắt hỏi lại: “Ông bày cho tôi cách làm việc đó đi. Áp cho Tạ
Duy Anh tội gì để thực hiện việc đó. Phải gọi được ra tội chứ. Nói mồm với nhau
thì nói gì chả được. Muốn đưa Tạ Duy Anh đi khỏi NXB mà không thể viện ra được
lý do, không đủ căn cứ pháp lý thì ít ra cũng phải có nơi nào cho ông ta và
phải xem ông ta có đồng ý không? Đừng đùa!”
Khi kể lại với tôi chuyện đó trong một bữa trưa với chủ ý dàn
hòa, tôi hỏi ông:
-Thằng cha đó là ai hả anh?
Ông gạt đi:
-Chú quan tâm làm gì?
-Chỉ là em muốn biết vì sao ông ta lại ghét em đến thế. Em hỏi
thôi, không có ý thù hận gì đâu, tính em anh biết mà.
- Tôi chỉ nhớ nó tên là T., vụ phó gì đó. Mà chú để tâm làm gì.
Rồi, vừa trả lời tin nhắn ai đó, Hữu Thỉnh nói như tôi không hề
có mặt:
-NÓ KHÔNG ĐÁNG RỬA CHÂN CHO THẰNG TẠ DUY ANH
rất hấp dẫn, nhưng các bài đều hơi dài, chủ trang nên chia thành các bài nhỏ
ReplyDelete