Peter Navaro và Greg Autry
Chết dưới tay Trung Quốc
Nhóm dịch thuật cựu học sinh AIT
Chương 10
Chết dưới tay tin tặc mũ Đỏ: Từ “Hắc khách” Thành Đô đến
những con chip Mãn Châu
còn phải chi nhiều tỷ đô-la để phát triển những vệ tinh phủ sóng toàn cầu nhằm thu thập
thông tin tình báo cao cấp khi mà họ có thể thực hiện điều đó qua mạng Internet.
‐ Bóng đêm trong đám mây
Trong khi mạng lưới điệp viên của Trung Quốc đang không ngừng “bòn rút” tất cả những
gì được cho là bí mật mà chúng có thể lấy từ những trường đại học Mỹ, những công ty, các
phòng thí nghiệm, văn phòng chính phủ mà các trinh sát của họ có thể thâm nhập vào, thì sự
phát triển của đội ngũ những kẻ tin tặc cũng tạo ra mối đe dọa ngang tài ngang thậm chí còn
vượt trội hơn.
Ngày nay, những đội "tin tặc mũ đỏ" nguy hiểm của Trung Quốc đã thâm nhập vào
NASA, Lầu Năm góc và Ngân hàng thế giới; đã tấn công Phòng Công nghiệp và An ninh của
Bộ Thương mại Mỹ dữ dội đến mức Bộ phải vứt bỏ hàng trăm máy tính bị hỏng; đã copy
sạch ổ cứng của dự án Chiến đấu cơ kiêm oanh tạc cơ F-35 của hãng Lockheed Martin; và
dội bom trải thảm ảo vào hệ thống điểu khiển không lưu của Không lực Hoa Kỳ. Chúng cũng
đã tấn công vào máy tính của các nghị sĩ có tư tưởng cải cách cũng như của Ủy ban Đối
ngoại Hạ viện.
Vào thời điểm vận động tranh cử tổng thống Mỹ năm 2008, đội ngũ tin tặc mũ Đỏ của
Trung Quốc thậm chí còn xâm nhập vào máy chủ thư điện tử của chiến dịch vận động tranh
cử của cả Obama lẫn McCain cũng như vào cả Nhà Trắng của Tổng thống Bush. Và trong
một vụ vi phạm nghi thức ngoại giao thô bỉ nhất, các máy tính xách tay của Bộ trưởng
Thương mại Mỹ và một số nhân viên đã bị đánh cắp và bị cài những phần mềm gián điệp
trong một chuyến công tác về thương mại tới Bắc Kinh.
Hơn thế nữa, khi mà bộ máy gián điệp truyền thống dựa chủ yếu vào “Bẫy mật ngọt” kiểu
như quý bà xinh đẹp Mara Hari để tìm kiếm những bí mật trong những lúc thủ thỉ trên giường
hoặc là một mỹ nhân qua đêm để kiếm được vị trí có lợi trong thỏa hiệp nào đó thì những
gián điệp mạng ảo của Trung Quốc đang sử dụng một số “ Hũ mật” kỹ thuật số để ăn cắp dữ
liệu từ các máy tính. Thật vậy, ngoài gái mại dâm và các phòng khách sạn gài máy nghe lén
thông thường ở Thượng Hải, các gián điệp Trung Quốc ngày nay tặng những thẻ nhớ và thậm
chí cả máy chụp hình kỹ thuật số có chứa virus làm quà. Theo Cục tình báo Anh MI5, khi kết
nối vào các máy tính của nạn nhân, những hũ mật kỹ thuật số tàn độc này cài các phần mềm
cho phép những kẻ tấn công mạng chiếm quyền điều khiển máy tính.
Trong thực tế, theo một chuyên gia tin tặc về Trung Quốc và cũng là tác giả quyển sách
Hắc khách[1], Scott Henderson, việc trở thành Tin tặc ở Trung Quốc được vinh danh gần như
"ngôi sao nhạc rock". Nó thậm chí còn là một nghề mà trong báo cáo gần đây cho biết
khoảng chừng một phần ba trẻ em Trung Quốc mơ ước.
Giống như phiên bản trực tuyến của mạng gián điệp phân tán của Trung Quốc, những lực
lượng đông đảo dân nghiệp dư thực hiện phần lớn các phần việc vất vả trong nỗ lực chiến
tranh mạng tổng lực. Hằng ngày, hàng ngàn người được gọi là “dân quân tin tặc”[2] liên tục dò
tìm, phá hoại, và ăn cắp từ các cơ quan của phương Tây cũng như là các đối thủ ở châu Á
như Nhật Bản và Ấn Độ.
Để xem xét đến quy mô của mối đe dọa của chiến tranh mạng Trung Quốc, trước nhất cần
nên nhận dạng mục tiêu chính của các gián điệp mạng. Việc tấn công đơn giản nhất là làm
gián đoạn hoạt động của các hệ thống các nước phương Tây bằng cách phá hoại các website
hoặc làm cho quá tải các máy chủ với kiểu tấn công “từ chối dịch vụ”.
Một mục tiêu thứ hai rõ ràng là đánh cắp thông tin có giá trị: số thẻ tín dụng và nhận dạng
cá nhân của từng cá nhân; công nghệ, tài liệu đấu thầu, tài chính của công ty, các bí mật
thương mại ở các công ty; và các hệ thống vũ khí quân sự.
Vẫn còn đó mục tiêu thứ ba trong cuộc chiến trên mạng là việc phá hỏng số liệu bằng
phương thức có thể gây ra tổn thất nặng nề cho khách hàng sử dụng hệ thống. Chẳng hạn
như, bằng việc can thiệp hệ thống mua bán cổ phiếu hoặc trái phiếu, bọn tin tặc mũ Đỏ
Trung Quốc có thể làm gián đoạn việc mua bán, thao túng các giao dịch hoặc bóp méo số liệu
báo cáo và do đó kích động gây náo loạn thị trường tài chính.
Cuối cùng bọn tin tặc có thể ảnh hưởng thế giới thực bằng việc nắm quyền kiểm soát hệ
thống điều khiển các tài sản hữu hình. Chẳng hạn như, một nhóm người yêu nước trên mạng
có thể làm ngưng trệ lưới điện quốc gia của New England nhằm "trừng phạt" Mỹ liên quan
đến những động thái tiếp đón đức Đạt Lai Lạt ma khi đến thăm Nhà Trắng hoặc liên quan đến
việc buôn bán vũ khí cho Đài Loan.
Những vị hắc khách đến từ Bắc Kinh dưới quốc kỳ
Câu hỏi: Trong tình huống nào thì các bạn tiến hành tấn công mạng?
Trả lời: Nếu có một vấn đề mà nó ảnh hưởng đến chúng tôi trên bình diện quốc tế thì
chúng tôi sẽ tập hợp lực lượng để tiến hành tấn công.
‐ Trích Hội thảo "An ninh thông tin, Hacker Trung Quốc nói về hacker"
Tất cả các hoạt động chính của các nhóm tin tặc mũ Đỏ Trung Quốc có điểm tương đồng
là họ tiến hành khá độc lập và chỉ chịu sự giám sát lỏng lẻo của đảng Cộng sản Trung Quốc.
Dĩ nhiên là đảng cộng sản duy trì một khoảng cách thích hợp sao cho họ luôn có thể đưa ra
lời phủ nhận hợp lý cho những việc gây nên sự phản ứng mạnh mẽ của công chúng - đó là vụ
tấn công trơ trẽn, táo bạo vào Lầu Năm góc, tấn công chuyển luồng đường truyền Internet
trong vòng 18 phút, vụ tấn công vào mã nguồn của Google và còn nhiều vụ khác nữa.
Không còn nghi nghờ gì nữa. Cái được gọi là “dân quân tin tặc” không thể tồn tại nếu
không có bàn tay của Bắc Kinh. Theo Mulvenon thuộc trung tâm Nghiên cứu và Phân tích
Tình báo giải thích, “Các tin tặc trẻ tuổi này được tha thứ với điều kiện là họ không được tổ
chức các cuộc tấn công vào mạng nội bộ của Trung Quốc. Họ là những thằng ngốc hữu dụng
cho chế độ Bắc Kinh".
“Những thằng ngốc hữu dụng”, thực sự là vậy. Trong khi tại Los Angeles có các băng
nhóm bị lên án là “Crips” và “Bloods”, thì nhóm theo dân quân tin tặc của Trung Quốc đã tổ
chức thành hàng ngàn nhóm nhỏ với tên gọi như là “Green Army Corps”, “the Crab Group”,
và thậm chí toàn các cô gái tập hợp lại như “Six Golden Flowers”. Họ làm việc chung với
nhau để cải thiện kỹ năng, chia sẻ công cụ, kỹ thuật và kích động tinh thần dân tộc của nhau.
Kết hợp lại, những nhóm găng-xtơ mạng này hình thành một liên minh tư tưởng vô định hình
với một trên gọi khá màu mè là “Honkers”.
Tại Trung Quốc có hàng trăm “trường đào tạo tin tặc” để dạy ma thuật cho những phù
thủy trẻ tuổi. Hàng loạt các quảng cáo chuyên nghiệp về đào tạo nghề gián điệp mạng và các
công cụ có thể tìm thấy trong những nơi công cộng, và theo như Wang Xianbing của
hackerbase.com, họ "dạy cho học sinh cách thức tấn công những máy tính không được bảo vệ
và ăn cắp thông tin cá nhân". Trong khi đó chính quyền Trung ương Trung Quốc cho phép
các nhóm như Liên đoàn Tin tặc Trung Quốc hoạt động công khai và thậm chí duy trì văn
phòng làm việc trong khi trấn lột những người ngoại quốc, miễn là Liên đoàn đó không tấn
công vào các trang hoặc các phần mềm trong nước.
Để giải thích cho những người còn hoài nghi là hoạt động của hacktivist được sự bảo trợ
của Chính phủ trung ương, hãy hiểu Trung Quốc là nước có hệ thống Internet được kiểm soát
và giám sát chặt chẽ nhất thế giới. Thật rõ ràng là điên rồ nếu có ý kiến cho rằng một kẻ tấn
công mạng tinh nghịch nào đó có thể tồn tại trong thời gian dài ở Trung Quốc mà có thể nằm
ngoài tầm kiểm soát của đội quân kiểm duyệt Bắc Kinh.
Trên thực tế, khi có nhóm tin tặc vi phạm luật bất thành văn quan trọng nhất của Trung
Quốc là "đừng bao giờ tấn công hệ thống của Chính phủ", chắc chắn rằng sự trừng phạt đến
ngay tức khắc. Chẳng hạn như một vài thành viên trong một nhóm tin tặc khai thác một lỗ
hỏng trong phần mềm kiểm duyệt của Trung Quốc có tên là Green Dam, một công cụ quan
trọng được Trung Quốc sử dụng để theo dõi hành động của người sử dụng mạng Internet
Trung Quốc, những người tấn công mạng đã bị bắt ngay lập tức. Tương tự, theo tờ China
Daily, một tin tặc tên là So ở tỉnh Hồ Bắc đã thay thế hình ảnh của một quan chức trên
website của chính phủ bằng hình một cô gái mặc bikini. Kẻ tinh nghịch này đã được xử nhẹ
tội theo chuẩn mực của Trung Quốc, đó là chỉ một năm rưỡi tù giam.
Tất nhiên, chính nhờ thỉnh thoảng có vụ bắt bớ loại này đã khiến cho đội ngũ tin tặc mũ
Đỏ tập trung vào chính phủ và cơ quan nước ngoài. Và những nhóm này luôn luôn có thể bị
kích động thành một đám dân tộc chủ nghĩa điên cuồng với chỉ một cái nháy mắt và gật đầu
từ lãnh đạo đảng Cộng sản.
Đây chỉ là một trường hợp bẽ mặt nhỏ: Khi Thủ tướng Nhật Junichiro Koizumi thăm đền
tưởng niệm chiến tranh Yasukuni – nơi mà những người theo chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc
xem là đền của tội ác chiến tranh – những tin tặc Trung Quốc đã thay đổi bộ mặt của website
của ngôi đền Shinto với dòng chữ, “cô gái đang đái trên toilet Yasukuni". Liên minh tin tặc
Honkers sau đó tiếp tục tấn công dồn dập vào hàng chục website của chính phủ Nhật, kể cả
Sở Cứu hỏa và Thiên tai và Cục các Phương tiện phòng vệ.
Bây giờ, bạn có thể tưởng tượng được phản ứng của chính phủ Trung Quốc nếu những tin
tặc Nhật làm những việc tương tự đối với website Trung Quốc về Thế vận hội Olympic hoặc
Bộ Quốc phòng Trung Quốc. Và không chỉ Nhật Bản phải chịu sự quấy phá định kỳ của
những người đầu tàu theo chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc. Khi liên hoan phim hàng năm
Melbourne ở Úc dám chiếu một đoạn phim tài liệu về lãnh đạo Duy Ngô Nhĩ của Trung
Quốc, những kẻ tin tặc Trung Quốc đã phá hỏng hệ thống bán vé trên mạng.
Giới tin tặc hàng đầu ở Bắc Kinh tấn công cả Vua công nghệ Google
Nếu như Google, với tất cả nguồn lực và chuyên môn tin học của họ, đang lo lắng cho
việc bảo vệ tài sản mã nguồn quí giá trước sự xâm nhập của các gián điệp tin học thì các
công ty Fortune 500 khác liệu có đủ tự tin để bảo vệ thông tin của mình không?
− The Christian Science Monitor
Để thấy rõ tâm địa xảo quyệt của giới tin tặc Trung Quốc, ta nên tìm hiểu qua “Chiến
dịch Aurora” tai tiếng. Chúng từng thực hiện các đợt tấn công có hệ thống vào một trong
những công ty tin học có mức độ kỹ thuật phức tạp nhất thế giới – Google, cùng với hơn 200
công ty khác của Mỹ, từ Adobe, Dow Chemical, DuPont cho đến Morgan Stanley, Northrup
Grumman. Theo công ty an ninh mạng iDefense, các đợt xâm nhập được thực hiện từ một
nhóm nước ngoài duy nhất bao gồm các gián điệp trực thuộc hoặc được sự ủy quyền của nhà
nước Trung Quốc.
Trong chiến dịch Aurora, các "hắc khách" (hacker gọi theo tiếng Hoa), thiết lập các đợt
tấn công tin học hết sức phức tạp. Đầu tiên, chúng tìm cách làm quen và giúp đỡ các nhân
viên của công ty mục tiêu thông qua các mạng xã hội như Facebook, Twitter, hay LinkedIn.
Sau một số lần chat, các điệp viên tin học Trung Quốc sẽ tìm cách dụ số nhân viên này vào
các trang chia sẻ hình ảnh mà thực ra là bình phong của một tệp cài đặt phần mềm gián điệp
của Trung Quốc. Khi đã sa bẫy, máy tính của các nhân viên này sẽ bị nhiễm một loại vi rút
thực hiện việc lấy và chuyển tiếp tên và mật khẩu sử dụng cho các tin tặc. Sau đó bọn tin tặc
Bắc Kinh sử dụng các thông tin này để thâm nhập vào kho dữ liệu to lớn của các công ty – kể
cả nguồn mã giá trị của Google.
Bọn tin tặc không chỉ quan tâm đến lấy trộm mã nguồn. Theo đúng bản chất toàn trị của
nhà nước Trung Quốc được mô tả trong tác phẩm của George Orwell, bọn tin tặc còn xâm
nhập vào tài khoản thư điện tử Google của các nhà hoạt động nhân quyền Trung Quốc.
Đúng như dự đoán, chính phủ Trung Quốc đã phủ nhận mọi dính líu. Tuy nhiên, lần theo
địa chỉ IP ta có thể dễ dàng biết được thủ phạm thực hiện là từ một trường đại học có mối
quan hệ chặt chẽ với quân đội Trung Quốc. Sự việc này còn đáng chê trách hơn vì có sự đồng
lõa của đảng Cộng sản Trung Quốc, mạng WikiLeaks đã đưa ra các bức điện cho thấy “các
đợt tấn công vào Google được đạo diễn bởi một ủy viên Bộ Chính trị cao cấp khi vị này đã gõ
tên mình lên Google và tìm thấy các bài chỉ trích chính cá nhân ông ta”.
Dáng dấp của bạo lực
Ngoài Chiến dịch Aurora còn rất nhiều cuộc tấn công của Trung Quốc đã gây ra hậu quả
nghiêm trọng. Điển hình như trường hợp gây chấn động của vụ Night Dragon (con rồng bóng
đêm). Đợt tấn công đã nhắm vào các công ty năng lượng lớn phương Tây và được phát hiện
bởi công ty an ninh mạng McAfee.
Gọi là gây chấn động vì đây không phải như một đợt tấn công thông thường nhằm ăn cắp
số thẻ tín dụng hoặc phá phách ngẫu nhiên. Chúng đã hoạch định và tiến hành một cách bài
bản nhằm kiểm soát các máy tính và hộp thư điện tử của các lãnh đạo doanh nghiệp cao cấp
mà đích cuối cùng là các tài liệu nội bộ về các hoạt động, thông tin tài chính và đấu thầu.
Tại sao chính phủ Trung Quốc muốn có những thông tin này? Vì chúng rất có giá trị đối
với các công ty nhà nước vốn đang cạnh tranh với các đối thủ ngoại quốc trong lĩnh vực năng
lượng trên phạm vi toàn cầu.
Hiểu được mục tiêu chiến lược của Night Dragon tức là hiểu được việc Trung Quốc thật
sự đang tiến hành một cuộc chiến kinh tế toàn cầu. Thật ra, hiện nay không tháng nào là
không có tin phanh phui vụ lấy trộm dữ liệu qui mô lớn từ Mỹ, Nhật, Đài Loan hay châu Âu
được thực hiện từ Trung Quốc.
Chúng ta chỉ có thể hình dung được bao nhiêu kế hoạch xâm nhập mạng đã thực hiện
nhưng không bị phát hiện và mức độ thiệt hại mà các nền kinh tế phương tây cũng như một
số nước châu Á phải gánh chịu. Tuy nhiên, thật cực kỳ khó hiểu tại sao chính phủ các nước
nạn nhân như Mỹ, châu Âu, Nhật, Ấn Độ, và các nước khác lại không có những phản ứng đủ
mạnh đối với cuộc chiến tin học của Trung Quốc.
Chiếm đoạt mạng Internet toàn cầu để làm điều mờ ám
Trong thời gian 18 phút vào tháng Tư, một công ty viễn thông thuộc sở hữu của nhà nước
Trung Quốc đã tạo chuyển luồng chui 15% lưu lượng thông tin trên mạng internet trên
toàn thế giới, bao gồm các dữ liệu từ quân đội đến các tổ chức dân sự của Mỹ và đồng
minh. Việc tái phân luồng với qui mô lớn này đã ít thu hút sự chú ý của giới truyền thông
chính thống do cách thức thực hiện và mức độ ảnh hưởng là chủ đề khó hiểu đối với
những người không thuộc về cộng đồng an ninh mạng.
- Tạp chí National Defense
Vâng một công cụ khác trong túi đồ ảo thuật của các đội quân tin tặc đỏ của Trung Quốc
được gọi là “Chiếm tuyến”. Sử dụng kỹ thuật này, Trung Quốc đã trơ trẽn cho thế giới thấy
họ có khả năng chiếm quyền kiểm soát một tỉ lệ lớn các phân luồng trên mạng internet toàn
cầu.
Kỹ thuật chiếm tuyến cũng cho thấy sự tiếp tay của các công ty nhà nước trong các chiến
dịch chiến tranh mạng của Bắc Kinh. Chẳng hạn, bằng cách cấu hình các bộ điều tuyến
internet nội địa nhằm tạo quảng cáo sai cho một thao tác đi tắt của một kênh internet tiềm
năng, công ty quốc doanh China Telecom đã lừa được một lượng dữ liệu khổng lồ bên ngoài
Trung Quốc chuyển luồng đi qua mạng của họ. Dĩ nhiên, sau đợt tạo chuyển luồng chui 18
phút tai tiếng nhưng ít được báo chí để ý này, chính phủ Trung Quốc như thường lệ vẫn chối
bay chối biến.
Báo động DNS về Trung Quốc đang chiếm tuyến
Nếu bạn ở ngoài Trung Quốc và tình cờ truy vấn tên gốc một máy chủ ở Trung Quốc, truy
vấn của bạn sẽ buộc phải qua bức Vạn lý Hỏa thành, nghĩa là bạn sẽ bị kiểm duyệt như
một công dân Trung Quốc vậy.
− Earl Zmijewski
Với câu nói trên, ông Zmijewski đang nói về vấn đề gì? Đó là vấn đề được gọi là thuật xử
lý DNS, và cũng có nghĩa là Trung Quốc đang kiểm duyệt cả người sử dụng internet bên
ngoài bức Vạn lý Hỏa thành của họ.
DNS là chữ viết tắt của “Domain Name Services – Dịch vụ tên miền”, chính các bảng ghi
DNS này đóng vai trò như một danh bạ điện thoại trên internet. Thuật xử lý DNS diễn ra khi
dữ liệu DNS không đầy đủ được sử dụng để ngăn chặn người dùng internet ở các khu vực
khác trên thế giới truy cập đến các trang web mà chính phủ Trung Quốc cho là "không thân
thiện".
Để hiểu được thuật xử lý DNS nhằm kiểm duyệt cả người dùng ngoài biên giới Trung
Quốc, giả sử bạn đang là một người dùng Facebook ở một quốc gia chẳng hạn như Mỹ hoặc
Chile. Vào một thời điểm nào đó, bạn muốn truy cập vào Facebook nhưng không được nên
bạn cho rằng đang bị nghẽn mạng, và tính sẽ thử lại sau. Đây có thể là chuyện thật sự đang
diễn ra: truy vấn của bạn có thể đã bị chuyển đến một máy chủ ở Trung Quốc vốn tự xưng
như một bản sao của máy chủ có DNS "gốc" đặt tại Thụy Điển. Dĩ nhiên vấn đề là cái máy
chủ ở Trung Quốc này chỉ là bản sao những gì trên Internet mà giới lãnh đạo ở Bắc Kinh
muốn cho bên ngoài tiếp cận đến mà thôi – đương nhiên là không có Facebook trong đó.
Thuật xử lý DNS nói trên cho thấy Trung Quốc có thể kiểm duyệt Internet ra cả bên ngoài
biên giới của họ; và tình trạng sẽ chỉ tồi tệ hơn khi Trung Quốc cố đòi thêm quyền quản trị
mạng internet toàn cầu.
Đây không phải là chuyện nhỏ. Do tính toàn cầu của mạng Internet, một ngày nào đó hoàn
toàn có khả năng các yêu cầu về địa chỉ Internet của bạn sẽ được chuyển qua Trung Quốc.
Thật ra, hàng năm có hơn một nửa mạng Internet toàn cầu truy vấn đến các máy chủ DNS ở
Trung Quốc. Khả năng có thể xảy ra là việc trang web bạn cần truy cập sẽ được báo là
“không tìm thấy” vì sự kiểm duyệt của chính phủ Trung Quốc chỉ có tăng lên chứ không
giảm xuống. Đó là do thay vì không ngừng mở cửa Internet như Trung Quốc vẫn luôn tuyên
bố, danh sách các trang web bị kiểm duyệt thực tế luôn kéo dài thêm ra.
Như một ghi nhận cuối về các mối nguy hiểm của thuật xử lý DNS của Trung Quốc, nó đã
được chủ động sử dụng liên quan đến các cuộc biểu tình chống chính phủ theo sau các
chuyển biến tại Ai Cập. Thật vậy, trong thời gian diễn ra các bất ổn xã hội ở Ai Cập, thuật xử
lý DNS cùng các kỹ thuật khác được sử dụng để chặn trang mạng xã hội kinh doanh LinkedIn
cũng như các tìm kiếm và các trang web có chứa các từ khóa “Egypt”, “Jasmine”, và tên của
Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc – “Huntsman”.
Với một chút hài hước, chúng ta thiết tha đề nghị giới cảnh sát mạng Trung Quốc hãy đổi
tên danh sách đen các trang web bị chặn thành là danh sách trắng vì số lượng bị chặn đến lúc
nào đó sẽ nhiều hơn số lượng được phép truy cập!
Nạn tin tặc có phải là nghiệp chướng mà đức Đạt Lai Lạt Ma nói đến?
Sau 10 tháng điều tra về gián điệp tin học, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy 1.295 máy
tính ở 103 quốc gia có các phần mềm đánh cắp dữ liệu từ các mục tiêu quan trọng như
đức Đạt Lai Lạt Ma và các cơ quan chính phủ trên toàn thế giới. Các cuộc tấn công tin
học có dấu vết từ các máy tính đặt tại Trung Quốc.
‐ HotHardware.com
Bên cạnh việc đánh cắp các hệ thống vũ khí từ Lầu Năm Góc và các bí mật công nghiệp
và quân sự từ các công ty như DuPont, Northrop Grumman, và Google, các nhóm tin tặc mũ
đỏ của Trung Quốc có thể được huy động để nghiền nát các luồng tư tưởng bất đồng chính
kiến bên trong hoặc bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc. Hãy xem xét lại những gì đã xảy ra đối
với các máy tính của lãnh tụ lưu vong Đạt Lai Lạt Ma và những người ủng hộ ông ta trong
phong trào chống đối ở Tây Tạng. Trong cuộc tấn công này, các e-mail “lừa đảo” được gửi
tới chính phủ lưu vong Tây Tạng ở Dharamsala, Ấn Độ và các văn phòng tại London và New
York. Các email từ địa chỉ trông có vẻ tin cậy đã khiến người nhận không ngần ngại mở các
tài liệu bị nhiễm virus Trojan có tên là “Ghost Rat” - chuột ma.
Khi được kích hoạt, “Gh0st Rat” chiếm quyền điều khiển hệ điều hành Windows của
người sử dụng, tự sao chép sang các máy tính khác và bắt đầu tìm kiếm hệ thống tài liệu và
sau đó chuyển các tài liệu tới các máy chủ ở tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc. Trong một số
trường hợp, các phần mềm gián điệp còn ghi nhận tất cả thông tin gõ lên bàn phím và thậm
chí trưng dụng các webcam và microphone để lưu giữ và chuyển nội dung các cuộc nói
chuyện trong phòng đặt máy tính nhiễm virus.
Virus “Ghost Rat” nói trên còn tấn công các máy tính bị lây nhiễm đặt tại bộ ngoại giao
và đại sứ quán của Hàn Quốc, Ấn Độ, Đức và khoảng 100 quốc gia khác; các chuyên gia
phân tích các cuộc tấn công mạng và công việc hắc ám phía sau các diễn đàn về tin tặc của
Trung Quốc có thể lần theo dấu vết tới Thành Đô và thậm chí đến tận từng cá nhân ở Đại học
Khoa học và Công nghệ điện tử. Tất nhiên, chính phủ Trung Quốc không hề có bất cứ hành
động nào để ngăn chặn các cuộc tấn công tin học, càng không làm gì để truy tìm các thủ
phạm. Bắc Kinh cũng không có các phản ứng, ngoại trừ việc lên tiếng phủ nhận như thường
thấy.
Một lần nữa, chúng ta phải đặt câu hỏi: tại sao các chính phủ của các quốc gia như Mỹ,
Ấn Độ, và Nhật Bản lại kiên nhẫn chịu đựng các hoạt động chiến tranh tin học trắng trợn như
vậy?
Ứng viên Mãn Châu có gắn chíp trên vai
Tin tặc ở Trung Quốc … đã thâm nhập sâu vào hệ thống thông tin của các công ty và các
cơ quan chính phủ Mỹ, đánh cắp các thông tin quan trọng từ các giám đốc doanh nghiệp
Mỹ trước các cuộc họp của họ ở Trung Quốc, và trong một số trường hợp đã thâm nhập
vào các nhà máy điện ở Mỹ, có thể đã gây nên hai sự cố mất điện trên diện rộng xảy ra
gần đây tại Florida và khu vực Đông Bắc.
- The National Journal
Hãy cân nhắc kịch bản sau: một kỹ sư Trung Quốc thiết kế một “cửa sau” điều khiển từ
xa vào hệ điều hành máy tính, hoặc một “công tắc chết người” khó bị phát hiện nhúng vào
chíp máy tính phức tạp được đặt hàng tại Trung Quốc. Sau đó, các chíp “Mãn Châu” đã
nhúng mạch gián điệp và phần mềm “cửa sau” được Trung Quốc bí mật xuất sang Mỹ, nơi
mà chúng trở thành một bộ phận trong các hệ thống khổng lồ đang được vận hành bình
thường.
Trong lúc đó, như trong bộ phim Ứng viên Mãn Châu[3], các thiết bị Mãn Châu đó chờ đợi
các tín hiệu có thể cho phép Bắc Kinh đóng mở hoặc điều khiển các hệ thống quan trọng như
lưới điện, hệ thống tầu điện ngầm đô thị, hoặc thiết bị định vị GPS.
Đừng nghĩ rằng trên đây chỉ là khoa học viễn tưởng, bởi vì việc gắn các mạch Mãn Châu
rất dễ dàng – đặc biệt là tại một đất nước được coi là công xưởng của cả thế giới. Việc gắn
các đoạn mã độc vào máy tính cũng dễ dàng bởi lẽ các chương trình phần mềm hiện đại có
tới hàng triệu dòng lệnh. Gắn các dòng lệnh điều khiển kiểu Mãn Châu vào vi mạch của máy
tính, điện thoại và iPod – kể cả các hệ thống an ninh – cũng dễ dàng không kém bởi lẽ các vi
mạch có thể bao gồm hàng trăm triệu cổng logic có thể giấu một sự bất ngờ của kỹ thuật số.
Bây giờ, nếu bạn nghi ngờ rằng những sự việc đó trên thực tế có thể không bị phát hiện,
chúng tôi sẽ cho bạn biết một số thông tin. Các kỹ sư phần mềm và các nhà thiết kế vi mạch
thường xuyên giấu những thứ linh tinh trong sản phẩm của họ chỉ để bày tỏ sự phản đối. Một
ví dụ truyền thống là con chim cắt mà ai đó đã tạo ra và nó xuất hiện mỗi khi một chuỗi các
hành động được thực hiện trong phần mềm Adobe Photoshop. Thậm chí, nhân vật chính của
quyển sách Where’s Waldo? được một tay kỹ sư tinh nghịch đưa vàovới kích thước chỉ bằng
30 micro mét vào bộ vi xử lý.
Nhìn rộng hơn, việc phát hiện các bất ngờ kiểu Mãn Châu như vậy trong mã nguồn hoặc
chíp máy tính nói chung không phải là một phần trong quy trình bảo đảm chất lượng được sử
dụng để kiểm tra các phụ kiện từ Trung Quốc. Tất cả những gì các nhân viên kiểm tra chất
lượng thực hiện – thậm chí đối với các nhân viên kiểm tra chất lượng hàng hóa quân sự - là
bảo đảm các máy móc, thiết bị sẽ vận hành theo các chỉ tiêu kỹ thuật sau khi lấy ra khỏi bao
bì. Theo lời giải thích của Ruby Lee, giáo sư ngành kỹ thuật điện của Đại học Princeton
“không thể kiểm tra hết được những thứ không xác định nếu chúng không được đề cập tới”.
Việc các tin tặc Trung Quốc có đủ khả năng cài các chíp Mãn Châu là thực sự đáng lo
ngại, bởi lẽ ngày nay, phần lớn máy tính của các hãng Hewlett-Packard, Dell và Apple được
sản xuất tại Trung Quốc – thực tế, hầu hết được lắp ráp tại cùng trong một nhà máy khổng lồ
tại Thâm Quyến. Hơn thế nữa, Trung Quốc là nguồn chính mà bạn tải xuống hệ điều hành
Windows hoặc Mac, cùng với các chương trình phần mềm ứng dụng khác.
Một lần nữa, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng đó không phải là khả năng tưởng tượng bí
ẩn hoặc lý thuyết gián điệp xa vời nào đó. Trong thực tế, chính nước Mỹ đã đi tiên phong
trong việc sử dụng chíp Mãn Châu nhiều năm về trước trong thời gian chiến tranh Lạnh với
Liên Xô. Và đây là một ví dụ lịch sử.
Theo website của CIA, Tổng thống Reagan đã đích thân thông báo cho CIA về một điệp
viên hai mang quan trọng của KGB được biết dưới bí danh “Farewell”, người đã tiết lộ thông
tin về cách mà Liên Xô có được các công nghệ quan trọng của phương Tây. Thay vì bịt lại
chỗ rò rỉ một cách đơn giản, cố vấn chính sách Gus Weiss đã nghĩ ra một phương thức khôn
ngoan, kết quả của điệp vụ đó là chíp máy tính giả được gắn vào thiết bị quân sự của Liên
Xô.
Việc những con chíp máy tính được thiết kế riêng biệt có thể gây thiệt hại nghiêm trọng
được minh chứng bởi vụ nổ không có tác nhân hạt nhân lớn nhất trong lịch sử. Sự cố xảy ra
vào năm 1982 khi một đoạn ống ở vùng xa xôi của tuyến đường ống quan trọng dẫn khí
xuyên Siberi của Liên Xô bị nổ tung. Nguyên nhân của vụ nổ được xác định, đó là phần mềm
kiểm soát đường ống mà cơ quan phản gián CIA đã phá hỏng và sau đó cố tình để Liên Xô
đánh cắp từ một công ty Canada. Thật là khôn ngoan?
Rõ ràng, vụ nổ đường ống xuyên Siberi do CIA sắp đặt là hậu quả nhãn tiền của “nghệ
thuật đen” về quy mô sự phá hoại phần mềm đối với thế giới thật ngày càng gia tăng. Với số
lượng máy tính được cấu hình như thiết bị điều khiển bán tự động ngày càng nhiều, từ thiết bị
bơm truyền trong y tế đến các nhà máy điện nguyên tử, cuộc sống của con người ngày càng
phụ thuộc vào chíp và phần mềm.
Thực tế, tin tặc Trung Quốc có thể đã làm mất ổn định hệ thống điện lưới quốc gia của
Mỹ, không chỉ một lần mà nhiều lần. Theo tờ National Journal, có bằng chứng cho thấy một
tin tặc Trung Quốc đã tạo điều kiện để gây ra “tình trạng mất điện lớn nhất trong lịch sử ở
miền Nam nước Mỹ”; trong đó có sự cố ảnh hưởng đến khoảng 50 triệu người.
Nói rộng hơn, trích dẫn lời của một chuyên gia tình báo lâu năm của Mỹ được đăng trên
tờ The Wall Street Journal, “người Trung Quốc đang tìm cách thâm nhập vào kết cấu hạ tầng
của chúng ta, đặc biệt là lưới điện”, và việc thâm nhập đã để lại các phần mềm “có thể được
sử dụng để phá hủy các thành phần hạ tầng”. Ông ta không nghi ngờ khi cho rằng “nếu xảy ra
chiến tranh với họ, họ sẽ tìm cách khởi động các phần mềm này lên”.
Quan điểm của chúng tôi, đơn giản là: các con chíp Mãn Châu là rất thực tiễn. Với hiện
tượng khá nhiều công ty Mỹ đang chuyển việc sản xuất phần cứng và phần mềm – kể cả công
tác nghiên cứu và phát triển – vào Trung Quốc, chúng ta có thể đã tự tạo ra việc nhập khẩu
không chỉ sản phẩm Trung Quốc mà còn hàng loạt chíp Mãn Châu.
Để đánh giá các chứng cứ ngày càng gia tăng về tình trạng chiến tranh và gián điệp mạng
do Trung Quốc gây ra, câu hỏi cốt yếu được đặt ra là, liệu chúng ta có nên coi các hoạt động
tấn công tin học của Trung Quốc là hành động chiến tranh đúng với bản chất của chúng, hay
chỉ đơn giản là khăng khăng bảo thủ và không chấp nhận các thảm họa gây ra bởi lữ đoàn tin
tặc mũ Đỏ. Để cân nhắc câu trả lời, hãy đừng quên lời cảnh báo của tướng James Cartwright,
nguyên là người đứng đầu Bộ tư lệnh Chiến lược Mỹ và nguyên Phó chủ tịch của Bộ Tổng
Tham mưu Liên quân. Cartwright cho rằng, tầm ảnh hưởng của những cuộc tấn công tin học
được tổ chức hoàn hảo với quy mô lớn “trên thực tế có thể đã đạt tới mức độ của vũ khí hủy
diệt hàng loạt”.
Chương 11
Chết dưới thanh kiếm laser của dòng họ Lưu: Mẹ, hãy nhìn, đó là ngôi sao chết chóc
đang chiếu xuống Chicago
các nước khác.
— Chủ tịch Hồ Cẩm Đào
Nếu những ai muốn biết những gì mà Nhật Bản đã lên kế hoạch để làm trong những năm
1930, thì tất cả những điều họ cần làm là đọc các kế hoạch và các tài liệu huấn luyện.
Các kế hoạch này sau đó được thực hiện trên toàn khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Nhiều người ở Mỹ đã coi những tuyên bố về mối đe dọa ngày càng tăng của quân đội
Nhật Bản là phi lý bởi vì Nhật đã cam kết phát triển hòa bình. Trung Quốc cũng
tuyên bố phát triển hòa bình như vậy, cùng với sự phát triển mạnh mẽ lực
lượng vũ trang và vũ khí của mình. Tất cả những thứ cần thiết bây giờ là những nhìn
nhận nghiêm khắc về các chính sách và học thuyết của Quân Giải phóng Nhân dân ... đối
với các khả năng và sức mạnh vũ khí không gian của họ cũng như những gì họ đã lên kế
hoạch để làm, đó là để đối lại với ưu thế vũ trụ của chúng ta.
—Christopher Stone, Space Review
Cũng giống như những phiêu lưu trên mặt đất, Trung Quốc tuyên bố họ chỉ tìm kiếm “sự
vươn lên hòa bình” vào bầu trời. Tuy nhiên, một trong những câu hỏi lớn nhất mà Lầu Năm
Góc đang phải đối mặt là liệu sự vươn lên mạnh mẽ của Trung Quốc vào không gian cuối
cùng có trở thành vũ khí để bắt Mỹ phải quy hàng không. Đây là câu hỏi cực kỳ quan trọng
trong kỷ nguyên khi mà một quốc gia đã từng đưa người lên đi bộ trên mặt trăng thì nay đang
có một chương trình không gian bị trì hoãn nhiều nhất và trong tình trạng hỗn độn nhất.
Không nghi ngờ gì nữa; chương trình khám phá vũ trụ của Trung Quốc là cực kỳ ấn
tượng và mạnh mẽ. Trong vài thập kỷ tới, Trung Quốc dự kiến sẽ đưa phi hành đoàn lên cả
mặt Trăng và sao Hỏa, và chỉ trong năm ngoái (2010), Trung Quốc đã phóng 15 chuyến bay
chở hàng vào quỹ đạo. Lịch trình phóng tàu đầy tham vọng này đã làm cho Trung Quốc trở
thành quốc gia đầu tiên sánh ngang hàng với Hoa Kỳ về phóng tàu vũ trụ; và Trung Quốc rõ
ràng là có xu thế sẽ vượt Hoa Kỳ về số lượng phóng tàu vũ trụ với mức độ gần bằng số lần
phóng của Mỹ đúng vào lúc Mỹ hoàn thành chuyến bay cuối cùng của tàu con thoi và chấm
dứt chương trình này.
Chính xác là Trung Quốc đang phóng những gì lên quỹ đạo? Các chuyến tàu mang lên
quỹ đạo từ những vệ tinh quan sát và bổ sung thêm những vệ tinh hệ thống định vị toàn cầu
cho tới những chuyến bay vũ trụ có người điều khiển và đưa vệ tinh thứ hai lên quỹ đạo mặt
trăng. Trung Quốc cũng dự kiến sẽ phóng trạm quỹ đạo không gian dùng cho cả các mục đích
khoa học và quân sự vào năm 2012 cùng ba chuyến bay trong hai năm tiếp theo được dự kiến
sẽ kết nối với trạm vũ trụ đó. Ngoài ra, bằng cách điều chỉnh sức mạnh chế tạo của mình,
Trung Quốc đang chuyển hướng dần từ chế tạo những chiếc tàu vũ trụ được thiết kế đơn
chiếc sang những loại tàu được chế tạo và lắp ráp hàng loạt; sự đổi mới này sẽ cho phép họ
gia tăng tần suất phóng tàu vũ trụ lên mức khủng khiếp.
Ngay cả khi Trung Quốc đã bay cao, thì chương trình vũ trụ NASA của Mỹ - nơi kỳ vọng
của mũi nhọn công nghệ quốc gia cực kỳ quan trọng của chúng ta - đã để mất nguyên cả một
thập kỷ lạc trong vũ trụ. Chương trình tàu con thoi đầy trắc trở của Mỹ được dự kiến sẽ kết
thúc vào cuối năm 2010, nhưng do sự trì hoãn các chuyến bay và có thêm một chuyến bay bổ
sung nên nó sẽ kết thúc vào năm nay (2011). Sau đó, vẫn chưa có kế hoạch rõ ràng nào cho
những chuyến bay vũ trụ có người lái của Mỹ. Điều này là do bộ máy của Obama và Quốc
hội Mỹ vẫn còn đang tranh cãi về cả hai vấn đề: xác định sứ mệnh của chương trình, và
những phương pháp nào có thể dùng để thực hiện sứ mệnh đó.
Sự bế tắc về chính trị này có nghĩa là sẽ không có chuyến bay có người điều khiển nào do
chính phủ Mỹ điều hành được đưa vào vũ trụ trong vòng ít nhất là 5 năm nữa. Trong tương
lai gần, các nhà du hành vũ trụ Mỹ sẽ phải “đi nhờ” để lên trạm Không gian Quốc tế cùng với
người Nga – ngay khi Trung Quốc đang thúc đẩy mạnh mẽ các chương trình phóng trạm
không gian quanh trái Đất và mặt Trăng.
Với câu chuyện về hai chương trình vũ trụ theo hai hướng trái ngược nhau này, chúng ta
quay lại câu hỏi: Liệu đây có phải là sự vươn lên bầu trời vì hòa bình của Trung Quốc hay
không, hay sẽ là cuộc đua để cuối cùng nắm lấy những tầm cao trong khi tất cả chương trình
không gian của Mỹ chẳng làm gì ngoài nằm trên mặt đất?
Ba chàng ngự lâm khám phá vũ trụ
Trong 2.900 km3 của [tiểu hành tinh] Eros, có chứa lượng nhôm, vàng, bạc, kẽm, các loại
kim loại kiềm và kim loại quý nhiều hơn tổng lượng của tất cả các kim loại này đã từng
được khai thác và thậm chí có thể được khai thác từ lớp vỏ trên cùng của Trái đất.
—BBC News
Nếu coi chương trình khảo sát vũ trụ của Trung Quốc chỉ là tiếp nối quá trình vươn lên
một cách hòa bình, có ít nhất ba lý do khiến Trung Quốc thúc đẩy chương trình này một cách
mạnh mẽ. Trước hết là sự phát triển của nhiều ngành công nghệ mới đòi hỏi phải luôn đi kèm
với những khám phá vũ trụ. Thứ hai là việc khai thác và vận chuyển trong tương lai các
nguồn năng lượng cũng như các loại nguyên vật liệu then chốt từ không gian tới các công
xưởng Trung Quốc. Lý do thứ ba có thể coi như đây là cái cửa thoát hiểm Darwin cho một
hành tinh đang bị quá tải về dân số và đang nóng lên nhanh chóng. Mỗi yếu tố trong đó lại
còn bao gồm trong nó những lý do quan trọng về nghiên cứu không gian vì mục đích dân sự.
Tập hợp lại, chúng có thể được sử dụng để vẽ nên bức tranh yên bình về những nỗ lực nghiên
cứu không gian của Trung Quốc.
Từ GPS và năng lượng mặt trời tới máy chụp cắt lớp
Từ bức tranh yên bình này, một trong những lý do quan trọng để cam kết theo đuổi
chương trình không gian chính là điều mà nước Mỹ đã hoàn toàn mất tầm nhìn – chương
trình khảo sát này có thể thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ và phát triển kinh tế trong
nước một cách mạnh mẽ nhất. Điểm nổi bật ở đây là các nhà lãnh đạo chính trị của Mỹ đã
nhanh chóng quên mất vai trò mà khám phá vũ trụ đã góp phần kích thích nền kinh tế Mỹ -
và cải thiện cuộc sống người dân – trong vòng 50 năm qua.
Hãy nhìn nhận lại, nếu như không có NASA và chương trình không gian của chúng ta, có
thể chúng ta đã không có được Internet như đang có ngày nay, mạng lưới GPS, các loại công
nghệ năng lượng mặt trời khác nhau, các ứng dụng y tế từ chụp cắt lớp CAT scan và chụp
cộng hưởng từ MRI cho tới kim sinh thiết vú, những chất dẻo và chất bôi trơn kỳ diệu, và hệ
thống theo dõi thời tiết để cảnh báo lốc xoáy và cháy rừng giúp cứu thoát hàng trăm nghìn
sinh mạng cùng hàng tỷ đô-la thiệt hại đồng thời góp phần đáng kể nâng cao năng suất mùa
màng. Bên cạnh đó, chỉ riêng những đổi mới này đã mang lại hàng nghìn tỷ đôla lợi nhuận
cho nền kinh tế chúng ta. Và chúng ta cũng đừng quên những phát minh nặng tính trần tục
nhưng không kém phần hữu dụng như “nhựa xốp có trí nhớ”[4] cho loại đệm Tempur-Pedic.
Trong khi nước Mỹ đã quên tầm quan trọng của nghiên cứu không gian với vai trò như
chất xúc tác cho nền kinh tế thì Trung Quốc lại hoàn toàn nắm được nó. Thực tế, người đứng
đầu chương trình mặt trăng của Trung Quốc, Ouyang Ziyuan, đã phát biểu công khai rằng
những nỗ lực của chương trình Apollo lên mặt Trăng đã kích động quá trình phát triển công
nghệ ở Mỹ, và ông ta thường xuyên sử dụng ý tưởng đó để làm cơ sở biện minh cho việc
Trung Quốc đi lên mặt Trăng. Tuy nhiên, Trung Quốc không chỉ nhận được những đổi mới
nhanh chóng hơn từ chương trình không gian của mình mà còn nhiều hơn thế.
Nguồn khoáng sản phong phú
Những thứ Trung Quốc tìm kiếm trong vũ trụ là những thứ có giá trị như những kim loại
quý và những nguyên liệu khác từ lớp vỏ của mặt Trăng hay từ các tiểu hành tinh gần trái đất
khác. Những món quà này có thể là vàng, platin hay những kim loại cực kỳ hiếm có vai trò
tối quan trọng trong công nghệ cao.
Thực vậy, khai mỏ thành công trong vũ trụ sẽ giúp nhiều cho việc giảm bớt sự khan hiếm
ngày càng gia tăng của các nguyên vật liệu cũng như sự ô nhiễm đi kèm với các quá trình
khai thác tài nguyên. Ví dụ, ta hãy xem xét trường hợp tiểu hành tinh Asteroid 433, còn được
gọi là Eros. Các nhà khoa học khi viết trên tạp chí Nature đã dự đoán rằng trong tương lai xa,
hành tinh khổng lồ này với khối đá nặng 34 nghìn tấn có khả năng sẽ va vào trái đất của
chúng ta và gây ra một thảm hoạ còn lớn hơn cả thảm họa đã quét sạch loài khủng long 65
triệu năm về trước. Tuy nhiên, tin tốt là Eros lại chứa đầy những khoáng chất có giá trị đang
chờ đợi các công ty khai thác không gian đến để lấy về. Hơn nữa, cùng với các yếu tố như
trọng lực nhỏ và hoàn toàn không có những ràng buộc về môi trường, việc khai thác khoáng
sản tại Eros sử dụng năng lượng mặt trời miễn phí sẽ có thể là khá đơn giản một khi có được
phương tiện vận tải. Điều này hoàn toàn không phải là chuyện viễn tưởng khoa học vì một
thiết bị lấy mẫu vũ trụ của NASA đã đến Eros vào năm 2000 và hạ cánh xuống đó vào năm
2001.
Và đây là ý tưởng cốt lõi được đề xuất bởi nhà kinh doanh vũ trụ tư nhân Jim Benson
nhằm vừa tránh cho trái Đất một tai họa va chạm vừa lấy về cho trái Đất những khoáng vật
quý báu của Eros: phóng các tên lửa tới tiểu hành tinh để điều chỉnh quỹ đạo của nó. Bằng
cách này, cuối cùng có thể sẽ đưa được Eros tới được một vị trí cố định trong hệ trái Đất -
mặt Trăng của chúng ta và do vậy loại bỏ được nguy cơ va chạm. Tất nhiên, kịch bản này làm
nảy sinh câu hỏi ai sẽ đến đó đầu tiên để cắm lá cờ của mình – và lái các tên lửa – trên các
nguồn tài nguyên như của Eros.
Trung Quốc không chỉ tìm kiếm những nguyên liệu thô nhôm, vàng và kẽm trong vũ trụ.
Trong tương lai gần, Trung Quốc có thể thu được những thành quả lớn trên mặt Trăng khi
khai thác tiềm năng thực hiện các phản ứng tổng hợp nhiệt hạch. Khác với những nhà máy
điện hạt nhân đang tồn tại với đầy rẫy các vấn đề trên trái Đất, năng lượng nhiệt hạch có thể
sẽ là vừa sạch và vừa an toàn và thực sự là “rẻ đến mức không cần lắp công tơ”. Và cầu nối
với mặt Trăng là: Một chất mà các nhà khoa học tin rằng sẽ giúp thực hiện phản ứng nhiệt
hạch chính là Helium 3 - một đồng vị cực kỳ hiếm (trên trái đất) thì lại được cho rằng khá
phong phú trên mặt trăng.
Như vị giám đốc chương trình mặt Trăng của Trung Quốc đã đóng khung tiềm năng của
Helium 3: “Hàng năm, ba chuyến tàu con thoi có thể sẽ mang về đầy đủ nhiên liệu cho loài
người trên toàn trái đất”. Mr. Ouyang có thể đã nói rõ ràng về việc triển khai thành công
nguồn năng lượng nhiệt hạch từ mặt trăng - nguồn vật chất cơ bản sẽ giáng đòn quyết định
đập chết tổ chức độc quyền dầu mỏ OPEC và là một viên đạn thần kỳ để chống lại sự ấm lên
toàn cầu.
Những người Trung Quốc nhìn xa trông rộng như ông Ouyang cũng coi mặt Trăng như là
nơi hứa hẹn một môi trường tự do, không bóng tối mà tại đó có thể sản xuất năng lượng mặt
trời với mức độ hiệu quả gấp tám lần so với ở trái Đất và sau đó ‘bắn’ chúng về trái Đất.
‘Chuyện viễn tưởng khoa học à?’ - bạn có thể hỏi vậy. Vâng, đúng là như vậy. Giống như ai
đó đang đi bộ trên mặt Trăng và nói chuyện với một ai đó ở một nơi bất kỳ trên trái đất bằng
thiết bị cầm tay.
Và khi nói chuyện về đi bộ trên mặt Trăng, hoàn toàn có thể hiểu được vì sao chương
trình vũ trụ của Trung Quốc lại nóng lòng nhằm vào mặt trăng với việc phóng thành công hai
vệ tinh nhân tạo mặt trăng và đang xây dựng ý định cho các cuộc đổ bộ bằng thiết bị robot và
con người. Tuy nhiên, điều lộn xộn đối với các tổ chức tư nhân không gian Mỹ, như trường
hợp của nhà tỷ phú Robert Bigelow lại là trong khi Trung Quốc bận rộn chuẩn bị cho việc
cắm cờ lên mặt Trăng thì nước Mỹ lại quay đi. Như Bigelow cảnh báo:
Vào thời điểm Trung Quốc bắt đầu làm việc này một cách có hệ thống tại những khu vực
then chốt trên mặt Trăng, thì có thể đã là quá muộn đối với các nước khác trong việc
cùng nhau tiến hành khảo sát để ngăn cản sự chiếm hữu toàn bộ (của Trung Quốc) những
nơi có nước, băng và những khu vực có giá trị khác.
Cuộc thoát hiểm Darwin
Bên cạnh vai trò là chất xúc tác cho đổi mới công nghệ và là nguồn cung cấp dồi dào
năng lượng và các khoáng sản tự nhiên, khảo sát vũ trụ còn có tiềm năng là chiếc van thoát
hiểm quan trọng trong kỷ nguyên bùng nổ dân số và biến đổi khí hậu. Nếu bạn nghĩ rằng đây
cũng lại là chuyện viễn tưởng khoa học thì hãy nghĩ lại. Như Michael Griffin, người điều
hành NASA đã nhận xét:
Mục đích này không chỉ là khảo sát khoa học … nó còn bao gồm việc mở rộng môi
trường sống của loài người từ trái Đất vào trong hệ mặt trời khi chúng ta bước vào các
thời kỳ … Trong dài hạn những loài chỉ sống được trên một hành tinh sẽ không thể tồn
tại. Chúng ta đã có những bằng chứng về điều này.
Còn đây là một cảm nghĩ được chia sẻ bởi nhà vật lý Stephen Hawking khi ông gõ những
dòng này trên máy tính của mình: “Cơ hội duy nhất để tồn tại lâu dài của chúng ta là không
chỉ ở lại và nhìn xuống mặt đất mà là phải phân tán vào vũ trụ.”
Tất nhiên, công cuộc chinh phục mặt Trăng, sao Hỏa và những hành tinh khác sẽ phải
mất nhiều thập kỷ nữa. Tuy nhiên, một trong những ưu thế mà Trung Quốc có hơn Mỹ là khả
năng tập trung cho dài hạn và suy tính cho nhiều thế hệ thay vì cho các cá nhân. Do cách nhìn
dài hạn này, vào thời điểm hiện tại, Trung Quốc có nhiều khả năng hơn bất cứ nước nào để
chinh phục thành công những tài sản có giá trị nhất trong vũ trụ. Câu hỏi mà chúng ta phải
quay lại là liệu việc Trung Quốc chiếm đoạt được những đỉnh cao tuyệt đối này có phải chỉ
được dùng cho các mục đích hòa bình hay không, hay ngược lại sẽ giúp họ chinh phục các
đối thủ. Đây là câu hỏi mà bây giờ chúng ta phải quay lại khi nhìn thấy kho vũ khí phòng thủ
của Trung Quốc đang lớn lên nhanh chóng cùng với những kế hoạch phát triển khả năng vũ
khí tấn công của họ.
Sự xuất hiện vũ khí không gian của Trung Quốc – Phòng thủ tốt
nhất là sự phòng thủ tốt[5]
Không gian vũ trụ sẽ được trang bị vũ khí ngay trong thời đại của chúng ta.
- Đại tá Yao Yunzhu, Học việc Khoa học quân sự, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc
Có lẽ bằng chứng rõ nhất về những ý định trang bị vũ khí cho vũ trụ của Trung Quốc có
thể được tìm thấy trong vô số những nguồn tài liệu công khai về vũ khí vũ trụ của vô số quan
chức và những nhà chiến lược quân sự Trung Quốc. Từ “tấn công plasma tiêu diệt các vệ
tinh quỹ đạo thấp” và “tên lửa tiêu diệt mục tiêu bằng động năng" cho tới “các vũ khí chùm
tia” và “các tên lửa đạn đạo trên quỹ đạo,” nội dung chung của các tài liệu này – mà đa số
trong đó đã được phân tích kỹ trong Ủy ban Trung - Mỹ - là phá hủy hoặc chinh phục các lực
lượng quân sự của Mỹ thông qua khai thác các điểm cao kiểm soát từ vũ trụ.
Ví dụ, đây là quan điểm hiếu chiến kiên định của Đại tá Li Daguang trong cuốn sách của
ông ta Vũ khí không gian. Bên cạnh việc biện hộ cho chương trình không gian của Trung
Quốc kết hợp sử dụng cho cả dân sự và quân sự vì các lý do kinh tế, Li cho rằng chiến lược
quân sự tối ưu là chiến lược phải làm được các việc sau:
Phá hủy hay làm vô hiệu hóa tạm thời mọi vệ tinh của kẻ thù bên trên lãnh thổ
của chúng ta, [triển khai] các loại vũ khí chống vệ tinh trên mặt đất và trong
không gian, các hệ thống phòng thủ chống lại các tên lửa của Mỹ, duy trì hình
ảnh quốc tế tốt của chúng ta [bằng cách che giấu việc triển khai và cất giữ] các
loại vũ khí tấn công không gian được giấu diếm và chỉ tung ra vào thời điểm xảy
ra khủng hoảng.
Sự tồn tại của những ấn phẩm kiểu này trong một thế giới được che đậy chặt chẽ của đảng
Cộng sản là một điều lạ lùng. Chúng không chỉ công khai mâu thuẫn với luận điểm chính
thức của giới lãnh đạo dân sự Trung Quốc mà chúng còn gây nhiễu loạn cho các chuyên gia
phân tích của Lầu Năm góc trong việc hình dung ra chính xác những điều gì đang diễn ra
đằng sau tấm màn trúc – và nước Mỹ cần có phản ứng như thế nào.
Có một khả năng là cả khối lớn tài liệu mô tả các phương thức để buộc chú Sam phải quỳ
gối này đơn giản chỉ là âm mưu để nhằm kích động Mỹ lao vào cuộc chạy đua vũ trang trong
không gian tốn kém. Một khả năng khác là những nguy cơ tương tự như điều mà đại tá Li là
thực tế; và, nếu không có những biện pháp đáp ứng đầy đủ thì nước Mỹ sẽ phải chịu tổn
thương, hoặc là theo kiểu tương tự như một trận Trân Châu cảng nữa, hoặc sẽ là kẻ thua cuộc
của một sự đã rồi.
Dù theo cách nào đi chăng nữa thì cũng có một điều rõ ràng là: Nước Mỹ hiển nhiên vẫn
còn giữ vị trí chiến lược cao trong không gian vào thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, nhiều người
sẽ hỏi rằng, vậy thì ai sẽ nắm giữ vị trí chiến lược cao này sau nhiều lần "ngày mai" nữa?
Từ vị trí chiến lược cao này, cả nền kinh tế và quân sự của nước Mỹ phụ thuộc nặng nề
vào hệ thống phức tạp gồm hơn 400 vệ tinh trên quỹ đạo cung cấp tất cả các loại thông tin, từ
do thám và dẫn đường cho tới viễn thông và đo đạc từ xa. Đây thực sự là một mạng lưới ấn
tượng giúp cho sức mạnh của nước Mỹ trở nên gần như siêu phàm trong con mắt của các đối
thủ.
Sử dụng lợi điểm trong không gian và hàng loạt ưu thế về vũ khí công nghệ cao, nước Mỹ
đã có thể tham gia vào hàng loạt các cuộc chiến tranh với tỷ lệ chênh lệch về thương vong rất
lớn. Trong khi chỉ có 150 lĩnh Mỹ chết trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, thì đã
có tới khoảng 30.000 – 56.000 lính Iraq bị tiêu diệt. Tỷ lệ chênh lệch về thương vong tương
tự như vậy cũng xảy ra trong cuộc tấn công của NATO do Mỹ điều hành vào năm 1999 trong
cuộc chiến tại Kosovo cũng như trong giai đoạn đầu chiến dịch chiếm lại Iraq vào năm 2003.
Bất kể bạn có quan điểm thế nào về những hành động quân sự này của nước Mỹ, sự thống
trị không gian “làm thay đổi cuộc chơi” của người Mỹ đã được Trung Quốc để ý. Thực tế,
cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 đã thường xuyên được Lầu năm góc coi như những
tiếng chuông báo động cho Bắc Kinh rằng ngay cả một đội quân lớn nhất thế giới, ở đây là
Trung Quốc, cũng có thể bị chinh phục bởi một đối thủ có số lượng ít hơn nhiều lần.
Tiêu diệt hay bịt mắt, câu hỏi từ Trung Quốc
Khi chương trình không gian của Trung Quốc được trao vào tay các tướng lĩnh, nó sẽ
chủ yếu phản ánh những nhu cầu chiến lược của Quân giải phóng nhân dân Trung
Quốc. Đây là trường hợp đã từng xảy ra ở Liên bang Xô Viết cũ, nơi mà lực lượng quân
sự cũng kiểm soát chương trình không gian của Liên Xô. Quan sát sự phát triển của các
hệ thống vũ khí chống vệ tinh đa dạng với việc sẵn sàng đưa các ứng dụng quân sự vào
trong chương trình không gian có người điều khiển, cùng với những lời dối trá, Trung
Quốc ngày càng theo đuổi mạnh mẽ hơn phương thức của Liên Xô cũ trong việc tìm kiếm
ưu thế thống trị về quân sự trong không gian vũ trụ.
—Richard Fisher, StrategyCenter.net
Theo quan điểm của Trung Quốc, có ít nhất hai biện pháp có thể sử dụng để đối phó với
ưu thế không gian của Mỹ. Cách thứ nhất là phá hủy một phần hay toàn bộ các chùm vệ tinh
của chúng ta. Cách thứ hai – cũng đạt được mục đích như vậy mà không cần phá hủy – đơn
giản là bịt mắt những con chim quan sát của chúng ta. Đối với những ai quan tâm lo lắng thì
sẽ có nhiều bằng chứng cho họ tìm hiểu về việc Trung Quốc đang phát triển các năng lực trên
cả hai phương diện này.
Trong lĩnh vực phá hủy các vệ tinh, Trung Quốc đã thực hiện thử nghiệm một số phương
pháp làm nổ tung – hay đúng ra là bắt cóc – các vệ tinh của Mỹ. Thử nghiệm này được bắt
đầu với một vụ nổ lớn và mờ ám vào tháng 1/2007, khi đó quân đội Trung Quốc đã bắn hạ
một vệ tinh cũ của mình trên bầu trời.
Đây là một vệ tinh thời tiết “đã đến hạn nghỉ hưu” đã từng bay mỗi ngày vài vòng quanh
trái Đất trong hơn một thập kỷ; nhưng đây cũng là một miếng mồi ngon cho loại tên lửa đạn
đạo xuyên lục địa cải tiến DF-21 được phóng từ căn cứ ở Xichang thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Tên
lửa này phóng ra một thiết bị tiêu diệt mục tiêu bằng động năng được điều khiển vào quỹ đạo
nhằm va chạm với mục tiêu vô tội; và khi va chạm, tất cả những thứ như đinh ốc, bù loong,
các tấm bảng, dây điện .. của vệ tinh cùng với hàng ngàn mảnh vụn của tên lửa tiêu diệt sẽ
tạo thành một đống rác vũ trụ lớn nhất thiên hà của chúng ta.
Ngày nay, bãi rác thải vũ trụ từ vụ phá hủy đó của Trung Quốc vẫn còn là mối hiểm họa
lớn cho các chuyến bay; Trung Quốc hiển nhiên là luôn sẵn lòng gây ô nhiễm cho không gian
vũ trụ giống như họ đã làm cho các sông ngòi và bầu khí quyển của họ. Hơn 2/3 trong số gần
3.000 vệ tinh và thiết bị bay trong quỹ đạo có nguy cơ va chạm với đám rác thải vũ trụ của
Trung Quốc. Thực tế, danh sách những nạn nhân tiềm tàng còn bao gồm cả trạm Vũ trụ Quốc
tế cùng phi hành đoàn, họ đã từng phải điều chỉnh quỹ đạo ít nhất một lần để tránh va phải
phần dày đặc nhất của đám rác vũ trụ Trung Quốc.
Khó có thể nói đây là dấu hiệu duy nhất thể hiện việc Trung Quốc đang phát triển các loại
vũ khí chống vệ tinh hay “ASAT” để hạ gục hệ thống GPS của Mỹ khỏi bầu trời. Tháng
1/2010, vũ khí vũ trụ của Trung Quốc đã bắn hạ một mục tiêu ở quỹ đạo thấp với độ cao
khoảng 150 dặm bằng một loại hỏa tiễn dùng nhiên liệu rắn đặt trên xe cơ động và một thiết
bị tiêu diệt bằng động năng va chạm kiểu mới được gọi là KT2. Và cần lưu ý rằng, KT2 là
công nghệ có tính đe dọa kép – là phương tiện phòng thủ chống tên lửa đạn đạo đồng thời có
thể phá hủy các hệ thống trên quỹ đạo.
Bên cạnh những vũ khí này dùng để phá tan các vệ tinh Mỹ trên bầu trời đêm, Trung
Quốc còn có loại vũ khí mới mang tên “Kẻ bắt cóc không gian”. Loại vũ khí này được thử
nghiệm vào tháng Tám năm 2010 khi hai vệ tinh của Trung Quốc có cuộc gặp nhau bí mật
trong vũ trụ. Mục đích của thử nghiệm là để tìm hiểu xem liệu một vệ tinh có thể thực hiện
cái được gọi giản dị là “cuộc gặp gỡ robot không hợp tác” với một vệ tinh khác không. Thế
giới vẫn còn chờ đợi để nghe từ Trung Quốc xem cuộc gặp gỡ có thành công không - mặc dù
các quan sát từ mặt đất cho thấy nó đã thành công. Và nếu công nghệ này được ứng dụng
thành công, bạn chỉ cần tưởng tượng ra viễn cảnh một phi đội những kẻ bắt cóc này được
tung ra để tóm gọn toàn bộ gia đình các vệ tinh của Mỹ.
Mù vì ánh sáng chói chang — Các vệ tinh của chúng ta cần bóng
tối trong một tương lai đầy ánh sáng
Họ cho chúng ta thấy laser của họ. Dường như họ đang dọa chúng ta.
—Gary Payton, Phó trợ lý Bộ trưởng về Không lực Hoa Kỳ phụ trách các chương trình
không gian.
Tất nhiên, bạn không nhất thiết phải phá hủy hay bắt cóc một vệ tinh của Mỹ để vô hiệu
hóa nó. Có một cách khác vừa lịch sự hơn và vừa bớt khiêu khích hơn là tạm thời “làm chói
mắt” hay đơn giản là làm mù vệ tinh. Trên đấu trường này, dường như Trung Quốc đang phát
triển những năng lực khủng khiếp của mình.
Thực tế, cuộc trình diễn mang tính khiêu khích kiểu này của đã bắt đầu vào mùa thu năm
2006. Như được đưa tin trong tạp chí Jane’s Defence Weekly, trong thời gian này, các vệ tinh
gián điệp của Mỹ đã “bất ngờ bị suy giảm hiệu quả” khi chúng “bay ngang qua Trung Quốc”.
Cũng vào thời điểm đó, các kính viễn vọng đặt tại bãi thử Reagan tại quần đảo san hô
Kwajelein, vùng Nam Thái bình Dương, đã phát hiện được ánh phản xạ từ các tia sáng laser
để xác nhận nguyên nhân và nguồn gốc từ Trung Quốc.
Ở mức độ rộng hơn, tạp chí The Economist đã viết, “Trung Quốc thường xuyên chiếu tia
laser cường độ mạnh lên trời để trình diễn khả năng làm lóa mắt hay làm mù vĩnh viễn các vệ
tinh gián điệp”. Tuy nhiên, phản ứng của Mỹ lại là im lặng - chủ yếu là do phải đối mặt với
những giới hạn về ngân sách khi lực lượng quân sự Mỹ đang vướng vào các cuộc chiến tranh
trên các chiến trường khác.
Tất nhiên, đối với những nước láng giềng của Trung Quốc như Nhật và Đài Loan thì khả
năng tiềm tàng bị mất cơ sở hạ tầng không gian để hỗ trợ cho hải quân Mỹ tiếp cận không
hạn chế vùng Tây Thái Bình Dương sẽ là rất đáng quan ngại.
Từ Buck Rogers[6] đến hệ thống hạt nhân quỹ đạo của Bắc Kinh
Trung Quốc tìm cách vượt lên trong cuộc chạy đua không gian tại châu Á hướng tới mặt
Trăng, đưa một tàu không gian vào quỹ đạo mặt trăng vào ngày 6/10 với mục tiêu chuẩn
bị cho một cuộc hạ cánh xuống mặt trăng trong vòng 2-3 năm tới … Chuyến bay được gọi
là Chang’e 2 (theo tên nhân vật nữ trong truyện dân gian Trung Quốc đã đi lên mặt
Trăng cùng với một con thỏ) đánh dấu sự phát triển nhanh chóng của công nghệ vũ trụ
Trung Quốc... Chuyến bay lên mặt Trăng của Trung Quốc, giống như mọi chương trình
không gian khác, có tiềm ẩn những ý đồ quân sự. Chương trình không gian của Trung
Quốc được kiểm soát bởi quân đội, vẫn liên tục tích lũy ngày càng nhiều kinh nghiệm về
viễn thông và đo đạc tầm xa, công nghệ tên lửa, và vũ khí chống vệ tinh thông qua các
chuyến bay như Chang’e 2.
—The Christian Science Monitor
Trong khi sử dụng không gian vũ trụ làm điểm quan sát các hoạt động quân sự của Mỹ và
vô hiệu hóa các hệ thống vệ tinh của Mỹ là những mục tiêu phòng thủ quan trọng trong
chương trình không gian của Trung Quốc, thì giá trị thực tế có thể lại là sử dụng không gian
làm căn cứ cho vũ khí tấn công quân sự. Các phương án bao gồm toàn bộ những thứ có thể,
từ việc ném những hòn đá lăn từ mặt trăng với sức mạnh đủ để tiêu hủy cả một trung tâm đô
thị trên trái Đất, các loại bom xung điện từ trường được thiết kế để vô hiệu hóa cơ sở hạ tầng
điện tử của chúng ta, và các loại vũ khí năng lượng được định hướng bắn từ không gian, cho
tới những quả bom H được đặt trên quỹ đạo và những con tàu vũ trụ có khả năng rải thảm hạt
nhân xuống bất kỳ thành phố nào trên trái Đất.
Thực tế, nếu Trung Quốc có thể ném một quả bom hạt nhân từ quỹ đạo thì điều đó chắc
chắn sẽ hiệu quả hơn nhiều so với việc phóng một đầu đạn giống như vậy từ sa mạc Gôbi. Đó
là vì những tên lửa phóng từ mặt đất phát ra những dấu hiệu về nhiệt rõ ràng để có thể phát
hiện sớm và do hành trình dài nên có thể theo dõi và đánh chặn được. Mặt khác, một quả bom
hạt nhân từ quỹ đạo chỉ cần một động cơ dùng không khí nén không thể phát hiện được để
phóng xuống từ không gian yên lặng. Sau đó, nhờ trọng lực nó có thể dễ dàng vượt qua
khoảng cách khoảng 200 dặm để rơi xuống tới bề mặt trái Đất trong khi đường đi của nó hầu
như không thể phát hiện được – cho tới khi biết thì đã quá muộn.
Để hỗ trợ cho các năng lực phòng vệ trong chương trình không gian của mình, Trung
Quốc đang xây dựng một cơ sở hạ tầng không gian khổng lồ. Cơ sở này bao gồm: một phi
đội với số lượng ngày càng tăng các con tàu vũ trụ lớn có nhiệm vụ theo dõi; những bãi
phóng vũ trụ và trạm mặt đất mới; hàng chục vệ tinh mới làm nhiệm vụ thông tin, tiếp âm, và
giám sát; và cuối cùng, nhưng chắc chưa phải là hết, là một hệ thống GPS cực kỳ đắt tiền của
riêng họ.
Hệ thống GPS của Trung Quốc có tên gọi là Beidou, được đặt theo tên gọi của chòm sao
Đại Hùng Tinh có đuôi kéo dài để làm dấu cho các thủy thủ biết hướng đi tới phương Bắc.
Việc Trung Quốc tung ra hệ thống GPS của riêng mình đối chọi lại với hệ thống của Mỹ là
dấu hiệu rõ ràng cho thấy những ý định quân sự của Trung Quốc. Hiện tại, Mỹ đang cung cấp
việc sử dụng GPS miễn phí cho toàn thế giới và không có lý do gì để bất kỳ một quốc gia nào
tiêu một khoản tiền lớn khủng khiếp xây dựng một hệ thống cho riêng mình - trừ phi nước đó
có ý định phá hủy hệ thống GPS của Mỹ hay nói cách khác có hành động quân sự chống lại
Mỹ.
Dường như không phải là chúng ta đã không được báo trước về các mối đe dọa của các
vũ khí phóng từ vũ trụ của Trung Quốc. Vào tháng 1/2001, Ủy ban an ninh không gian được
chỉ định bởi các ủy ban Nghĩa vụ quân sự của Hạ và Thượng viện đã kết luận rằng nước Mỹ
đang đứng trước nguy cơ nghiêm trọng của một trận “Trân Châu cảng không gian” và rằng
cần phải có hoạch định chiến lược gấp để cân bằng lại với sự phát triển các năng lực tấn công
của Trung Quốc (và cả nước Nga). Cùng chung số phận với nhiều lời cảnh báo khác, các kiến
nghị của báo cáo này đã không được xem xét đến một cách đầy đủ do sự kiện 11/9 khi lực
lượng quân sự Mỹ và các hoạt động tình báo đã phải chuyển hướng tập trung vào những nguy
cơ cấp chiến thuật với những kẻ thù thô sơ.
Cuộc chiến kết liễu Đài Loan: Ngăn chặn tiếp cận/Chống
xâm nhập
“Mục đích của đòn đánh bất ngờ và kinh sợ từ vũ trụ là nhằm ngăn chặn kẻ thù chứ
không phải khiêu khích kẻ thù lao vào các trận chiến. Vì lý do này, những mục tiêu được
lựa chọn của một đòn đánh cần phải ít và chính xác ... Điều này sẽ làm đảo lộn cơ cấu hệ
thống tổ chức vận hành của đối thủ và sẽ tạo ra tác động tâm lý lớn trong số những người
ra quyết định của đối thủ”.
— Đại tá Yuan Zelu, Quân giải phóng nhân dân
Đại tá Yuan đã hùng hổ vẽ ra viễn cảnh Trung Quốc về một trận Trân Châu cảng không
gian đối với chúng ta. Ông ta và nhiều nhà lãnh đạo diều hâu của Trung Quốc coi những loại
vũ khí chống vệ tinh, hệ thống laser làm mù GPS và các hệ thống bom hạt nhân trong quỹ
đạo, cùng hệ thống tên lửa đạn đạo chống hạm, một đội tàu ngầm lớn, các vũ khí tin học công
nghệ cao, cũng như các dạng thức khác nhau của vũ khí kinh tế sẽ là những quân cờ linh hoạt
trong ván cờ được sắp đặt để giành nước chiếu hết bất ngờ về chính trị đối với Mỹ trong khi
tránh được sự trả đũa do ưu thế vượt trội về chất lượng của lực lượng quân đội và vũ khí của
Mỹ.
Về tổng thể, Trung Quốc phát triển năm lĩnh vực vũ khí: trên đất, trên không, trên biển,
trên mạng tin học, và trong không gian để hỗ trợ cho chiến lược đã được Lầu Năm góc đề cập
tới trong các thông báo của mình như những giải pháp ngăn chặn tiếp cận/chống xâm nhập,
hay còn gọi là A2/AD (anti-access/area denial). Mục đích này là nhằm ngăn chặn hải quân
Mỹ tiếp cận tới các vùng gần bờ biển Trung Quốc để từ đó Trung Quốc có thể bành trướng
sức mạnh của mình ra khu vực.
Tất nhiên, nếu cỗ máy chiến tranh năm chiều của Trung Quốc có thể đẩy lực lượng hải
quân Mỹ ra ngoài vùng được gọi là “chuỗi đảo thứ hai” - một đường tưởng tượng chạy từ
Nhật Bản qua Guam xuống tới Indonesia, thì chính phủ dân sự của Trung Quốc có thể sẽ dễ
dàng nói với Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan và Việt Nam rằng cần vận hành nhà nước thế nào và
các nguồn tài nguyên sẽ phải được chia ra sao. Đây là một sự phát triển lạnh gáy, đặc biệt là
đối với Đài Loan, vì một khi chiến lược A2/AD của Trung Quốc được triển khai đầy đủ, hòn
đảo nhỏ của những người Trung Quốc tự do khi đó sẽ chỉ còn rất ít hy vọng được tồn tại độc
lập trước đại lục.
Vì sao ư? Vì chiến lược hiện nay của Mỹ là chỉ là ngăn ngừa quân đội Trung Quốc chiếm
Đài Loan bằng cách sử dụng những hàng không mẫu hạm của chúng ta. Nếu hạm đội Thái
Bình Dương của Mỹ thực tế bị đẩy ra ngoài chuỗi đảo thứ hai, quân đội Trung Quốc sẽ dễ
dàng nhấn chìm sức phòng ngự của Đài Loan bằng hàng ngàn tên lửa và đội quân với sức
mạnh vượt trội. Sau đó, Mỹ thực tế sẽ không thể có kế hoạch nào hay một giải pháp có tính
thuyết phục nào để tái chiếm lại hòn đảo từ một đội quân của Trung Quốc đã nấp kỹ trong
những dân thường. Đây là loại tình huống mà thuyền trưởng James T. Kirk từng mô tả trong
câu chuyện hài hước nổi tiếng về những kẻ bị treo cổ với câu nói: “Chúng ta tóm được họ ở
chính tại nơi họ truy nã chúng ta!”.
Những quan sát này đưa chúng ta quay lại với câu hỏi: Liệu sự vươn ra vũ trụ của Trung
Quốc có thực sự vì mục đích hòa bình? Xem xét chi tiết hơn những gì Trung Quốc thực sự
đưa lên vũ trụ sẽ cho thấy thậm chí còn nhiều hơn cả thuốc súng cho ngọn lửa quân sự.
Hãy đóng cửa trạm Vũ trụ! Người Trung Quốc đang đến
Vào ngày 27 tháng 9, tàu vũ trụ Shenzhou [Thần Châu] của Trung Quốc đã tiến đến
khoảng cách 45 km gần trạm Vũ trụ Quốc tế, và 2 trong số 3 phi hành gia đã thực hiện
cuộc đi bộ ra ngoài vũ trụ lần đầu tiên của Trung Quốc (bước ra ngoài tàu vũ trụ trong
bộ quần áo bảo vệ). Sau đó, một vệ tinh nhỏ nặng 40 kg (BX-1) đã được phóng từ tàu
Shenzhou. Có vẻ đây là một thí nghiệm khoa học, nhưng vấn đề là tàu Shenzhou đã tiến
đến quá gần trạm Vũ trụ Quốc tế, và sau đó phóng ra một vệ tinh cơ động nhỏ BX-1 có
thể lái được (nhờ những tia khí nén), đã cho thấy một bài tập phá hủy vệ tinh khác. Vệ
tinh BX-1 đã có thể dễ dàng được dẫn đến gần trạm không gian và phá hủy nó.
—James Dunnigan, StrategyPage.com
Mỗi lần Trung Quốc phóng một tầu Thần Châu có người điều khiển của mình, họ cũng
đều đặt vào quỹ đạo một môđun hình trụ lớn hoạt động tự động. Các môđun có kích thước
khoảng 2,7 x 3m; và do hoàn toàn không có sự minh bạch trong chương trình không gian của
Trung Quốc nên phần còn lại của thế giới tuyệt đối không có được chút ý tưởng nào về
những gì được chứa trong các môđun đó. Liệu đó có phải là bom hạt nhân? Thiết bị gián
điệp? Hay có khi chỉ là loại khoai tây đỏ vũ trụ hay một thí nghiệm trồng nhân sâm vô hại?
Ai biết được?
Còn đây là những gì chúng ta biết, ít nhất là về một trong số những chuyến bay Thần
Châu này. Sự cố này một lần nữa cho chúng ta thấy tận mắt những chiến thuật của một quốc
gia có thể dùng xe tăng cán lên những người biểu tình không bạo động - tới hai lần để đạt
mục đích của mình.
Chuyến bay Thần Châu 7 không chỉ đưa lên vũ trụ ba phi hành gia; nó cũng còn mang
theo một “vệ tinh siêu nhỏ” có tên gọi BX-1. Theo kế hoạch được lập cẩn thận nhưng vô
cùng nguy hiểm, tầu Thần Châu 7 - Thần Châu được dịch là “con tàu thần kỳ” – thực hiện
một nhiệm vụ không được công bố điển hình cho những cái đầu diều hâu chiến tranh của
Trung Quốc. Đây là cú lượn sát “ngang qua” trạm Vũ trụ Quốc tế của cả một con tàu đang
bay trên quỹ đạo.
Táo gan hơn nữa, các phi hành gia Trung Quốc cũng phóng vệ tinh siêu nhỏ BX-1 trước
khi nó bay ngang qua trạm Vũ trụ, có thể nó muốn thử làm một cuộc do thám nhỏ - hay có
thể, như nhà phân tích James Dunnigan đã giả định, tiến hành mô phỏng một cuộc thử vũ khí
chống vệ tinh. Trong quá trình này, Trung Quốc đã vi phạm khoảng cách gọi là “hộp giao
hội” mà theo đó những người điều khiển các chuyến bay của NASA có thể cần phải xem xét
dịch chuyển trạm vũ trụ - nếu họ biết có vật lạ đang tiến đến.
Để hiểu được sự kinh ngạc mà điều này gây ra tại NASA, bạn cần biết rằng các phi hành
gia Trung Quốc đi qua ngay phía dưới trạm Vũ trụ với khoảng cách chỉ 25 dặm, và vệ tinh bí
mật tí hon BX-1 có thể đã tiến tới gần đến khoảng cách chỉ 15 dặm. Khi bạn ở trong quỹ đạo
với chiều dài hơn 26.000 dặm trong không gian rộng lớn ba chiều và bay với tốc độ 18.000
dặm/h, thì đây là khoảng cách rất gần và cực kỳ nguy hiểm.
Để lên tiếng than phiền về sự nguy hiểm có thể xảy ra, đài truyền hình Trung Quốc thậm
chí đã đưa ra thông báo trong chuyến bay của vệ tinh siêu nhỏ 40 kg rằng “nó đã phải thay
đổi đường đi so với quỹ đạo định trước”. Điều này khó có thể làm hài lòng các nhà du hành
vũ trụ châu Âu và Mỹ đang ngồi trong chiếc thùng nhôm trị giá 100 tỷ đô-la quan sát vệ tinh
gián điệp của Trung Quốc và một đám phi hành gia Tàu đang ỏm tỏi tiến lại gần.
Đương đầu bất đối xứng với sức mạnh quân sự Mỹ
Một kẻ thù mạnh với ưu thế tuyệt đối không hẳn là không có những điểm yếu… Những sự
chuẩn bị quân sự của chúng ta cần nhằm trực tiếp vào tìm kiếm những chiến thuật để
khai thác những điểm yếu của một kẻ thù mạnh.
— Nhật báo Quân giải phóng nhân dân
Trước khi để cho Trung Quốc nổi lên trở thành mối nguy cơ trong vũ trụ, cũng cần xem
xét các năng lực vũ khí phòng thủ và tấn công đang lớn mạnh của họ trong một bối cảnh
chiến lược rộng lớn hơn. Thực tế, hòn ngọc vương miện của quá trình hoạch định quân sự tỷ
mỷ của Trung Quốc chính là sự tập trung vào cái gọi là “chiến tranh bất đối xứng.”
Các kỹ thuật chiến tranh bất đối xứng điển hình là sự đóng vai chàng David nhỏ bé yếu
hơn nhưng thông minh hơn so với gã Goliath khổng lồ về sức mạnh hay công nghệ. Trong
trường hợp của Trung Quốc, khi phải đối mặt với sự yếu thế rõ ràng về công nghệ - trái
ngược với ưu thế một đội quân hùng hậu – các nhà chiến lược Trung Quốc thường xuyên tìm
kiếm những phương thức bất ngờ và không tốn kém để vô hiệu hóa, phá hủy, hay đánh bại
bằng cách nào đó những sức mạnh công nghệ lớn nhất của Mỹ.
Ví dụ, chúng ta đã thấy một loại vũ khí chiến tranh bất đối xứng điển hình trong chương
8, “Chết bởi hải quân biển xanh”. Đây là một loại tên lửa đạn đạo chống hạm không đắt tiền
lắm có khả năng đánh chìm tàu sân bay của Mỹ - hay ít nhất làm cho nó phải khiếp sợ và
chạy ra ngoài chuỗi đảo thứ hai. Một ví dụ khác trong chương này là các loại vũ khí chống vệ
tinh có khả năng tháo dỡ dần mạng lưới vệ tinh GPS và viễn thông của Mỹ. Như nhà chiến
lược quân sự lớn nước Phổ Clausewitz đã từng nói, “Nếu các ngươi dùng những thành trì
vững chắc để che chở cho mình, các người đã buộc kẻ thù phải tìm ra giải pháp ở một chỗ
nào đó”.
Để hiểu được ý tưởng bằng cách nào mà các vũ khí rẻ tiền của Trung Quốc lại có thể
đương đầu trong tương lai với các công nghệ đắt tiền hơn nhiều của Mỹ, hãy xem xét thế cờ
thí quân (gambit) sau được nêu ra trong Sách Trắng quốc phòng Trung Quốc với tiêu đề
“Những phương pháp đánh bại GPS”:
Một tên lửa thời tiết thông thường không đắt tiền lắm có thể mang lên một quỹ đạo
dự định trước một quả bom chứa một lượng lớn các viên đạn chì nhỏ. Khi bom nổ,
những viên đạn chì nhỏ sẽ bay ra với tốc độ tới 6,4 km/s và phá hủy bất cứ thứ gì
nó gặp. Khi vài kg sỏi được ném vào quỹ đạo, chúng sẽ tấn công các vệ tinh giống
như những trận mưa sao băng và vô hiệu hóa những chòm sao GPS đắt tiền.
Đây chính xác là những loại vũ khí và kịch bản mà Trung Quốc đang phát triển thể hiện
sự dối trá trong các tuyên bố của mình về trinh phục vũ trụ vì hòa bình. Tất cả chúng ta đang
sống ở bên ngoài Trung Quốc cần luôn nhớ rằng sự “bay lên vì hòa bình” nghe rất hùng biện
này được thiết kế có chủ ý nhằm che đậy những ý định quân sự thực sự của Trung Quốc. Đại
tá Jia Junming đã làm rõ hơn những điều này khi viết ra rằng:
Trong tương lai chương trình vũ khí không gian của chúng ta cần ít gây ồn ào và
"mạnh mẽ ở bên trong" nhưng thể hiện ra ngoài nhẹ nhàng để duy trì hình ảnh
và vị thế quốc tế tốt đẹp.
Vào năm 2001 Ủy ban Không gian Mỹ đã cảnh báo: “Chúng ta đang được thông báo – nhưng
chúng ta đã không nhận ra”.
________________________________________
[1] The Dark Visitor là dịch nghĩa của chữ Hắc khách, phiên âm tiếng Hán của chữ hacker. ND
[2] Hacktivist – từ chữ activist là người hoạt động tích cực. ND
[3] The Manchurian Candidate (1959), của Richard Condon, là tiểu thuyết hành động chính trị về con của một gia
đình chính khách nổi tiếng của Mỹ bị tẩy não để biến thành sát thủ do đảng Cộng sản kích hoạt lúc cần. ND
[4] Loại đệm chế tạo bằng bọt nhựa xốp có khả năng bị nén theo tư thế của người nằm và khôi phục lại hoàn toàn
hình dạng ban đầu sau khi chấm dứt tác động. ND
[5] Nhại câu "Phòng thủ tốt nhất là tấn công tốt" để mỉa mai Trung Quốc luôn tuyên bố các hệ thống vũ trụ của
họ chỉ có mục đích phòng thủ. ND
[6] Tên nhân vật chính trong loạt truyện tranh, phim nhựa, truyền hình nhiều tập khoa học giả tưởng nổi tiếng của
Philip Francis Nowlan sáng tác từ năm 1928. Rogers bị chìm vào giấc ngủ 492 năm. Khi tỉnh dậy vào năm 2419
đã thấy có tàu vũ trụ và đang trong cuộc kháng chiến chống lại người Han chiếm đóng nước Mỹ. ND
No comments:
Post a Comment