Milovan Djilas
Giai cấp mới
Milovan Djilas (1911-1995)
Phạm Nguyên Trường dịch
Lưu ý: Vì không đưa được toàn bộ tác phẩm lên cùng một lúc cho nên phần chú thích có bị sai lệch.
Lời người dịch:
Milovan Djilas, nhà hoạt động chính trị Nam Tư, sinh ngày 12 tháng 6 năm 1911
tại làng Podbishtre, gần thành phố Kolashin, nước Cộng hoà Trenogori. Ông học
luật và văn chương tại trường tổng hợp Belgrad, vào Đảng cộng sản vào năm 1932,
lúc vừa tròn 21 tuổi. Ngay trong năm đó, ông đã bị chính quyền bắt tù vì tổ
chức biểu tình. Ông tiếp tục hoạt động sau khi được tha vào năm 1935 và gặp
Tito vào năm 1937, rồi trở thành một trong những người bạn chiến đấu thân cận
nhất của Tito trong Thế chiến II. Sau chiến tranh, Milovan Djilas được bầu làm
Phó tổng thống Nam Tư. Năm 1948, khi Nam Tư xung đột với Moskva về ý thức hệ,
ông được giao phụ trách công tác tư tưởng với nhiệm vụ chứng minh cách hiểu chủ
nghĩa cộng sản của Tito là đúng.
Nhưng cuộc đời thật trớ trêu, chính
việc phân tích một cách khoa học chế độ cộng sản ở Nam Tư đã cho thấy những mặt
trái của nó và suy rộng ra là mặt trái của chế độ chuyên chính vô sản nói
chung. Vì những hoạt động lí luận “ngược dòng” của mình, năm 1954 Milovan
Djilas bị khai trừ khỏi Đảng, bị tước hết các chức vụ, và năm 1955 thì bị xử tù
án treo. Tháng 12 năm 1956, Milovan Djilas bị xử ba năm tù giam vì ủng hộ cuộc
khởi nghĩa ở Hungary. Bản thảo tác phẩm
Giai cấp mới được Milovan Djilas hoàn thành trong tù, được bí mật gửi ra
nước ngoài và xuất bản ở New York năm 1957. Vì vụ này, ông bị kết án bảy năm tù
giam. Milovan Djilas được tha trước thời hạn vào năm 1961. Ngay sau đó ông cho
xuất bản từng phần tác phẩm Nói chuyện
với Stalin, và vì vậy năm 1962
lại phải ra toà một lần nữa. Năm 1966, Milovan Djilas được ân xá và được chính
phủ cấp lương hưu vì có công trong cuộc kháng chiến chống phát xít, nhưng vẫn
bị cấm xuất bản trên lãnh thổ Nam Tư, cấm phát biểu với giới báo chí trong thời
hạn 5 năm. Song điều đó không ngăn được ông tiếp tục sáng tác. Trong thời gian
từ 1970 đến 1986 ông bị cấm xuất ngoại. Năm 1982 ông lên tiếng ủng hộ Công đoàn
Đoàn kết Ba Lan, và trong những năm 1990 ông liên tiếp lên án chính sách của
chính quyền Milosevich. Trong số các tác phẩm của Milovan Djilas xuất bản từ
năm 1966 có thể kể thêm: Xã hội không
hoàn hảo, xuất bản năm 1969; Hồi kí của một nhà cách mạng, xuất bản
năm 1973 và Tito: chuyện nội bộ, xuất
bản năm 1980.
Milovan Djilas mất ngày 20 tháng 4
năm 1995, thọ 84 tuổi.
Giai cấp mới
được dịch sang tiếng Nga và được xuất bản trước hết theo lối Samizdat từ đầu
những năm 1960, sau đó in trong tập sách dưới nhan đề: Bộ mặt của chế độ toàn trị cùng với hai tác phẩm: Nói chuyện với Stalin và Xã hội không hoàn hảo. Lần dịch này có
tham khảo bản tiếng Anh The New Class –
an Analysis of the Communist System của A Harvest/HBI Book.
Lời
nói đầu
Tất cả những điều trình bày ở đây có
thể được viết theo một cách khác. Có thể được viết như câu chuyện về một trong
những cuộc cách mạng của thời hiện đại, hay như tường trình một quan điểm và
cuối cùng, như sự phản tỉnh của một nhà cách mạng. Vì vậy bạn đọc chớ lấy làm
ngạc nhiên khi thấy tất cả những điều đó, mỗi thứ một ít, trong những trang sau
đây. Đây có thể là sự tập hợp không đầy đủ những yếu tố vừa nêu – về lịch sử,
những ý kiến và hồi kí cá nhân, nhưng đấy chính là ý định của tôi: sử dụng
nhiều cách tiếp cận để vẽ lên mặt thật của chủ nghĩa cộng sản trong một tác
phẩm sao cho vừa ngắn gọn vừa đầy đủ nhất. Khía cạnh hàn lâm có thể bị thiệt
hai nhưng bức tranh lại đầy đủ hơn, sống động hơn.
Ngoài ra, hoàn cảnh của
tôi rất bấp bênh, tôi chỉ có thể làm chủ một phần bằng cách không khuất phục nó
mà thôi, cho nên tôi buộc phải vội vã viết ra những điều mình đã thấy và đã suy
tư, nếu có điều kiện làm việc một cách cẩn trọng hơn thì có thể bổ cứu, có thể
sửa đổi cả một vài kết luận nữa.
Nhận thức rõ tính vĩ đại của những
xung đột trong thế giới ngày nay, một thế giới đang quằn quại đổi thay và đang
hợp nhất, tôi không nghĩ rằng mình có thể phán những lời thông thái hay đưa ra
những bản kết án cuối cùng. Thiển nghĩ không người nào, không nước nào có thể
làm được việc đó. Tôi cũng không kì vọng hiểu cái thế giới bên ngoài thế giới
cộng sản mà tôi có may mắn hay là không may được sống trong đó. Và khi tôi nói
đến những lĩnh vực nằm ngoài biên giới của mình thì chỉ là để mô tả cái bên
trong một cách rõ ràng hơn mà thôi.
Tất cả những điều trình bày ở đây đã
được nói đến ở đâu đó, bằng những từ ngữ khác từ trước rồi. Cuốn sách này có
thể chỉ là một cách làm mới lại màu sắc, không gian và có thể bất ngờ làm nảy
sinh một tư tưởng độc đáo nào đó. Công việc của tôi chỉ là: nói theo cách của
mình những điều người khác đã biết, đã cảm hoặc có thể đã nói theo cách của họ
từ rất lâu rồi.
Độc giả chớ có tìm kiếm trong tác
phẩm này một luận thuyết xã hội học hay triết học, ngay cả ở những chỗ tôi buộc
phải sử dụng biện pháp khái quát hoá. Mục đích của tôi là dùng khái quát hoá để
mô tả thế giới cộng sản chứ không phải là để triết lí về nó, mặc dù đôi khi
khái quát hóa là việc không thể tránh được.
Tôi cho rằng tư biện là phương pháp
tốt nhất và cũng phù hợp nhất cho việc trình bày các tư tưởng của mình. Mặc dù
những trang ghi chép dưới đây không chứa nhiều các dẫn chứng, số liệu và sự
kiện, không có nghĩa là các kết luận được dẫn ra không thể chứng minh được bằng
cách ấy. Tôi muốn được vừa thảo luận vừa trình bày các quan sát của mình để đi
đến kết luận. Đấy cũng là do ước mong làm cho tác phẩm ngắn hơn và đơn giản
hơn, điều đó cũng phù hợp với câu chuyện và cách tư duy của cá nhân tôi.
Tôi, một trí thức đã đi trọn con
đường mà một đảng viên cộng sản có thể đi. Từ những chức vụ thấp nhất, từ các
tổ chức cơ sở cho đến quốc gia và quốc tế; từ việc thành lập một đảng cộng sản
chân chính, chuẩn bị cách mạng, đến việc tham gia xây dựng cái gọi là chế độ xã
hội chủ nghĩa. Không ai buộc tôi phải tham gia hay từ bỏ chủ nghĩa cộng sản.
Tôi đã tự quyết, theo niềm tin của mình, một cách tự do. Tôi không coi mình là
người thất vọng, tuy cũng có lúc như thế. Không, tôi đã tham gia một cách có ý
thức, đã trình bày bức tranh và đi đến những kết luận trong cuốn sách này. Càng
rời xa chủ nghĩa cộng sản, tôi càng tiến gần đến lí tưởng của chủ nghĩa dân chủ
xã hội. Cuốn sách nhất định thể hiện sự phát triển tư tưởng của chính tôi,
nhưng đây tất nhiên không phải là mục đích của tác giả.
Tôi cho rằng phê bình chủ nghĩa cộng
sản như là một tư tưởng là một việc làm không cần thiết. Tư tưởng bình đẳng và
bác ái tồn tại cũng lâu như chính loài người, được chủ nghĩa cộng sản ủng hộ
trên lời nói, vốn mang trong mình nó sức hấp dẫn vĩnh hằng đối với những chiến
sĩ tranh đấu cho tự do và tiến bộ. Sức hấp dẫn mang tính nhân bản của những lí
tưởng đó đã làm cho việc phê phán chúng trở thành không chỉ phản động mà còn
trống rỗng và vô nghĩa.
Tôi cũng không đi sâu vào chi tiết
trong việc phê phán các lí thuyết cộng sản, mặc dù tôi nghĩ rằng đấy là việc có
ích và cần làm lúc này. Trong tác phẩm, tôi chỉ tập trung mô tả đặc trưng của
chủ nghĩa cộng sản hiện đại, nếu có nói đến lí thuyết thì cũng chỉ ở những chỗ
chẳng đặng đừng.
Dễ hiểu là trong một tác phẩm ngắn
như thế này thật khó mà trình bày hết những điều tôi đã quan sát và những kết luận mà tôi đã rút ra
được. Việc phải dẫn ra nhiều khái quát cũng là đương nhiên.
Như vậy là, từ phía mình tôi đã
trình bày những điều cần thiết nhất trước khi bắt đầu câu chuyện, dù điều đó có
thể khó hiểu đối với độc giả sống trong một thế giới khác, thế giới phi cộng
sản, nhưng lại là dễ hiểu đối với người sống trong lòng chế độ cộng sản. Cả
những điều được mô tả trong cuốn sách cùng ý tưởng của nó đều không phải là
công của tôi. Tất cả đều là sản phẩm của thế giới mà tôi đang sống và tôi đang
phê phán. Tôi đã thấy và đã trình bày tất cả mà không ngượng ngùng khi thú nhận
rằng mình đã là sản phẩm của nó, có lúc đã là người tham gia xây dựng nó và bây
giờ là người phê phán nó.
Sự không nhất quán chỉ là bề ngoài.
Trước đây, cũng như hiện nay, tôi luôn đấu tranh để làm sao cuộc sống được hoàn
thiện thêm mỗi ngày. Dù cuộc đấu tranh của tôi không cho kết quả như ý: tôi vẫn
tiếp tục đấu tranh và trung thành với chính mình.
Nguồn
gốc
1.
Chủ nghĩa cộng sản, như ta đã biết,
có nguồn gốc sâu xa từ trong quá khứ, mặc dù “cuộc đời thực” của nó chỉ bắt đầu
cùng với sự phát triển nền công nghiệp hiện đại ở Tây Âu.
Cơ sở của lí thuyết cộng sản - vật
chất có trước và tất cả đều vận động - được kế thừa từ những nhà tư tưởng giai
đoạn trước đó không lâu. Nhưng chủ nghĩa cộng sản càng kéo dài, càng mạnh lên
thì vai trò của các nguyên lí nói trên càng nhỏ đi. Điều đó cũng là dễ hiểu:
sau khi nắm được “tay lái” nó chỉ còn đo thế giới bên ngoài bằng chính cái
thước của mình và không còn muốn vận động, không còn muốn thay đổi nữa.
Biện chứng pháp, chủ nghĩa duy vật
và sự biến đổi của thế giới không phụ thuộc vào ý chí của con người, đấy là
những hòn đá tảng của chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa Marx cổ điển.
Các lí thuyết gia cộng sản, trong đó
có Marx và Engels, không phát minh ra bất kì nguyên lí nào của học thuyết. Tất
cả các nguyên lí đều được “lấy từ bên ngoài” và được liên kết thành một hệ
thống đặt cơ sở cho một thế giới quan mới.
Luận điểm vật chất có trước được kế
thừa từ các nhà duy vật Pháp thế kỉ XVIII. Các nhà tư tưởng trước đó cũng đã
nói đến nó, thí dụ, Democritus của Hi Lạp cổ đại cũng từng trình bày học thuyết
này, dĩ nhiên là dưới một hình thức khác. Luận điểm về sự vận động như là kết quả
của cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập, hay như ta vẫn gọi là biện chứng pháp,
được kế thừa từ Hegel. Nhưng ngay cả điều này cũng đã được Heraclitus nói đến
ngay từ thời cổ đại.
Không đi vào chi tiết những sự khác
biệt nhất định phải có giữa chủ nghĩa duy vật lịch sử và biện chứng pháp
Marxist, cũng cần phải chỉ rõ rằng khi đưa ra luận điểm về sự vận động, Hegel
đã coi các qui luật tối thượng, gọi là “tư tưởng tuyệt đối”, là không thay đổi,
là bất biến. Đấy là luận điểm về những qui luật bất biến và không phụ thuộc vào
ý chí của con người, nói cho cùng, đấy là những qui luật điều khiển tự nhiên,
xã hội và con người.
Mặc dù Marx và Engels luôn luôn bảo
vệ luận điểm về sự vận động, nhưng đồng thời các ông cũng nhấn mạnh rằng các
qui luật của thế giới khách quan, thế giới vật chất là những qui luật bất biến
và không phụ thuộc vào ý chí của con ngưới. Theo Engels, Marx tin tưởng rằng
ông đã phát hiện ra những qui luật chủ yếu liên quan đến đời sống và vận động
của xã hội, tương tự như Darwin đã phát minh ra các qui luật của đời sống các
loài sinh vật vậy.
Không nghi ngờ gì rằng Marx đã tìm
ra một số qui luật vận động của xã hội, đặc biệt là những biểu hiện của chúng
trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản.
Nhưng sự kiện đó, dù đúng đến mức
nào, cũng không biện minh được cho niềm tin của những người cộng sản rằng Marx
đã tìm ra được tất cả các qui luật vận động của xã hội. Lại càng khó biện minh
hơn sự ngoan cố của họ trong việc thực hiện công việc cải tạo xã hội theo những
qui luật đó, tương tự như những người dựa vào các qui luật do Lamarck và Darwin
phát hiện để tạo ra những giống loài mới. Vì trong xã hội loài người luôn luôn
có những nhóm và những con người riêng lẻ đầy năng động và sáng tạo, hoạt động
một cách có ý thức, đấy không phải là thế giới sinh vật vô tri.
Việc chủ nghĩa cộng sản hiện đại hợm
hĩnh cho rằng dù chưa phải là tuyệt đối nhưng chủ nghĩa duy vật và biện chứng
pháp đã là những phát minh khoa học vĩ đại, hàm chứa mầm mống chế độ độc tài
một khi họ nắm quyền. Các tác phẩm của Marx, dù ông không thể tưởng tượng là
điều đó lại xảy ra, đã có sẵn cơ sở cho thói kiêu ngạo, hơm hĩnh nêu trên.
Dĩ nhiên là chủ nghĩa cộng sản hiện
đại không phủ nhận trật tự pháp chế khách quan, đặt nền tảng trên những qui
luật ổn định. Nhưng sau khi giành được quyền lực, trên thực tế, cộng sản đã
hành xử với xã hội và con người hoàn toàn khác. Quyền của nó đến mức nào thì nó
sẽ hành xử như thế ấy.
Như đã nói bên trên, tin rằng họ và
chỉ có họ mới nắm được các qui luật vận động của xã hội, cộng sản đã rút ra một
kết luận vừa đơn giản vừa phản khoa học là họ có toàn quyền can thiệp vào các
tiến trình xã hội, có toàn quyền điều khiển các tiến trình đó. Đấy là khuyết
tật đầu tiên của hệ thống cộng sản.
Hegel coi chế độ quân chủ chuyên chế
Phổ là hiện thân của “tư tưởng tuyệt đối” của ông. Cộng sản có cách hành xử hơi
khác. Họ tự coi mình là đại biểu cho những khát vọng khách quan của xã hội. Đấy
không chỉ là sự khác nhau giữa họ với Hegel mà còn là sự khác nhau giữa họ với
chế độ quân chủ chuyên chế, chế độ quân chủ chuyên chế chưa bao giờ tự hợm hĩnh
về mình đến như thế. Vì vậy mà chế độ ấy cũng chưa tuyệt đối chuyên chế như chế
độ cộng sản sau này.
2.
Theo thiển ý, chính Hegel cũng phải
lấy là kinh ngạc với những phát minh của mình: nếu tất cả đều biến đổi thì tư tưởng
của chính ông và xã hội mà ông muốn bảo vệ sẽ còn lại gì? Ông không thể, và như
một giáo sư phục vụ hoàng gia, không có quyền - dựa vào triết lí của mình - đưa
ra kết luận trực tiếp liên quan đến số phận của xã hội.
Marx lại là một trường hợp khác. Ngay
từ khi còn trẻ, Marx đã có cơ hội theo dõi cuộc cách mạng năm 1848. Ông có thể
và phải đi đến cùng với các kết luận rút ra được từ tư tưởng của Hegel đem áp
dụng cho các nhu cầu của xã hội. Chả phải là cuộc đấu tranh đẫm máu giữa các
mặt đối lập, một cuộc đấu tranh vì những điều mới lạ, cao cả hơn đã vừa làm
rung chuyển cả châu Âu đó ư? Đúng thế, dường như không chỉ Hegel - cái ông
Hegel được Marx “dựng dậy” đó, mà chính tất cả các triết lí cũ đã chẳng còn ý
nghĩa và chẳng cần cho ai nữa vì khoa học đã phát minh ra những qui luật, trong
đó có qui luật xã hội, với một tốc độ nhanh chưa từng có.
Chủ nghĩa thực chứng của Comte được
coi là phương pháp khoa học; trường phái chính trị kinh tế học Anh (Smith,
Ricardo...) đang nổi lên như cồn; trong các môn khoa học tự nhiên đầy rẫy những
phát minh mang tính thời đại; nền công nghiệp, dựa vào các hướng dẫn kĩ thuật
của các nhà nghiên cứu, đang lao lên phía trước với tốc độ chóng mặt; sự đau
khổ và những cuộc chiến đấu đầu tiên của giai cấp vô sản đã cho thấy một cách
rõ ràng “tật bệnh” của chế độ tư sản non trẻ. Vương quốc của khoa học, ngày
đăng quan của nó tưởng như đã cận kề, tưởng như chỉ cần dẹp bỏ cái rào chắn
cuối cùng, dẹp bỏ hình thức sở hữu tư bản chủ nghĩa là nhân loại sẽ bước vào
thiên đường của hạnh phúc và tự do.
Tất cả đếu đã “chín muồi” cho một
phát kiến vĩ đại. Marx có đủ, cả ý tưởng sâu sắc và lòng dũng cảm nữa. Lực
lượng xã hội mà ông có thể dựa vào cũng đã sẵn sàng, thậm chí đang ở kề bên[1].
Marx vừa là một nhà khoa học vừa là
một nhà tư tưởng. Như một nhà khoa học, ông đã có nhiều phát minh, đặc biệt là
tгоng lĩnh vực xã hội học. Nhưng với tư cách một nhà tư tưởng, ông còn giành
được những thành tích to lớn hơn rất nhiều: Marx đã trang bị tư tưởng cho những
phong trào với rất nhiều thành viên và đầy sức mạnh, đầu tiên là ở châu Âu và
nay đã lan sang tận châu Á nữa.
Chính Marx-nhà-bác-học hiểu rõ sự
phù phiếm của những dự định kiểu ấy, ông không bao giờ nghĩ đến việc tạo ra một
hệ thống triết học và tư tưởng bao trùm lên tất cả như thế. “C'est qu'il y a de
certain, c'est que moi, je ne suis pas marxiste”[2]– chính ông
đã nói như thế. Tính khoa học của các luận điểm của Marx là sự ưu việt của ông
so với những người xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có Owen, Fourier, v.v…
Việc ông không có ý định coi hệ thống triết học của mình là tuyệt đối đúng cho
đến muôn đời sau, không coi nó là một hệ tư tưởng vạn năng lại là một ưu việt
so với những đồ đệ của ông sau này, những người, trong trường hợp tốt nhất cũng
chỉ có thể được coi là các nhà tư tưởng chứ thật khó mà gọi được là các nhà
khoa học (Plekhanov, Labriola, Lenin, Kautsky, Stalin, v.v…). Hệ thống hoá
những điều Marx viết, đưa chủ nghĩa Marx thành một cấu trúc chặt chẽ chính là
niềm đam mê của họ: kẻ càng ít hiểu triết học, càng không quan tâm đến triết
học thì càng đam mê hơn. Thế vẫn chưa hết. Cùng với thời gian, những người kế
tục Marx đã coi và đã trình bày học thuyết của ông như một hệ thống khép kín,
như một thế giới quan toàn năng; họ tự xưng là những người kế tục sự nghiệp của
Marx, những người đã đưa các tư tưởng của ông vào thực tiễn. Khoa học càng ngày
càng nhường chỗ cho tuyên truyền. Điều đó lại cho phép tuyên truyền khoác lên
cho mình cái mặt nạ khoa học.
Là con đẻ của thời đại mình, Marx không công nhận triết học như nó vốn là.
Engels, người bạn gần gũi nhất của ông có lần đã cảm thán rằng, cùng với sự
phát triển của khoa học, triết học đã cáo chung. Luận điểm đó cũng không có gì
độc đáo. Cái gọi là triết học khoa học đã trở thành hiện tượng thời thượng,
nhất là sau khi chủ nghĩa thực chứng của Comte và chủ nghĩa duy vật của
Feuerbach được phổ biến rộng rãi.
Dễ hiểu vì sao Marx lại có quan điểm
tiêu cực đối với sự cần thiết, thậm chí khả năng tồn tại của một hệ thống triết
lí hữu dụng nào đó. Nhưng tại sao những đồ đệ của Marx lại cố gắng biến những
luận điểm của ông thành một hệ thống triết học thống nhất, bao trùm lên tất cả,
tạo ra từ đấy một hệ thống triết học duy nhất đúng, thì khó hiểu hơn. Trong khi
phủ nhận mọi hệ thống triết học khác, trên thực tế, họ đã “sáng tác” ra hệ
thống giáo lí “siêu” khoa học và “duy nhất đúng” như họ thường nói. Người cộng
sản đại diện cho những giai tầng, do vị trí xã hội của mình, không chấp nhận
bất cứ một quan điểm chính thống nào, lại xuất hiện vào đúng giai đoạn khi khoa
học đã trở thành nỗi đam mê của mọi người, khi khoa học đang xâm nhập vào tất
cả các lĩnh vực của sản xuất và đời sống, họ chỉ còn mỗi một cách: trở thành
những người duy vật, trở thành những “đại diện duy nhất” của những quan điểm và
phương pháp “duy nhất” khoa học để biến những quan điểm đó thành hiện thực.
Nếu Marx được “tiếp năng lượng” từ
“tinh thần” thời đại cộng với sự đam mê khoa học của một nhà-cách-mạng-bác-học
ước mơ tạo cho phong trào công nhân một cơ sở khoa học tương đối hoàn bị, thì
trong khi biến các quan điểm của Marx thành giáo điều, các đồ đệ của ông đã
hành động trong những điều kiện khác và với những mục đích khác hẳn.
Nếu lí thuyết được gọi là triết học
Marxist (chủ nghĩa duy vật biện chứng) không thể hiện nhu cầu của phong trào
công nhân châu Âu lúc đó, một phong trào đang rất cần một hệ tư tưởng mới, một
triết lí khép kín, thì nó cũng sẽ bị xếp xó vì thiếu độc đáo và không thật sự
sâu sắc, mặc dù trước tác của Marx được xếp vào loại những tác phẩm vĩ đại nhất
về kinh tế và xã hội học và có thể cũng rất hấp dẫn về mặt văn chương nữa.
Không phải tính khoa học, mà trước
hết là mối liên hệ với một phong trào và hơn nữa lại dựa trên tính khả dĩ của
những biến đổi xã hội đã làm cho triết học Marxist có sức mạnh như thế. Triết
học này giải thích và khẳng định rằng trật tự thế giới nhất định sẽ thay đổi.
Trước hết, và nhất định phải như thế, vì nó tự sinh ra cái đối lập với chính
mình, sinh ra kẻ đảo mồ chôn mình. Và thứ hai: giai cấp công nhân muốn và có đủ
sức thực hiện những thay đổi đó. Ảnh hưởng của môn phái triết học này nhất định
phải ngày một tăng; bên trong cũng như bên ngoài giai cấp công nhân đã xuất
hiện ảo tưởng rằng đấy là một nền triết học bách chiến bách thắng. Nhưng hoá ra
nếu không có những điều kiện phù hợp thì dù giai cấp công nhân ở đấy có phát
triển và phong trào công nhân có mạnh đến đâu (Anh, Mĩ), ảnh hưởng của trường
phái triết học này vẫn gần như không đáng kể.
Bó hẹp trong những luận điểm của
Hegel và chủ nghĩa duy vật, triết học Marxist có giá trị khoa học không lớn như
người ta cố tình gán cho nó. Nó chỉ có ý nghĩa thời đại trong vai trò của một
hệ tư tưởng của những giai cấp bị áp bức, đặc biệt là của các phong trào chính
trị. Ban đầu, ở châu Âu, nó có nghĩa là một hệ tư tưởng và một phong trào chính
trị, còn sau đó, ở Nga và châu Á, nó là một phong trào chính trị và một hệ
thống xã hội.
3.
Marx cho rằng sự cáo chung của xã
hội tư bản sẽ diễn ra trong cuộc quyết đấu giữa hai giai cấp: tư sản và vô sản.
Đối với ông, điều đó là đương nhiên; hơn nữa, trong chủ nghĩa tư bản thời kì đó
sự phân biệt giàu nghèo là rất rõ rệt, tạo ra những thái cực đối lập gay gắt và
cứ khoảng chục năm lại xảy ra những cuộc khủng hoảng kinh tế chu kì làm rung
chuyển toàn bộ xã hội.
Nói cho cùng, học thuyết của Marx
chính là sản phẩm của cách mạng công nghiệp và cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân. Không phải vô tình mà cảnh nghèo khổ đến cùng cực và điều kiện sống không
khác gì súc vật của quần chúng kèm theo sự bùng nổ trong công nghiệp được Marx
mô tả một cách đầy xót xa trong nhiều trang của cuốn Das Kapital (Tư bản luận), một tác phẩm quan trọng nhất của ông.
Một loạt các cuộc khủng hoảng, đặc trưng cho chủ nghĩa tư bản thế kỉ XIX, tình
trạng nghèo khó và sự gia tăng dân số đã đưa Marx đến kết luận hoàn toàn có cơ
sở: lối thoát duy nhất chính là cách mạng. Nhưng ông cũng cho rằng cách mạng
không nhất thiết phải xảy ra, nhất là đối ở những nước, nơi mà các thể chế dân
chủ đã là một truyền thống. Có lần ông đã chỉ rõ các nước như: Hà Lan, Anh và
Mĩ. Nhưng dù sao, về tổng thể, thì điều đặc biệt nhất trong quan niệm của ông
chính là học thuyết về tính tất yếu của cách mạng. Ông tin vào cách mạng, kêu
gọi cách mạng, ông là một nhà cách mạng.
Các luận điểm cách mạng của Marx mới
chỉ là giả định và hoàn toàn không phải là bắt buộc đối với mọi nước, mọi nơi;
Lenin đã biến các luận điểm đó thành nguyên lí tối thượng và vạn năng. Trong
tác phẩm The Infantile Disorder of
“Left-Wing” Communism (Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản),
một tác phẩm ít tính giáo điều nhất của mình[3], Lenin đã
“phát triển”, nói cách khác, đã sửa luận điểm của Marx ngay đối với các nước
vừa nói bên trên. Lenin khẳng định rằng điều Marx nói về nước Anh đã không còn
đúng nữa, trong thời gian chiến tranh (Thế chiến I) nước này đã trở thành quân
phiệt và vì vậy, giai cấp công nhân Anh chỉ có một lựa chọn: làm cách mạng. Sai
lầm của Lenin không chỉ vì ông đã không nhận thức được rằng “chủ nghĩa quân
phiệt Anh” chỉ là hiện tượng nhất thời, do chiến tranh tạo ra. Sai lầm lớn nhất
chính là quan niệm sai về sự phát triển của nước Anh và những nước phương Tây
khác, những nước đang tiến theo con đường dân chủ hoá và tiến bộ kinh tế. Lenin
cũng không hiểu được bản chất của phong trào công nhân Anh, một mặt, ông đánh
giá quá cao những tư tưởng “khoa học nhất” của mình, cũng có nghĩa là của Marx,
và mặt khác, không thấy hết những khả năng khách quan của phong trào công nhân
và vai trò của giai cấp công nhân trong xã hội. Dù không tuyên bố công khai,
nhưng chính Lenin đã bắt đầu coi lí thuyết của mình cũng như kinh nghiệm của
cách mạng Nga là vạn năng, có thể áp dụng cho tất cả mọi hoàn cảnh.
Theo quan điểm của Marx, cách mạng
sẽ diễn ra trước hết ở các nước tư bản đã phát triển. Kết quả của cách mạng sẽ
là xã hội xã hội chủ nghĩa, nơi con người sẽ có nhiều tự do hơn chế độ gọi là
chủ nghĩa tư bản tự do. Dễ hiểu là, tuy phủ nhận “kiểu” chủ nghĩa tư bản đó,
nhưng chính Marx lại là sản phẩm của thời đại tư bản tự do.
Chia sẻ quan điểm của Marx về việc
chế độ tư bản phải được thay thế bằng không chỉ chủ nghĩa xã hội, một hình thái
kinh tế - xã hội cao hơn mà còn tự do hơn, những người dân chủ xã hội có toàn
quyền tự nhận là đồ đệ của Marx. Ít nhất, họ cũng có quyền ngang với những
người cộng sản, những người cũng dựa vào Marx, nhưng chỉ khác là luôn khẳng
định rằng việc thay thế chủ nghĩa tư bản chỉ có thể được thực hiện bằng con
đường cách mạng. Nhưng cả hai, cả cộng sản lẫn dân chủ-xã hội, khi trích dẫn
Marx, đều không phải là những đệ tử chân truyền của Marx. Họ chỉ dùng Marx làm
tấm bình phong che đậy cho những hoạt động thực tiễn trong những hoàn cảnh đã
khác thời Marx rất xa.
Cùng trích dẫn và cùng dựa vào những
tư tưởng của Marx, phong trào cộng sản và phong trào dân chủ xã hội đã phát
triển theo những hướng hoàn toàn khác nhau. Nơi nào mà sự tiến bộ về chính trị
và kinh tế bị ngăn chặn, nói một cách khác, nơi nào vai trò khách quan của giai
cấp công nhân yếu thì nơi đó nhu cầu hệ thống hoá và giáo điều hoá học thuyết
của Marx lại tăng. Đã từng xảy ra như sau: ở một vài nơi, khi lực lượng kinh tế
và quan hệ xã hội càng chưa sẵn sàng cho phát triển công nghiệp (thí dụ, Nga,
sau đó là Trung Quốc) thì khía cạnh cách mạng của học thuyết Marxist lại càng
được vồ vập và sau đó thì biến thành giáo lí. Cánh cách mạng xuất hiện và sau
đó chiếm thế thượng phong trong phong trào công nhân. Chủ nghĩa Marx đóng vai
trò nòng cốt và sau thắng lợi của các mạng thì trở thành hệ tư tưởng chính
thống.
Còn nơi nào mà sự tiến bộ về chính
trị và kinh tế khắc phục được nhu cầu phải làm cách mạng (thí dụ, nước Đức) thì
khía cạnh kia, khía cạnh dân chủ và cải cách của chủ nghĩa Marx thắng thế. Đòi
hỏi cải cách và cùng với nó là xu hướng phi giáo điều hoá trong tư tưởng và
trong chính trị, là những đòi hỏi được chấp nhận và được thực hiện từng bước
một. Cánh cải cách xuất hiện và chiếm thế thượng phong trong phong trào công
nhân.
Trường hợp thứ nhất, dù chỉ là hình
thức, mối liên hệ với Marx ngày càng trở nên gắn bó hơn; sự phân li với Marx đã
diễn ra rất nhanh trong trường hợp thứ hai.
Trước hết là sự phát triển xã hội rồi
sau đó là quan hệ với tư tưởng đã đưa phong trào xã hội chủ nghĩa châu Âu đến
sự phân liệt không khoan nhượng và không thể nào khắc phục được. Đại để là sự
thay đổi của các điều kiện chính trị và kinh tế trùng hợp với sự thay đổi diễn
ra trong tâm trí của các lí thuyết gia xã hội chủ nghĩa đã làm cho họ hiểu và
lí giải chính hiện thực, dù là tương đối, nghĩa là chưa đầy đủ và phiến diện.
Lenin ở Nga và Bernstein ở Đức, đấy
chính là hai thái cực, thể hiện sự khác biệt hoàn toàn cả trong lĩnh vực phát
triển kinh tế xã hội lẫn phong trào công nhân.
Chủ nghĩa Marx “khởi thuỷ” chẳng còn
để lại gì: ở phương Tây người ta đã quên hoặc gần như thế; ở phương Đông, sau
khi cộng sản giành được quyền thống trị, biện chứng pháp và chủ nghĩa duy vật
Marxist chỉ còn là hình thức và trở thành giáo điều, được dùng để củng cố quyền
lực, được dùng để biện hộ cho sự đàn áp và nô dịch về tư tưởng. Chủ nghĩa Marx
thực chất cũng đã bị vất bỏ ngay cả ở phương Đông, nó càng ngày càng trở thành
một giáo lí sơ cứng. Đối với phần này
của thế giới, nó đã không còn là tư tưởng nữa, nó đã trở thành một thứ quyền
lực mới, một nền kinh tế mới, một hệ thống xã hội mới.
Dù Marx hay lí thuyết của ông có ảnh
hưởng như thế nào thì chính ông cũng không thể ngờ và không nghĩ rằng bước
ngoặt như thế lại có thể xảy ra. Tương tự như những người khác, nhà khoa học
lớn, người lí giải các qui luật vĩ đại đã bị lịch sử “đánh lừa”.
Sau Marx mọi sự đã diễn ra như thế
nào?
Trong các nước đã hoàn thành cách
mạng công nghiệp (Đức, Anh, Mĩ, v.v…), ngay từ những năm 70 của thế kỉ XIX đã
bắt đầu quá trình hình thành các công ty cổ phần và các tập đoàn độc quyền, mà
đỉnh điểm của nó kéo dài đến tận đầu thế kỉ XX. Điều đó đã được Gilferding,
Gobson và những người khác nghiên cứu. Dựa vào kết quả của những tác giả đó,
Lenin đã cho công bố một tác phẩm phân tích chính trị với nhan đề Imperialism, the Final Stage of Capitalism
(Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản) với những lời tiên
đoán mà phần lớn hóa ra là sai.
Sự bần cùng hoá một cách tương đối
và tuyệt đối giai cấp công nhân đã không diễn ra ở chính những nước mà Marx
nghiên cứu. Luận điểm của Marx lại được khẳng định ở những nước nông nghiệp
Đông Âu, điều này đã được Hugh Seton-Watson nhắc tới trong tác phẩm From Lenin to Malenkov (Từ Lenin đến
Malenkov - xuất bản ở New York năm 1953). Nếu Tây Âu đánh giá Marx chủ yếu vì
vai trò lịch sử và những đóng góp khoa học của ông, thì ở phương Đông, ông được
coi ông là nhà tiên tri của thời đại mới, còn học thuyết của ông thì trở thành
“thuốc phiện”, trở thành một loại tôn giáo mới.
Tình cảnh ở Tây Âu, tức là khu vực
có đóng góp vào lí thuyết của Marx và Engels được André Maurois mô tả trong tác
phẩm The History of England (Lịch sử
nước Anh) như sau:
Khi Engels đến Manchester vào năm 1842 ông đã thấy cảnh 350
ngàn công nhân chen chúc trong những khu nhà ổ chuột ẩm thấp và bẩn thỉu, họ
thở bằng bầu không khí đặc quánh như nước trộn với than vậy. Ông đã nhìn thấy
trong hầm lò những người phụ nữ cởi trần làm lụng không khác gì súc vật. Những đứa
trẻ phải đóng và mở những chiếc cửa thông gió trong tiếng gầm xé tai của đủ
loại động cơ. Có đứa còn phải làm cả những việc nặng hơn. Trong những xưởng
thêu sự bóc lột còn khủng khiếp đến mức ngay những đứa trẻ bốn tuổi đã phải làm
việc để chỉ nhận đồng lương chết đói”
Engels đã sống đến lúc nhìn thấy một
bức tranh hoàn toàn khác về nước Anh, nhưng ông còn thấy một bức tranh khủng
khiếp hơn, đấy là cảnh nghèo khó đến tuyệt vọng ở Nga, ở Balcans, chưa nói tới
châu Á và châu Phi.
Xét về mọi khía cạnh, những sự thay
đổi trong sản xuất do kĩ nghệ tạo ra ở phương Tây là sự kiện vô tiền khoáng
hậu. Những thay đổi đó đã dẫn đến việc hình thành các tập đoàn kinh tế độc
quyền và phân chia thế giới hành những khu vực ảnh hưởng của các tập đoàn đó,
cũng như của các nước đã phát triển. Đấy cũng là lí do dẫn đến Thế chiến I và
Cách mạng tháng Mười Nga.
Nhưng sự bùng nổ trong lĩnh vực công
nghiệp, công cuộc khai thác các thị trường mới và các nguồn nguyên liệu mới đã
tạo ra sự thay đổi căn bản trong địa vị của giai cấp công nhân. Lí tưởng cách
mạng đã nhường chỗ cho các phương pháp hữu hiệu hơn, có ý nghĩa hơn; trước hết
là những phương pháp nghị trường, nhằm cải cách và cải thiện điều kiện vật chất
của giai cấp công nhân. Ở đó, cách mạng đã trở thành vô nghĩa và không thực tế.
Các nước có nền công nghiệp lạc hậu,
trước hết là nước Nga, có hoàn cảnh khác hẳn. Họ chỉ có một sự lựa chọn: công
nghiệp hoá hay rút khỏi vũ đài lịch sử và trở thành miếng mồi ngon cho các nước
đã phát triển và các tập đoàn tư bản độc quyền mà kết quả không thể tránh khỏi
sẽ là sự thoái hoá. Tư sản địa phương, các giai cấp, các đảng phái ở đó đều quá
yếu, không thể nào giải quyết được vấn đề công nghiệp hoá đất nước. Cách mạng
trở thành tất yếu, thành nhu cầu sống còn của dân tộc. Chỉ có giai cấp vô sản
và đảng của nó là có đủ tinh thần và lực lượng để tiến hành cuộc cách mạng này
mà thôi.
Tham gia vào việc hoàn thiện và mở
rộng sản xuất là qui luật thường trực, nếu không nói là qui luật duy nhất của
mọi xã hội, mọi cá nhân. Muốn không bị lạc hậu họ phải trực diện với các xã hội
khác, trực diện với mâu thuẫn ngay trong nội bộ của mình. Quá trình phát triển
và mở rộng sản xuất nhất định sẽ gặp phải các trở lực, cả trở lực tự nhiên lẫn
trở lực do giai đoạn phát triển cụ thể của xã hội đó. Đấy là các trở lực do
hình thức sở hữu, do các quan hệ pháp lí và quan hệ quốc tế cùng nhiều quan hệ
khác tạo ra. Xã hội buộc phải loại bỏ dần các trở lực do tự nhiên gây ra. Tương
tự như vậy, xã hội, hay đúng hơn, các lực lượng đại diện cho các trào lưu phát triển
và mở rộng kinh tế nói trên phải hành động nhằm loại bỏ, biến cải và phá vỡ các
trở lực sinh ra từ bên trong hay đưa đến từ bên ngoài. Các giai cấp, các đảng
phái, các tư tưởng và hệ thống chính trị, tất cả đều là những biểu hiện của các
quá trình vận động hay ngưng trệ.
Không có xã hội hay dân tộc nào đồng
ý để sản xuất dẫm chân tại chỗ vì đấy là hiểm hoạ cho sự sống còn của chính họ.
Lạc hậu là tự
sát. Nhân dân không bao giờ tự nguyện chết, để loại bỏ các trở lực của quá
trình sản xuất, nghĩa là loại bỏ những hiểm hoạ đối sự tồn vong của mình, nhân
dân sẵn sàng chịu đựng mọi hi sinh.
Hoàn cảnh, các yếu tố vật chất và tinh thần đóng vai trò quyết định xem sự
phát triển và mở rộng sản xuất sẽ được thực hiện bởi lực lượng nào và bằng
phương tiện gì, cũng như hậu quả của tiến trình ấy. Nhưng quá trình sản xuất
được hoàn thiện và mở rộng dưới ngọn cờ nào, với sự tham gia của lực lượng nào
thì ít phụ thuộc vào con người, cũng như việc hình thành xã hội hay dân tộc
vậy. Để có thể tồn tại, xã hội và dân tộc sẽ tìm được các lãnh tụ phù hợp với
mục đích mà họ có trách nhiệm hoàn thành và có thể hoàn thành trong giai đoạn
đó. Tư tưởng cũng vậy mà thôi.
Chủ nghĩa Marx cách mạng xuất hiện ở phương Tây đã phát triển, trong giai
đoạn gọi là chủ nghĩa tự do tư sản đã “di cư” sang phương Đông (Nga, Trung
Quốc, v.v...) lạc hậu của thời kì chủ nghĩa tư bản độc quyền. Về nguyên tắc,
điều đó cũng phù hợp với trình độ phát triển của phương Đông và phương Tây, phù
hợp với hoàn cảnh của phong trào công nhân những nơi đó. Phong trào xã hội chủ
nghĩa bắt đầu bằng việc tập trung và chỉnh đốn (Quốc tế II) và kết thúc bằng
việc chia rẽ thành cánh dân chủ xã hội (cải cách) và cánh cộng sản (cách mạng),
với sự thành công của cách mạng ở Nga và việc thành lập Quốc tế III.
Trong các nước, nơi mà các biện pháp tiến hành công nghiệp hoá hoàn toàn
thiếu vắng, cách mạng cộng sản lại xảy ra do những nguyên nhân đặc thù của các
dân tộc đó. Cách mạng không thể nào xảy ra được nếu không có những nguyên nhân
đặc thù này. Ở nước Nga nửa phong kiến, phong trào cách mạng đã nổi lên trước
những người Marxist cả nửa thế kỉ. Để cách mạng bùng nổ cần phải có một số điều
kiện cụ thể đặc biệt về kinh tế, chính trị và quốc tế nữa. Nhưng ở những nơi
từng diễn ra cách mạng (Nga, Trung Quốc, Nam Tư) thì điều duy nhất cần lại là
nhu cầu thiết yếu nhất, tức nhu cầu cải tạo công nghiệp.
Phong trào xã hội chủ nghĩa ở châu Âu sau Marx không chỉ mang tính duy vật
và Marxist mà trên cơ sở đó đã xuất hiện và ngày càng phát triển nhận thức về
sự độc tôn tư tưởng của mình, đấy cũng là tất yếu lịch sử. Bên phía kẻ thù là
tất cả các lực lượng của xã hội cũ: tầng lớp tăng lữ và các nhà khoa học, sở
hữu tư nhân, chính quyền, nhưng quan trọng nhất là bộ máy đàn áp, vì thường
xuyên xảy ra chiến tranh nên bộ máy này lúc nào cũng sẵn sàng.
Người nào đó có ý định “lật nhào” cả thế giới này thì trước hết phải tìm
cách giải thích nó một cách căn bản và “không thể sai lầm”. Nếu sự độc tôn về
tư tưởng là điều cần cho mọi phong trào mới nổi thì đối với cách mạng nó lại là
biện pháp duy nhất có thể đưa tới chiến thắng. Nhưng nếu phong trào giành được
chiến thắng thì điều đó chỉ càng củng cố thêm niềm tin của nó vào chính mình và
tư tưởng của mình. Nếu thắng lợi của các cuộc bãi công và đấu tranh trong nghị
viện đã củng cố sức mạnh của cánh cải cách trong phong trào xã hội-dân chủ ở
Đức và ở một vài nước khác thì với giai cấp vô sản Nga, những người không thể
nào tưởng tượng được rằng họ có thể nhận thêm dù chỉ một xu mà không cần đổ
máu, lối thoát sẽ chỉ còn là: chiến đấu không khoan nhượng, đấy là cách duy
nhất để giải thoát con người ta khỏi nỗi tuyệt vọng và chết đói.
Các nước khác ở Đông Âu - Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungary, Rumania, Bulgaria -
không rơi vào hoàn cảnh như thế. Đấy là những nước không biết cách mạng là gì,
Hồng quân Liên Xô đã áp đặt hệ thống cộng sản lên đầu lên cổ họ. Những nước này
không cần, càng không cần phương pháp cộng sản trong việc cải tạo công nghiệp,
hơn nữa, một vài nước trong số đó đã hoàn thành cải tạo công nghiệp từ trước
rồi. Cách mạng đã được du nhập từ bên ngoài vào và từ trên xuống bằng báng súng
ngoại bang và bộ máy đàn áp cũng do chính những báng súng đó lập nên. Phong
trào cộng sản ở các nước đó, trừ Tiệp Khắc, vốn không có sức sống. Vì yếu, chế
độ cộng sản ở những nước này phải sao chép Liên Xô, cả về hình thức lẫn nội
dung. Liên Xô áp đặt cho họ hệ thống của mình, còn cộng sản địa phương thì hồ
hởi tiếp thu. Nơi nào mà phong trào càng yếu thì sự sao chép, bắt chước “anh
cả”- chế độ cộng sản toàn trị Nga - lại càng cẩn thận và tỉ mỉ hơn.
Các nước như Pháp và Ý, là những nước đã trải qua cách mạng công nghiệp,
nhưng đảng cộng sản ở đó vẫn tương đối mạnh là do tình hình khó khăn của những
nước này, họ không muốn rơi vào tình trạng lạc hậu so với các nước phát triển
khác và vì vậy, đã gặp phải một số rối loạn xã hội. Nhưng chính vì họ đã trải
qua quá trình dân chủ hoá và công nghiệp hoá và phong trào cộng sản ở đó cũng
khác với Nam Tư, Nga hay Trung Quốc nên cách mạng ở những nước này không và sẽ
không bao giờ có cơ may thành công. Sống và đấu tranh trong điều kiện của chế
độ dân chủ, chính lãnh đạo các đảng cộng sản đó không thể thoát khỏi được “ảo
tưởng” của chế độ đại nghị, còn khi nói đến cách mạng, nếu vần đề ấy xuất hiện,
thì họ lại nghĩ ngay đến phong trào cộng sản quốc tế và sự giúp đỡ của Liên Xô
chứ không hi vọng dựa vào lực lượng của chính mình. Trong khi cử tri cho rằng
các đảng này là đại diện cho những hi vọng, nỗi đau khổ và sự tức giận của mình
thì họ cũng lại ngây thơ tin rằng đấy chính là các chiến sĩ đấu tranh cho một
nền dân chủ rộng lớn hơn.
Xuất hiện trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành một nền công nghiệp
tiên tiến, chủ nghĩa cộng sản đã rút khỏi vũ đài hoặc tắt dần ở những nơi mà
quá trình này đã hoàn thành, nhưng nó hưng thịnh và phát triển, trở thành thực
tiễn ở những nơi mà quá trình ấy sẽ phải diễn ra.
Vai trò vừa nói của chủ nghĩa cộng sản trong các nước kém phát triển xác
định tính chất của những cuộc cách mạng cộng sản đã thành công tại những nước
đó.
Đặc điểm của cách mạng
1.
Những ai đã từng biết, dù không nhiều, lịch sử của các nước đã từng diễn ra
các cuộc cách mạng cộng sản đều thấy rằng ở đấy từng tồn tại nhiều đảng phái
không hài lòng với hiện tình của đất nước. Nổi bật nhất là nước Nga, nơi đảng
thực hiện thành công công cuộc cách mạng không phải là tổ chức cách mạng duy
nhất vào thời điểm đó.
Nhưng đảng cộng sản không chỉ có thái độ cách mạng đối với hiện tình đất
nước mà còn là lực lượng tỏ thái độ kiên quyết nhất, nhất quán nhất với tư
tưởng cải tạo xã hội theo hướng công nghiệp hoá. Trên thực tế, đấy chính là sự
tiêu diệt một cách triệt để quan hệ sở hữu cũ - lực cản trên đường dẫn đến mục
đích đã được lựa chọn. Không có đảng nào có thái độ quyết liệt như vậy đối với
quan hệ sở hữu, không có đảng nào có xu hướng công nghiệp hoá đến như vậy.
Nhưng ta vẫn chưa thể hiểu tại sao các đảng đó phải ghi vào cương lĩnh của
mình là các đảng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện lạc hậu của nước Nga Sa
Hoàng, sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa không những không có khả năng tiến hành
mà còn là lực cản đối với quá trình công nghiệp hoá. Vì quan hệ sở hữu này đang
nằm trong một nước với những di sản năng nề của chủ nghĩa phong kiến và trong
một thế giới, nơi các nước tư bản chủ nghĩa không muốn nhả khu vực nguyên liệu
rộng lớn và một thị trường đầy tiềm năng khỏi tay mình.
Phù hợp với quá khứ của mình, nước Nga Sa Hoàng không bắt kịp cuộc cách
mạng công nghiệp. Nga là nước duy nhất ở châu Âu không biết đến phong trào Cải
cách tôn giáo và Phục hưng, không có các thành phố châu Âu thời Trung cổ. Và
cái đất nước lạc hậu ấy, cái đất nước nửa nông nô với chính quyền độc tài
chuyên chế và chế độ tập trung quan liêu ấy đã bị ném vào vòng xoáy của nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới, vào mạng lưới của các trung tâm tài chính
quốc tế.
Lenin trong tác phẩm Imperialism, the
Final Stage of Capitalism (Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ
nghĩa tư bản) đã đưa ra các số liệu chứng tỏ rằng ba phần tư tài sản của các
ngân hàng lớn nhất tại Nga là do tư bản nước ngoài kiểm soát. Trotsky trong tác
phẩm Lịch sử cách mạng Nga nhấn mạnh
rằng người nước ngoài nắm giữ 40% cổ phiếu của nền công nghiệp Nga, trong các
lĩnh vực quan trọng thì tỉ lệ này còn cao hơn. Rõ ràng là người nước ngoài cũng
nắm giữ phần cốt yếu trong các ngành kinh tế chính của Nam Tư nữa. Bản thân
những thí dụ này không chứng tỏ được điều gì nếu không có sự kiện là trong khi
tư bản nước ngoài buộc những nước này đóng vai trò nguồn cung cấp nguyên liệu
và nhân công rẻ mạt, lại làm mọi cách nhằm ngăn chặn các nước đó phát triển.
Trên thực tế, người ta đã tiến hành chính sách giữ cho các nước đó ở mãi trong
tình trạng chậm tiến, thậm chí làm thoái hoá cả một dân tộc.
Như vậy là, một đảng nào đó nhận trách nhiệm tiến hành cách mạnh, thì về
mặt đối nội nó phải tiến hành chính sách bài tư bản, và về đối ngoại phải chống
đế quốc.
Tư sản dân tộc còn rất non yếu, chỉ đóng vai trò tay sai, đóng vai kẻ thừa
hành chính sách của tư bản nước ngoài. Gắn bó máu thịt với cuộc cách mạng công
nghiệp hoá không phải là giai cấp tư sản mà chính là giai cấp vô sản, giai cấp
xuất hiện do việc bần cùng hoá ngày càng nhiều tầng lớp nông dân. Nếu việc tiêu
diệt sự bóc lột dã man là vấn đề sống còn của những người đã trở thành vô sản
thì công nghiệp hoá lại là vấn đề sống còn của những người nông dân đang sắp
trở thành vô sản. Để có thể đồng thời thể hiện được quyền lợi của cả hai nhóm
này, phong trào phải đưa ra các tư tưởng, khẩu hiệu và lời hứa có xu hướng bài
tư bản, nghĩa là xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, đảng cách mạng không thể tiến hành cách mạng công nghiệp hoá mà
không tập trung vào tay mình toàn bộ nguồn nội lực, mà trước hết là những nguồn
lực thuộc quyền sở hữu của tư bản địa phương đang bị quần chúng căm ghét vì bị
bóc lột thậm tệ và bị đối xử một cách vô nhân đạo. Đảng cách mạng cũng phải có
thái độ tương tự đối với tư bản ngoại quốc.
Các đảng phái khác không có và cũng không thể có cương lĩnh tương tự như
vậy. Tất cả các đảng phái này đều bị quá khứ đè nặng, đều muốn giữ lại các quan
hệ đã trở nên trì trệ hoặc trong trường hợp tốt nhất thì cũng chỉ muốn tiến lên
một cách chậm chạp, một cách hoà bình mà thôi. Các đảng có xu hướng bài tư bản,
thí dụ, những người xã hội-cách mạng Nga kêu gọi quay trở lại với đời sống nông
nghiệp bán khai. Còn cương lĩnh của những người xã hội chủ nghĩa, thí dụ, những
người Melsevik Nga, cuối cùng cũng chỉ là loại bỏ bằng vũ lực những rào cản cho
sự phát triển tư bản chủ nghĩa, vì họ cho rằng chỉ có chủ nghĩa tư bản phát
triển mới tạo tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng ở đây vấn đề lại hoàn
toàn khác: đối với những nước này, quay trở lại hay phát triển tư bản chủ nghĩa
đều không thực tế, đều không thể thực hiện được.
Chỉ có đảng cổ động cho cuộc cách mạng bài tư bản và tiến hành công nghiệp
hoá nhanh chóng đất nước mới có cơ may giành được thành công. Ngoài ra, đấy rõ
ràng phải là đảng hành động theo các nguyên lí của chủ nghĩa xã hội. Và vì phải
hoạt động trong những điều kiện có sẵn như thế, cũng như phải hoạt động trong
phong trào công nhân hay phong trào xã hội chủ nghĩa, đảng này, về mặt tư tưởng
phải dựa vào học thuyết, một mặt, nhấn mạnh rằng công nghiệp hoá là tiến bộ và
không thể đảo ngược được và mặt khác, nhấn mạnh rằng cách mạng nhất định sẽ nổ
ra. Lí thuyết ấy đã có sẵn rồi, chỉ cần cải biến nó cho phù hợp là xong. Đấy là
chủ nghĩa Marx, khía cạnh cách mạng của chủ nghĩa Marx. Dựa vào chủ nghĩa Marx
cách mạng cũng như phong trào xã hội chủ nghĩa châu Âu đối với đảng ấy là điều
tự nhiên, cũng như sau này, trong quá trình phát triển của cách mạng và sự biến
đổi về cơ cấu trong các nước tư bản phát triển, nó nhất định sẽ li khai với các
đảng xã hội chủ nghĩa châu Âu vì những đảng này đã chuyển sang con đường cải
cách.
Cách mạng và công nghiệp hoá một cách nhanh chóng đòi hỏi rất nhiều hi
sinh, đòi hỏi những hành động bạo lực vô cùng dã man, lí trí không thể nào
tưởng tượng nổi, đòi hỏi không chỉ những lời hứa mà còn niềm tin vào Thiên đàng
trên trái đất nữa. Tiến theo nguyên tắc chung đó, theo con đường có ít chống
đối nhất đó, những người tiến hành cách mạng và công nghiệp đã rời bỏ các quan
điểm Marxist và xã hội chủ nghĩa, đã thay chúng bằng những điều ngược lại,
nhưng cũng không chối bỏ hoàn toàn được chúng.
Chiến thắng của những người cộng sản (Bolshevik) Nga không có liên quan gì
đến tính khoa học của các quan điểm của họ. Nếu tính khoa học là sự nhận biết
xu hướng phát triển của cách mạng và công nghiệp hoá thì phải nhận rằng đảng
Bolshevik đúng là một đảng có quan điểm khoa học. Nhưng nếu thế thì cũng phải
nói rằng bất cứ đảng nào nắm được xu thế phát triển cũng đều là đảng có quan
điểm khoa học cả[4].
Chủ nghĩa tư bản và những quan hệ tư bản chủ nghĩa là những hiện tượng tất
yếu, phù hợp với mức độ phát triển của xã hội, cũng như bất kì hình thức nào
khác mà nhờ đó xã hội thể hiện được các nhu cầu thường trực, cũng như khát vọng
mở rộng và hoàn thiện nền sản xuất của mình. Ở nước Nga, chủ nghĩa tư bản đã
cản trở qui luật này, trong khi ở nước Anh nửa đầu thế kỉ XIX, nó chính là lực
lượng bảo đảm cho qui luật đó vận hành. Ở Anh, muốn đưa nền sản xuất lên một
tầng cao mới, giai cấp tư sản bắt buộc phải thủ tiêu tầng lớp nông dân, nhưng ở
Nga thì chính các chủ doanh nghiệp (nghĩa là các nhà tư sản) lại là nạn nhân
của các mạng công nghiệp. Qui luật vẫn bảo toàn, dù hình thức thể hiện có khác
và với những diễn viên khác.
Chủ nghĩa xã hội, trong hệ tư tưởng là các khẩu hiệu, những hứa hẹn và
những lời có cánh, còn trên thực tế, là một hình thức quyền lực và sở hữu đặc
thù, trong những hoàn cảnh cụ thể, ở mức độ phát triển sản xuất cụ thể, tự đứng
ra nhận trách nhiệm tiến hành cuộc cách mạng công nghiệp, nhận trách nhiệm cải
tiến và mở rộng sản xuất cũng là một sự kiện tất yếu.
2.
Tất cả các cuộc cách mạng trước đây xảy ra là để phá bỏ hệ thống chính trị
cản trở sự phát triển của các quan hệ kinh tế hay quan hệ xã hội đã trở thành
chủ đạo trong xã hội.
Những cuộc cách mạng đó không thực hiện điều gì khác ngoài việc phá vỡ các
cơ cấu chính trị lỗi thời và dọn đường cho các lực lượng và quan hệ sản xuất đã
phát triển đầy đủ trong lòng xã hội cũ. Trong những trường hợp, khi các nhà
cách mạng (những người Jacobin, đứng đầu là Robespierre và Saint-Just trong
cách mạng Pháp) định dùng các phương tiện bạo lực để tạo lập những quan hệ kinh
tế - xã hội mới, thì hành động của họ không tránh khỏi thất bại và chính họ
cũng sẽ nhanh chóng bị loại bỏ.
Trong tất cả các cuộc cách mạng trước, đàn áp và bạo lực chỉ là hậu quả, là
phương tiện trong tay của các lực lượng và quan hệ kinh tế - xã hội đã nắm
quyền chủ đạo; và nếu trong cao trào của cách mạng, họ có sử dụng vũ lực một
cách thái quá, thì cuối cùng họ cũng buộc phải trở về với thực tế và khuôn khổ
cho phép. Đàn áp và khủng bố dù có vai trò tất yếu thì cũng chỉ là hiện thượng
có tính nhất thời.
Theo những điều đã trình bày ở trên, cũng như do những hoàn cảnh riêng biệt
đặc thù, tất cả các cuộc cách mạng, dù được tiến hành từ “dưới lên” như ở Pháp
hay từ trên xuống như dưới trào Bismark ở Đức, thì cuối cùng các cuộc cách mạng
ấy nhất định phải dẫn tới chế độ dân chủ về mặt chính trị. Dễ hiểu là vì sao:
“Nhiệm vụ chủ yếu” của các cuộc cách mạng đó là phá vỡ hệ thống chính trị
chuyên chế lỗi thời và thiết lập những mối quan hệ chính trị phù hợp với các
nhu cầu kinh tế hiện hành và các nhu cầu khác, phù hợp với nền sản xuất hàng
hoá tự do.
Các cuộc cách mạng cộng sản hiện đại được tiến hành trong những hoàn cảnh
khác hẳn.
Chúng được thực hiện không phải như một cuộc chuyển tiếp sang – ta gọi là
quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa – các quan hệ đã chín muồi, còn quan hệ tư bản
thì đã “chín nẫu” rồi, mà ngược lại, được tiến hành ngay khi chủ nghĩa tư bản
còn chưa phát triển, chưa sẵn sàng cho công cuộc công nghiệp hoá toàn bộ đất
nước.
Ở Pháp, chủ nghĩa tư bản đã nắm thế thượng phong trong nền kinh tế, trong
các quan hệ xã hội và ngay cả trong nhận thức của người dân từ rất lâu trước
khi cách mạng nổ ra. Không thể nói như thế về sự chín muồi của chủ nghĩa xã hội
ở Nga, ở Trung Quốc hay Nam Tư được.
Ngay các lãnh tụ cách mạng cũng nhận thức được điều đó. Ngày 7 tháng 3 năm
1918, giữa cao trào cách mạng, Lenin đã nhắc đến chuyện này tại đại hội bất
thường lần thứ VII của Đảng cộng sản Nga như sau:
… Một trong
những khác biệt chủ yếu của cách mạng tư sản và cách mạng xã hội chủ nghĩa là
đối với cách mạng tư sản vốn thoát thai từ chủ nghĩa phong kiến, trong lòng của
chế độ cũ đã hình thành dần dần các tổ chức, các tổ chức đó biến đổi một cách
từ từ tất cả các mặt của chế độ phong kiến. Trong khi thực hiện nhiệm vụ này,
mọi cuộc cách mạng tư sản chỉ làm mỗi một việc: đẩy nhanh sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản.
Cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở một vị thế hoàn toàn khác. Do những dích dắc của lịch sử, đất
nước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa càng lạc hậu thì giai đoạn chuyển
tiếp từ quan hệ tư bản chủ nghĩa sang quan hệ xã hội chủ nghĩa sẽ càng khó
khăn…
Sự khác nhau
giữa cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng tư sản là trong trường hợp sau đã có
sẵn các hình thức quan hệ tư bản chủ nghĩa, còn đối với chính quyền Xô Viết,
chính quyền vô sản, thì các quan hệ này chưa có sẵn, nếu không kể đến các hình
thức quan hệ tư bản đã phát triển, thực ra các quan hệ này mới bao trùm phần
chóp bu không đáng kể của nền công nghiệp, nó hoàn toàn chưa đụng chạm gì đến
ngành nông nghiệp.
Tôi trích dẫn Lenin, nhưng tôi cũng có thể trích dẫn bất kì lãnh tụ cách
mạng cộng sản nào khác, cũng như có thể trích dẫn rất nhiều học giả khẳng định
một chuyện hiển nhiên: chưa hề có “các quan hệ” cho chế độ mới. Chính quyền Xô
Viết phải xây dựng các quan hệ đó. Nói chung, cộng sản giành được chính quyền ở
các nước phải mất nhiều công sức thuyết phục, thảo luận và cố gắng “xây dựng
chủ nghĩa xã hội”, xây dựng các quan hệ mới mà ta tạm gọi là xã hội chủ nghĩa
để làm gì nếu những quan hệ này đã chín muồi trước khi cách mạng cộng sản giành
được thắng lợi?
Phân tích như thế, chúng ta đi đến kết luận, sau này mới thấy là có vẻ vô
lí: nếu các điều kiện cho xã hội mới chưa chín muồi thì làm cách mạng để làm
gì? Làm sao cuộc cách mạng ấy lại có thể xảy ra được? Làm sao nó lại có thể
đứng vững được, mặc dù các quan hệ xã hội mới chưa hề tồn tại trong lòng xã hội
cũ?
Cho đến lúc đó chưa có một cuộc cách mạng nào, chưa có đảng nào đặt ra cho
mình nhiệm vụ xây dựng các quan hệ xã hội, nghĩa là xây dựng một xã hội hoàn
toàn mới. Nhưng đây lại chính là tiền đề của các cuộc cách mạng cộng sản.
Về các qui luật chi phối sự phát triển của xã hội, các lãnh tụ cộng sản
cũng chẳng biết nhiều hơn những người khác, nhưng lại phát hiện ra rằng ở đất
nước mà họ có thể tiến hành cách mạng cũng có thể tiến hành công nghiệp hoá,
nghĩa là có thể thực hiện công cuộc cải tạo xã hội vì nó phù hợp với những giả
thuyết của họ. Cách mạng đã thành công trong những “điều kiện chưa chín muồi”
là một minh chứng. Xây dựng chủ nghĩa xã hội thì cũng vậy thôi. Điều đó càng
củng cố ảo tưởng rằng họ nắm được các qui luật phát triển của xã hội. Trên thực
tế, họ đã thiết kế một xã hội mới và bắt đầu công cuộc xây dựng, dù có khi thay
đổi, có khi bỏ bớt một số chi tiết, nhưng nói chung, họ vẫn tuân thủ thiết kế
chính.
Công nghiệp hoá là bắt buộc, là nhu cầu hợp pháp, nhu cầu không thể thoái
thác của xã hội, kết hợp với phương pháp tiến hành, phương pháp cộng sản chủ
nghĩa.
Nhưng cả hai điều đó, cùng đồng thời phải phát triển, lại không thể thực
hiện trong ngày một ngày hai, lại cần một khoảng thời gian dài. Sau cách mạng,
cần có lực lượng tiến hành công nghiệp hoá. Ở phương Tây, đấy là các lực lượng
kinh tế, nằm ngoài chính trị, đấy là chủ nghĩa tư bản. Các nước cộng sản không
có các lực lượng như thế, vai trò ấy được đặt lên vai các cơ quan cách mạng,
lên vai chính quyền mới, lên vai đảng cách mạng.
Trong các cuộc cách mạng trước đây, bạo lực cách mạng biến thành rào cản
cho phát triển kinh tế ngay sau khi trật tự cũ đã bị đập tan. Trong cách mạng
cộng sản, bạo lực là điều kiện cần thiết cho phát triển, thậm chí cho sự tiến
bộ của cách mạng. Các nhà cách mạng trước đây coi bạo lực là cái ác, là phương
tiện dẫn đến mục tiêu. Nhưng những người cộng sản lại nâng nó lên thành bái vật
và mục đích cuối cùng. Trong quá khứ, các giai cấp và lực lượng cấu thành xã
hội mới đã tồn tại từ trước khi cách mạng nổ ra. Cách mạng cộng sản phải tạo ra
cả xã hội mới, cũng như lực lượng cấu thành xã hội ấy.
Ở phương Tây, sau những “lầm lẫn” và “lệch lạc”, cách mạng nhất định sẽ dẫn
đến chế độ dân chủ, nhưng ở đây, ở phương Đông, cách mạng phải kết thúc bằng
chế độ độc tài. Các biện pháp đàn áp, khủng bố, các nhà cách mạng và các đảng
cách mạng trở thành thừa, thành vật cản đối với phương Tây sau cách mạng.
Phương Đông có quan điểm hoàn toàn ngược lại. Nếu ở phương Tây chế độc tài đi
kèm theo cách mạng dù sao cũng chỉ là hiện tượng tạm thời, thì ở phương Đông nó
phải kéo dài “tới muôn đời sau”. Điều đó không chỉ bởi vì không thể tiến hành
công nghiệp hoá trong một thời gian ngắn mà,
như ta sẽ thấy trong phần trình bày sau, nó còn kéo dài ngay cả sau khi công
nghiệp hoá đã thành công.
3.
Giữa cách mạng cộng sản và các cuộc cách mạng đã diễn ra trong quá khứ,
ngoài những điều đã trình bày, còn có một loạt khác biệt quan trọng nữa như
sau.
Những cuộc cách mạng trong quá khứ, mặc dù đã chín muồi trong kinh tế và
trong nhận thức xã hội, đã không thể nào xảy ra được nếu không có sự trùng hợp
nhất định của hoàn cảnh. Khoa học, về căn bản, đã xác định được những điều kiện
cần cho sự bùng nổ và chiến thắng của cách mạng. Phải nhấn mạnh rằng, bên cạnh
những điều kiện chung, mỗi cuộc cách mạng còn có những đặc điểm riêng, nếu
không tính đến và không nắm được những điều kiện đó thì cách mạng không thể xảy
ra và không thể thành công được.
Đối với các cuộc cách mạng xảy ra trong quá khứ, chí ít là đối với các cuộc
cách mạng lớn nhất, chiến tranh, hay nói đúng hơn, sự sụp đổ của quốc gia,
không phải là điều kiện kích hoạt bắt buộc. Đối với cách mạng cộng sản thì đây
là điều kiện căn bản, đảm bảo cho chiến thắng. Kết luận này đúng với cả trường
hợp Trung Quốc: cách mạng ở đó đã bắt đầu trước cuộc xâm lược của Nhật Bản,
nhưng đã kéo dài cả thập kỉ và chỉ thu được thắng lợi khi chiến tranh kết thúc.
Cách mạng năm 1936 ở Tây Ban Nha có thể đã trở thành một ngoại lệ, nhưng cuộc
cách mạng này đã không phát triển thành cách mạng cộng sản và không thu được
thắng lợi chung cuộc.
Cách mạng cộng sản cần chiến tranh, cần phá huỷ bộ máy nhà nước cũ là vì,
như đã nhấn mạnh ở trên, sự chưa chín muồi về kinh tế và xã hội. Để một nhóm
nhỏ, dù có được tổ chức tốt và có kỉ luật đi nữa, có thể nắm được chính quyền
thì cần phải phá bỏ toàn bộ hệ thống, đặc biệt là bộ máy nhà nước cũ, cần phải
tiến hành chiến tranh. Xin nói thêm: chiến tranh với cơ cấu quyền lực cũ và với
hệ thống quản lí nhà nước cũ, vốn đã trở thành người thua cuộc.
Trong Cách mạng tháng Mười, Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga chỉ có khoảng
200 ngàn thành viên[5]. Năm
1941, Đảng cộng sản Nam Tư có khoảng 10 ngàn đảng viên. Rõ ràng là, để có thể
giành được chính quyền thì bao giờ cũng cần sự ủng hộ tích cực của một bộ phận
dân chúng, nhưng trong mọi trường hợp, khi một đảng tiến hành cách mạng và
giành chính quyền lại có số lượng đảng viên không nhiều thì nó chỉ có thể kì
vọng vào những điều may mắn “từ trên trời rơi xuống” mà thôi.
Nói chung, một đảng như thế khi chưa nắm được quyền lực thì không bao giờ
có thể là đảng có đông đảng viên được.
Phá huỷ hoàn toàn trật tự xã hội cũ và xây dựng một trật tự mới khi các
điều kiện về kinh tế và xã hội chưa chín muồi là một nhiệm vụ cực kì khó khăn
và có vẻ không thực tế, cho nên đảng đó chỉ có thể lôi kéo được rất ít người,
chỉ những người tin tưởng một cách mù quáng vào khả năng biến nó thành hiện
thực mới ra nhập đảng mà thôi.
Những hoàn cảnh đặc biệt và một đảng đặc biệt chính là đặc trưng cơ bản của
các cuộc cách mạng cộng sản.
Mọi cuộc cách mạng, cũng như mọi cuộc chiến tranh, đều đòi hỏi sự tập trung
toàn bộ sức mạnh. Theo Albert Mathiez[6], cách mạng Pháp là cuộc cách
mạng đầu tiên mà “tất cả nguồn lực của nhân dân: con người, lương thực, vật tư
được tập trung vào tay chính phủ”. Cách mạng cộng sản, một cuộc cách mạng “chưa
chín muồi” còn đòi hỏi sự tập trung hơn thế nữa: trong tay của đảng không chỉ
là các giá trị vật chất mà còn cả các giá trị tinh thần, ngay đảng cũng bị
chính trị hoá và được tổ chức một cách tập trung ở mức độ cao nhất. Chỉ có
những đảng cộng sản đã cố kết về mặt chính trị và đoàn kết xung quanh trung
ương, không có chia rẽ về mặt tư tưởng mới có khả năng tiến hành cách mạng.
Nếu tiền đề chiến thắng của mọi cuộc cách mạng là tập trung tất cả lực
lượng và phương tiện cùng với sự thống nhất nhất định về chính trị của đảng
cách mạng, thì đối với cách mạng cộng sản, điều đó còn có ý nghĩa hơn nữa, bởi
vì ngay từ đầu nó đã loại trừ mọi nhóm hay chính đảng độc lập tham gia như đồng
minh của đảng cộng sản, đồng thời nó còn đòi hỏi chính những người cộng sản một
sự thống nhất hoàn toàn về chiến lược và sách lược, cũng như thống nhất về quan
niệm triết học và cả đạo đức nữa. Sự kiện là những người xã hội-cách mạng cánh
tả tham gia vào Cách mạng tháng Mười, cũng như những người không đảng phái và
các nhóm thuộc các đảng phái khác nhau tham gia vào cách mạng Trung Quốc hay
Nam Tư không những không phủ nhận mà còn khẳng định kết luận trên: những nhóm
đó chỉ là tay sai của cộng sản và đến một lúc nào đó họ sẽ phải tự giải tán
hoặc bị săn đuổi. Những người xã hội-cách mạng đã bị săn đuổi ngay khi có ý
định hoạt động độc lập, còn những nhóm không cộng sản ủng hộ cách mạng ở Trung
Quốc và Nam Tư thì trong thực tế đã tự ý thôi hoạt động chính trị ngay từ trước
rồi.
Các cuộc cách mạng trước đây không phải là “đặc quyền” của một nhóm duy
nhất nào. Trong cao trào của cách mạng, các nhóm khác nhau có thể chèn ép hoặc
tiêu diệt lẫn nhau, nhưng cách mạng không phải là sự nghiệp của một nhóm duy
nhất và cũng không kết thúc bằng việc thiết lập quyền thống trị lâu dài của
nhóm đó. Những người Jacobin ở Pháp chỉ có thể nắm giữ chế độ chuyên chế trong
một thời gian ngắn. Chế độ chuyên chế của Napoleon, sinh ra từ trong cách mạng,
đồng thời cũng là sự cáo chung của cách mạng và báo hiệu giai đoạn nắm quyền
của các tập đoàn tư bản lớn. Nếu trong các cuộc cách mạng trước kia, một đảng
đóng vai trò chủ đạo, các đảng khác vẫn tiếp tục hoạt động, cho dù một số có bị
cấm đoán và săn đuổi thì điều đó cũng không thể kéo dài vì không ai có thể tiêu
diệt được họ. Điều đó chỉ xảy ra trong các cuộc cách mạng cộng sản hiện đại về
sau này mà thôi. Ngay Công xã Paris, cộng sản vẫn coi đây là một cuộc diễn tập
của họ, thực chất là một cuộc cách mạng đa đảng phái.
Nếu một đảng nào đó, trong những giai đoạn nào đó của cách mạng, có đóng
vai trò chủ đạo hay vai trò đặc biệt đi nữa thì nó cũng không tập trung hoá về
tổ chức và tư tưởng như đảng cộng sản. Ngay những người Thanh giáo ở Anh hay
những người Jacobin ở Pháp cũng không bắt buộc phải có quan điểm thống nhất về
tư tưởng và triết học, mặc dù Thanh giáo là một tổ chức tôn giáo. Về mặt tổ
chức, Jacobin chỉ là liên hiệp các câu lạc bộ, đối với Thanh giáo thì ngay một liên
hiệp như vậy cũng không tồn tại. Chỉ có các cuộc cách mạng cộng sản thời hiện
đại mới làm cho sự thống nhất về tư tưởng và tổ chức của đảng trở thành qui
luật.
Một điều chắc chắn là: trong tất cả các cuộc cách mạng trước đây, sau khi
nội chiến và can thiệp từ bên ngoài kết thúc thì các phương pháp cách mạng cũng
như các đảng cách mạng đã không còn cần thiết nữa, đảng có thể bị giải tán.
Cách mạng cộng sản thì ngược lại, họ tiếp tục sử dụng các hình thức và biện
pháp cách mạng, còn đảng cộng sản thì trở nên tập trung hoá hơn bao giờ hết, tư
tưởng của đảng trở thành duy nhất đúng.
Lenin đặc biệt nhấn mạnh điều này trong tiến trình cách mạng (Trong Luận cương Hội nghị thứ II Quốc tế cộng sản,
phần “Điều kiện kết nạp vào Quốc tế Cộng sản”):
Trong giai đoạn
nội chiến khốc liệt hiện nay, đảng cộng sản chỉ có thể thực hiện được nhiệm vụ
của mình nếu được tổ chức một cách tập trung nhất, trong đảng phải có kỉ luật
sắt, bên cạnh kỉ luật thời chiến, nếu ban chấp hành trung ương là cơ quan quyền
lực có uy tín, được giao quyền lực rộng rãi và nhận được sự tin cậy của các
đảng viên[7].
Stalin còn nói thêm:
Trong điều kiện cuộc đấu tranh trước khi giành được chính
quyền chuyên chính, kỉ luật đảng đã là như thế. Sau khi giành được chính quyền
kỉ luật đảng càng phải được nâng cao hơn nữa[8].
Tinh thần cảnh giác cách mạng, những
đòi hỏi cấp bách về sự thống nhất về mặt tư tưởng, tính đặc thù về chính trị và
tư tưởng, chủ nghĩa tập trung, tất cả những điều đó đã không biến mất sau khi
giành được chính quyền, mà ngược lại, ngày càng trở thành gay gắt hơn, trầm
trọng hơn.
Trong những cuộc cách mạng trước,
giai đoạn áp dụng những biện pháp nghiêm khắc, giai đoạn tập trung quyền lực và
độc quyền tư tưởng chỉ giới hạn trong khoảng thời gian xảy ra các sự kiện cách
mạng. Đối với cuộc cách mạng cộng sản thì đây chỉ là bước khởi đầu của một nền
chuyên chế toàn trị của một nhóm người, của một nền thống trị không có hồi kết.
Bạo lực của các cuộc cách mạng
trước, ngay cả trong thời kì gọi là Khủng bố trong Cách mạng Pháp, dù không phải
lúc nào cũng công chính, nhưng chỉ nhằm trừ khử những kẻ thù thực sự chứ không
phải để loại bỏ những người có thể trở thành kẻ thù. Nếu không kể những cuộc
chiến tranh tôn giáo thời Trung cổ, việc tiêu diệt hay săn đuổi những tầng lớp
xã hội nhất định chỉ là những hiện tượng cực kì hãn hữu. Cộng sản thì khác,
nhận thức được rằng cả về lí thuyết và trên thực tế, họ xung đột với tất cả các
giai cấp và các hệ tư tưởng khác cho nên họ chiến đấu không chỉ chống kẻ thù đã
bị lật đổ nhưng vẫn còn sức sống, mà họ còn phải chống lại cả những kẻ thù giả
định nữa. Tại những nước vùng Baltic, người ta lập danh sách những người mà họ
cho rằng trước đây từng có cảm tình với các đảng phái khác và chỉ trong vài
ngày hơn một ngàn người[9] đã
bị đàn áp. Việc giết hại mấy ngàn sĩ quan Ba Lan[10] trong khu
rừng ở Katyn (Katyn Forest) cũng có cùng bản chất như thế. Sau khi cách mạng đã
xảy ra hàng chục năm, cộng sản vẫn tiếp tục áp dụng các biện pháp đàn áp, với
hình thức có vẻ tinh vi hơn, nhưng có thể còn trên diện rộng hơn cả trong những
ngày cách mạng (thí dụ, việc tiêu diệt địa chủ). Sau cách mạng, sự độc đoán và
bất dung về tư tưởng càng ngày càng tăng thêm. Nâng cao vai trò của tư tưởng
của chủ nghĩa Marx-Lenin đối với đảng cầm quyền là một xu hướng thường trực,
ngay cả khi nó tự ý hay buộc phải giảm nhẹ các biện pháp đàn áp trực tiếp.
Khi cuộc trấn áp cách mạng chấm dứt
thì các cuộc cách mạng trước đây, đặc biệt là cách mạng tư sản, liền hướng sự
chú ý sang việc khẳng định quyền tự do cá nhân. Ngay những người cách mạng cũng
coi việc đảm bảo các quyền công dân là một sự nghiệp có ý nghĩa trọng đại. Sự
độc lập của toà án luôn luôn được coi là thành quả của cách mạng. Chế độ cộng
sản ở Liên Xô, cũng như ở bất kì quốc gia cộng sản nào khác, sau bốn mươi năm
tồn tại cũng chưa hề nghĩ tới điều đó.
Nâng cao quyền công dân và người dân
được pháp luật bảo vệ là thành quả cuối cùng của các cuộc cách mạng trước đây.
Không thể nói như thế về cách mạng cộng sản.
Cuối cùng, còn một sự khác biệt lớn
nữa giữa các cuộc cách mạng trước đây và cách mạng cộng sản thời hiện đại.
Các cuộc cách mạng trước đây, đặc
biệt là những cuộc cách mạng lớn, nổ ra trong quá trình đấu tranh của các tầng
lớp lao động, nhưng thành quả thì lại thuộc về một giai cấp khác, thuộc về giai
cấp thực hiện việc lãnh đạo về mặt tinh thần và thường là cả về mặt tổ chức của
cách mạng. Thành quả của cuộc đấu tranh của những người nông dân và vô sản Pháp
bị giai cấp tư sản - cách mạng chính là biểu hiện quyền lợi của giai cấp này -
chiếm đoạt. Quần chúng cũng tham gia vào cách mạng cộng sản. Nhưng thành quả
lại không thuộc về họ mà thuộc về bộ máy quan liêu. Bộ máy quan liêu không phải
ai khác mà chính là cái đảng vừa thực hiện xong cuộc cách mạng. Trong cách mạng
cộng sản, các phong trào tiến hành cách mạng không biến mất. Cách mạng cộng sản
cũng “ăn thịt những người con của mình”, nhưng không ăn thịt tất cả.
Trên thực tế, ngay sau khi cách mạng
cộng sản thành công, nhất định phải xảy ra giai đoạn thanh toán nhau khốc liệt,
đầy phản trắc giữa các nhóm, các trào lưu có những quan điểm khác nhau về con
đường tiến lên của cách mạng.
Những lời kết án lẫn nhau luôn luôn
diễn ra xung quanh việc chứng minh một cách giáo điều rằng ai phản cách mạng
một cách “khách quan” hoặc “chủ quan” hơn, hoặc ai là tay sai của kẻ thù “bên
trong” hay tư bản quốc tế. Dù cách giải quyết những cuộc tranh luận có như thế
nào đi chăng nữa, chiến thắng vẫn thuộc về những người theo đuổi quá trình công
nghiệp hoá theo các nguyên lí của chủ nghĩa cộng sản - buộc nền sản xuất phải
phụ thuộc hoàn toàn vào đảng và các cơ quan nhà nước - một cách kiên trì nhất
và kiên quyết nhất. Trong khi ăn thịt những đứa con của mình, cách mạng cộng
sản có chừa lại một ít, đặc biệt nó không động đến những người quan trọng,
những người cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá trong tương lai. Thường thì
những nhà cách mạng tin tưởng một cách ngây thơ vào các khẩu hiệu và tư tưởng
của cách mạng, tin vào khả năng thực hiện các khẩu hiệu đó bị tiêu diệt trước.
Xu hướng coi ý nghĩa của cách mạng là củng cố chính quyền như công cụ của quá
trình công nghiệp hoá theo nguyên lí của chủ nghĩa cộng sản là xu hướng thắng
thế.
Cách mạng cộng sản là cuộc cách mạng
đầu tiên trong lịch sử mà một nhóm những người tham gia, đặc biệt là những
người lãnh đạo đã thọ được sau thắng lợi, đã sống sót sau khi những người đồng
chí của mình bị thủ tiêu. Trong những cuộc cách mạng trước đây, nhóm này nhất
định bị tiêu diệt. Cách mạng cộng sản là cuộc cách mạng đầu tiên được thực hiện
“vì lợi ích” của một nhóm trong số những người cách mạng. Họ và bộ máy quan
liêu, châu tuần xung quanh họ là những người được hưởng thành quả của cách
mạng. Đấy chính là lí do để cho họ cũng như đông đảo quần chúng giữ mãi ảo
tưởng về sự độc đáo của cách mạng, một cuộc cách mạng trung thành với chính
mình, với những khẩu hiệu được viết trên những là cờ của mình. Chẳng phải là
chính những người đó hay phần lớn trong số họ với những tư tưởng và khẩu hiệu
cũ hay đã biến dạng một phần, vẫn lãnh đạo đảng được trui rèn trước cách mạng
và nay là những người đứng đầu chính quyền giành được trong cách mạng đó ư?[11]
4.
Ảo tưởng về mục đích và khả năng
thực sự mà cuộc cách mạng cộng sản tạo ra không thể có sức mạnh và sức sống hơn
ảo tưởng của các cuộc cách mạng trước đây nếu như nó không đồng thời hé mở cho
người ta thấy một cách giải quyết hoàn toàn mới về quan hệ sở hữu, nói cách
khác, nếu kết quả của nó không phải là một hình thức sở hữu mới. Tất cả các
cuộc cách mạng trước đều ít nhiều tạo ra những biến động về quan hệ sở hữu.
Nhưng lúc đó chỉ là một hình thức sở hữu tư nhân này đã chén ép một hình thức
sở hữu khác. Bây giờ khác hẳn: đã xảy ra một sự biến đổi căn bản, triệt để, sở
hữu tư nhân bị một loại sở hữu trước đó chưa hề tồn tại, sở hữu tập thể, lấn
át.
Ngay trong tiến trình cách mạng, các
điền trang lớn cũng như các tập đoàn tư bản kếch xù, nghĩa là những sở hữu có
sử dụng lao động làm thuê đã bị tịch thu. Điều đó tạo ra niềm tin rằng lời hứa
của những người cách mạng về việc tạo dựng một thiên đàng của công bằng và bình
đẳng không phải là những lời nói suông. Đảng và chính quyền do đảng lãnh đạo
đồng thời tiến hành những bước tiến mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hoá, điều đó
càng củng cố thêm lòng tin của người dân: giờ giải phóng cho dân nghèo đã điểm.
Không cần phải giấu giếm, chuyên chế và bạo lực có mặt khắp nơi. Nhưng đấy chỉ
là hiện tượng nhất thời, trong khi các giai cấp bị tước đoạt còn kháng cự,
trong khi còn đủ mọi loại “phản động”, trong khi chưa cải tạo xong công nghiệp
mà thôi!
Quá trình công nghiệp hoá đã có một
số thay đổi. Công nghiệp hoá một đất nước lạc hậu lại không được sự trợ giúp,
ngược lại, còn bị bên ngoài cản trở, đòi hỏi phải tập trung trong tay nhà nước
tất cả mọi nguồn lực. Quốc hữu hoá các điền trang lớn, các tập đoàn tư bản lớn,
mới chỉ là bước đầu trong việc tập trung tài sản vào tay chính quyền mới.
Nhưng vấn đề chưa kết thúc ở đây. Và
cũng không thể kết thúc ở đây được.
Quan hệ sở hữu mới được hình thành,
cộng sản thường gọi sở hữu tập thể hay tài sản xã hội chủ nghĩa, đôi khi họ gọi
là tài sản nhà nước, nhất định sẽ mâu thuẫn với những hình thức sở hữu khác.
Tài sản mới này phải gánh vác nhiệm vụ chính của quá trình công nghiệp hoá và
vì vậy mâu thuẫn sẽ càng ngày càng gay gắt thêm. Tài sản của thợ thủ công, công
nhân, nông dân, người buôn bán nhỏ, nghĩa là tại những cơ sở không hề sử dụng
lao động làm thuê hoặc sử dụng không đáng kể cũng sẽ bị tập trung. Việc tịch
thu tài sản của những chủ sở hữu nhỏ được thực hiện ngay cả khi đấy không phải
nhu cầu kinh tế, nghĩa là nhằm nâng cao năng suất lao động.
Khi tiến hành công nghiệp hoá, người
ta đã tịch thu tài sản của cả những tầng lớp không có biểu hiện chống phá, thậm
chí còn giúp đỡ cách mạng. Nhà nước đã trở thành chủ sở hữu, trở thành người
quản lí cả những tài sản nhỏ bé đó. Tài sản tư nhân đã không còn hay đã bị thu
nhỏ đến mức vai trò của nó trở thành không đáng kể, đối với những người cầm
quyền mới thì việc tiêu diệt hoàn toàn sở hữu tư nhân chỉ còn là vấn đề thời
gian.
Trong nhận thức của những người cộng
sản và một số quần chúng thì đấy chính là việc thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp,
là thực hiện lí tưởng xã hội phi giai cấp. Trên thực tế, cùng với việc hoàn
thành công nghiệp hoá và tập thể hoá, các giai cấp cũ đã không còn. Trong mắt
của những người cộng sản thì ảo tưởng về xã hội phi giai cấp mà họ từng mơ ước
đã thành hiện thực. Họ tin như thế hay giả vờ tin như thế, mặc cho sự bất bình
của quần chúng, thậm chí họ còn tuyên bố một cách dối trá rằng đấy là “tàn dư
của quá khứ”, là “âm mưu của kẻ thù giai cấp”.
Tất cả các cuộc cách mạng, thậm chí
tất cả các cuộc chiến tranh đều tạo ra ảo tưởng. Ảo tưởng được tạo ra nhân danh
những lí tưởng không thể nào thực hiện được, nhưng với người chiến sĩ đang hăng
say chiến đấu thì đấy không phải là ảo tưởng, đấy chính là thực tế. Lí tưởng
bạc màu, ảo tưởng cũng thành sương khói ngay khi chiến cuộc vừa lụi tàn. Nhưng
cách mạng cộng sản thì khác. Ảo tưởng do nó tạo ra còn sống rất lâu trong lòng
những người đã từng chiến đấu vì lí tưởng và cả trong quần chúng nữa. Bạo lực,
chuyên quyền, cướp bóc trắng trợn, đặc quyền đặc lợi của tầng lớp nắm quyền,
tất cả những điều đó vẫn không làm cho một bộ phận dân chúng, đặc biệt là những
người cộng sản, giải thoát khỏi niềm tin mù quáng vào các khẩu hiệu của cách
mạng. Dù sao cũng vẫn là “chủ nghĩa xã hội”, dù bất ngờ và dã man thật nhưng
chúng ta “vẫn tiến được một bước về phía trước”... Niềm tin và hi vọng của con
người vẫn tiếp tục tồn tại ngay cả sau khi đã hoàn thành công nghiệp hoá.
Cách mạng cộng sản đã đưa ra những
lí tưởng tuyệt vời nhất, cao cả nhất, đã thực hiện những hành động anh hùng vô
song, đồng thời cũng gieo vào lòng người những ảo tưởng bền vững nhất.
Tất cả các dân tộc, bằng cách này
hay các khác, đều phải trải qua cách mạng. Các cuộc cách mạng, tuy không thường
xuyên, nhưng nhất định phải diễn ra. Cách mạng sẽ đưa đến chế độ chuyên chế, nhưng
đồng thời lại dẫn dắt các dân tộc vào con đường mà trước đó họ chưa từng dám
bước chân vào.
Cách mạng cộng sản không thực hiện,
không thể thực hiện được những lí tưởng mà nó từng giương cao trong cuộc đấu
tranh. Nhưng nó đã đưa những vùng đất rộng lớn ở châu Á và châu Âu lên con
đường văn minh hiện đại. Nó đã tạo ra tiền đề vật chất cho một xã hội tự do hơn
trong tương lai. Nếu cách mạng cộng sản đã tạo ra chế độ độc tài tuyệt đối thì
đồng thời, cũng tạo ra tiền đề để loại bỏ nó trong tương lai. Nếu thế kỉ XIX đã
tạo ra nền công nghiệp hiện đại cho phương Tây, thì thế kỉ XX sẽ làm điều đó
cho phương Đông. Cái bóng khổng lồ của Lenin đã bao trùm lên một không gian
rộng lớn trên lục địa Á-Âu trong suốt gần một trăm năm qua. Cùng với chế độ độc
tài ở Trung Quốc hay chế độ dân chủ ở Ấn Độ và Burma, tất cả các dân tộc châu Á
và không chỉ các dân tộc châu Á đang tiến những bước vững chắc trên con đường
công nghiệp hoá. Cách mạng Nga đã khởi đầu quá trình này và vì vậy, ta có thể
nói đến giá trị không bao giờ phai mờ của nó.
5.
Từ những điều đã trình bày, có thể
có cảm tưởng rằng cách mạng cộng sản luôn luôn là một sự tình cờ có tính lịch
sử và một sự lừa dối vĩ đại. Theo một nghĩa nào đó thì lí do như sau: không có
cuộc cách mạng nào lại đòi hỏi những hoàn cảnh đặc biệt đến như thế và cũng
không có cuộc cách mạng nào hứa nhiều như thế mà lại làm ít đến như thế.
Thói mị dân, những lời nói quanh co,
không nhất quán là đặc trưng của các lãnh tụ cộng sản, nhất là khi họ buộc phải
hứa hẹn một xã hội siêu lí tưởng và “thủ tiêu tất cả áp bức, bóc lột”.
Nhưng cũng không thể nói rằng cộng
sản đã lừa nhân dân, không thể nói rằng họ đã cố tình đánh lừa rồi sau không
chịu thực hiện. Sự thật đơn giản là: họ không thể thực hiện được điều mà chính
họ đã nhiệt liệt tin tưởng. Dĩ nhiên là họ không nhận như thế, họ không dám
nhận ngay cả khi buộc phải hành động trái ngược hẳn với những điều đã hứa một
cách thực tâm. Theo họ, công nhận điều đó cũng có nghĩa là công nhận rằng cách
mạng là vô ích. Và như thế, chính họ sẽ là những người vô tích sự. Chuyện đó
thì không thể xảy ra được, nhất là đối với họ.
Kết quả cuối cùng của những xung đột
xã hội không bao giờ giống và không thể giống với những điều đã được những
người tham gia hoạch định từ trước, vì nó phụ thuộc vào một loạt hoàn cảnh mà
trí tuệ và kinh nghiệm của con người không thể nắm bắt hết được. Điều đó còn
đặc biệt đúng đối với những cuộc cách mạng đỏi hỏi những nỗ lực phi thường,
những cuộc cách mạng thực hiện những thay đổi tận gốc rễ, tạo ra niềm tin tuyệt
đối rằng sau chiến thắng sẽ là cuộc sống tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người.
Cách mạng Pháp được thực hiện nhân danh lí trí, với niềm tin rằng tự do, bình
đẳng và bác ái nhất định sẽ tới. Cách mạng Nga được thực hiện nhân danh “thế
giới quan khoa học”, vì một xã hội không còn giai cấp. Nhưng cả hai cuộc cách
mạng đó không thể nào thắng lợi nếu những người cách mạng và cùng với họ là một
bộ phận quần chúng không tin tưởng vững chắc vào lí tưởng của mình.
Niềm tin viển vông của những người
cộng sản vào khả năng của họ sau cách mạng còn lớn hơn cả niềm tin của những
người mà họ dẫn dắt. Công nghiệp hoá là không thể tránh, người cộng sản có thể
biết và đã biết điều đó, nhưng hậu quả của nó đối với xã hội và các quan hệ xã
hội thì họ không biết, họ chỉ có thể đoán mò mà thôi.
Các nhà sử học chính thức ở Liên Xô
và Nam Tư thường mô tả cách mạng như là kết quả của những hành động được tính
toán kĩ lưỡng từ trước. Nhưng thực ra, chỉ có phương hướng cách mạnh và đấu
tranh vũ trang là được hoạch định, còn hình thức sẽ nảy sinh trong quá trình
thực hiện, trong những hoàn cảnh cụ thể. Lenin rõ ràng là một trong những nhà
cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử cũng không tưởng tượng được cách mạng sẽ nổ
ra khi nào và dưới hình thức nào, ông cũng chỉ nắm được điều đó qua thực tiễn
của cuộc đấu tranh. Tháng 1 năm 1917, trước Cách mạng tháng Hai đúng một tháng
và trước Cách mạng tháng Mười, cuộc cách mạng đã đưa ông đến quyền lực, có 10
tháng, trong buổi thuyết trình trước các đảng viên xã hội Thuỵ Sĩ, ông đã nói
như sau:
Những người già cả chúng tôi có lẽ sẽ không được nhìn thấy
những trận chiến quyết định của cuộc cách mạng tương lai. Nhưng tôi có thể nói
một cách tin tưởng rằng, các bạn trẻ đang hoạt động tích cực trong phong trào
xã hội ở Thuỵ Sĩ và trên toàn thế giới sẽ có may mắn không chỉ đấu tranh mà còn
chiến thắng trong cuộc các mạng vô sản trong tương lai[12].
Có cần thảo luận việc Lenin hay bất
kì một người nào khác có thể dự đoán được những hậu quả xã hội của cuộc cách
mạng, tiên đoán được những quan hệ sẽ hình thành trong và sau khi cuộc đấu
tranh phức tạp và kéo dài ấy kết thúc hay không?
Mặc dù mục tiêu của chủ nghĩa cộng
sản là phi thực tế, nhưng khác với những người cách mạng trong quá khứ, người
cộng sản tỏ ra rất thực tiễn trong việc thực hiện vai trò lịch sử của mình. Họ
đã tiến hành công nghiệp hoá bằng một biện pháp duy nhất có thể: thiết lập chế
độ toàn trị tuyệt đối.
Với cách mạng cộng sản, lần đầu tiên
trong lịch sử, những người cách mạng không biến mất khỏi vũ đài chính trị mà
còn tiến hành xây dựng các quan hệ xã hội mới, trái ngược hẳn với những gì họ
từng tin và từng hứa với một tinh thần thực dụng cao độ, mặc dù không giải
thoát hoàn toàn khỏi những ảo tưởng của thời tiền cách mạng. Trong quá trình
cải tạo và cộng nghiệp hoá, cách mạng cộng sản đã biến chính các nhà cách mạng
thành chủ nhân và người sáng tạo của xã hội mới.
Những dự đoán cụ thể của Marx và của
Lenin về việc xây dựng một xã hội tự do, phi giai cấp thông qua chuyên chính vô
sản tỏ ra là không chính xác. Nhưng công cuộc công nghiệp hoá xã hội trên cơ sở
của nền công nghệ hiện đại thì đã thành hiện thực.
Khác với các qui luật khách quan,
tức là những qui luật khẳng định tính vạn năng hay có thể nói tính chính xác
của mình; một lần nữa ta lại thấy vai trò của con người chỉ là tương đối, các dự
đoán của con người chỉ là tương đối[13].
6.
Nếu muốn có một kết luận không phải
trên thực tế khách quan mà theo các qui luật của logic hình thức thì ta có thể
nói: cuộc cách mạng cộng sản đã dựa vào bộ máy nhà nước để thực hiện việc cưỡng
bách trong những hoàn cảnh đặc biệt, nó đã hoàn thành cuộc cách mạng công
nghiệp hoá tương tự như chủ nghĩa tư bản đã làm ở phương Tây, cho nên nó chính
là cuộc cách mạng tư sản – nhà nước và chiến thắng mà nó mang lại chính là quan
hệ tư bản – nhà nước. Điều này đặc biệt đúng khi ta thấy nhà nước làm nhiệm vụ
điều chỉnh tất cả quan hệ như chính trị, lao động và các quan hệ khác và điều
đặc biệt quan trong là chính quyền làm nhiệm vụ phân phối thu nhập quốc dân, sử
dụng những nguồn lực về hình thức đã trở thành sở hữu nhà nước.
Cuộc tranh cãi xung quanh vấn đề:
quan hệ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác là quan hệ tư bản nhà nước,
quan hệ xã hội chủ nghĩa hay quan hệ nào khác, là cuộc tranh cãi mang tính giáo
điều. Thực ra nó đúng là vấn đề mang tính giáo điều.
Nhưng đây là một vấn đề cực kì quan
trọng.
Ngay cả khi giả sử lời khẳng định
của Lenin rằng tư bản nhà nước là “thời kì mở đầu của chủ nghĩa xã hội”, hay
đây là giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội thì những người dân sống dưới chế độ
chuyên chế cộng sản cũng không vì thế mà cảm thấy thoải mái hơn. Nhưng nếu ta
có thể nhận thức được, một cách dù là tương đối, đặc điểm của sở hữu và quan hệ
xã hội mà cách mạng cộng sản sẽ mang lại thì mới mong giải phóng con người khỏi
các gông xiềng của nó. Nếu người ta không nhận thức được bản chất của các quan
hệ trong xã hội mà họ đang sống và không biết phương pháp thay đổi các quan hệ
đó thì cuộc đấu tranh của họ sẽ trở thành vô ích.
Như vậy, nếu đồng ý rằng cách mạng
cộng sản, trái ngược với những lời hứa hẹn và những ảo tưởng, chỉ dẫn đến các
quan hệ tư bản nhà nước thì ta sẽ nhận thấy rằng các biện pháp nhằm hoàn thiện
hoạt động của bộ máy hành chính, giảm bớt sự tuỳ tiện và áp bức của nó chính là
những biện pháp thực tế và đúng đắn. Các ông trùm cộng sản đã làm đúng như thế:
họ luôn luôn kêu gọi hoàn thiện công tác quản lí hành chính và đấu tranh chống
lại “chủ nghĩa quan liêu”, mặc dù về mặt lí luận họ không công nhận rằng hệ
thống của họ chính là chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Nhưng quan hệ ở đây không phải là quan
hệ tư bản nhà nước, hệ thống không thể nâng cao hiệu quả một cách rõ rệt bằng
biện pháp đơn giản như cải tiến hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, không
thể biến nó thành “bộ máy công bằng hơn” được.
Quan hệ trong chủ nghĩa cộng sản rất
giống với quan hệ tư bản nhà nước về mặt hình thức và vai trò bao trùm lên toàn
bộ của bộ máy nhà nước. Nhưng bên dưới cái mặt nạ đó là một cái gì đó hoàn toàn
khác[14].
Để có thể nhận thức được bản chất
các quan hệ xuất hiện trong cách mạng cộng sản và được củng cố vững chắc bởi
quá trình công nghiệp hoá và hợp tác hoá cần phải chú ý đến vai trò và phương
pháp hoạt động của nhà nước trong chế độ cộng sản. Ở đây phải nhấn mạnh rằng bộ
máy nhà nước không phải là công cụ chủ yếu để tạo lập quan hệ sở hữu và các
quan hệ xã hội khác, nó chỉ đóng vai trò người bảo vệ các quan hệ ấy mà thôi.
Mọi thứ dường như đều được làm nhân danh và phù hợp với các qui định của nhà
nước. Nhưng bên trên và đằng sau mọi hành động của nhà nước là đảng cộng sản.
Cũng không phải là toàn đảng mà chỉ
là tầng lớp quan liêu, tầng lớp chuyên nghiệp của đảng. Chính tầng lớp quan
liêu này mới là người sử dụng, quản lí và phân phối toàn bộ khối tài sản đã
được quốc hữu hoá và tập thể hoá cũng như toàn thể đời sống xã hội nói chung.
Chính vai trò độc quyền quản lí và phân phối thu nhập quốc dân cũng như mọi tài
sản khác của quốc gia đã biến tầng lớp quan liêu này thành tầng lớp đặc quyền
đặc lợi. Các quan hệ xã hội về mặt hình thức và nhìn từ bên ngoài thì có vẻ như
là quan hệ tư bản nhà nước. Nguồn gốc của nó cũng dễ làm cho người ta nghĩ như
thế: công nghiệp hoá không phải nhờ các nhà tư sản mà bằng các biện pháp cưỡng
chế. Trên thực tế, vai trò đó do một tầng lớp đặc quyền đặc lợi, sử dụng bộ máy
nhà nước như là công cụ, như là bình phong về mặt pháp lí, thực hiện. Mọi người
cũng đều biết như thế[15].
Nếu quyền sở hữu chỉ là quyền sử
dụng và phân phối và nếu quyền đó chỉ thuộc về một nhóm người nhất định, thì
điều đó có nghĩa là trong các nhà nước cộng sản đã xuất hiện một hình thức sở
hữu hoàn toàn mới, hay là đã xuất hiện một giai cấp cai trị và bóc lột mới.
Không phải trên lời nói, mà trên
thực tế, những người cộng sản đã hành động như mọi giai cấp cầm quyền khác, họ
cũng không thể hành động khác được. Trong khi tin tưởng rằng đang xây dựng một
xã hội lí tưởng, nhưng họ lại xây dựng xã hội của mình, bằng những phương tiện
mà họ có trong tay. Những điều kiện cho việc hình thành xã hội đó đã chín muồi,
cho dù nó không thể chín cho một xã hội lí tưởng như niềm tin mà cách mạng từng
hứa hẹn. Như vậy là, ta có thể kết luận rằng với một số nước, trong một giai
đoạn phát triển nhất định, cuộc cách mạng và xã hội của họ không xuất hiện một
cách vô tình và trái tự nhiên. Đấy là lí do vì sao xã hội đó, trong một giai
đoạn nhất định, giai đoạn công nghiệp hoá, đã phải chịu và chịu đựng được bạo
lực cộng sản, dù nó có tàn khốc và vô nhân đến mức nào. Sau giai đoạn đó, bạo
lực đã không còn cần thiết nữa, nó chỉ còn được sử dụng để đảm bảo đặc quyền ăn
cướp của giai cấp mới mà thôi. Khác hẳn với các cuộc cách mạng trong quá khứ,
cách mạng cộng sản nhân danh tiêu diệt giai cấp đã lập nên ách thống trị của
một giai cấp mới.
Tất cả những điều khác chỉ là ảo
tưởng hão huyền.
Giai cấp mới
1.
Như đã nói ở trên, ở Liên Xô và các nước cộng sản khác, tất cả đã diễn ra
không như tưởng tượng của các lãnh tụ nổi tiếng nhất như Lenin, Stalin, cũng
như Trotsky và Bukharin. Cứ theo quan niệm của họ, bộ máy nhà nước Liên Xô sẽ
ngày một yếu đi, trong khi nền dân chủ sẽ ngày một mạnh thêm. Đã xảy ra điều
hoàn toàn ngược lại. Người ta cho rằng mức sống sẽ được nâng cao nhanh chóng
trong một tương lai không xa, nhưng hoá ra đời sống được cải thiện không đáng
kể, trong các nước Đông Âu mức sống lại có phần sụt giảm: trong mọi trường hợp,
sự cải thiện điều kiện sống cũng không tương xứng với mức độ công nghiệp hoá.
Người ta từng tin tưởng rằng mâu thuẫn giữa thành thị và nông thôn, giữa lao
động trí óc và lao động chân tay sẽ dần được san bằng, nhưng hoá ra những mâu
thuẫn này ngày một sâu sắc thêm. Tình hình cũng xảy ra tương tự trong các lĩnh
vực khác, kể cả các dự đoán về sự phát triển của thế giới phi cộng sản.
Nhưng ảo tưởng lớn nhất chính là ảo tưởng rằng cùng với việc công nghiệp
hoá và tập thể hoá nghĩa là cùng với việc thủ tiêu sở hữu tư bản chủ nghĩa,
Liên Xô sẽ trở thành xã hội phi giai cấp. Năm 1936, nhân dịp công bố Hiến pháp
mới, Stalin tuyên bố rằng ở Liên Xô đã không còn giai cấp bóc lột, nhưng trên
thực tế, người ta không chỉ thực hiện xong quá trình thủ tiêu các nhà tư sản và
các giai cấp khác của chế độ cũ mà còn thiết lập được một giai cấp hoàn toàn
mới, chưa từng có trong lịch sử.
Dễ hiểu là giai cấp mới này, cũng như mọi giai cấp trước nó trong quá khứ,
đã tự coi sự thống trị của mình là sự toàn thắng của hạnh phúc và tự do cho tất
cả mọi người. Chỉ có một khác biệt duy nhất: thiếu khoan dung hơn, nó không cho
phép nghi ngờ những ảo tưởng do nó áp đặt và không cho phép nghi ngờ quyền cai
trị của mình. Điều đó lại chứng tỏ rằng sự thống trị của nó toàn triệt hơn mọi
chế độ từng được biết đến trong lịch sử, thành kiến và ảo tưởng giai cấp của nó
cũng tương đương như thế.
Giai cấp mới, tầng lớp quan liêu, đúng hơn phải nói tầng lớp chính trị quan
liêu, không những mang trong mình nó tất cả đặc thù của các giai cấp bóc lột
trước đó mà còn có những đặc trưng riêng biệt, khác hẳn. Ngay nguồn gốc của nó,
tuy có nhiều điểm chung với sự xuất hiện của những giai cấp khác, nhưng vẫn có
những khác biệt.
Các giai cấp khác, trong đại đa số các trường hợp, cũng giành được tài sản
và quyền lực bằng con đường cách mạng, nghĩa là phá bỏ các quan hệ chính trị,
xã hội và các quan hệ cũ khác. Nhưng những giai cấp đó giành được chính quyền
sau khi các hình thức kinh tế mới đã có thế thượng phong trong lòng xã hội cũ.
Giai cấp mới, trong hệ thống cộng sản, xuất hiện không phải với mục đích hoàn
thành các cuộc cải cách mà với ý định đặt nền móng cho các quan hệ kinh tế mới
và sự thống trị của chính nó đối với xã hội.
Trong các thời đại trước, việc giành chính quyền của một giai cấp, một bộ
phận của giai cấp hay của một đảng nào đó chính là hành động cuối cùng trong
việc tạo lập và hình thành ý thức của thời đại. Ở Liên Xô, tình hình diễn ra
khác hẳn: giai cấp mới chỉ thực sự hình thành sau khi đã nắm được quyền lực. Ý
thức của nó tiếp tục phát triển - và phải phát triển vì cho đến lúc đó nó chưa
ăn sâu, bén rễ vào đời sống của dân tộc – vượt trước cả khả năng kinh tế và khả
năng vật lí của nó; còn vai trò của dân tộc và bức tranh về thế giới thì được
vẽ ra dưới dạng lí tưởng hoá. Điều này, tuy nhiên, không làm giảm khả năng thực
tế của nó. Ngược lại là
khác. Cùng với những ảo tưởng và mặc dù có những ảo tưởng như thế, giai cấp mới
chính là hiện thân của xu hướng công nghiệp hoá, một xu hướng đã trở thành đòi
hỏi khách quan. Từ đó cũng xuất hiện tính thực dụng của nó. Niềm tin vào một
thế giới lí tưởng do chính nó hứa hẹn đã cố kết đội ngũ, đã reo rắc ảo tưởng
vào trong quần chúng, nhưng cũng kêu gọi và động viên họ hoàn thành những công
việc có ý nghĩa thực tiễn to lớn.
Vì giai cấp mới không được hình thành từ các tiến trình kinh tế-xã hội diễn
ra trên thực tế, ta chỉ có thể tìm thấy mầm mống của nó bên trong một tổ chức
đặc biệt, tổ chức dựa trên kỉ luật sắt và sự thống nhất về mặt tư tưởng. Họ
phải lấy những nhân tố chủ quan, đấy là sự thống nhất về nhận thức và kỉ luật
sắt để bù vào những khiếm khuyết khách quan trong lĩnh vực kinh tế và các lĩnh
vực khác trong đời sống xã hội trong những giai đoạn đầu.
Nguồn gốc của giai cấp mới là đảng kiểu mới, đảng Bolsevik. Lenin đã hoàn
toàn có lí khi cho rằng đảng do ông thành lập là đảng đặc biệt trong lịch sử
loài người, nhưng ông không thể nghĩ rằng chính đảng đó lại là nguồn gốc của
một giai cấp mới.
Đúng hơn phải nói rằng mầm mống của giai cấp mới không phải nằm trong toàn
bộ đảng Bolsehvik mà chỉ nằm trong tầng lớp các nhà cách mạng chuyên nghiệp,
lực lượng nòng cốt của đảng trước khi đảng giành được chính quyền. Không phải
vô tình mà sau thất bại của Cách mạng năm 1905 Lenin đã khẳng định rằng chỉ có
các nhà cách mạng chuyên nghiệp, nghĩa là những người lấy hoạt động cách mạng
làm nghề nghiệp chính, ngoài ra họ không làm gì khác, mới có thể thành lập được
một đảng kiểu mới. Stalin, người kiến tạo giai cấp mới trong tương lai là biểu
hiện rõ ràng nhất hình ảnh người cách mạng chuyên nghiệp kiểu đó. Nhóm các nhà
cách mạng chuyên nghiệp đó đã phát triển dần dần thành một giai cấp cầm quyền
mới. Các nhà cách mạng này sẽ còn đóng vai trò hạt nhân của nó trong một thời
gian dài. Trotsky đã nhận xét rằng chính các nhà cách mạng chuyên nghiệp đã tạo
ra mầm mống của bộ máy quan liêu của Stalin. Nhưng ông đã không hiểu một điều,
đây chính là mầm mống của một giai cấp cầm quyền, giai cấp bóc lột mới.
Nhưng điều đó không có nghĩa là đảng và giai cấp là một. Đảng chỉ là hạt
nhân, là cơ sở. Thật khó, thậm chí không thể xác định được ranh giới của giai
cấp mới và không thể liệt kê được tất cả các thành viên của nó. Nói chung, bất
cứ người nào nhờ độc quyền trong việc quản lí mà có đặc lợi về kinh tế thì đều
có thể coi là thuộc giai cấp mới cả.
Đồng thời, công tác quản lí cũng là một công việc cần thiết cho xã hội cho
nên cá nhân có thể vừa là một người có ích vừa là một kẻ ăn bám. Rõ ràng rằng,
không phải đảng viên nào cũng nằm trong giai cấp, cũng như không phải bất kì
người thợ thủ công hay đảng viên đảng tư sản nào cũng được coi là nhà tư sản
vậy.
Một cách chung nhất, có thể nói rằng: cùng với việc củng cố giai cấp mới,
khi bộ mặt của nó ngày càng thể hiện rõ thì vai trò của đảng cũng ngày càng
giảm đi. Hạt nhân và cơ sở của giai cấp mới đã hình thành ở bên trong cũng như
trên đỉnh quyền lực của đảng, cũng như của bộ máy nhà nước. Cái đảng từng có
lúc là một tổ chức sinh động, đầy sáng kiến, thì nay, đối với những ông trùm
của giai cấp mới, đã biến thành một vật trang trí, càng ngày chỉ càng kéo vào
hàng ngũ của mình những kẻ hãnh tiến, những kẻ muốn nhập vào hàng ngũ của giai
cấp mới và đẩy những người vẫn còn tin vào lí tưởng ra.
Đảng tạo ra giai cấp. Sau đó giai cấp tự phát triển bằng chính nguồn lực
của mình và sử dụng đảng như là cơ sở. Giai cấp thì mạnh lên, trong khi đảng
thì yếu đi, đấy là số phận không thể cưỡng lại được của tất cả các đảng cộng
sản cầm quyền.
Một đảng không quan tâm đến việc tái sản xuất, nghĩa là không mang trong
mình nó giai cấp mới và tài sản của giai cấp ấy thì không thể nào trụ vững được
về mặt tư tưởng và đạo đức, hơn nữa lại có thể cầm quyền lâu trong một thời
gian dài như đảng cộng sản. Sau khi hoàn thành kế hoạch năm năm lần thứ nhất,
Stalin hùng hồn tuyên bố rằng nếu không thành lập được bộ máy thì “chúng ta” đã
thất bại rồi! Đáng ra phải nói thành lập “giai cấp mới” thì mọi sự đã rõ ràng
hơn.
Việc một đảng chính trị trở thành mầm mống của một giai cấp mới có vẻ như
là một việc không hoàn toàn bình thường. Thường thì đảng là sản phẩm của các
giai cấp hay tầng lớp dân cư đã đạt đến một trình độ phát triển kinh tế và tinh
thần nhất định. Nhưng nếu xem xét kĩ những bước thăng trầm của nước Nga và các
nước khác, nơi mà chủ nghĩa cộng sản đã giành thắng lợi bằng nội lực thì ta sẽ
thấy rằng cái đảng kiểu mới đó chính là sản phẩm của những hoàn cảnh cụ thể và
không phải là hiện tượng bất thường và vô tình. Mặc dù chủ nghĩa Bolshevik có
nguồn gốc từ trong sâu thẳm của lịch sử Nga, nó còn là phó sản của hoàn cảnh
chính trị mà nước Nga đã rơi vào trong giai đoạn chuyển tiếp giữa thế kỉ XIX và
thế kỉ XX. Sự phát triển đã buộc nước Nga phải thoát ra khỏi chế độ độc tài
chuyên chế, nhưng chủ nghĩa tư bản lại quá yếu, phụ thuộc vào tư bản nước
ngoài, không đủ sức thực hiện cách mạng công nghiệp. Việc đó chỉ có thể được
thực hiện bởi một giai cấp mới, dĩ nhiên là giai cấp này sẽ thực hiện theo
những quan điểm riêng của mình.
Giai cấp như vậy chưa tồn tại.
Lịch sử không quan tâm đến việc ai làm, quan trọng là điều cần thiết đã
được làm. Điều đó đã xảy ra ở Nga và ở các nước đã từng diễn ra các cuộc cách
mạng cộng sản khác. Cách mạng đã tạo ra lực lượng: đấy là các lí tưởng, các tổ
chức và những lãnh tụ cần thiết. Giai cấp mới đã hình thành từ những điều kiện
khách quan, do ý chí, tư tưởng và hành vi của những lãnh tụ cách mạng.
2.
Giai cấp mới có nguồn gốc từ những người vô sản. Quí tộc thoát thai từ tầng
lớp nông dân, giai cấp tư sản sinh ra từ những người buôn bán, thợ thủ công,
các điền chủ thời trung cổ, tương tự như vậy, giai cấp mới được hình thành từ
tầng lớp vô sản. Ở đây có thể có một số ý ngoại lệ là do điều kiện đặc thù của
từng dân tộc. Nhưng “vật liệu” hình thành nên giai cấp mới thì vẫn là tầng lớp
vô sản ở những nước kém phát triển và chính tầng lớp ấy cũng còn rất lạc hậu.
Nhưng nguồn gốc không phải là lí do duy nhất, thậm chí chỉ là lí do phụ
giải thích vì sao giai cấp mới luôn luôn nói rằng họ là đại diện của giai cấp
công nhân. Họ làm điều đó vì những lí do khác. Thứ nhất giai cấp này tuyên bố
lập trường bài tư bản cho nên nó phải tìm sự ủng hộ của các tầng lớp lao động,
thứ hai nó dựa vào cuộc đấu tranh và niềm tin của giai cấp vô sản về chế độ
cộng sản, nơi không còn cảnh người bóc lột người dã man nữa. Ngoài ra, giai cấp
mới còn phải quan tâm đến việc đảm bảo cho quá trình sản xuất hoạt động bình
thường, đấy cũng là lí do nó phải cố gắng để không bị mất liên hệ với quần
chúng lao động. Nhưng quan trọng nhất là giai cấp mới không thể tiến hành công
nghiệp hoá và bằng cách đó củng cố sức mạnh của mình nếu không có giai cấp công
nhân, những người vẫn coi việc nâng cao vai trò của công nghiệp là con đường
thoát khỏi cảnh nghèo nàn và tuyệt vọng mà chính giai cấp này cũng như toàn dân
tộc đang lâm vào. Quyền lợi, lí tưởng, hi vọng và niềm tin của giai cấp mới,
của một bộ phận giai cấp công nhân và bần cố nông đã song hành với nhau trong
một thời gian dài. Sự đồng thuận như vậy cũng đã từng xảy ra giữa các giai tầng
của các giai cấp khác nhau trong quá khứ. Chả phải là giai cấp tư sản đã là
người đại diện cho tầng lớp nông dân trong cuộc đấu tranh phản phong đấy ư?
Con đường đưa giai cấp mới đến với quyền lực là tham gia vào cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản và những tầng lớp cùng khổ khác. Những tầng lớp này chính
là chỗ dựa của đảng, đúng hơn phải nói: của giai cấp mới. Quyền lợi của các lực
lượng này liên kết chặt chẽ với nhau cho đến khi giai cấp mới thiết lập được sự
thống trị của mình. Sau đó thì giai cấp vô sản và các tầng lớp nghèo khổ khác
chỉ còn được quan tâm vì nhu cầu của sản xuất và giữ cho những tầng lớp dễ biến
động và nổi loạn trong vòng kìm kẹp mà thôi.
Địa vị độc tôn đối với toàn xã hội mà giai cấp mới nhân danh giai cấp công
nhân lập nên trước hết là sự độc tôn ngay với giai cấp công nhân, ban đầu là
trong lĩnh vực tinh thần, dưới danh nghĩa là đội tiên phong của giai cấp vô
sản, sau đó là trong tất cả các lĩnh vực khác, thực chất là một sự lừa dối vĩ
đại mà giai cấp mới buộc phải thực hiện. Nhưng điều đó cũng chứng tỏ rằng nguồn
sức mạnh và lĩnh vực quan tâm của giai cấp mới chính là công nghiệp. Không có
công nghiệp thì giai cấp mới không những không thể ổn định mà cũng không thể
khẳng định được địa vị thống trị của mình.
Giai cấp mới luôn luôn được bổ sung bằng những người xuất thân từ giai cấp
công nhân. Số phận của tầng lớp nô lệ từ xưa đến nay vẫn là như thế, họ phải
cống nạp cho các ông chủ những đại diện tài năng nhất, có tầm nhìn xa trông
rộng nhất của mình. Trong trường hợp này giai cấp bóc lột mới đã phát sinh và
phát triển từ chính giai cấp bị bóc lột.
3.
Khi phân tích một cách có phê phán hệ thống cộng sản, người ta thường đưa
ra đặc trưng cơ bản nhất của hệ thống này, đây là việc toàn dân phải chịu khuất
phục trước một tầng lớp đặc biệt, tầng lớp các viên chức quan liêu. Nói chung,
thì đúng như thế. Nhưng phân tích một cách kĩ hơn, ta sẽ thấy rằng toàn dân
phải chịu khuất phục trước một nhóm nhỏ con người cụ thể, những người trong
thực tế không phải là quan chức hành chính, những người hợp thành hạt nhân của
bộ máy quan liêu, hay theo cách gọi của tôi là giai cấp mới. Trên thực tế, đấy
chính là bộ máy quan liêu chính trị, bộ máy của đảng. Tất cả các viên chức khác
chỉ là người giúp việc, ở đây có thể là một bộ máy vừa to lớn vừa chậm chạp
nhưng cần thiết cho mọi cộng động. Sự phân biệt giữa nhóm thứ nhất và nhóm thứ
hai có thể được nhận biết về mặt xã hội học; nhưng trong cuộc sống, đây là hai
nhóm không thể tách biệt. Vấn đề không chỉ bởi vì toàn bộ hệ thống cộng sản là
một hệ thống có tính chất quan liêu, tầng lớp quan liêu chính trị và hành chính
đều có thể náu mình trong đó mà còn vì các đảng viên cũng thường thực hiện
những nhiệm vụ quản lí có ích khác nhau. Ngoài ra, tầng lớp quan chức chính trị
không thể nắm hết đặc quyền đặc lợi, nó phải chia bớt một phần cho những quan
chức khác nữa.
Ngoài ra cần phải nhận rõ sự khác nhau giữa bộ máy quan liêu chính trị đã
nói ở trên với bộ máy quan liêu xuất hiện trong quá trình tập trung hoá của nền
sản xuất hiện đại (sự độc quyền, các công ty, tài sản nhà nước). Trong các công
ty độc quyền tư bản, số lượng công nhân cổ trắng cũng đang tăng lên một cách
nhanh chóng. Điều đó cũng đúng đối với cả các ngành công nghiệp đã được quốc
hữu hoá ở phương Tây nữa. Trong tác phẩm Human
Relations in Administration (Quan hệ con người trong bộ máy quản lí)[1], R.
Dabin khẳng định rằng các viên chức nhà nước hoạt động trong lĩnh vực sản xuất
được coi là một tầng lớp đặc biệt:
Các viên chức
thường sống gắn bó với đồng nghiệp. Quyền lợi chung thường đóng vai trò chất
kết dính, gắn bó họ với nhau, đặc biệt là sự cạnh tranh nội bộ ít xảy ra vì sự
thăng tiến phụ thuộc vào thâm niên công tác. Khả năng xảy ra xung đột nội bộ
như vậy là gần như không có, và người ta cho rằng điều đó có ảnh hưởng tích cực
đối với bộ máy quan liêu. Nhưng tinh thần đồng đội và cơ cấu xã hội lại dẫn đến
kết quả là cá nhân thường chăm lo đến quyền lợi của mình chứ không còn quan tâm
đến khách hàng hay các viên chức cấp cao do bầu cử mà ra.
Mặc dù có nhiều điểm giống nhau, nhất là tinh thần đồng đội, nhưng các viên
chức quan liêu cộng sản không phải là các quan chức phương Tây đã được nói tới
ở trên. Khác biệt là ở chỗ: tuy cũng là một giai tầng đặc biệt nhưng các viên
chức nhà nước trong các nước không cộng sản không có quyền quyết định về tài
sản, trong khi các viên chức cộng sản lại làm chính công việc ấy. Bên trên các
viên chức phương Tây là các chính trị gia, thường là thông qua bầu cử hoặc là
các ông chủ thực sự, trong khi đó bên trên các viên chức cộng sản thì không còn
ai, không có chủ nhân cũng chẳng còn người quản lí nào khác, chỉ có họ với nhau
mà thôi. Ở phương Tây, đấy là các công chức trong nhà nước hiện đại hay các
viên chức trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa; còn ở đây là một hiện tượng hoàn
toàn khác: một giai cấp mới.
Tương tự như các giai cấp hữu sản khác, minh chứng cho sự tồn tại của một
giai cấp đặc biệt chính là sở hữu và quan hệ đặc thù của nó với những giai cấp
khác. Chỉ cần nhìn vào đặc quyền do cái sở hữu kia mang lại là ta biết ngay một
cá nhân cụ thể có thuộc về giai cấp ấy hay không.
Nếu xem xét khái niệm “sở hữu” theo quan điểm được khoa học xác định ngay
từ thời La Mã, như là quyền chiếm hữu, quản lí và sử dụng (usus, Fructus,
abusus) sản phẩm vật chất thì tầng lớp quan liêu cộng sản đã thực hiện chính
những quyền ấy đối với tài sản quốc gia. Còn muốn biết một người có thuộc tầng
lớp quan liêu, tầng lớp hữu sản hay không, chỉ cần xem người đó được sử dụng
những gì do tài sản đó mang lại, trong trường hợp này là tài sản đã được quốc
hữu hoá. Một người được coi là thuộc về tầng lớp đảng trị quan liêu, thuộc về
giai cấp mới nếu người đó nhận được nhiều hơn cái đáng lẽ xã hội phải trả cho
phần công việc mà người đó thực hiện, cũng như trong mọi vị trí xã hội đặc
quyền đặc lợi khác, chính vị trí mang lại cho người ta quyền được hưởng mọi ưu
đãi. Trên thực tế, quyền sở hữu của giai cấp mới được thể hiện trong việc bộ
máy quan liêu đảng trị nắm toàn bộ quyền hành trong việc phân phối thu nhập
quốc dân, định đoạt mức lương, lựa chọn phương hướng phát triển của nền kinh
tế, cũng như quản lí số tài sản đã được quốc hữu hoá cũng như mọi tài sản khác.
Trong mắt một người dân bình thường thì đây là công việc vừa sức, có thu nhập
cao chứ hoàn toàn không phải là một công việc quá nặng nề đối với người cán bộ
cộng sản[2].
Sau khi đã huỷ bỏ quyền sở hữu tư nhân, về nguyên tắc, giai cấp mới không
thể dựa vào một kiểu sở hữu tương tự được nữa. Quan hệ sở hữu tư nhân không
những không phù hợp đối với việc thiết lập quyền thống trị của giai cấp mới mà
việc bãi bỏ quan hệ sở hữu này còn là điều kiện cần thiết về mặt kinh tế để cải
tạo toàn bộ dân tộc. Giai cấp mới khai thác sức mạnh, đặc quyền, tư tưởng và
thói quen từ một hình thức sở hữu đặc thù. Đấy là sở hữu tập thể, nghĩa là cái
sở hữu mà nó có quyền quản lí và phân phối nhân danh dân tộc, nhân danh xã hội.
Hình thức quan hệ sở hữu cộng sản nói trên có xu hướng ràng buộc với những
quan hệ xã hội hoàn toàn xác định. Đấy là quan hệ giữa sự quản lí độc quyền,
một bên là một nhóm người rất nhỏ làm công việc quản lí và bên kia là đám quần
chúng công nhân, nông dân và trí thức chẳng có một chút quyền hành gì. Nhưng
mối quan hệ đó vẫn chưa phải là tất cả vì tầng lớp quan liêu cộng sản còn nắm
độc quyền trong việc phân phối sản phẩm nữa.
Từ đó có thể thấy rằng bất kì sự thay đổi quan hệ xã hội nào, nghĩa là sự
thay đổi quan hệ giữa những kẻ giữ độc quyền quản lí và người lao động nhất
định sẽ dẫn tới thay đổi trong quan hệ sở hữu. Và ngược lại: sự giảm thiểu hay
loại bỏ độc quyền phân phối sản phẩm sẽ làm thay đổi quan hệ xã hội đã nói ở
trên, nghĩa là sẽ làm thay đổi tình trạng trong đó một số người được độc quyền
quản lí còn số khác thì buộc phải làm việc[3]. Trong chế độ cộng sản, quan
hệ chính trị - xã hội và sở hữu (chính quyền toàn trị và độc quyền về sở hữu)
liên kết và bổ sung cho nhau một cách hữu hiệu hơn bất kì hệ thống xã hội nào
khác.
Tước bỏ quyền của những người cộng sản đối với sở hữu cũng có nghĩa là thủ
tiêu họ như một giai cấp. Đấu tranh để buộc họ cho những lực lượng xã hội khác
tham giai quản lí tài sản (giống như các nhà tư sản bị các cuộc đình công và
quốc hội buộc phải cho công nhân tham gia vào việc phân chia lợi nhuận) cũng có
nghĩa là tước bỏ của họ độc quyền đối với tài sản, độc quyền tư tưởng và độc
chiếm chính quyền. Đấy sẽ là khởi đầu của chế độ dân chủ và tự do, là sự cáo
chung của chế độ toàn trị và độc quyền cộng sản. Vì vậy, khi điều đó chưa xảy
ra thì việc thuyết phục người ta rằng có thể đạt được những thay đổi sâu sắc và
nghiêm túc dưới chế độ cộng sản là một việc bất khả thi. Như vậy, sự thay đổi
thật sự sâu sắc chỉ có thể là loại bỏ độc quyền cộng sản về kinh tế và chế độ
toàn trị. Hiện tại thì chưa có tín hiệu nào rằng điều đó sẽ xảy ra trong một
tương lai gần.
Quyền sở hữu của giai cấp mới cũng như việc một người được coi là thuộc vào
giai cấp đó, như đã nói ở trên, được thực hiện thông qua đặc quyền quản lí của họ. Đặc quyền này bao trùm
lên toàn bộ đời sống xã hội, từ quản lí nhà nước và quản lí kinh tế cho đến các
cơ sở thể thao hoặc từ thiện. Lãnh đạo đảng, lãnh đạo chính trị chính là hạt
nhân của toàn bộ hệ thống, có khả năng quản lí tất. Chính nó tạo ra đặc quyền
đặc lợi. A. Uralov[4] viết
rằng lương trung bình của người công nhân Liên Xô vào năm 1935 chỉ có 1.800
rub/năm, trong khi bí thư huyện uỷ lĩnh tổng cộng khoảng 45.000/rub. Từ đó đến
nay vị trí của người công nhân và cán bộ đảng đã có thay đổi. Nhưng thực chất
vẫn như xưa. Các tác giả khác cũng đưa ra những số liệu tương tự. Không thể che
giấu được những mối quan hệ như thế với ngay cả những người khách viếng thăm
Liên Xô và các nước cộng sản khác trong thời gian vừa qua.
Các hệ thống khác cũng có các chính khách chuyên nghiệp. Ta muốn nghĩ về
tầng lớp này thế nào cũng được, tốt có, xấu có, nhưng họ là một tầng lớp cần
thíêt. Xã hội không thể tồn tại mà không có chính quyền, không có nhà nước,
cũng như không thể thiếu những người đấu tranh để giành quyền lực.
Nhưng các chính khách chuyên nghiệp trong các hệ thống ấy là những người
khác hẳn với các chính trị gia cộng sản. Trong trường hợp xấu nhất, các chính
khách đó có thể sử dụng quyền lực để giành đặc lợi cho mình hoặc cho những kẻ
đồng hội đồng thuyền với mình, hoặc bảo vệ quyền lợi kinh tế của những giai
tầng nhất định trong xã hội. Xã hội cộng sản thì khác hẳn. Ở đây chính sự quản
lí, chính quyền lực đã đồng nghĩa với chiếm hữu, quản lí và sử dụng gần như
toàn bộ nguồn lực quốc gia. Giành được chính quyền nghĩa là giành được đặc
quyền đặc lợi, và một cách gián tiếp là giành được sở hữu. Cho nên trong chế độ
cộng sản, quyền lực hay chính trị như là một nghề, đã trở thành nếu không phải
là nghề lí tưởng của tất cả mọi người (vì đối với số đông, được làm quan là
việc thiên nan vạn nan) thì cũng là nỗi khát khao của những người kẻ muốn được
sống ăn bám hoặc cảm thấy rằng có hi vọng “lọt” vào được tầng lớp ăn bám đó.
Trước cách mạng, đảng viên cộng sản có nghĩa là nghèo khổ về vật chất,
thoát li hoạt động cách mạng là vinh dự, thì giờ đây, khi đảng đã nắm được
chính quyền, đảng viên đồng nghĩa với thành viên của giai cấp nắm quyền, hoạt
động cách mạng đồng nghĩa với việc trở thành những kẻ bóc lột đầy quyền uy.
Cách mạng cộng sản và hệ thống cộng sản cố tình che giấu bản chất của mình
trong một thời gian dài. Tương tự như vậy, quá trình hình thành giai cấp mới
không chỉ được che đậy bằng những thuật ngữ xã hội chủ nghĩa mà quan trọng hơn,
bằng hình thức sở hữu mới, sở hữu tập thể. Một hình thức sở hữu mới, sở hữu tập
thể, hay như thường gọi là sở hữu xã hội xã hội chủ nghĩa là cần thiết cho quá
trình công nghiệp hoá, nhưng thực ra đấy chính là hình thức sở hữu của tầng lớp
quan liêu chính trị. Bản chất giai cấp của hình thức sở hữu này được che đậy bằng
bình phong quyền lợi của toàn dân tộc.
4.
Sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản
đương đại và sự xuất hiện giai cấp mới thể hiện rõ trong tính cách và vai trò
của những người cổ súy cho nó[5].
Marx - Lenin - Stalin - Khrushchev: lãnh tụ thay đổi, cách truyền bá tư
tưởng cũng thay đổi theo. Marx là người có ý chí, nhưng ông không thể tưởng
tượng ra cảnh cấm một người nào đó trình bày tư tưởng của anh ta; Lenin vẫn còn
khoan dung với những cuộc thảo luận trong đảng và không cho rằng tổ chức đảng
hay lãnh tụ đảng có quyền coi điều này là “đúng đắn” về tư tưởng, điều kia là
“sai lầm”; Stalin cấm mọi cuộc thảo luận trong nội bộ đảng và “chuyển” cho
trung ương, nghĩa là cho chính mình độc quyền về tư tưởng. Các hình thức của
phong trào cũng biến đổi theo: Liên đoàn công nhân quốc tế của Marx (Quốc tế
I), chưa phải là tổ chức Marxist về tư tưởng mà chỉ là sự kết hợp của các nhóm
khác nhau, cùng ra các nghị quyết với một sự đồng thuận nhất định; đảng của
Lenin là một nhóm tiên phong với một sự thống nhất, một tư tưởng và đạo đức của
riêng họ và một mức độ dân chủ nhất định; dưới gót giày của Stalin, đảng đã trở
thành một đám đông ù lì về tư tưởng (vì tư tưởng được “rót từ trên xuống”),
nhưng toàn tâm toàn ý bảo vệ hệ thống, bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho họ. Thực ra
Marx chưa hề thành lập ra bất kì đảng phái nào; Lenin tiêu diệt mọi đảng phái,
kể cả các đảng xã hội chủ nghĩa, chỉ để lại đảng của chính mình; Stalin thì đẩy
ngay cả đảng Bolshevik vào hậu trường sau khi đã biến hạt nhân của nó thành hạt
nhân của giai cấp mới và biến toàn đảng thành một giai tầng đặc quyền đặc lợi
vô cảm và phi cá tính.
Marx đã tạo ra một lí thuyết nhất quán về tác động của các giai cấp và đấu
tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội (mặc dù đây không phải là phát
kiến của chính ông), ông đánh giá con người chủ yếu từ thành phần giai cấp của
họ. Mặc dù vậy, ông vẫn thường nhắc đi nhắc lại lời giáo huấn của Terentius:
Nihil a me alienum puto (đúng hơn phải là: Nihil humani a me alienum puto –
Không có gì của con người là xa lạ với tôi); Lenin đánh giá con người trên cơ
sở quan điểm tư tưởng của người đó chứ không dựa vào thành phần giai cấp nữa;
Stalin thì chia nhân loại thành hai: trung thành và kẻ thù. Marx chết như một
người nhập cư nghèo khổ ở London, nhưng ông được cả những nhà tư tưởng lớn cũng
như các đồng chí trong phong trào đánh giá rất cao; Lenin chết khi đã là lãnh
tụ của một trong những cuộc cách mạnh vĩ đại nhất, và đã là một nhà độc tài vì
xung quanh ông đã có một số nịnh thần rồi; Stalin được người ta biến thành thánh
ngay từ khi ông ta qua đời.
Sư biến đổi trong những khuôn mặt đại diện nói trên chỉ là phản ánh sự biến
đổi đã diễn ra trên thực tế và trong đời sống tinh thần của phong trào cộng
sản.
Lenin, người sáng lập đảng Bolshevik, một đảng kiểu mới và lí thuyết về vai
trò đặc biệt của nó trong việc xây dựng xã hội mới chính là cha đẻ về mặt tinh
thần và thực tế của giai cấp mới, mặc dù ông không hề nhận thức được điều đó.
Dĩ nhiên đây chỉ là một khía cạnh trong khối di sản đồ sộ và nhiều mặt của ông
mà thôi. Nhưng nó xuất hiện từ chính những hành động của ông, dù ông không hẳn
muốn như thế. Và vì vậy mà giai cấp mới cho đến nay vẫn coi ông là người cha
tinh thần của mình.
Người sáng lập thật sự giai cấp mới chính là Stalin. Đấy là một người vai
so, chân tay quá dài, thân người lại ngắn, bụng bự, khuôn mặt nông dân, khá
điển trai, đôi mắt nâu, sáng, tinh ranh và lúc nào cũng như đang cười cợt, tỏ
ra khoái trá mỗi khi nói được một lời châm biếm chua cay hay khôn vặt; một
người thích những chuyện tiếu lâm thô lậu, thiếu giáo dục và không hẳn có tài
về văn chương, một diễn giả kém, nhưng là một nhà tổ chức thiên tài, một người
giáo điều thâm căn cố đế, nhưng cũng là một nhà quản lí vĩ đại, một người
Gru-gia, nhưng lại hiểu rõ hơn ai hết khát vọng của những người theo thuyết Đại
Nga – ông đã sáng lập ra một giai cấp mới bằng những phương pháp tàn bạo nhất[6]. Dễ
hiểu rằng ban đầu Stalin đã được giai cấp mới đẩy lên đỉnh kim tự tháp quyền
lực để rồi sau đó nó lại phải cúi rạp mình tuân phục những hành vi tàn bạo và
không có ai kiềm chế được của ông ta. Stalin đã là người dẫn đầu, là lãnh tụ
xứng đáng trong khi cái giai cấp ấy tiến từng bước một lên đỉnh cao quyền lực
của mình.
Giai cấp mới đựơc tượng hình trong
bão tố của cách mạng, trong lòng của đảng cộng sản, nhưng nó đã có hình hài như
ngày nay là nhờ cách mạng công nghiệp: vị trí của nó chẳng thể vững chắc và sức
lực của nó chẳng thể được củng cố nếu không có cuộc cách mạng công nghiệp và
nền công nghiệp ấy. Hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội cũng đồng nghĩa
với việc giai cấp mới đã giành thắng lợi. Hai quá trình đó đã song hành với
nhau và do hoàn cảnh đã đan xen, đã xoắn xuýt với nhau một cách chặt chẽ nhất[7].
Giữa cao trào công nghiệp hoá, sau khi đã mở tung cánh cửa của đủ mọi thứ
đặc quyền đặc lợi, Stalin bắt đầu đưa ra các mức lương chênh lệch nhau một trời
một vực. Ông ta hiểu rằng không thể thực hiện được tiến trình công nghiệp hoá
nếu như giai cấp mới không nhận được quyền lợi về mặt vật chất, nếu không cho
nó quyền sở hữu tài sản. Nếu không có công nghiệp hoá thì giai cấp mới cũng khó
mà sống còn được: không có nguồn sống và cũng chẳng thể tìm được sự biện hộ về
mặt lịch sử.
Cùng với việc công nghiệp hoá là sự mở rộng đội ngũ của tầng lớp quan liêu,
tăng cường số lượng đảng viên của đảng. Khởi đầu công nghiệp hoá, năm 1927 đảng
có tổng cộng 887.233 đảng viên, thì năm 1934, nghĩa là sau kế hoạch năm năm lần
thứ nhất, đã có 1.847.448 người. Đây là một hiện tượng mới, liên quan trực tiếp
đến quá trình công nghiệp hoá: các cơ hội của giai cấp mới đã tăng lên, đặc
quyền đặc lợi của những thành viên của nó cũng gia tăng. Hơn thế nữa, đặc quyền
đặc lợi và chính cái giai cấp đó đã phình lên nhanh hơn tốc độ công nghiệp hoá.
Khó mà đưa ra được các số liệu chứng minh cho điều đó, nhưng một người quan sát
bình thường cũng có thể nhận thấy điều đó, hơn nữa nếu ta nhớ rằng sản xuất đã
phát triển nhanh hơn khả năng cải thiện điều kiện sống của người dân. Phần lớn
thành quả của tiến bộ kinh tế đạt được bằng giá của những mất mát và nỗ lực vô
bờ bến của quần chúng rõ ràng là đã rơi vào tay giai cấp mới.
Chính quá trình hình thành giai cấp mới cũng không diễn ra một cách hoàn
toàn suôn sẻ. Sự kháng cự không chỉ xuất phát từ các giai cấp và các đảng phái
cũ, mà từ ngay một số người người cách mạng, những người không thể chấp nhận
hiện thực nhãn tiền khi so sánh nó với lí tưởng mà họ từng theo đuổi. Ở Liên Xô
sự phản kháng của những người cách mạng thể hiện rõ nhất trong cuộc xung đột
giữa Trotsky và Stalin. Không phải vô tình mà cuộc tranh chấp giữa Trotsky và
Stalin, giữa những người đối lập trong đảng với Stalin, giữa chế độ và tầng lớp
nông dân, lại có những hình thức biểu hiện rõ rệt nhất chính vào lúc quyền lực
và sự thống trị của giai cấp mới được củng cố.
Trotsky, một diễn giả tài ba, một ngòi bút tinh tế, sắc sảo, một người
thông minh, có tầm hiểu biết rộng, nhưng lại thiếu một điều: cảm nhận thực tế.
Ông muốn tiếp tục là người cách mạng khi mà mọi người đã muốn sống cuộc sống
đời thường. Ông muốn làm hồi sinh một đảng cách mạng, trong khi chính nó đã
biến thành một giai cấp mới, giai cấp không còn quan tâm tới những lí tưởng cao
cả nữa, nhưng lại hoàn toàn không thờ ơ đối với những tiện nghi trong sinh hoạt
hàng ngày. Ông chờ đợi phản ứng của quần chúng, cái quần chúng đã bị chiến
tranh, đói khát làm cho kiệt quệ ngay đúng vào lúc giai cấp mới đã nắm được
trọn vẹn quyền lực và bắt đầu được hưởng thụ đặc quyền đặc lợi. Sau khi đã
giành được đặc quyền đặc lợi giai cấp mới bắt đầu ru ngủ quần chúng bắng cách
vẽ ra cảnh ấm no mà người ta từng mơ ước bấy lâu nay[8]. Ánh hào quang mà Trotsky vẽ
ra có thể nhuộm hồng những chân trời xa tít, nhưng không thể khơi lên ngọn lửa
trong bếp của những con người đói khát. Ông đã cảm thấy một cách rõ ràng mặt
trái của những hiện tượng mới, nhưng ông không hiểu được ý nghĩa của chúng. Hơn
nữa ông cũng không phải là một người Bolshevik, đấy vừa là điểm mạnh và cũng là
điểm yếu của ông. Quá khứ “phi” Bolshevik làm ông luôn luôn phải hành động với
cảm giác thiếu tự tin[9]. Khi
nhân danh cách mạng đả phá tầng lớp quan liêu, ông đã không nhận ra rằng mình
đang tấn công vào uy tín của đảng, nghĩa là tấn công vào giai cấp mới.
Trong khi đó Stalin chẳng thèm quan tâm đến quá khứ cũng như tương lai. Ông
ta đã khống chế được lực lượng của một giai cấp mới, của chế độ quan liêu đang
định hình, đã trở thành lãnh tụ và người tổ chức của chính giai cấp đó. Ông ta
không tuyên truyền, ông ta ra lệnh. Dĩ nhiên là ông ta cũng hứa hẹn một tương
lai tươi sáng, nhưng là tương lai hiện thực đối với tầng lớp quan liêu, để cho
tầng lớp ấy hàng ngày hàng giờ cảm thấy sự quan tâm của Stalin đối với sự sung
túc trong đời sống và sự ổn định trong vị trí xã hội của họ. Các bài diễn văn
của ông ta không thể gọi là có lửa, thực ra phải nói là chán ngắt, nhưng đối
với giai cấp mới thì đấy chính là ngôn ngữ của thực tế, gần gũi và dễ hiểu.
Trotsky mơ ước nhìn thấy một cuộc cách mạng bao trùm khắp châu Âu và sau đó là
toàn thế giới. Stalin không phản đối, nhưng trước khi thực hiện công việc mạo
hiểm đó, ông ta phải quan tâm đến nước Nga, đến những người mà ông ta dựa vào để
củng cố hệ thống, tạo ra sức mạnh và niềm vinh quang của nhà nước Nga. Trotsky
là người của cuộc cách mạng đã trở thành quá vãng, Stalin là người của hôm nay
và như vậy cũng có nghĩa là người của ngày mai.
Trotsky coi thắng lợi của Stalin là sự phản bội, là sự xuyên tạc chính
quyền Xô-viết và thành quả của cách mạng. Chính vì thế mà ông hiểu và cảm thấy
đau đớn trước những biện pháp vô luân của Stalin. Mặc dù Trotsky là người đầu
tiên gần như hiểu được bản chất của chủ nghĩa cộng sản hiện đại (dù là không cố
ý, dù là với ước mong cứu nó) nhưng phải nhận rằng ông không thể đi đến tận
cùng bản chất ấy. Cho rằng đấy chỉ là “sự bùng phát” nhất thời của chủ nghĩa
quan liêu chà đạp lên đường lối trong sáng của đảng cách mạng, Trotsky tin có
thể giải quyết bằng cách thay đổi ban lãnh đạo, tiến hành “đảo chính cung đình”
là được. Nhưng khi cuộc đảo chính ấy diễn ra (sau khi Stalin chết) thì người ta
mới hiểu rằng bản chất của hệ thống là không thay đổi. Vấn đề hoá ra là có
nguồn gốc sâu xa và căn bản hơn nhiều. Stalin đã để lại không chỉ một chính
quyền mới, chuyên chế hơn chính quyền trước đó, mà còn để lại một giai cấp mới.
Một trong những khía cạnh của cách mạng, khía cạnh bạo lực vẫn tiếp tục; sự
sinh thành và củng cố của giai cấp mới đã trở thành hiện tượng đương nhiên.
Stalin có thể có nhiều lí do hơn cả Trotsky khi tự xưng là người kế tục của
Lenin và là con đẻ của cách mạng, dù là đứa con thiếu giáo dục.
Lenin là người kiến tạo một trong những cuộc cách mạng vĩ đại nhất của mọi
thời đại. Stalin là người đã thực hiện một khối lượng công việc cực kì to lớn
để thiết lập nên sự thống trị và quyền sở hữu của một giai cấp mới, giai cấp
xuất thân từ trong lòng của một trong những cuộc cách mạng vĩ đại nhất, trong
một đất nước rộng lớn nhất.
Sau Lenin, một người hoàn toàn sống bằng tư tưởng và lòng say mê, trên sân
khấu đã xuất hiện nhân vật Stalin, biểu tượng của những bước chân tàn nhẫn,
nặng nề của giai cấp mới trong việc chinh phục đỉnh cao quyền lực của nó.
Sau Lenin và Stalin sẽ đến cái điều phải đến cùng với sự trưởng thành của
giai cấp mới, đấy là sự tầm thường, đấy là lãnh đạo tập thể và một người chân
thật, hiền lành, một người “từ nhân dân” mà ra : Nikita Khrushchev. Giai
cấp mới đã không còn cần những nhà cách mạng hay những kẻ giáo điều nữa. Giai
cấp mới có thể chấp nhận những con người “đơn giản” như Khrushchev, Malenkov,
Bulganin hay Shepilov, họ chính là đại diện trung bình của giai cấp đó. Chính
giai cấp mới cũng đã mệt mỏi với những cuộc thanh trừng và cải tạo bất tận rồi.
Sau khi đã ổn định vị trí, giai cấp mới cần phải tránh ngay cả mối nguy hiểm
xuất phát từ chính lãnh tụ của mình. Đấy là do giai cấp đã thay đổi, còn Stalin
thì vẫn như cũ, giống như thời giai cấp còn non nớt, những người giao động và
những kẻ bị nghi là sẽ giao động đều bị trừng phạt cả. Chính cá nhân Stalin
cũng như lí luận về “sự khốc liệt của cuộc đấu tranh giai cấp” sau khi “chủ
nghĩa xã hội đã thắng lợi” cũng là điều kiện cần của việc hình thành giai cấp
mới. Nhưng bây giờ điều đó đã trở thành thừa. Giai cấp mới không hề phủ nhận
những di sản do triều đại Stalin để lại, nó chỉ phê phán thói lộng hành trong
những năm cuối đời của ông ta, thực ra cũng không phải hoàn toàn như vậy, nó
chỉ phủ nhận những biện pháp đụng chạm đến chính giai cấp, hay nói như
Khrushchev là “đụng chạm đến những người cộng sản tốt” mà thôi.
Thời đại cách của Lenin được thay bằng thời đại củng cố quyền lực và quyền
sở hữu hay thời đại công nghiệp hoá vì cuộc sống ấm nó, hạnh phúc của giai cấp
mới do Stalin lãnh đạo. Chủ nghĩa cộng sản cách
mạng của Lenin được thay bằng chủ nghĩa cộng sản giáo điều Stalin và đến lượt nó, lại được thay bằng chủ nghĩa cộng
sản phi giáo điều, bằng sự lãnh đạo
tập thể, nghĩa là quyền lãnh đạo nằm trong tay một nhóm đầu sỏ.
Đấy là ba giai đoạn phát triển giai cấp mới ở Liên Xô, ba giai đoạn phát
triển của chủ nghĩa cộng sản Nga. Về nguyên tắc, đấy cũng là những giai đoạn
phát triển của tất cả các chế độ cộng sản khác.
Chủ nghĩa cộng sản Nam Tư cũng có đầy đủ đặc trưng của ba giai đoạn như đã
nói ở trên, nhưng lại quyện chặt với vấn đề dân tộc và cá nhân, tập trung vào
một con người, đấy là Tito. Là một nhà cách mạng vĩ đại (nhưng thiếu tư tưởng
độc đáo), một kẻ tiếm quyền (nhưng không có biểu hiện ngờ vực bệnh hoạn và giáo
điều kiểu Stalin), giống như Khrushchev, ông cũng là đại diện của “nhân dân”,
nghĩa là tầng lớp cán bộ trung cấp của đảng. Chính ông là người luôn luôn bảo
vệ một cách nhất quán (nếu so với những người khác) chủ nghĩa Marx nhưng hành
động lại chỉ vì lợi ích (chỉ cần thấp thoáng bóng dáng lợi ích thôi cũng đủ);
ông chính là tấm gương phản chiếu toàn bộ con đường của chủ nghĩa cộng sản:
cách mạng, rập khuôn chủ nghĩa Stalin và cuối cùng là từ bỏ nó để tìm diện mạo
riêng.
Ba giai đoạn phát triển của giai cấp mới – Lenin, Stalin, “lãnh đạo tập
thể” – là không tách rời nhau cả về nội dung và tư tưởng.
Lenin đã là một người giáo điều, còn Stalin là nhà cách mạng, theo cách của
mình, cũng như “ban lãnh đạo tập thể”, trong trường hợp cần thiết, có thể sử
dụng một cách hữu hiệu cả những phương pháp cách mạng cũng như phương pháp giáo
điều. Hơn thế nữa, ban lãnh đạp tập thể chỉ không chấp nhận phương pháp giáo
điều khi nó đụng chạm quyền lợi của nhóm chóp bu của giai cấp mới mà thôi. Đồng
thời nó lại kiên quyết hơn trong việc “giáo dục” quần chúng, tích cực nhồi sọ
giáo điều, hay chủ nghĩa Marx - Lenin cho họ. Giai cấp mới sau khi nắm được sức
mạnh kinh tế đã tỏ ra mềm dẻo hơn, đã không còn khốc liệt và độc đoán như xưa
nữa.
Giai đoạn anh hùng của chủ nghĩa cộng sản đã cáo chung.
Thời đại của các lãnh tụ vĩ đại đã cáo chung.
Bắt đầu giai đoạn của những kẻ thực dụng. Đấy là giai cấp mới. Giai cấp ấy
đang đứng trên đỉnh cao của quyền lực và tài sản, nhưng thiếu tư tưởng. Giai
cấp ấy không có gì để phát biểu nữa. Chỉ còn mỗi một việc là biện hộ cho chính
nó.
5.
Nếu những người cộng-sản-chống-Stalin, trong đó có Trotsky và một số nhà
dân chủ xã hội khác không coi tầng lớp lãnh đạo cộng sản như là một hiện tượng
“song hành”, bản chất là quan liêu, là một căn bệnh trong thời kì phát triển
của một xã hội lí tưởng, xã hội phi giai cấp, tương tự như xã hội tư bản đã
từng trải qua dưới thời Cromwell hay Napoleon, thì có lẽ việc chứng minh rằng
chủ nghĩa cộng sản hiện đại không phải là chế độ chuyên chế sớm nở tối tàn và
sự độc đoán của chế độ quan liêu đó chỉ là tạm thời, mà là một giai cấp bóc lột
mới, sẽ chẳng phải là một việc có ý nghĩa lắm.
Chúng tôi đã nhấn mạnh rằng chúng ta đang nói về một giai cấp mới. Nghĩa là
ta đang nói về một hiện tượng ổn vững và có nguồn gốc sâu xa. Và sự kiện đấy là
một giai cấp mới, giai cấp đặc biệt, với hình thức sở hữu và cầm quyền đặc biệt
không có nghĩa là nó không phải là một giai cấp. Ngược lại[10].
Dù sử dụng bất cứ định nghĩa nào về giai cấp, kể các định nghĩa Marxist, ta
đều đi đến kết luận: ở Liên Xô và các nước cộng sản khác đã xuất hiện một giai
cấp mới, giai cấp hữu sản và bóc lột. Dĩ nhiên là tôi không khắng định rằng
giai cấp này hoàn toàn tương đồng với những giai cấp hữu sản khác trong quá
khứ. Tôi chỉ khẳng định rằng vấn đề không phải là sự lên ngôi tạm thời của các
đầu lĩnh quan liêu đã giành được quyền lực do những hoàn cảnh ngẫu nhiên của
cách mạng[11].
Đặc trưng cơ bản của giai cấp mới chính là quyền sở hữu tập thể.
Các lí thuyết gia cộng sản khẳng định rằng (một số người tin là như thế)
chủ nghĩa cộng sản phát minh ra sở hữu tập thể.
Sở hữu tập thể dưới những hình thức khác nhau đã từng tồn tại trong những
hình thái xã hội trước đây. Các chế độ chuyên chế phương Đông tồn tại dựa trên
cơ sở sở hữu nhà nước, nghĩa là sở hữu của chính nhà vua. Đất canh tác chỉ trở
thành sở hữu tư nhân tại Ai Cập kể từ thế kỉ thứ XV trước công nguyên, trước đó
tư nhân chỉ có quyền sở hữu nhà và vườn: đất công được cho thuê, các viên chức
nhà nước thu tô và quản lí. Hệ thống tưới tiêu và những công trình khác đều là
tài sản nhà nước. Tài sản nhà nước giữ vai trò chủ đạo cho đến tận khi nước này
mất độc lập vào thế kỉ I trước công nguyên[12].
Nếu quên những sự kiện đó ta sẽ không thể nào hiểu được sự thần thánh hoá
các Pharaoh Ai Cập hay các vua chúa phương Đông cổ đại, ta cũng không thể nào
hiểu được tại sao người ta lại có thể xây dựng được những đền chùa, lăng tẩm,
cung điện, kênh đào, đường xá, thành quách vĩ đại đến như vậy.
La Mã cổ đại cũng coi những vùng đất mới chiếm được là tài sản nhà nước và
nhà nước cũng sở hữu rất nhiều nô lệ. Nhà thờ thời Trung cổ cũng sở hữu rất
nhiều tài sản tập thể.
Chỉ có chủ nghĩa tư bản là chống lại sở hữu tập thể (bản chất của nó là như
thế). Nhưng đấy là nói trước khi có các công ty cổ phần. Chủ nghĩa tư bản tuy
không hào hứng, nhưng cũng không thể chống lại được hình thức sở hữu này.
Cái mới mà những người cộng sản đem lại không phải là tính chất tập thể, mà
là sự bao trùm toàn bộ của hình thức sở hữu này. Sở hữu của giai cấp mới bao
trùm lên toàn bộ, khác hẳn với các giai đoạn trước, kể cả thời kì của các
Pharaoh Ai Cập.
Tất cả chỉ có thế.
Tài sản của giai cấp mới cũng như đặc điểm của nó không phải xuất hiện ngay
lập tức mà hình thành trong một quá trình lâu dài kèm theo những biến động
không ngừng. Ban đầu chính dân tộc, đúng hơn là một bộ phận nhỏ của dân tộc,
cảm thấy có nhu cầu (nhân danh cải tạo công nghiệp) chuyển toàn bộ tiềm năng
kinh tế vào tay một đảng chính trị. Đảng, “đội quân tiên phong của giai cấp vô
sản” tìm mọi cách cổ vũ cho sự tập trung đó, một sự tập trung chỉ có thể xảy ra
cùng với việc thay đổi chính quan hệ sở hữu. Sự thay đổi như vậy quả thật đã
diễn ra, ban đầu là việc quốc hữu hoá các xí nghiệp lớn, rồi sau đó cả các xí
nghiệp nhỏ nữa. Loại bỏ sở hữu tư nhân là điều kiện của tiến trình công nghiệp
hoá và sự xuất hiện giai cấp mới. Nhưng, nếu không giành được vai trò đặc biệt,
vai trò cai quản xã hội và tài sản quốc gia, những người cộng sản không thể
biến thành giai cấp mới. Tài sản, về mặt hình thức, đã trở thành sở hữu toàn
dân, nhưng trên thực tế, thông qua quyền quản lí, sử dụng và phân phối, đã trở
thành tài sản của một tầng lớp của đảng và bộ máy quan liêu châu tuần xung
quanh tầng lớp đó.
Quá trình này xảy ra tương đối chậm và đấy chính là mảnh đất màu mỡ cho ảo
tưởng rằng trong chế độ cộng sản toàn thể xã hội chứ không phải một giai cấp đã
nắm trọn quyền sở hữu tài sản[13].
Nhận thức được rằng tài sản có thể củng cố được quyền lực và mang lại nhiều
đặc lợi, bộ máy quan liêu của đảng không thể không thò bàn tay thâu tóm cả các
ngành sản xuất nhỏ. Hơn nữa vì bản chất là toàn trị và độc quyền, thù địch với
mọi hình thức sở hữu mà nó không quản lí được, giai cấp mới tìm mọi cách tiêu
diệt hoặc chiếm hữu các hình thức sở hữu đó.
Trước khi tiến hành tập thể hoá, Stalin tuyên bố rằng vấn đề là “ai thắng
ai?” mặc dù giai cấp nông dân, vốn phân tán cả về kinh tế và chính trị, không
thể tạo ra bất cứ mối nguy hiểm nào đối với chính quyền Xô Viết. Nhưng giai cấp
mới không thể yên tâm khi còn những chủ sở hữu khác: lỡ xảy ra phá hoại trong
nông nghiệp hay cung cấp nguyên liệu thì sao! Đấy là nguyên nhân chủ yếu của
việc đàn áp nông dân. Nhưng còn một lí do nữa, lí do giai cấp: khi tình hình
không ổn định, nông dân có thể làm lung lay địa vị của giai cấp mới. Giai cấp
mới phải sử dụng các hợp tác xã như là biện pháp hành chính và kinh tế để buộc
tầng lớp nông dân khuất phục mình. Đấy cũng là đòi hỏi của giai cấp mới đang
hình thành ở nông thôn, nơi bọn quan liêu cũng sinh sôi và phát triển với một
tốc độ không thể nào tưởng tượng nổi.
Mặc dù việc tước đoạt tài sản, nhất là của các chủ sở hữu nhỏ, thường tạo
ra hỗn loạn về kinh tế và kìm hãm sản xuất, nhưng điều đó không làm giai cấp
mới bận tâm. Giống như mọi chủ sở hữu khác trong lịch sử, giai cấp mới chỉ quan
tâm giành giật thật nhiều tài sản và củng cố địa vị của mình. Dân tộc dù có bị thua
nhưng quyền sở hữu vẫn tiếp tục đảm bảo cho giai cấp mới đặc quyền đặc lợi,
nghĩa là họ thắng, là được. Tập thể hoá nông thôn là biện pháp cần thiết để
giai cấp mới khẳng định sức mạnh và quyền sở hữu của nó.
Tuy không có số liệu cụ thể nhưng ta cũng không thể nói rằng năng suất cây
trồng ở Liên Xô cao hơn thời Sa Hoàng. Ta biết rằng năng suất là thấp và các
nhà kinh tế học Nam Tư tính ra rằng (dĩ nhiên là trong giai đoạn mâu thuẫn với
Liên Xô) ngay trên những cánh đồng màu mỡ của Ukraine năng suất cũng không được
1 tấn một hecta. Số lượng gia súc và gia cầm trong giai đoạn hợp tác hoá cũng
giảm hơn 50%, và cho đến nay vẫn chưa đạt mức như thời nước Nga Sa Hoàng lạc
hậu.
Nhưng nếu số thiệt hại này là có thể tính đếm được thì thiệt hại về người,
hàng triệu nông dân bị đẩy vào các trại lao động, là không thể đo đếm được. Tập
thể hoá tràn qua như một cuộc chiến tranh huỷ diệt, giống như một cơn điên,
không thể nào xảy ra được, nếu như nó không có lợi cho giai cấp mới, không đảm
bảo cho giai cấp này quyền bá chủ xã hội.
Người ta đã tiến hành tiêu diệt hoặc “tập thể hoá” (biến thành sở hữu của
giai cấp mới) sở hữu tư nhân bằng đủ mọi cách có thể tưởng tượng được: quốc hữu
hoá, tập thể hoá cưỡng bức, thuế cao, chèn ép khi tham gia thị trường. Dù người
chủ cũ có sử dụng ít lao động hơn, dù việc tước đoạt sở hữu không giải quyết
được các vấn đề kinh tế, thì đấy cũng không phải là vấn đề mà giai cấp mới quan
tâm[14].
Sự xuất hiện giai cấp mới và tài sản của nó không thể không ảnh hưởng đến
tâm lí và cách sống của những người đã nằm trong giai cấp ấy. Họ chiếm đoạt
hết: nhà nghỉ, các căn hộ đẹp, đồ gỗ,..v.v...Tầng lớp quan chức chóp bu, giới
tinh hoa của giai cấp mới, sống trong các khu đặc biệt, nghỉ trong những khu
vực an dưỡng riêng. Bí thư đảng uỷ và giám đốc cảnh sát mật trở thành không chỉ
những người có quyền tối thượng mà còn sở hữu những căn hộ đẹp nhất, những
chiếc ô tô xịn nhất, v.v... Sau họ là những người khác, theo nấc thang quyền
lực. Tiền ngân sách, “tặng phẩm”, việc xây dựng và tái trang bị, tất cả dường
như là do nhu cầu của nhà nước và cơ quan, nhưng thực ra đây chính là nguồn tài
sản vô tận, vĩnh cửu, dành riêng cho các quan chức của bộ máy chính trị.
Chỉ khi nào giai cấp mới không thể “giải quyết” được với số tài sản mà nó
cướp được hoặc số tài sản đó đã trở thành gánh nặng và nguy hiểm về chính trị,
thì nó mới chịu nhường cho những giai tầng khác, nghĩa là chấp nhận các hình
thức sở hữu khác. Đấy là trường hợp giải tán hợp tác xã ở Nam Tư: bị nông dân
chống đối, sản lượng giảm liên tục chính là mối nguy tiềm ẩn đối với chế độ.
Nhưng giai cấp mới, chưa ở đâu và chưa bao giờ, tuyên bố rằng nó từ bỏ quyền sở
hữu đó và không tái hợp tác hoá khi có điều kiện. Vâng, giai cấp mới không thể
từ bỏ, cũng như nó không thể khác cái nó đang là: một giai cấp toàn trị và độc
đoán, chuyên quyền về bản chất.
Chưa có một bộ máy quan liêu nào từng theo đuổi mục đích của mình với sự
kiên định đến như thế. Chỉ có các ông chủ, với những hình thức sở hữu mới, đang
dọn đường cho những hình thức sản xuất mới, mới có thể thể hiện sự kiên trì và
kiên định đến như thế.
Marx tiên đoán rằng sau khi giành được thắng lợi, giai cấp vô sản sẽ gặp
hai mối nguy, đấy là các giai cấp đã bị lật đổ, và bộ máy quan liêu của chính
mình. Khi những người cộng sản, đặc biệt là cộng sản Nam Tư, phê phán chế độ
của Stalin và chủ nghĩa quan liêu, họ đã dựa vào tư tưởng này của Marx. Nhưng
những điều xảy ra hôm nay trong chế độ cộng sản và giả định của Marx mà ta đang
nói tới có rất ít điểm chung. Marx đã tiên đoán khả năng sinh sôi nảy nở của bộ
máy quan liêu ăn bám (điều đang diễn ra trong các chế độ cộng sản), nhưng ông
không thể nào ngờ được rằng những người cầm quyền cộng sản lại có thể sử dụng
tài sản không phải vì quyền lợi của toàn bộ bộ máy quan liêu nói chung mà chỉ
vì quyền lợi của một nhóm chóp bu nắm quyền. Cho nên trong trường trường hợp
này, Marx chỉ là cái cớ để phê phán sự tham lam vô độ của một giai tầng riêng
biệt của giai cấp mới mà thôi.
Như vậy vấn đề không phải chỉ là sự quan liêu độc đoán, thoái hoá, biến
chất và ăn bám, dù chế độ cộng sản, hơn bất cứ chế độ nào khác, đầy dẫy các
hiện tượng đó mà là việc những người cộng sản giành quyền quản lí và phân phối
toàn bộ tài sản quốc gia, chính ở đây họ đã tự thể hiện là hạt nhân của giai
cấp mới, giai cấp hữu sản và đấy cũng là cơ sở của chế độ toàn trị của họ[15].
Chủ nghĩa cộng sản hiện đại không chỉ là đảng kiểu mới, không chỉ là chế độ
quan liêu dựa trên sở hữu độc quyền và sự can thiệp quá mức của nhà nước vào
các hoạt động kinh tế. Chủ nghĩa cộng sản hiện đại trước hết là tư tưởng giai
cấp của những kẻ hữu sản và bóc lột kiểu mới.
6.
Không có một giai cấp nào xuất hiện nhờ vào những hành động hữu thức dù sự
hưng thịnh của từng giai cấp bao giờ cũng đi kèm với cuộc đấu tranh có ý thức
và có tổ chức. Giai cấp mới cũng không ngoài thông lệ đó. Nhưng giai cấp mới
cũng có một số đặc thù.
Do sự bấp bênh về vị trí xã hội và kinh tế, cũng như xuất thân từ một đảng
chính trị, giai cấp mới buộc phải cực kì cố kết, luôn luôn hành động một cách
có ý thức và với một kế hoạch thật rõ ràng. Cuối cùng nó buộc phải từ bỏ một
cách thận trọng và có ý thức những nguyên lí thuở ban đầu của chính nó[16].
Như vậy là, giai cấp mới có tổ chức và có ý thức hơn bất kì giai cấp nào trước
đó.
Kết luận này là chính xác nếu nói về nhận thức và ý thức tổ chức trong quan
hệ với thế giới bên ngoài, với các đảng phái, các giai cấp và lực lượng xã hội
khác. Không có một giai cấp nào trong lịch sử từng thể hiện sự đoàn kết thống
nhất trong việc tranh đoạt và bảo vệ độc quyền sở hữu tài sản và chế độ toàn
trị của mình đến như thế.
Mặt khác, giai cấp mới, vốn bị è cổ dưới gánh nặng của sự tự huyễn, lại là
giai cấp có nhận thức về mình kém nhất, mà cụ thể là không nhận rằng nó là một
giai cấp, dù là giai cấp với những đặc điểm hoàn toàn mới mẻ. Tất cả nhà tư sản
hay địa chủ đều tự nhận thức được rằng họ thuộc vào một thành phần xã hội nhất
định và tin tưởng rằng thành phần xã hội này có trách nhiệm đưa nhân loại đến
bến bờ hạnh phúc, không có họ, thế giới sẽ rơi vào cảnh hỗn loạn và diệt vong.
Người cộng sản, như một thành viên của giai cấp mới, cũng tin rằng không có
đảng của anh ta xã hội sẽ thụt lùi và tiêu vong. Nhưng anh ta không nhận thức
được rằng mình thuộc về giai cấp hữu sản và không nghĩ đến những đặc quyền đặc
lợi mà mình được hưởng. Đúng là chỉ cần tách khỏi giai cấp đó là mọi đặc quyền
đặc lợi đều biến mất ngay lập tức[17]. Dĩ
nhiên là anh ta nghĩ rằng mình thuộc về một nhóm người những tư tưởng, mục
đích, tâm trạng và vai trò nhất định. Và chỉ thế thôi. Anh ta không thể nào
nhận thức được rằng mình thuộc về một giai tầng xã hội đặc biệt: giai cấp hữu sản.
Sở hữu tập thể có tác dụng cố kết giai cấp nhưng đồng thời cũng là vật cản
không cho người ta nhận ra bản chất giai cấp của mình: mỗi người thuộc tầng lớp
hữu sản tập thể này đều nghĩ rằng mình đang tham gia vào một phong trào với mục
đích tiêu diệt xã hội có giai cấp.
So sánh giai cấp mới với các giai cấp khác cho ta thấy nhiều tương đồng
cũng như tương dị.
Giai cấp mới cũng tham lam, giống như giai cấp tư sản thời kì đầu, nhưng
lại không cần cù và tiết kiệm như các nhà tư sản. Nó là một tổ chức cố kết và
khép kín, giống như giai cấp quí tộc, nhưng lại thiếu tâm hồn tinh tế và phẩm
chất của người hiệp sĩ.
Nhưng tính ưu việt của giai cấp mới cũng không phải là ít.
Là một tổ chức cực kì cố kết, nó luôn sẵn sàng hi sinh và sẵn sàng cho
những chiến công. Từng “nguyên tử” của mỗi “chiến binh” của nó cũng thuộc về
toàn thể đội ngũ, ít nhất về lí thuyết người ta đã nghĩ như thế. Cá nhân biến
mất hoàn toàn, nhưng lòng trung thành với tổ chức thì lại cao vòi vọi[18].
Chưa từng có giai cấp nào trong quá khứ có nhiều quyền lực như thế: nắm toàn bộ
tài sản quốc gia, nó có thể huy động sức mạnh tinh thần của chính mình và lực
lượng của toàn dân để thực hiện những nhiệm vụ quan trọng sống còn.
Quyền sở hữu mới không phải là quyền lực chính trị nhưng nhờ quyền lực
chính trị mà đảng và bộ phận đầu não của đảng có toàn quyền sở hữu, quyền sử
dụng và quản lí khối tài sản đó.
Quyền lực, nghĩa là quyền phân phối tài sản quốc gia, sẽ tạo ra cho những
kẻ có quyền đó các ưu đãi về vật chất nhất định sẽ kéo theo thói ham hố quyền
lực, giả dối, ninh bợ, ghen tị. Tư tưởng địa vị và chủ nghĩa quan liêu ngày
càng phát triển là hai căn bệnh nan y của chủ nghĩa cộng sản. Chính vì những
người cộng sản đã thoái hoá thành giai cấp hữu sản (chỉ có một con đường duy
nhất để chiếm được quyền lực và quyền lợi, đấy là trung thành với đảng, với
giai cấp và chủ nghĩa xã hội) cho nên “việc bước qua xác chết” đồng đội đã là
một trong những đặc điểm của lối sống, là điều kiện tiên quyết trên con đường
hoạn lộ của chủ nghĩa cộng sản.
Trong những hệ thống phi cộng sản, tư tưởng địa vị và hám quyền là dấu hiệu
rằng làm quan là có lợi hay chủ sở hữu chỉ là kẻ ăn bám cho nên việc quản lí
tài sản phải giao cho những người làm thuê. Trong chủ nghĩa cộng sản tư tưởng
địa vị và hám quyền chứng tỏ sự kiện là người ta muốn giành quyền sở hữu và đặc
quyền đặc lợi đi kèm vời quyền quản lí tài sản và con người[19].
Một người thuộc giai cấp nào đó không có nghĩa với việc sở hữu một khối tài
sản nhất định. Điều đó càng đúng đối với chế độ cộng sản: sở hữu mang tính tập
thể. Ở đây muốn trở thành chủ sở hũu hay đồng sở hữu cần phải len được vào hàng
ngũ của bộ máy quan liêu chính trị. Chỉ thế thôi, không cần hơn.
Giống như các giai cấp, trong giai cấp mới cũng luôn luôn có kẻ ngã ngựa
trong khi những kẻ khác lại đang leo lên. Nhưng trong các giai cấp hữu sản-tư
nhân, quyền sở hữu được thừa kế. Trong giai cấp mới, không ai có quyền thừa kế,
mỗi người phải tự chen bằng được để leo lên những nấc thang cao hơn. Giai cấp mới
được hình thành từ những người đại diện của giai tầng hạ lưu nhất, đông đảo
nhất trong xã hội, nó luôn luôn chao đảo không khác gì sóng biển. Như đã nói ở
trên, về mặt xã hội học ta có thể xác định được thành phần của giai cấp mới,
nhưng trên thực tế việc đó khó hơn rất nhiều vì nó luôn luôn biến động, có kẻ
từ nhân dân thành “quan nhất thời” thì lại có kẻ trở về làm “dân vạn đại”.
Về mặt lí thuyết, mọi người đều có thể leo lên. Giống như những người lính
của Napoleon trước đây, họ cũng từng đeo sau lưng trượng nguyên soái, nhưng số
thực sự được cầm nó chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Ở đây mỗi người chỉ cần
một phẩm chất, đấy là lòng trung thành tuyệt đối đối với đảng (thực ra là với
giai cấp mới). Nhưng đấy lại chính là điều khó khăn nhất. Giai cấp mới giống
như một hình kim tự tháp: đáy to, càng lên trên càng hẹp dần. Để đi lên, chỉ ý
chí không chưa đủ, còn cần phải hiểu và “vận dụng lí luận” nữa, cần phải quyết
liệt trong cuộc đấu tranh với kẻ thù, phải cực kì khôn khéo khi xảy ra các cuộc
tranh chấp trong nội bộ đảng, phải nắm được nghệ thuật, thậm chí tài năng trong
việc củng cố vị trí cho giai cấp nữa. Nhiều người có thể bước vào nhưng những
kẻ đến đích thì tương đối hiếm. Nếu so sánh với các giai cấp hữu sản khác thì
giai cấp mới vừa rộng mở hơn vừa khó đạt đến hơn. Vì một trong những đặc trưng
của nó là độc chiếm quyền lực, các thành kiến của bộ máy quan liêu nhiều tầng
nấc chỉ làm cho việc leo lên khó khăn hơn mà thôi.
Chưa ở đâu và chưa bao giờ cánh cửa lại rộng mở như thế đối với những kẻ
trung thành, nhưng cũng chưa ở đâu con đường danh vọng lại khó khăn và đòi hỏi
nhiều nạn nhân và sự hi sinh to lớn đến như vậy. Chế độ cộng sản, một mặt mở
rộng cửa chào đón tất cả, nhưng mặt khác, nó lại là chỗ khó vào và bất dung với
cả những môn đồ của chính mình.
7.
Nói rằng trong các nước cộng sản đã xuất hiện một giai cấp mới, tuy chưa
làm cho vấn đề trở nên hoàn toàn rõ ràng nhưng cũng tạo cơ sở để cho ta tìm
hiểu những thay đổi theo chu kì trong những nước này, mà trước hết là ở Liên
Xô.
Dĩ nhiên mọi sự thay đổi, trong từng nước hay trong cả khối cộng sản, đều
phải được nghiên cứu: vùng ảnh hưởng và ý nghĩa của nó trong những hoàn cảnh cụ
thể. Nhưng để làm điều đó phải có khái niệm chung về cả hệ thống.
Liên quan đến những thay đổi hiện nay ở Liên Xô, thiết nghĩ sẽ không thừa
khi tìm hiểu những chuyện đang diễn ra với các hợp tác xã nông nghiệp. Hơn nữa
việc thành lập hợp tác xã và chính sách của chính quyền Xô Viết thể hiện rõ bản
chất bóc lột của giai cấp mới.
Stalin trước đây, cũng như Khrushchev hiện nay, đều coi hợp tác xã chưa
phải là hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa, thực ra điều đó chỉ có nghĩa là giai
cấp mới chưa giành được địa vị bá chủ ở nông thôn. Sự thật là như thế. Thông
qua các hợp tác xã, nó mới chỉ nô dịch được nông dân và giành được một phần khá
lớn thu nhập của họ (bằng cách buộc phải bán cho nhà nước), nhưng chưa trở
thành người chủ sở hữu đất đai duy nhất. Stalin hiểu rõ điều đó và trước khi
chết (trong bài báo Economic Problems of
Socialism in the U.S.S.R - Những vấn đề kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô) ông ta đã dự trù việc biến các hợp tác xã thành tài sản nhà nước, hay nói
một cách khác, đã chuẩn bị điều kiện cần thiết cho việc biến bộ máy quan liêu
thành chủ nhân ông thật sự. Mặc dù chỉ trích Stalin vì những sai lầm trong các
vụ thanh trừng, nhưng Khrushchev lại giữ nguyên quan điểm của Stalin về vấn đề
hợp tác xã, hơn nữa còn biến nó thành hiện thực bằng cách gửi về nông thôn
30.000 cán bộ đảng, phần lớn những người này đều giữ chức chủ tịch nông trang.
Chế độ mới, tuy thực hiện cái gọi là dân chủ hoá, nhưng giống như thời còn
Stalin, họ càng ngày càng chiếm thêm nhiều “tài sản xã hội chủ nghĩa” hơn. Phi
tập trung hoá trong kinh tế không phải là phân phối lại sở hữu mà chỉ là tăng
quyền phân phối tài sản cho các tầng lớp quan liêu cấp thấp hơn, cấp nước cộng
hoà, tỉnh, huyện. Nếu cái gọi là dân chủ hoá và phi tập trung hoá được tiến
hành khác đi thì sẽ đụng chạm đến vấn đề chính trị, sẽ cho phép, nếu như không
phải toàn dân thì cũng là một bộ phận dân chúng được có tiếng nói trong quá
trình phân phối sản phẩm hoặc ít nhất cũng có thể thể hiện thái độ phê phán đối
với tầng lớp chóp bu. Trên thực tế, điều đó nhất định sẽ dẫn tới việc xuất hiện
các phong trào chính trị, phong trào đối lập, dù vẫn trung thành với đường lối
chính. Việc đó đã không diễn ra. Cũng như đã không diễn ra quá trình dân chủ
hoá đảng. Dân chủ hoá và phi tập trung hoá chỉ dành cho những người cộng sản:
trước hết là dành cho tầng lớp chóp bu, sau đó thì đến các tầng lớp dưới. Một phương
pháp mới, phù hợp với những điều kiện đã thay đổi nhằm tăng cường hơn nữa độc
quyền sở hữu và củng cố quyền thống trị toàn trị của giai cấp mới.
Sự xuất hiện trong những nước cộng sản một giai cấp
độc-quyền-toàn-trị-hữu-sản cho ta kết luận: những thay đổi được thực hiện theo
sáng kiến của những người cộng sản thực chất là vì quyền lợi và “theo đơn đặt
hàng” của chính giai cấp mới. Điều đó không có nghĩa là có thể bỏ qua, không
cần xem xét những thay đổi đó. Cần phải tìm hiểu thực chất các thay đổi và sau
đó xác định ý nghĩa và hậu quả của chúng.
Giống như mọi giai tầng xã hội khác, giai cấp mới luôn luôn sống và phản
ứng với các tác nhân bên ngoài, chống đỡ và tiến lên để trở thành ngày một mạnh
hơn. Điều đó không có nghĩa là các thay đổi này không ảnh hưởng đến thế giới
bên ngoài hoặc không đụng chạm đến tận căn để chính giai cấp đó. Nhưng hiện tại
các thay đổi đó chưa thể làm lung lay chứ đừng nói biến cải được hệ thống cộng
sản.
Giống như mọi chế độ khác, chế độ cộng sản cũng phải tính đến những thay
đổi và tâm lí của quần chúng. Do tính biệt lập của mình và do không được tự do
phát biểu ý kiến, đảng cộng sản không nắm được tâm trạng của dân chúng. Nhưng
lãnh đạo nhất định phải thấy sự bất bình của quần chúng. Mặc dù có một chính
quyền toàn trị, về nguyên tắc, giai cấp mới không có khả năng miễn dịch đối với
phong trào đối lập.
Sau khi nắm được chính quyền, những người cộng sản đã dễ dàng đè bẹp được
giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản: hướng cuộc đấu tranh của quần chúng chống
lại những lực lượng này không phải là việc khó. Tịch thu tài sản của họ cũng
không khó. Khó khăn chỉ xuất hiện khi tiến hành tịch thu tài sản của các tiểu
chủ. Dù quần chúng đã đấu tranh, nhưng ở đây những người cộng sản cũng thắng.
Xã hội trở lại như xưa: các giai cấp cũ, các ông chủ cũ đã không còn, chỉ còn
xã hội “phi giai cấp”, hay đang trên đường tiến đến đó, nhưng con người thì bắt
đầu sống theo cách khác.
Đòi hỏi trở về với những quan hệ cũ, quan hệ trước cách mạng là không thực
tế (nếu không nói là khôi hài) vì các quan hệ cũ đã không còn cơ sở, cả về vật
chất lẫn xã hội nữa rồi. Những người cộng sản thanh toán dễ dàng những đòi hỏi
kiểu này.
Nhưng giai cấp mới sẽ cảm thấy khó chịu khi phải đối mặt với những đòi hỏi
về tự do. Không phải tự do nói chung và cũng không chỉ tự do về chính trị. Giai
cấp mới không phản ứng dữ dội đối với những đòi hỏi trở về với những quan hệ xã
hội hay quan hệ sở hữu cũ, nó tỏ ra thù địch nhất đối với những đòi hỏi về tự
do tư tưởng, tự do phê bình, dù chỉ là trong khuôn khổ của các quan hệ mới,
trong khuôn khổ của “chủ nghĩa xã hội”. Có sự nhạy cảm như vậy là do tính chất
đặc biệt của giai cấp mới.
Tự bản năng giai cấp này nhận thức được rằng toàn bộ tài sản quốc gia thực
ra đã là của nó, còn những nhãn hiệu như “tài sản xã hội chủ nghĩa”, “tài sản
nhà nước”, “tài sản xã hội” chỉ là những khái niệm giả tạo về mặt pháp lí. Nó
cũng nhận thức được rằng nếu tính toàn trị của nó bị phương hại thì tài sản của
nó cũng bị đe doạ. Chính vì thế, nó chống lại mọi đòi hỏi về tự do: nhân danh
bảo vệ “tài sản xã hội chủ nghĩa”. Và ngược lại, những lời phê phán phương pháp
quản lí (độc quyền) cũng làm nó hoảng loạn: nó sợ mất chính quyền. Giai cấp mới
càng phản ứng với những đòi hỏi và phê phán thì người ta càng dễ nhận ra bản
chất của nó, bản chất của giai cấp hữu sản và tham quyền.
Đó là một mâu thuẫn lớn, có thể là lớn nhất của giai cấp mới. Cụ thể là: sở
hữu dường như là của xã hội, của cả nước, nhưng lại bị một nhóm sử dụng cho
quyền lợi của mình. Sự bất tương hợp giữa quan hệ pháp lí và thực tế không chỉ
tạo ra những quan hệ kinh tế và xã hội tù mù và bất bình thường mà còn dẫn đến
việc nói một đằng làm một nẻo (đừng nghe nó nói, hãy xem nó làm – ND) của tầng
lớp lãnh đạo, vì tất cả những biện pháp mà họ thi hành cuối cùng đều chỉ nhằm
mục đích củng cố vị trí chính trị và quan hệ sở hữu của chính mình.
Giai cấp mới không thể nào giải quyết được mâu thuẫn đó, giải quyết nó cũng
đồng nghĩa với việc vị trí của họ bị đe doạ vậy.
Các giai cấp hữu sản trong quá khứ không nắm độc quyền về quyền lực và sở
hữu, họ chỉ giải quyết mâu thuẫn này với mức độ phù hợp với đòi hỏi của hoàn
cảnh. Nói cách khác, ở đâu có tự do thì ở đó giai cấp hữu sản buộc phải từ bỏ
một phần độc quyền của mình đối với sở hữu tài sản. Và ngược lại: ở đâu độc
quyền sở hữu tài sản không còn thì dù ít dù nhiều, tự do nhất định sẽ tới.
Trong chế độ cộng sản, cả quyền lực và sở hữu đều nằm trọn trong tay một
nhóm người. Điều này lại bị thượng tầng pháp luật che đậy. Nếu trong chế độ tư
bản người lao động và nhà tư sản bình đẳng trước pháp luật dù về mặt vật chất
một người là bị bóc lột, người kia là kẻ bóc lột, thì trong chế độ cộng sản đã
xảy ra điều hoàn toàn ngược lại: trong quan hệ sở hữu mọi người đều bình đẳng
(tài sản là của toàn dân) nhưng trên thực tế, thông qua độc quyền quản lí, chỉ
một nhóm nhỏ có quyền sở hữu tài sản mà thôi.
Đòi hỏi tự do trong chế độ cộng sản chính là mũi kim đâm trúng tim đen của
nó, lật tẩy bản chất của nó, là đòi hỏi đưa quan hệ sở hữu phù hợp với luật
pháp.
Đòi hỏi tự do và chuyển giao các tài sản lớn do toàn thể nhân dân tạo dựng
được vào tay nhân dân và đặt nó dưới sự quản lí của xã hội (thông qua các đại
diện được bầu một cách thực sự dân chủ) có nghĩa là buộc giai cấp mới hoặc là
nhượng bộ các lực lượng xã hội khác hoặc phải dỡ bỏ cái mặt nạ che đậy bản chất
là một giai cấp hữu sản và bóc lột của chính nó. Vì tài sản của giai cấp ấy
cũng như sự bóc lột của nó được thực hiện thông qua quyền lực, thông qua sự độc
quyền quản lí, nhưng đấy chính là những khái niệm mà nó phủ nhận. Có phải chính
giai cấp ấy vẫn thường nhấn mạnh rằng nó thực hiện vai trò quản lí là để bảo vệ
tài sản của toàn xã hội ư?
Mâu thuẫn nói trên tạo ra hàng loạt vấn đề nội bộ của giai cấp mới. Làm cho
giai cấp mới có địa vị không xác định về mặt pháp lí. Đẩy giai cấp mới vào bế
tắc, càng ngày càng lột trần sự không phù hợp giữa lời nói và việc làm của nó:
trong khi hứa hẹn loại bỏ mọi sự phân biệt giữa người với người, nhưng bằng
việc chiếm đoạt một cách bất công thành quả lao động của người khác, giai cấp
mới đang hàng ngày hàng giờ đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người với người.
Thực hiện những điều trái ngược hẳn với lí thuyết giáo điều mà nó từng tuyên
cáo, giai cấp mới buộc phải bảo vệ đến cùng giáo điều đó như bảo vệ con ngươi
của mắt mình, vì giáo điều cung cấp cho dân chúng huyền thoại về vai trò lịch
sử của giai cấp mới, một giai cấp có nhiệm vụ giải phóng nhân loại khỏi mọi áp
bức và bất công.
Mâu thuẫn giữa vị trí thực tế của giai cấp hữu sản và địa vị pháp lí của nó
có thể là lí do chủ yếu cho việc phê phán “có tính khiêu khích” ảnh hưởng đến
quần chúng và phá vỡ hàng ngũ của nó, vì chỉ một tầng lớp nhỏ của giai cấp này
được hưởng đặc quyền đặc lợi mà thôi.
Mâu thuẫn này sẽ ngày càng lan rộng và phát triển và đấy chính là hi vọng
cho những thay đổi thật sự dù tầng lớp nắm quyền trong các chế độ cộng sản đi
theo hay chống lại trào lưu thay đổi đó. Mâu thuẫn này đã là lí do của những
thay đổi mà giai cấp mới đã tiến hành trong quá khứ, trong đó có việc dân chủ
hoá và phi tập trung hoá.
Buộc phải thực hiện từng bước và nhượng bộ đối với các lực lượng xã hội
khác là cách làm của giai cấp mới nhằm che đậy mâu thuẫn vừa nói và củng cố địa
vị của mình. Nhưng vì tài sản và quyền lực của giai cấp mới vẫn chưa hề bị đụng
chạm, mọi biện pháp, kể cả những biện pháp được thực hiện do khát vọng dân chủ
hoá, cũng đều thể hiện một xu hướng, đó là tăng cường quyền lực của bộ máy quan
liêu của đảng. Hệ thống được thiết kế một cách khéo léo đến nỗi ngay cả các
biện pháp dân chủ cũng bị “đúc khuôn” cho vừa với mức cho phép và quay sang phục
vụ cho việc tăng cường quyền lực của tầng lớp đương quyền. Tương tự như ở
phương Đông cổ đại, nơi chế độ nô lệ ngấm vào mọi quan hệ xã hội, kể cả quan hệ
gia đình, chế độ chuyên chế toàn trị của tầng lớp đương quyền cộng sản áp đặt
sự quản lí của mình lên cả những lĩnh vực mà tầng lớp chóp bu không hề trông
thấy bất kì lợi ích nào.
Phong trào tự quản của công nhân Nam Tư, được lập ra trong thời kì đối đầu
với Liên Xô, đã có lúc được coi là biện pháp dân chủ nhằm kêu gọi đảng từ bỏ
độc quyền quản lí, đã biến hoá dần và không những không làm thay đổi hoặc lung
lay hệ thống mà đã trở thành một trong những phương hướng hoạt động của tổ chức
đảng. Cái điều được trù liệu khi người ta tổ chức phong trào tự quản - tạo ra
một hình thức dân chủ mới – đã không và không thể đạt được kết quả mong đợi.
Ngoài ra, tự do không thể chỉ là được chia miếng bánh to hơn. Phong trào tự
quản công nhân không tạo ra sự tham gia của người sản xuất trực tiếp vào quá
trình phân phối lợi tức, không chỉ trên bình diện quốc gia mà ngay tại các cơ
sở nữa, người ta đã tìm mọi cách ngăn chặn nó trong những giới hạn an toàn. Chế
độ đã tìm mọi cách như chính sách thuế khoá và các biện pháp khôn khéo khác để
tước đoạt phần lợi nhuận mà người công nhân đã cố gắng tạo ra chỉ với hi vọng
rằng nó sẽ là của họ. Ngoài ảo tưởng ra, họ chẳng thu nhập thêm được bao nhiêu.
Không có tự do nói chung, phong trào công nhân phải mất tự do là đương nhiên.
Trong một xã hội thiếu tự do, không một ai được quyền ra bất cứ quyết định nào.
Kẻ ban phát bao giờ cũng hưởng phần hơn.
Điều đó không có nghĩa rằng giai cấp mới, dù chỉ vì lợi ích của chính mình,
không thể nhượng bộ quần chúng. Phong trào công nhân tự quản và việc phi tập
trung hoá chính là những nhượng bộ đối với quần chúng. Hoàn cảnh có thể buộc
giai cấp mới, dù nó có độc đoán chuyên quyền và toàn trị đến đâu, phải tuân
theo ý chí của quần chúng. Năm 1948, khi xảy ra đối đầu với Liên Xô, các nhà
lãnh đạo Nam Tư đã buộc phải tiến hành một loạt cải cách, nhưng sau này, khi
vừa có dấu hiệu nguy hiểm cho địa vị của mình, chính họ đã bãi bỏ những biện
pháp cải cách này. Những chuyện tương tự cũng đang diễn ra tại các nước Đông
Âu.
Để bảo vệ quyền thống trị của mình, giai cấp cầm quyền buộc phải tiến hành
một số cải cách khi quần chúng nhận ra rằng tài sản, về danh nghĩa là của toàn
dân, đã bị giai cấp ấy sử dụng như là tài sản riêng. Những biện pháp được thực
hiện thường được mệnh danh là “tiếp tục phát triển chủ nghĩa xã hội và dân chủ
xã hội chủ nghĩa” nhưng cơ sở của chúng chính là sự bùng nổ những mâu thuẫn nói
trên. Giai cấp mới phải luôn luôn tính toán nhằm củng cố quyền lực và quyền sở
hữu của mình, đồng thời lẩn tránh sự thật và càng ra sức chứng minh rằng họ
đang lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng xã hội của những con người hạnh
phúc và bình đẳng, một xã hội không còn người bóc lột người. Giai cấp mới không
thể vượt qua được mâu thuẫn sâu sắc nội tại sau đây: nguồn gốc xuất thân không
cho phép nó hợp thức hoá tài sản, nhưng từ bỏ nó thì lại sợ vì làm thế chính là
cách tự đào huyệt dưới chân mình. Giai cấp mới buộc phải dùng những mục tiêu
phi thực tế và mù mờ hơn để biện hộ cho sự thống trị không giới hạn của mình.
Đây thực sự là giai cấp nô dịch với sức mạnh của chưa từng có trong lịch
sử. Nhưng đây cũng là giai cấp đoản thọ nhất, tương lai của nó thật là mờ mịt.
Vì chứng tự mãn, dẫm đạp lên toàn bộ xã hội, nó không thể nào đánh giá được
đúng vai trò của mình, cũng như không thể đánh giá đúng những điều đang diễn ra
xung quanh.
Thực hiện công nghiệp hoá, giai cấp mới đồng thời đã thực hiện công cuộc
chấn hưng dân tộc, ở những chỗ, những lúc mà điều đó nhất định phải chấn hưng,
nhưng nay nó đã hết hơi rồi, nó không còn khả năng gì ngoài khả năng đàn áp một
cách dã man và cướp bóc một cách vô liêm sỉ. Nó không còn khả năng sáng tạo
nữa. Và hậu quả không thể đảo ngược được: vũ khí của nó chỉ còn là sự lừa dối.
Khi tiến hành cách mạng, giai cấp mới đã đã thực hiện được những chiến công
vô tiền khoáng hậu, nhưng giai đoạn cầm quyền của nó là một trong những trang
nhục nhã nhất trong lịch sử nhân loại. Người ta sẽ lấy làm hân hoan khi nhớ lại
những thành tựu đạt được dưới quyền nó, nhưng người ta cũng sẽ phải lấy làm xấu
hổ khi nhớ đến những phương tiện mà nó đã sử dụng.
Giai cấp mới nhất định sẽ biến khỏi vũ đài lịch sử, điều đó là rõ ràng. So
với các giai cấp khác trong quá khứ, việc biến mất của nó sẽ tạo ra ít hoài cảm
nhất. Chà đạp lên tất cả những gì không thoả mãn được tính ích kỉ của nó, giai
cấp mới tự chuốc lấy cho mình một cái chết nhục nhã và sự thờ ơ của người đời.
Nhà nước đảng trị
1.
Cơ chế quyền lực cộng sản có thể là một cơ chế đơn giản nhất mà người ta có
thể nghĩ ra được, kết quả là nó tạo ra những hình thức đàn áp tinh vi nhất và
bóc lột dã man nhất.
Cơ chế này cực kì đơn giản, tại chóp bu của mọi hoạt động chính trị, kinh
tế và tư tưởng là một đảng duy nhất, đảng của những người cộng sản. Xã hội dậm
chân tại chỗ, hay vận động với tốc độ rùa bò hay lao vào những khúc quanh chóng
mặt, tất cả phụ thuộc vào các quyết định của tổ chức đảng.
Vì vậy, công dân trong các hệ thống cộng sản hiểu ngay điều gì được phép
làm, còn điều gì thì không. Không phải là luật pháp mà là quan hệ bất thành văn
giữa chính quyền và thần dân của nó đã trở thành “phương hướng hành động” chung
cho tất cả mọi người.
Ai cũng hiểu rằng quyền lực, bất chấp luật pháp, nằm trong tay các tổ chức
đảng và cảnh sát mật. “Vai trò lãnh đạo của đảng” không thấy ghi trong bất kì
điều luật nào, nhưng lại thấm vào mọi tổ chức và mọi lĩnh vực hoạt động; không
thấy ở đâu nói rằng cảnh sát mật của đảng có quyền theo dõi công dân, nhưng
cảnh sát vẫn là lực lượng đầy uy quyền; không có tài liệu nào nói rằng toà án
và viện kiểm sát phải báo cáo với tổ chức đảng và cảnh sát mật, nhưng sự thật
đã là như thế. Sự thật là như thế đối với nhiều người đã không còn là bí mật,
đa số đều biết. Người ta cũng biết rằng cái gì được phép, cái gì bị cấm và ai
có quyền cấm. Đấy là lí do vì sao người ta có thể thích ứng được với hiện thực
và bất kì vấn đề gì họ cũng giải quyết với tổ chức đảng hoặc tổ chức nằm dưới
sự lãnh đạo của tổ chức đảng.
Việc quản lí các tổ chức xã hội được thực hiện bằng một phương pháp đơn
giản sau đây: các đảng viên ở đó thành lập đảng đoàn và đưa ra mọi quyết định
sau khi đã thoả thuận với cấp lãnh đạo bên trên. Đấy chỉ là sơ đồ chung. Trên
thực tế, nếu tổ chức do một người có quyền lực trong đảng lãnh đạo thì nó không
cần phải thoả thuận về những vấn đề không quan trọng với ai hết. Ngoài ra,
những đảng viên đã quen với hệ thống sẽ biết vấn đề nào là quan trọng, vấn đề
nào không vì cấp trên chỉ quan tâm đến những vấn chung, có tính nguyên tắc hay
có tính chất đặc biệt mà thôi. Đảng đoàn tồn tại để khi cần có tiếng nói cuối
cùng của đảng, còn những người bầu ra tổ chức ấy nghĩ gì thì nó không thèm quan
tâm.
Cội nguồn của phương pháp quản lí và thực thi quyền lực của đảng, cũng như
của chế độ toàn trị cộng sản và giai cấp mới xuất phát từ giai đoạn chuẩn bị
cách mạng của đảng. Chính những đảng đoàn trước đây đã phát triển, phân nhánh,
hoàn thiện và đóng vai trò lãnh đạo trong các cơ quan chính quyền và tổ chức xã
hội. Chính lí thuyết về vai trò tiên phong của đảng của giai cấp công nhân tạo
ra “vai trò lãnh đạo của đảng” trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước
cách mạng, lí thuyết này đã trui rèn nên lực lượng cán bộ cho cách mạng, nay nó
lại đóng vai trò biện hộ cho chế độ toàn trị của giai cấp mới. Thật ra cũng có
một chút khác biệt. Trước đây, cách mạng và những hình thức của nó là việc
không tránh khỏi, thậm chí là nhu cầu của bộ phận xã hội nhằm hướng đến tiến bộ
kinh tế và kĩ thuật.
Nhưng thoát thai từ cách mạng, bạo lực toàn trị và ách thống trị của giai
cấp mới đã trở thành núi đá đè lên xã hội, làm cho xã hội kiệt sức vì mất bao
mồ hôi, xương máu. Một vài hình thức cách mạng đã trở thành phản động. Đảng
đoàn là một trong những hiện tượng như thế.
Việc điều hành dưới chế độ cộng sản được bộ máy nhà nước thực hiện theo hai
cách. Cách thứ nhất: theo chức năng như đã nói ở trên. Về nguyên tắc, đây là
phương pháp chủ yếu. Nhưng trên trên thực tế phương pháp thứ hai: một số chức
vụ của chính quyền chỉ được giao cho các đảng viên lại hay được áp dụng. Đấy là
những vị trí được coi là quan trọng đối với mọi chính quyền, đặc biệt là chính
quyền cộng sản: cảnh sát, trước hết là cảnh sát mật, ngoại giao đoàn và tầng
lớp sĩ quan, nơi công tác chính trị và tình báo được coi là công tác chủ yếu.
Chỉ các cơ quan trung ương của ngành tư pháp mới bị kiểm soát một cách nghiêm
ngặt: cơ quan này thuộc quyền các tổ chức đảng và cảnh sát nhưng lương thấp nên
không hấp dẫn. Xu hướng chung là làm cho ngành này trở thành hấp dẫn hơn, có
nhiều bổng lộc hơn để lôi kéo các đảng viên. Khi đó việc quản lí ngành tư pháp
sẽ dễ dàng hơn hoặc thậm chí không cần thiết nữa: toà án sẽ xử theo đúng đường
lối chung của đảng, nghĩa là theo đúng “tinh thần xã hội chủ nghĩa”.
Chỉ có trong chế độ cộng sản mới có việc một số ngành chức năng (đã liệt kê
và cả những ngành khác nữa) mới bị các đảng viên hoàn toàn khống chế. Chính
quyền cộng sản dù mang tính giai cấp về nội dung lại mang tính đảng về hình
thức, quân đội của đảng, nhà nước do đảng lãnh đạo. Nếu nói cho thật đúng thì
người cộng sản có xu hướng coi nhà nước và quân đội là vũ khí của riêng mình.
Dù không được thể hiện trên bất cứ tài liệu nào nhưng chỉ có đảng viên mới
có quyền trở thành cảnh sát, sĩ quan quân đội, trở thành các nhà ngoại giao,
nghĩa là các đảng viên và chỉ có các đảng viên mới có quyền giữ các chức vụ
quyền lực, thực thi quyền lực, điều đó không chỉ tạo ra một tầng lớp quan liêu,
tầng lớp ưu tú mà còn đơn giản hoá cơ chế quản lí. Bằng cách đó, đảng đoàn đã
bao gồm ở mức độ này hay mức độ khác tất cả những người làm việc trong các lĩnh
vực này. Kết quả là các cơ quan đó trở thành một trong những bộ phận của công
tác đảng, đảng đoàn biến mất.
Vì vậy, trong các chế độ cộng sản không có sự khác biệt của các cơ quan đó
với các tổ chức đảng, nhất là giữa đảng và cảnh sát mật. Đảng và cảnh sát liên
hệ mật thiết với nhau trong hoạt động hàng ngày, sự khác nhau chỉ còn là phân
công lao động. Đảng, có thời đã là người tổ chức quần chúng, thì nay đã trở
thành một bộ máy.
Toàn bộ cơ chế quyền lực được thực hiện theo sơ đồ sau: các cơ cấu chính
trị là đặc quyền của các đảng viên, các cơ quan ban ngành khác thì hoặc do các
đảng viên nắm giữ hoặc bị họ kiểm soát một cách gắt gao. Chỉ cần ở trung ương
diễn ra cuộc họp hoặc công bố một bài báo là toàn bộ bộ máy sẽ đi vào vận hành.
Chỉ cần một nơi nào đó có trục trặc là đảng và cảnh sát sẽ can thiệp ngay.
2.
Nếu đảng cộng sản không phải là một đảng đặc biệt thì hình thức nhà nước đó
không thể nào tồn tại được[1].
Trên kia đã nói đến tính chất đặc biệt của đảng cộng sản. Nhưng vẫn cần
phải nói thêm một loạt biểu hiện đặc thù nữa ngõ hầu làm rõ bản chất của nhà
nước cộng sản.
Đảng cộng sản là đảng đặc biệt không chỉ vì nó là đảng cách mạng, tập
trung, có kỉ luật nhà binh, có những mục tiêu cụ thể hay có những đặc điểm
khác. Tất cả những điều vừa nói đều là những tính chất đặc biệt của nó cả.
Có cả những đảng khác với những tính chất gần như thế, mặc dù trong đảng
cộng sản những tính chất này có thể được biểu hiện một cách mạnh mẽ hơn.
Nhưng chỉ có trong đảng cộng sản thì sự thống nhất về tư tưởng, sự thống
nhất về thế giới quan và quan điểm trong việc xây dựng xã hội mới là bắt buộc
với mọi đảng viên. Dĩ nhiên là mệnh lệnh này chỉ là bắt buộc đối với các cơ
quan đầu não, các cơ quan cấp cao mà thôi. Các cấp bên dưới về hình thức cũng
phải tuân thủ sự thống nhất về tư tưởng nhưng thực ra trách nhiệm của họ chính
là: thực thi các nghị quyết được đưa xuống từ bên trên. Nhưng xu hướng chung là
phải nâng cao trình độ của cấp dưới để họ luôn nắm được quan điểm của lãnh tụ.
Dưới thời Lenin hiện tượng bất đồng quan điểm vẫn còn được chấp nhận. Lenin
không cho rằng tất cả các đảng viên đều bắt buộc phải có quan điểm hoàn toàn
giống nhau, mặc dù chính ông là người khởi xướng việc lên án và loại bỏ khỏi
hàng ngũ của đảng những quan điểm mà ông cho rằng không hoàn toàn Marxist, hay
thiếu tính đảng, nghĩa là những quan điểm mà theo ý ông là không có tác dụng
củng cố đảng. Ông đã xử lí các nhóm đối lập trong đảng không phải theo kiểu của
Stalin: không bắn giết mà chỉ bịt miệng. Dưới quyền ông, người ta còn được thảo
luận và biểu quyết. Chế độ toàn trị chưa hoàn toàn thắng thế.
Đối với Stalin thì sự thống nhất về tư tưởng, thống nhất về chính trị là
điều kiện để trở thành đảng viên. Đấy là đóng góp trực tiếp của Stalin vào lí
luận về đảng kiểu mới của Lenin. Điều đáng chú ý là luận điểm về sự thống nhất
tuyệt đối về tư tưởng được ông ta phát biểu ngay từ khi còn rất trẻ. Dưới triều
Stalin, sự thống nhất về tư tưởng là điều kiện bắt buộc của tất cả các đảng
cộng sản và điều đó vẫn còn tác dụng cho đến tận hôm nay.
Các lãnh tụ Nam Tư, ban lãnh đạo Liên Xô, cũng như các đảng cộng sản khác
hiện vẫn giữ quan điểm như vậy. Sự kiên trì tính thống nhất về tư tưởng trong
đảng không chỉ là dấu hiệu của sự trì trệ mà còn chứng tỏ rằng trong các ban
“lãnh đạo tập thể” hiện nay không có sự trao đổi ý kiến hoặc rất ít khi có trao
đổi ý kiến.
Sự thống nhất bắt buộc như vậy nói lên điều gì và sẽ dẫn đến đâu?
Sẽ dẫn đến hậu quả thật là tai hại.
Trước hết, bất kì đảng nào, đặc biệt là đảng cộng sản, quyền lực bao giờ
cũng nằm trong tay lãnh tụ hoặc các cơ quan lãnh đạo. Sự thống nhất là mệnh
lệnh (đặc biệt là đối với đảng cộng sản, một đảng có kỉ luật theo kiểu nhà
binh) nhất định sẽ dẫn tới việc bao cấp về tư tưởng của trung ương đối với các
đảng viên thường. Nếu dưới thời Lenin tư tưởng chỉ được thống nhất sau các cuộc
đấu tranh dữ dội ở các cấp cao nhất, thì Stalin bắt đầu tự mình quyết định tư
tưởng nào là đúng, còn “ban lãnh đạo tập thể” hiện nay lại chỉ cần ngăn chặn
không cho những tư tưởng mới xuất hiện là được. Chủ nghĩa Marx đã trở thành lí
luận của các ông trùm cộng sản như thế đấy. Một chủ nghĩa Marx hoặc chủ nghĩa
cộng sản khác không thể nào xảy ra được, trong hiện tại và có thể cả trong
tương lai nữa.
Hậu quả của sự thống nhất về tư tưởng thật là tai hại: nền chuyên chế của
Lenin dĩ nhiên là khắc nghiệt, nhưng nó chỉ trở thành toàn trị dưới trào
Stalin. Việc loại bỏ cuộc đấu tranh tư tưởng trong nội bộ đảng đã dẫn đến sự
tiêu diệt tự do trong toàn xã hội. Sự bất dung đối với các trào lưu tư tưởng
khác và việc khăng khăng khẳng định tính khoa học giả tạo của chủ nghĩa
Marx-Lenin đã tạo ra sự độc quyền tư tưởng của ban lãnh đạo chóp bu của đảng và
cuối cùng là sự thống trị tuyệt đối của nó đối với xã hội.
Thống nhất về tư tưởng thực chất là sự đè nén mọi sáng kiến không chỉ trong
phong trào cộng sản mà trong toàn xã hội nữa. Tất cả những gì mang tính mới mẻ
đều phải được đảng cho phép, xã hội bị đặt hoàn toàn dưới sự giám sát của đảng,
còn trong đảng thì không có chút tự do nào.
Sự thống nhất về tư tưởng không xảy ra ngay lập tức, điều đó, cũng như
những điều khác trong chế độ cộng sản đã phát triển một cách tuần tự và nó chỉ
đạt được sức mạnh tuyệt đối khi các xu hướng khác nhau của phong trào đấu tranh
quyết liệt với nhau để giành quyền lực. Và không phải vô tình mà vào giữa những
năm 20 của thế kỉ XX chính Trotsky bị yêu cầu từ bỏ quan điểm của mình. Stalin
bắt đầu tập hợp lực lượng.
Sự thống nhất về tư tưởng là cơ sở của độc tài cá nhân, thiếu sự thống nhất
đó thì độc tài cá nhân không thể nào tồn tại được. Cái này tạo ra cái kia và
củng cố lẫn nhau. Đây là điều có thể hiểu được: sự độc quyền tư tưởng hay sự
thống nhất bắt buộc vê mặt tư tưởng chỉ là mặt nạ của chế độ độc tài cá nhân mà
thôi. Mặc dù sự thống nhất về tư tưởng và chế độ độc tài đã song song tồn tại
ngay từ khởi thủy của phong trào Bolshevik, phong trào cộng sản hiện đại, nhưng
chúng chỉ được củng cố khi chế độ bước vào giai đoạn trưởng thành và sẽ là xu
hướng chủ đạo cho đến ngày diệt vong của chế độ đó.
Việc đàn áp các quan điểm khác nhau trong ban lãnh đạo đảng tự động dẫn đến
việc loại bỏ các trào lưu, xu hướng trong nội bộ phong trào và như vậy đồng
nghĩa với việc giết chết tất cả các biểu hiện dân chủ trong các đảng cộng sản.
Trong chế độ cộng sản “lãnh tụ là người biết tuốt” đã trở thành nguyên tắc:
những kẻ có quyền dù ngu dốt đến đâu cũng đều trở thành nhà tư tưởng hết.
Khi người ta tiến hành các biện pháp nhằm tăng cường sự thống nhất về tư
tưởng trong đảng cũng là lúc sự độc tài cá nhân hay độc tài của một nhóm những
kẻ cầm đầu đang được củng cố. Nhóm này có thể tạm thời thoả thuận với nhau hoặc
cùng tồn tại khi có sự cân bằng lực lượng như ở Liên Xô hiện nay.
Trong quá khứ người ta đã từng thấy xu hướng thống nhất về tư tưởng của các
đảng khác nữa, đặc biệt là các đảng xã hội. Nhưng đây chỉ là xu hướng và cũng
không kéo dài như các đảng cộng sản. Đảng viên không chỉ là một người Marxist
mà phải là Marxist theo quan điểm và chỉ thị từ trung ương. Từ một tư tưởng có
tính cách mạng và tự do, chủ nghĩa Marx đã trở thành một giáo lí không khác gì
trong các chế độ độc tài phương Đông, nơi vương triều có toàn quyền qui định và
giải thích giáo lí, còn nhà vua đóng luôn vai trò Giáo Chủ.
Sự thống nhất bắt buộc về tư tưởng, đã phát triển qua nhiều giai đoạn và
mang nhiều hình thức khác nhau, đã và vẫn là đặc điểm cơ bản của đảng Bolshevik
hay đảng cộng sản.
Nhưng sự thống nhất bắt buộc như thế sẽ không thể nào xảy ra được nếu như
đảng không phải là cha đẻ của giai cấp mới và nếu như nó không đặt ra cho mình
nhiệm vụ lịch sử chưa từng có.
Lịch sử hiện đại chưa có giai cấp nào hay đảng phái nào thực hiện được sự
thống nhất tuyệt đối về tư tưởng trong hàng ngũ của mình như đảng cộng sản.
Nhưng ngoài họ thì cũng chưa ai có ý định cải tạo toàn bộ xã hội chủ yếu bằng
các biện pháp chính trị và hành chính. Chỉ có những người có niềm tin tuyệt
đối, có niềm tin mù quáng vào sự đúng đắn và trong sáng của các quan điểm và
mục đích của mình mới dám làm những việc như vậy. Nhiệm vụ này khó khăn đến nỗi
nó đòi hỏi không chỉ thái độ không khoan nhượng đối với các tư tưởng khác và
các nhóm xã hội khác mà còn đòi hỏi sự khuất phục của toàn xã hội và sự cố kết
của chính giai cấp cầm quyền. Đấy chính là lí do vì sao đảng cộng sản cần một
sự ổn định vững chắc về tư tưởng.
Sau khi đã đạt được rồi, sự thống nhất về tư tưởng sẽ trở thành một định
kiến. Người cộng sản được dạy rằng thống nhất về tư tưởng (thực ra là các tư
tưởng được truyền từ trên xuống) là điều thiêng liêng bất khả xâm phạm, bè phái
trong đảng là hoạt động xấu xa nhất.
Như vậy là không thể tạo được chế độ toàn trị nếu không đàn áp các nhóm xã
hội khác, cũng như sự thống nhất về tư tưởng không thể xảy ra được nếu không
tiến hành thanh trừng ngay trong hàng ngũ của mình. Hai quá trình này diễn ra
đồng thời và quyện chặt vào nhau một cách “khách quan” trong nhận thức của
những người sáng lập chế độ toàn trị, mặc dù đấy là hai việc khác nhau, một
đằng là tiêu diệt kẻ thù và mặt khác là “giải quyết quan hệ” trong nội bộ. Dĩ
nhiên Stalin biết rằng Trotsky, Bukharin hay Dinoviev không phải là gián điệp
hay những kẻ phản bội. Nhưng việc họ bất đồng với ông ta đã tạo nhiều khó khăn
cho việc thiết lập chế độ toàn trị và ông ta phải tiêu diệt họ, tất cả chỉ có
thế mà thôi. Tội lỗi của ông ta đối với đảng chính là ông ta đã biến sự tranh
chấp, bất đồng khách quan về tư tưởng và đường lối chính trị trong đảng thành
tội lỗi chủ quan của từng người và từng nhóm khác nhau và vu cho họ những hành
động tội ác mà họ không phạm.
3.
Nhưng đối với chế độ cộng sản thì đấy là con đường bắt buộc phải đi qua. Có
thể thiết lập chế độ toàn trị, nghĩa là tạo ra sự thống nhất về tư tưởng, bằng
những biện pháp mềm dẻo hơn biện pháp mà Stalin đã áp dụng, nhưng bản chất vẫn chỉ
là một. Ngay cả trong những trường hợp khi mà công nghiệp hoá không phải là
biện pháp cũng như điều kiện để tạo ra chế độ toàn trị - Tiệp Khắc và Hungary
là những thí dụ - thì đảng cộng sản vẫn áp dụng những biện pháp không khác gì
những biện pháp được áp dụng ở các nước chậm phát triển, thí dụ như Liên Xô.
Đấy không phải là do Liên Xô áp đặt cho các đảng đàn em mà là bản chất của các
đảng cộng sản, bản chất của tư tưởng cộng sản. Quyền lực tối thượng của đảng
đối với xã hội, đồng nhất chính quyền và bộ máy quyền lực với đảng, chỉ những
cấp nào đó mới được quyền có tư tưởng là bản chất của tất cả các đảng cộng sản
cầm quyền.
Đảng là sức mạnh của chính quyền và nhà nước cộng sản. Đảng là người tạo
nên tất cả, là cội nguồn và sức mạnh cố kết giai cấp mới, quyền lực, tài sản và
tư tưởng của giai cấp ấy.
Chính vì vậy mà trong chế độ cộng sản không thể xảy ra độc tài quân sự mặc
dù ở Liên Xô dường đã từng có các âm mưu cướp quyền của giới tướng lĩnh. Nếu
giả dụ chế độ độc tài quân sự có thuyết phục được xã hội về sự cần thiết phải
tập trung toàn bộ sức mạnh và chấp nhận hi sinh trong một thời gian nào đó thì
nó cũng không thể kiểm soát được toàn bộ xã hội. Chỉ có một đảng duy nhất làm
được chuyện đó, đấy là đảng tuyên truyền cho những lí tưởng cao cả, sự độc đoán
chuyên quyền của nó được các đảng viên và tất cả những ai tin vào lí tưởng ấy
coi không những là cần thiết mà còn là hình thức tổ chức nhà nước, tổ chức xã
hội cao nhất.
Nếu xét theo khía cạnh tự do thì độc tài quân sự trong chế độ cộng sản là
một tiến bộ lớn. Nó đồng nghĩa với sự cáo chung của chế độ toàn trị của đảng,
của nhóm chóp bu nắm quyền của đảng đối với xã hội.
Về lí thuyết, độc tài quân sự chỉ xảy ra khi đất nước gặp thất bại năng nề
về quân sự hoặc có khủng hoảng chính trị nghiêm trọng. Lúc đó hình thức khởi
thuỷ của nó sẽ là độc tài của đảng hay dưới danh nghĩa độc tài của đảng. Nhưng
điều đó nhất định sẽ dẫn tới sự thay đổi của toàn bộ hệ thống.
Chế độ độc tài toàn trị của nhóm đầu sỏ trong đảng trong các chế độ cộng
sản không phải là kết quả nhất thời của cuộc tranh chấp chính trị mà là kết quả
của một quá trình phức tạp và kéo dài. Sự cáo chung của chế độ độc tài không
chỉ có nghĩa là sự thay thế hình thức cai trị này bằng hình thức cai trị khác
mà còn là sự thay đổi, đúng hơn là khởi đầu của sự thay đổi của cả hệ thống.
Nền chuyên chính của đảng chính là hệ thống, là linh hồn, trí tuệ và bản chất
của cả hệ thống.
Trong chế độ cộng sản, quyền lực tập trung vào tay một nhóm rất nhỏ các
lãnh tụ và cái gọi là chuyên chính vô sản chỉ còn là những khẩu hiệu sáo rỗng
mà thôi. Chính lí thuyết về vai trò tiên phong của giai câp vô sản đã góp phần
làm nên chuyện đó.
Không nghi ngờ rằng trong giai đoạn đấu tranh giành quyền lực, đảng đã là
lãnh tụ thực sự của quần chúng lao động, đã bảo vệ quyền lợi của họ. Nhưng ngay
từ bấy giờ vai trò và vị trí của đảng đã đồng thời là những giai đoạn và hình
thức để tiến đến quyền lực của chính mình. Giai cấp công nhân đã được lợi,
nhưng đảng cũng được củng cố để trở thành người nắm quyền và hạt nhân của giai cấp
mới. Ngay khi giành được quyền lực, đảng - làm như mình là hiện thân quyền lợi
của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động - ngay lập tức “khoác vào
mình toàn bộ gánh nặng” của chính quyền và không quên kiểm soát luôn toàn bộ
tài sản quốc gia. Sự tham gia và vai trò của giai cấp vô sản, ngoại trừ giai
đoạn đấu tranh cách mạng ngắn ngủi lúc đầu, về thực chất cũng không khác gì các
giai cấp khác.
Điều đó không có nghĩa là giai cấp vô sản, đúng hơn là một bộ phận của nó,
trong những giai đoạn nhất định không ủng hộ việc đảng nắm quyền. Còn nông dân
thì ủng hộ những người hứa dùng công nghiệp hóa để đưa họ thoát khỏi cảnh bần
cùng tuyệt vọng.
Việc có những giai đoạn nhân dân lao động đã ủng hộ đảng không có nghĩa là,
thứ nhất, nhân dân nắm được quyền lực và thứ hai, việc tham gia của họ có ảnh
hưởng quyết định đến quá trình phát triển của xã hội và các quan hệ xã hội.
Trong chế độ cộng sản không có quá trình nào trong những quá trình từng được
thực hiện lại có tác dụng củng cố quyền làm chủ của quần chúng lao động nói
chung và của giai cấp vô sản nói riêng.
Không thể nào xảy ra khác đi được.
Các giai cấp và quần chúng không thực thi các chức năng của quyền lực, các
chính đảng thay mặt họ làm chuyện này. Ngay cả các đảng dân chủ nhất thì vai
trò quan trọng nhất vẫn thuộc về các lãnh tụ, như vậy nghĩa là quyền lực của
đảng bao giờ cũng là quyền lực của các lãnh tụ.
Cái gọi là chuyên chính vô sản, trong trường hợp tốt nhất cũng là quyền lực
của đảng và sau đó nhất định trở thành quyền lực của các lãnh tụ đảng. Còn hiện
ta đang thảo luận về chính quyền toàn trị thì chuyên chính vô sản chỉ còn là sự
biện hộ về mặt lí luận, là cái mặt nạ che đậy cho sự chuyên chế của một số lãnh
tụ đầu sỏ. Đấy là nói trường hợp tốt nhất.
Marx coi chuyên chính vô sản như là nền dân chủ trong nội bộ giai cấp vô
sản và dành cho giai cấp vô sản, nghĩa là một chế độ trong đó tồn tại nhiều xu
hướng và đảng phái xã hội chủ nghĩa. Công xã Paris năm 1871 là nền chuyên chính
vô sản duy nhất thời Marx và ông đã dựa vào kinh nghiệm của nó để đưa ra kết
luận của mình, nhưng Công xã là chính quyền đa đảng và những người Marxist
không đóng vai trò quan trọng cả về số lượng lẫn ảnh hưởng. Chuyên chính vô
sản, nếu nói về sự thực thi quyền lực của cả giai cấp, chỉ là một giả tưởng vì
quyền lực bao giờ cũng được thực thi thông qua các tổ chức. Lenin đã biến
chuyên chính vô sản thành quyền lực của một đảng, còn Stalin thì biến nó thành
quyền lực của riêng mình, biến thành nền độc tài cá nhân cả trong đảng và trong
chính quyền. Sau cái chết của nhà độc tài cộng sản những người kế tục ông ta
cảm thấy vô cùng vui mừng vì thông qua “lãnh đạo tập thể” họ có thể chia nhau
quyền lực. Như vậy là, trong tất cả các trường hợp vừa xét, chuyên chính vô sản
chỉ là một giả tưởng hoặc là quyền lực của một nhóm lãnh tụ tinh hoa.
Lenin tin rằng Xô Viết là hình thức của chính quyền chuyên chính vô sản, là
“phát minh” của Marx. Khởi thuỷ
các Xô Viết, nhờ vào sáng kiến cách mạng và sự tham gia đông đảo của quần
chúng, đã tạo cho người ta cảm tưởng như thế. Trotsky cũng cho rằng Xô Viết có
ý nghĩa thời đại, tương tự như các cơ quan lập pháp trong cuộc đấu tranh với
chế độ chuyên chế. Nhưng đấy chỉ là ảo tưởng. Từ những tổ chức cách mạng, Xô
Viết đã thoái hoá thành hình thức chính quyền chuyên chế toàn trị của giai cấp
mới, của đảng cầm quyền.
Nguyên tắc tập trung dân chủ của Lenin, cả trong đảng và chính phủ, cũng có
diễn biến tương tự. Khi trong đảng còn có, dù ít dù nhiều, những cuộc tranh
luận thì dù chưa thật dân chủ, ta vẫn có thể coi như có một nguyên tắc như vậy.
Sau khi chế độ toàn trị đã được thiết lập, tập trung dân chủ chỉ còn là những
từ ngữ sáo rỗng che đậy bản chất của nó là sự tuỳ tiện của tầng lớp chóp bu
đương quyền mà thôi.
Từ những nguyên nhân đã nói ở trên, có thể rút ra kết luận: việc biến chuyên
chính của đảng thành độc tài cá nhân là quá trình bất khả kháng. Sự thống nhất
về tư tưởng, mâu thuẫn không tránh khỏi của nhóm cầm quyền và nhu cầu của hệ
thống nói chung nhất định sẽ đưa tới độc tài cá nhân. Lãnh tụ đảng, người đứng
trên đỉnh cao nhất của quyền lực chính là kẻ thể hiện và bảo vệ một cách kiên
định nhất quyền lợi của giai cấp mới.
Các điều kiện lịch sử cũng là nhân tố giúp cho việc thiết lập và củng cố
nền độc tài cá nhân: nhu cầu đẩy nhanh công nghiệp hoá cũng như chiến tranh đòi
hỏi mọi người phải có chung một ý chí, phải thống nhất hành động. Chúng ta có
thể kể thêm một nguyên nhân nữa, nguyên nhân đặc biệt của chủ nghĩa cộng sản:
đối với từng đảng viên và cả phong trào cộng sản thì chính quyền, quyền lực là
mục đích chính và cũng là phương tiện chính. Người cộng sản khát khao quyền lực
như nắng hạn khát mưa. Câu: “Được làm vua thua làm giặc” thể hiện đúng bản chất
họ.
Các lãnh tụ cộng sản còn có xu hướng xa hoa, họ không cưỡng được chuyện này
không chỉ vì đấy là điểm yếu của con người nói chung mà còn vì nhu cầu thể hiện
sức mạnh và hơn nữa ma lực của quyền sinh quyền sát đối với đồng loại, một loại
nghệ thuật mà chỉ những người đặc biệt mới có.
Thói bon chen, xa hoa, hám quyền là không tránh được. Phải kể thêm là tham
nhũng nữa. Đây không phải là tham quan ô lại, chuyện này bây giờ có thể ít hơn
chế độ cũ. Đây là loại tham nhũng đặc biệt: khi quyền lực nằm dưới quyền kiểm
soát của một đảng, mà đảng ấy lại là nguồn gốc của tất cả đặc quyền đặc lợi,
thì việc “quan tâm đến các chiến hữu”, việc bổ nhiệm họ vào những chức vụ có
lợi, việc phân phối phúc lợi các kiểu giữa các đảng viên với nhau phải trở
thành việc đương nhiên. Việc đồng nhất chính quyền và đảng với nhà nước (thực
ra là với sở hữu) đã làm cho nhà nước cộng sản trở thành, có thể nói, nhà nước
tự-tham-nhũng, nhất định kèm theo đặc quyền đặc lợi và những kẻ ăn bám.
Một đảng viên đảng cộng sản Nam Tư đã mô tả trạng thái tâm lí của một đảng
viên thường như sau: “Nói một cách chân thành thì tôi như bị xé làm ba phần:
tôi ghen tị với những người có ô tô đẹp hơn tôi vì tôi cho rằng họ cống hiến
cho đảng và cho chủ nghĩa ít hơn tôi; tôi nhìn những người không có ô tô và
nghĩ: đúng rồi - công lao ít; dù sao mặc lòng, tôi cảm thấy hạnh phúc vì nói gì
thì nói tôi cũng có ô tô riêng.”
Người này đúng ra không thể coi là đảng viên chân chính. Anh ta thuộc loại
tin vào lí tưởng và tham gia phong trào nhưng sau đó đã thất vọng, chỉ còn coi
đảng là nấc thang danh vọng. Người cộng sản
chân chính phải là hai trong một: cuồng tín và hám quyền vô bờ bến. Những người
khác chỉ có thể được coi là những gã háo danh hoặc những người say mê lí tưởng
mà thôi.
Trên mọi nấc thang của hệ thống cộng sản ta đều thấy tính chất quan liêu và
được phân chia thứ bậc một cách rõ ràng. Khắp nơi đều có các nhóm mà người
ngoài khó thâm nhập vào được và tất cả các nhóm đó đều châu tuần xung quanh các
lãnh tụ hoặc ban lãnh đạo cấp trên. Tất cả hoạt động chính trị tựu trung chỉ là
giải quyết mâu thuẫn giữa các nhóm ấy với nhau, ở đâu cũng có sự bao che, bè
phái. Càng lên cao thì các mối ràng buộc gia đình, dòng họ càng mạnh. Những vần
đề quốc kế dân sinh quan trọng nhiều khi được giải quyết trong bữa ăn hay các
cuộc đi săn hoặc thảo luận chỉ có ba bốn người. Các cuộc hội nghị đảng, các
cuộc họp của chính phủ hay quốc hội chỉ có tính chất trình diễn, được tổ chức
nhằm hợp thức hoá những vấn đề đã được quyết định “trong xó bếp” từ lâu.
Người cộng sản coi quyền lực (của mình, dĩ nhiên rồi) như một bái vật cho
nên khi những người ấy, đúng hơn phải nói những gia đình ấy, có mặt ở đâu đó
như là những quan chức nhà nước thì ta thấy họ có ngay những bộ mặt lạnh lùng,
xa cách và long trọng.
Đúng là chế độ chuyên chế, nhưng chưa được khai sáng.
Chính hoàng đế, chính nhà độc tài cũng không nhận thức được rằng mình là
độc tài, là hoàng đế. Stalin đã cười nhạo khi có người gọi ông ta là nhà độc
tài. Ông ta cảm thấy mình chỉ là người đại diện cho ý chí tập thể của đảng. Ở
khía cạnh nào đó thì ông ta cũng có lí, mặc dù có thể lịch sử chưa từng biết
đến người nào có nhiều quyền lực hơn ông. Đơn giản là, cũng như tất cả các lãnh
tụ độc tài cộng sản khác, ông ta hiểu rằng chỉ cần xa rời các nguyên tắc tư
tưởng cơ bản của đảng, xa rời sự độc quyền của giai cấp mới, xa rời chế độ toàn
trị là ông ta sẽ bị lật đổ ngay. Là người tạo ra và cũng là đại diện thông minh
nhất của hệ thống không bao giờ ông ta lại làm như thế. Nhưng Stalin cũng là
người phụ thuộc vào hệ thống do chính ông ta lập ra, cũng phụ thuộc vào “ý kiến
chung” của nhóm đầu sỏ nắm quyền. Ông ta không thể sống thiếu họ, cũng không
thể chống lại họ.
Dù có vẻ kì quặc nhưng sự thật vẫn là: trong hệ thống cộng sản, ngay cả cấp
cao nhất, ngay cả lãnh tụ, tất cả đều không có tự do. Mọi người phụ thuộc lẫn
nhau và đều phải rất thận trọng: làm sao không tách khỏi không khí chung, quan
điểm chung, quyền lợi chung, cách hành xử chung.
Sau những điều đã trình bày ta còn có thể nói về chuyên chính vô sản được
không?
4.
Lí thuyết của Lenin về nhà nước, được Stalin và những người khác bổ sung,
đã đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố chế độ chuyên chế đảng trị. Có
hai luận điểm quan trọng quyện chặt lấy nhau trong lí thuyết này: lí thuyết về
nhà nước và luận điểm về sự cáo chung của chính nhà nước. Được trình bày đầy đủ
nhất trong tác phẩm The State and the
Revolution (Nhà nước và cách mạng) do Lenin viết trong thời kì trốn tránh
Chính phủ lâm thời, lí thuyết này cũng như toàn bộ chủ nghĩa Lenin đều dựa trên
khía cạnh cách mạng của chủ nghĩa Marx về vấn đề nhà nước (có sử dụng nhiều
kinh nghiệm của cuộc cách mạng Nga lần thứ I – năm 1905) và được các lãnh tụ
cộng sản khác bổ sung thêm sau này. Từ quan điểm lịch sử, tác phẩm The State and the Revolution là vũ khí
tư tưởng quan trọng của chính cách mạng chứ không phải cơ sở lí thuyết để xây
dựng chính quyền mới.
Lenin coi nhà nước chỉ là biện pháp cưỡng chế, đúng hơn là cơ chế đàn áp
của giai cấp này đối với các giai cấp khác trong xã hội. Lenin từng đưa ra định
nghĩa ngắn gọn: “Nhà nước-dùi cui”
Điều đó không có nghĩa là các chức năng khác của nhà nước đã bị bỏ qua,
nhưng ngay ở đây Lenin cũng tìm thấy vai trò chủ yếu của nhà nước: biện pháp
đàn áp của giai cấp này đối với các giai cấp khác.
Nếu lí thuyết của Lenin về nhà nước có nhiệm vụ phá huỷ bộ máy nhà nước cũ
và để chuẩn bị làm việc đó phải bóc hết những gì không phải là bản chất của nhà
nước đi, thì lí thuyết đó còn xa mới có thể gọi là một khoa học.
Trên thực tế, lí thuyết của Lenin, kêu gọi phá hủy bộ máy nhà nước cũ, chưa
thể gọi là lí thuyết khoa học[2]. Tác
phẩm rất quan trọng này của Lenin, theo quan điểm lịch sử, tiếp tục truyền
thống của lí luận cộng sản: các kết luận và quan điểm có vẻ khoa học thực ra
được hình thành từ nhu cầu trực tiếp của đảng; một nửa chân lí được tuyên bố là
chân lí. Không nghi ngờ rằng cưỡng chế và đàn áp là một phần máu thịt của mọi
nhà nước, còn bộ máy nhà nước thì bị những lực lượng chính trị và xã hội khác
nhau sử dụng (nhất là khi có xung đột võ trang). Nhưng từ kinh nghiệm của mình,
mỗi người đều biết rằng xã hội, dân tộc, cần bộ máy nhà nước để phát triển và
phối hợp các chức năng khác nhau. Học thuyết cộng sản, trong đó có lí thuyết
của Lenin đã bỏ qua khía cạnh này.
Trong thời quá khứ xa xôi đã có những cộng đồng không cần nhà nước và chính
quyền. Không thể gọi đấy là xã hội vì đấy chỉ mới là giai đoạn chuyển tiếp từ
tình trạng bán khai mông muội sang xã hội loài người. Nhưng ngay cả các cộng
đồng đó cũng đã có những hình thức quyền lực nhất định. Lại càng ngây thơ khi
cho rằng trong tương lai, với cơ cấu xã hội ngày càng phức tạp hơn, nhu cầu về
nhà nước sẽ biến mất. Lenin (dựa vào uy tín của Marx, thực ra về vấn đề này
Marx ủng hộ những người vô chính phủ) đã nêu ra và biện giải cho một xã hội như
thế, xã hội không còn nhà nước. Hãy để sang một bên tính chính đáng của các
tiền đề, ta thấy ngay đấy là giấc mơ về một xã hội cộng sản phi giai cấp của
ông. Nếu theo lí thuyết này thì vấn đề rất đơn giản: không còn giai cấp và đấu
tranh giai cấp, không còn ai để áp bức, bóc lột nữa thì nhà nước dĩ nhiên là
không cần. Trước khi đến đó thì “chuyên chính vô sản” là hình thức nhà nước
“dân chủ nhất”, lí do: nó thủ tiêu các giai cấp và vì vậy sẽ dần dần trở thành
không cần thiết nữa. Như vậy là, mọi hành động nhằm tăng cường nền chuyên chính
vô sản, nghĩa là dẫn tới “thủ tiêu” các giai cấp đều được coi là chính đáng,
tiến bộ, đều đưa người ta tiến dần đến tự do cả. Đấy là lí do vì sao khi chưa
giành được chính quyền thì những người cộng sản đòi hỏi phải có những hình thức
dân chủ, nhưng chỉ cần giành được chính quyền là họ lập tức đàn áp mọi yêu cầu
tự do mà họ gọi là “tư sản”. Đấy là lí do vì sao hiện nay họ vẫn khăng khăng
phân biệt “dân chủ tư sản” và “dân chủ xã hội chủ nghĩa” mặc dù đáng ra phải
phân biệt về lượng của tự do, hay tính phổ quát của tự do.
Lí thuyết của Lenin và của chủ nghĩa cộng sản về nhà nước chứa đầy khiếm
khuyết: cả về khoa học cũng như trên thực tế. Chính cuộc sống đã bác bỏ lời
tiên đoán của Lenin: “chuyên chính vô sản” không những không thủ tiêu các giai
cấp mà chính nó cũng không có ý định tự tiêu vong. Đáng lẽ ra việc thiết lập
chế độ toàn trị cộng sản sau khi đã tiêu diệt hết các giai cấp của xã hội cũ
phải đem lại cho các nhà cầm quyền một sự “an bình” nhất định vì mục đích là
tiêu diệt hoàn toàn các giai cấp đã cận kề. Nhưng không, sức mạnh của nhà nước
(trước hết là các cơ quan chuyên chính) không những không giảm mà còn tăng thêm
không ngừng.
Để che đậy thiếu sót về lí luận, Stalin đã phải vá víu nó bằng cách bịa ra
vai trò “giáo dục” ngày càng cao của nhà nước Xô Viết.
Nếu qui lí thuyết cộng sản về nhà nước, chưa nói đến thực tế, chỉ là cưỡng
chế và đàn áp như là chức năng chủ yếu, nếu không nói là chức năng duy nhất,
thì từ quan điểm của Stalin có thể thấy vai trò to lớn của cảnh sát, kể cả
trong lĩnh vực giáo dục nữa. Rõ ràng, chỉ những kẻ ác tâm mới có thể nghĩ như
thế. Và ở đây, lí luận của Stalin là chỗ trú thân cho một nửa chân lí của cộng
sản: không thể giải thích được tại sao trong “xã hội chủ nghĩa đã hoàn thành”
sức mạnh và sự áp bức của bộ máy nhà nước ngày càng được tăng cường thêm, ông
ta liền cho một trong những chức năng chủ yếu của nhà nước là giáo dục. Đàn áp
không còn hợp thời nữa: các giai cấp đối kháng đã không còn, đàn áp giai cấp
phải chấm dứt.
Lí luận “tự quản” do các lãnh tụ Nam Tư đưa ra cũng có chung số phận. Khi
mâu thuẫn với Stalin đạt đỉnh điểm, họ phải nghĩ ra một cái gì đó để “uốn nắn”
những “lệch lạc” của ông ta và khởi đầu sự “tiêu vong” của nhà nước. Nhưng điều
đó không cản trở họ cũng như Stalin chăm bẵm lực lượng đàn áp, chăm bẵm cái
chức năng, theo lí thuyết của họ là tối thượng của bộ máy nhà nước.
Điều đặc biệt là ngược lại với lí luận về sự “tiêu vong”, chức năng của nhà
nước ngày càng mở rộng và phân nhánh cùng với số người tham gia vào bộ máy ngày
một đông hơn. Nhận thức được rằng vai trò của bộ máy nhà nước sẽ ngày càng mở
rộng và phức tạp thêm (dù xã hội đã chuyển sang giai đoạn “phi giai cấp”, giai
đoạn “cộng sản), Stalin quyết định rằng nhà nước sẽ tiêu vong khi tất cả các
công dân đều sẵn sàng nhận những công việc của ông ta, đạt đến trình độ của ông
ta. Lenin cũng từng nói tới giai đoạn khi một bà nội trợ cũng đảm đương vai trò
quản lí nhà nước. Như chúng ta đã thấy, các lí thuyết tương tự như của Stalin
từng hiện diện tại Nam Tư. Nhưng không lí thuyết nào có thể san bằng được cách
biệt giữa giáo điều cộng sản về nhà nước, nghĩa là sự “tiêu vong” các giai cấp
và “tiêu vong” của nhà nước trong chế độ “xã hội chủ nghĩa” của họ với chế độ
đảng trị-toàn trị trên thực tế.
5.
Vấn đề quan trọng nhất, cả về phương diện lí thuyết và phương diện thực
tiễn của chủ nghĩa cộng sản là vấn đề nhà nước, và đây chính là nguồn gốc của
mọi rắc rối và những mâu thuẫn ngày một rõ ngay trong lòng chế độ cộng sản.
Vì nhà nước không chỉ là - rất ít khi chủ yếu là - bộ máy đàn áp (trừ chế
độ cộng sản, đây chính là một hình thức nội chiến giữa nhân dân và những kẻ
đương chức đương quyền), nên bộ máy nhà nước cũng như toàn xã hội luôn nằm
trong tình trạng chống đối - khi thăng khi giáng - tầng lớp chóp bu, một tầng
lớp ngấm ngầm muốn biến bộ máy nhà nước thành một kẻ chỉ chuyên làm việc cưỡng
bức. Cộng sản đã không hoàn thành được việc đó, cũng như họ không thể nô dịch
được toàn bộ xã hội. Nhưng họ đã thiết lập được sự kiểm soát của các cơ quan
chuyên chính - cảnh sát và đảng - lên toàn bộ bộ máy nhà nước và các công việc
mà bộ máy này thực hiện. Vì vậy, việc phản ứng của các cơ quan chính phủ đối
với “sự thiếu cảm thông” từ phía đảng, công an hoặc các nhân vật cụ thể trên
thực tế chính là phản ứng của xã hội, chính là sự chống đối của xã hội được thể
hiện thông qua bộ máy nhà nước trước những o ép và coi thường các nhu cầu và
ước vọng của nhân dân.
Ngay cả trong chế độ cộng sản, nhà nước và vai trò của nó cũng không chỉ là
các cơ quan chuyên chính và không đồng nhất với những cơ quan này. Khi nhà nước
như một cách tổ chức đời sống của nhân dân, của xã hội, chịu phục tùng các cơ
quan chuyên chính nghĩa là nhà nước nằm trong nhà nước. Chế độ cộng sản không
thể giải quyết được mâu thuẫn đó vì tính toàn trị của nó luôn luôn xung đột với
những xu hướng khác, trái ngược hoàn toàn với sự áp chế mà các chức năng khác
của nhà nước có thể đảm nhiệm.
Mâu thuẫn này cùng với việc người cộng sản luôn luôn coi nhà nước là và chỉ
là cơ quan chuyên chính đã dẫn đến kết quả là nhà nước cộng sản không thể trở
thành nhà nước pháp quyền, nghĩa là nhà nước với toà án không phụ thuộc vào
chính quyền, còn pháp luật thì được tôn trọng trên thực tế.
Hệ thống không chấp nhận một nhà nước như thế. Ngay cả khi các lãnh tụ cộng
sản muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền thì họ cũng không thực hiện được vì
nó sẽ là mối đe doạ đối với chế độ toàn trị của họ.
Sự độc lập của toà án và thượng tôn pháp luật nhất định sẽ dẫn tới đối
lập. Không có điều luật nào của cộng sản cấm, thí dụ, tự do tư tưởng hay tự do
lập hội. Trên cơ sở các nguyên tắc độc lập của toà án, luật pháp phải đảm bảo
các các quyền tự do công dân khác nữa.
Nhưng trên thực tế những điều đó chưa bao giờ được thực hiện.
Công nhận về mặt hình thức các quyền tự do công dân, chế độ cộng sản lại
đặt ra điều kiện tiên quyết: chỉ được sử dụng các quyền ấy vì mục đích của “chủ
nghĩa xã hội” mà các lãnh tụ cổ xuý, nghĩa là ủng hộ cho quyền lực của họ.
Tương tự như vậy, không thể nào tách quyền lực của cảnh sát khỏi quyền lực
của tư pháp. Người ra lệnh bắt giam, khởi tố trên thực tế cũng là người nắm
quyền kết án và thi hành án. Một vòng tròn khép kín: chính quyền hành pháp và
lập pháp chỉ là một, các cơ quan điều tra, xét xử và trừng phạt cũng là một
nốt.
Thế thì tại sao chuyên chính cộng sản lại cần pháp luật ? Tại sao họ
lại che đậy bằng sự tuân thủ pháp luật?
Ngoài lí do chính trị, lí do tuyên truyền, nếu chế độ muốn tồn tại nó phải
đảm bảo tính pháp lí cho những kẻ mà nó dựa vào, nghĩa là tính pháp lí cho giai
cấp mới.
Luật pháp bao giờ cũng được soạn thảo vì nhu cầu và quyền lợi của đảng tức
là của giai cấp mới. Về mặt hình thức, pháp luật bảo vệ quyền lợi của tất cả
công dân nhưng trên thực tế nó chỉ bảo vệ quyền lợi của những người không bị
coi là “kẻ thù của chủ nghĩa xã hội”. Vì vậy, cộng sản luôn bị đau đầu vì trò
chơi luật pháp do chính họ viết ra, nhưng rồi lại bị họ phủ nhận ngay khi cần.
Sau một thời gian, khi đã nhận ra nguyên nhân “đau khổ” của mình, để đơn giản
hoá trò chơi pháp luật họ thường sáng tác ra những luật lệ “vá víu” có thể giải
thích thế nào cũng được.
Thí dụ, ở Nam Tư luật ghi rằng không thể kết án một người nếu hành vi của
người đó không được xác định rõ ràng theo các khung pháp lí. Nhưng đa số các vụ
án chính trị lại được thực hiện trên cơ sở gọi là “truyên truyền xuyên tạc”.
Người ta không dựa vào luật để giải thích khái niệm này, nó được trao cho các
quan toà với lực lượng cảnh sát mật đứng đằng sau.
Vì vậy mà các vụ án chính trị trong chế độ cộng sản chỉ là những cuộc trình
diễn, nghĩa là toà án được giao nhiệm vụ chứng minh “tội lỗi” của bị cáo phù
hợp với yêu cầu của những kẻ nắm quyền. Nói các khác, toà án có trách nhiệm đưa
những kết luận chính trị đã được chuẩn bị trước vào trong khung pháp luật hiện
hành.
Trong cách xử này việc thú nhận của bị cáo đóng một vai trò quan trọng (có
thể là quan trọng nhất). Bị cáo phải tự nhận là kẻ thù. Không cần chứng cớ gì
hết, chứng cớ được thay bằng lời thú tội của chính bị cáo.
Cái gọi là “Những vụ án Moskva” chỉ là những thí dụ lố bịch và đẫm máu nhất
của trò hề về pháp luật trong chế độ cộng sản. Phần lớn các phiên tòa khác cũng
đều như vậy, đấy là nói những hành động cụ thể và bản án. Những vụ án chính trị
ở Nam Tư chỉ là phiên bản "bỏ túi" của những vụ án ở Moskva mà thôi.
Các vụ án chính trị được dàn dựng như thế nào?
Đầu tiên, cảnh sát mật, theo “gợi ý” của cán bộ đảng, “phát hiện” được một
người nào đó là kẻ thù của chế độ, là cái gai của chính quyền vì anh ta công
khai bảo vệ một quan điểm nào đó hoặc anh thảo luận quan điểm đó với bạn bè của
mình. Nếu việc “phát hiện” thành công thì sẽ đến giai đoạn hai, giai đoạn đưa
nạn nhân vào bẫy. Người ta sẽ sử dụng một kẻ khiêu khích để thu thập những
“bằng chứng có tính chất phá hoại” hoặc doạ dẫm một kẻ nào đó và bắt phải kí
những tài liệu vu khống mà cảnh sát đưa cho. Trong chế độ cộng sản, đa số các
tổ chức bí mật là do chính cảnh sát lập ra để bẫy các phần tử bất đồng ý kiến.
Chế độ cộng sản không tìm cách ngăn chặn mà ngược lại còn cố tình đẩy các công
dân “không đáng” tin đến những hành động sai trái và tội lỗi khác nhau để trừng
phạt họ.
Stalin đã làm như vậy, có cả tra tấn và không cần toà án. Ngay cả trong
trường hợp có toà án và không tra tấn thì thực chất cũng vẫn thế: cộng sản
thanh toán những người chống đối không phải vì họ vi phạm pháp luật mà chỉ vì
họ là những phần tử chống đối. Vì vậy, có thể nói: đa số tù nhân chính trị thực
chất là những người chống đối chế độ, nhưng theo quan điểm của luật pháp thì họ
không phải là tội phạm. Nhưng cộng sản lại cho rằng họ đáng bị trừng phạt dù
không có cơ sở pháp lí để làm chuyện đó.
Khi có các cuộc nổi dậy của quần chúng, chính quyền cộng sản đã thẳng tay
đàn áp mà không cần để ý đến tính hợp hiến và hợp pháp của những hành động đó.
Lịch sử hiện đại chưa từng biết những vụ đàn áp dã man, phi nhân và phi pháp
đến như thế. Vụ đàn áp ở Poznan gây nhiều tai tiếng nhưng chưa phải là vụ đẫm
máu nhất. Quân đội chiếm đóng cũng như chính quyền thuộc địa dù là người ngoài,
dù hành động theo những biện pháp khẩn cấp cũng ít khi sử dụng những biện pháp
dã man như thế. Những nhà cầm quyền cộng sản đã chà đạp pháp luật và tiến hành
khủng bố ngay chính nhân dân nước mình.
Ngay trong những vấn đề không liên quan gì đến chính trị, luật pháp cũng
thường bị vi phạm. Giai cấp toàn trị vẫn hàng ngày hàng giờ can thiệp cả vào
những lĩnh vực này.
Bài báo ngắn trên tờ Politics
(Chính trị) được trích dẫn dưới đây đủ nói lên vai trò và vị trí của toà án ở
Nam Tư, nơi luật pháp nói chung được tôn trọng hơn so với các nước cộng sản
khác.
Trong cuộc hội
thảo kéo dài hai ngày dưới sự chủ trì của công tố viên liên bang, đồng chí Brana
Evremovich, khi thảo luận các vấn đề liên quan đến tội phạm kinh tế, các công
tố viên các nước cộng hoà và hai tỉnh Voevodin và Belgrad đều nhất trí cho rằng
muốn ngăn chặn hữu hiệu các tội phạm kinh tế cần phải kiên quyết và sự phối hợp
giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan kinh tế và tất cả các tổ chức
chính trị…
Mọi người
đều nhất trí rằng cho đến nay xã hội
chưa phản ứng đúng mức đối với các loại tội phạm kinh tế…
Các công tố
viên đều cho rằng xã hội cần phản ứng một cách hữu hiệu hơn nữa. Họ cho rằng
cần phải xử lí nghiêm khắc về mặt pháp luật, bên cạnh những biện pháp hành
chính khác….
Những sự kiện
được dẫn ra trong các báo cáo đã chứng minh một cách thuyết phục rằng các lực
lượng bị thất bại trên trường chính trị đang cố gắng báo thù trong lĩnh vực
kinh tế. Như vậy vấn đề tội phạm kinh tế trong giai đoạn hiện nay không chỉ là
vấn đề pháp lí mà còn là vấn đề chinh trị, đòi hỏi sự phối hợp của công tố với
các cơ quan chính quyền và tổ chức xã hội…
Tổng kết buổi thảo luận, công tố liên bang,
đồng chí Brana Evremovich, nhắc lại rằng cần phải tuân thủ pháp luật cũng như
sự nghiêm khắc mà các đồng chí lãnh đạo cấp cao đã phê phán những cá nhân phạm
các tội về kinh tế.”
Như vậy là, các công tố viên đã quyết định đường lối xử án cho các quan tòa
và hình phạt phải tuân theo chỉ đạo của “lãnh đạo cấp cao”.
Sự độc lập của toà án và tinh thần thượng tôn pháp luật ở đâu?
Trong chế độ cộng sản, lí thuyết về pháp luật được cải biến theo hoàn cảnh
và nhu cầu của nhóm chóp bu nắm quyền. Hình phạt theo nguyên lí của Vishinsky
phải được quyết định trên “nguyên tắc đích xác”, nghĩa là không được để cho các
tính toán chính trị làm ảnh hưởng đến quyết định của toà. Nhưng cho dù người ta
có áp dụng các nguyên lí nhân bản và khoa học hơn thì thực chất vẫn không thay
đổi nếu quan hệ giữa chính quyền, bộ máy tư pháp và luật pháp vẫn giữa nguyên
như trước. Trong những chiến dịch nhằm “củng
cố tính pháp lí” hay những lời lẽ huênh hoang của Khrushchev rằng “bây giờ”đảng
đã kiểm soát được cảnh sát và bộ máy tư pháp chỉ chứng tỏ rằng giai cấp mới cần
sự an toàn về mặt pháp lí chứ không phải là sự thay đổi quan điểm của giai cấp
cầm quyền đối với xã hội, nhà nước, tòa án và pháp luật.
6.
Hệ thống pháp luật cộng sản không thể thoát khỏi bệnh hình thức, vai trò
của các tổ chức đảng và cảnh sát trong thủ tục tố tụng cũng rõ ràng như trong
hệ thống bầu cử và các lĩnh vực khác. Thế vẫn chưa hết. Càng lên cao thì sự
thượng tôn pháp luật càng có tính cách trang trí và ảnh hưởng của chính quyền
đối với bộ máy tư pháp và các cuộc bầu bán càng tăng.
Mọi người đều biết sự trống rỗng và phô trương của các cuộc bầu cử dưới chế
độ cộng sản, Clement Rechard Attlee gọi một cách khôi hài là: “cuộc đua một
ngựa”. Tôi nghĩ rằng cũng cần thảo luận về việc tại sao những người cộng sản lại
cần những cuộc bầu bán không hề có ý nghĩa gì đối với việc phân bố lực lượng,
cũng như tại sao họ lại cần cái quốc hội khá tốn kém mà chẳng được tích sự gì.
Ngoài lí do tuyên truyền, lí do đối ngoại và những lí do khác tương tự, có
một việc mà không chính quyền nào, kể cả chính quyền cộng sản có thể bỏ qua,
đấy là mọi sự đều phải được hợp pháp hoá. Trong điều kiện hiện nay thì hợp pháp
hoá là thông qua các đại diện dân cử. Nhân dân có trách nhiệm ủng hộ mọi quyết
định của những người cộng sản, dù chỉ là hình thức.
Bên cạnh đó còn một nguyên nhân sâu xa nữa giải thích lí do vì sao các lãnh
tụ cộng sản lại phải “nuôi” quốc hội: các chính sách của chính phủ-giới chóp bu
của giai cấp mới phải được giới chức đảng ủng hộ. Không cần quan tâm tới dư
luận xã hội, nhưng tất cả các chính phủ cộng sản đếu phải quan tâm tới dư luận
trong đảng, dư luận trong các đảng viên cộng sản.
Đấy là lí do vì sao bầu cử chẳng có ý nghĩa gì nhưng việc chọn người lại
được các cấp lãnh đạo thực hiện một cách vô cùng thận trọng. Hàng loạt khía
cạnh được cân nhắc: đóng góp, vai trò và chức năng trong xã hội, nghề nghiệp,
vv... Đối với lãnh đạo thì các cuộc bầu cử có ý nghĩa rất lớn vì họ có thể xếp
bên cạnh mình những lực lượng mà họ coi là có giá trị, cũng có nghĩa là tạo cho
chính mình tính hợp pháp trước đảng, trước giai cấp và nhân dân.
Những thử nghiệm nhằm đưa hai ba ứng viên cho một ghế đại biểu trong các
cuộc bầu cử quốc hội đều thất bại. Nam Tư đã tiến hành các cuộc bầu cử như vậy,
nhưng sau đó đã bị lãnh đạo gán cho nhãn “chia rẽ”. Có những tin tức nói rằng
tại các nước Đông Âu cũng đang tiến hành việc có nhiều ứng viên cho một ghế đại
biểu. Giả sử chuyện đó có xảy ra thì tôi cho rằng khả năng thành công là rất
thấp, mặc dù đây là một bước tiến hay có thể nói là sự khởi đầu của quá trình
dân chủ hoá. Tôi nghĩ rằng Đông Âu rồi cũng đi theo mô hình “tự quản” của Nam
Tư chứ chưa thể dẫn đến quá trình dân chủ hoá hoặc phân hoá trong hàng ngũ đảng
cầm quyền được. Hạt nhân chuyên chế nhận thức được rằng nó sẽ gặp nhiều rắc rối
nếu không giữ vững sự thống nhất truyền thống và vì vậy vẫn nắm giữ chặt quyền
điều khiển. Mọi sự tự do, kể cả tự do trong đảng, đe doạ không chỉ quyền lực
của các lãnh tụ mà đe doạ ngay chính chế độ toàn trị.
Quốc hội cộng sản không chỉ không đưa ra các quyết sách quan trọng, thực ra
nó không có khả năng làm việc đó. Biết trước rằng sẽ được bầu, hả hê vì được
tham gia vào toàn bộ tiến trình kể từ lúc lập danh sách ứng viên, các đại biểu,
dù có muốn cũng không có sức lực và dũng khí để có thể tranh luận. Hơn nữa họ
được uỷ quyền không phải bởi cử tri cho nên họ cũng không phải chịu trách nhiệm
với cử tri. Họ chỉ có mỗi một quyền là thỉnh thoảng lại ủng hộ một trăm phần
trăm những quyết định đã được giải quyết sau hậu trường. Hệ thống cũng cần
chính một quốc hội như thế, cho nên nếu có trách thì chỉ trách là nó quá tốn
kém và vô tích sự.
7.
Nhà nước cộng sản được xây dựng trên cơ sở bạo lực và đàn áp, luôn luôn
xung đột với nhân dân, cho nên ngay cả khi không có tác nhân bên ngoài, nó vẫn
là một bộ máy nhà nước quân phiệt. Không ở đâu sự tôn sùng sức mạnh, đặc biệt
là sức mạnh quân sự, lại được đề cao như trong các nước cộng sản. Chủ nghĩa
quân phiệt là nhu cầu nội tại của giai cấp mới, là một trong những hình thức
tồn tại của nó và đồng thời cũng là tác nhân củng cố đặc quyền đặc lợi của nó.
Là một tổ chức mang tính bạo lực, và khi cần thì chỉ thực hiện vai trò bạo
lực, nhà nước cộng sản ngay từ đầu đã là một nhà nước quan liêu. Hoàn toàn phụ
thuộc vào một nhóm nhỏ những kẻ cầm quyền chóp bu, cơ quan nhà nước, không ở
đâu bằng chế độ cộng sản, tràn ngập đủ các thứ văn bản pháp qui. Ngay từ khi
vừa xuất hiện nó, đã lập tức tạo ra một khối lượng văn bản pháp qui nhiều đến
nỗi các luật sư và quan toà bị ngập lụt. Ngay những việc tầm phào nhất cũng
phải được phê duyệt, mặc dù trên thực tế chẳng có ý nghĩa gì. “Tác phẩm” của
các nhà làm luật cộng sản thường có động cơ chính trị và vì vậy mà bỏ qua hiện
thực của đời sống. Chìm trong những công thức pháp lí “xã hội chủ nghĩa” trừu
tượng, lại không bị các lực lượng đối lập phê phán, họ đã “nhốt” cuộc sống sinh
động vào những điều khoản cứng nhắc. Và tất cả đều được quốc hội thông qua.
Nhưng chủ nghĩa quan liêu cộng sản lại không hề ảnh hưởng đến nhu cầu và
cách thức làm việc của các lãnh tụ cộng sản. Giới cầm quyền chóp bu của nhà
nước, cũng là của đảng, ít khi chịu tự giới hạn bởi các nguyên tắc. Trong tay
nó là chính sách, là các quyết định mang tính chính trị, không thể chờ đợi và
không chịu bất kì giới hạn nào. Chính những người sáng lập ra bộ máy quan liêu
nhất và tập trung nhất lại không phải là những người quan liêu hoặc chịu tự
giới hạn bởi các tiêu chuẩn pháp lí nào. Stalin không quan liêu. Tito cũng thế.
Vì vậy các văn phòng của các lãnh tụ cộng sản thường rất lộn xộn và cẩu thả.
Điều đó cũng không ngăn cản các “ông chủ” thỉnh thoảng lại tổ chức các
phong trào “đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu” nghĩa là chống lại sự cẩu thả
và chậm trễ của bộ máy hành chính. Nhưng đây không phải là ý định loại bỏ chủ
nghĩa quan liêu thực sự đã ăn sâu, bén rẽ vào xã hội mà bản chất của nó là sự
phụ thuộc toàn diện của đời sống xã hội vào bộ máy chính trị.
Các lãnh tụ cộng sản thường nhắc đến Lenin khi tiến hành đấu tranh chống
chủ nghĩa quan liêu.
Nhưng nếu nghiên cứu kĩ Lenin thì ta sẽ thấy ông không thể nào tiên đoán được
rằng bộ máy quan liêu sẽ nuốt chửng hệ thống mới. Khi chạm trán với sự quan
liêu, một phần là sản phẩm của chế độ do Sa Hoàng để lại, ông cho rằng tai hoạ
là do “không có bộ máy gương mẫu gồm toàn những người cộng sản hoặc những người
đã học qua trường đảng”[3].
Dưới thời Stalin, những quan chức cũ đã không còn, chỉ còn “toàn” đảng viên
cộng sản nhưng tệ quan liêu thì lại tăng lên. Ngay ở Nam Tư, nơi tệ quan liêu
có ít hơn, nhưng bản chất của nó, nghĩa là sự độc quyền chính trị và các quan
hệ do độc quyền này tạo ra thì vẫn vững như bàn thạch.
Nhà nước cộng sản, đúng hơn phải nói chính quyền, tìm mọi các để phi cá
tính hoá không những từng người mà còn toàn thể dân tộc, thậm chí phi cá tính
hoá ngay chính những người bảo vệ chế độ. Người ta định biến cả dân tộc thành
một nòi quan chức. Tiền lương, diện tích nhà ở và nói chung, tất cả nhu cầu về
vật chất như tiền lương, nhà ở và thậm chí hoạt động tinh thần đều được phân
phối, đều bị kiểm soát một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Sự phân biệt không
chỉ theo tiêu chuẩn là viên chức hay không (tất cả đều là viên chức) mà theo
mức lương và đủ mọi loại ưu tiên ưu đãi khác. Sau khi tập thể hoá thì ngay tầng
lớp nông dân cũng ngày càng bị lôi kéo vào tổng liên đoàn những kẻ quan liêu.
Nhưng đấy chỉ là bề ngoài. Trong hệ thống cộng sản, các nhóm xã hội được
phân chia một cách cực kì rạch ròi. Nhưng mặc dù có những mâu thuẫn và khác
biệt như thế xã hội cộng sản vẫn là xã hội cố kết hơn bất kì xã hội nào khác.
Điểm yếu của sự cố kết này chính là tính chất cưỡng chế và mâu thuẫn của nó.
Nhưng tất cả các bộ phận của nó lại phụ thuộc lẫn nhau, không khác gì các chi
tiết của một cỗ máy khổng lồ.
Giống như mọi chế độ chuyên chế khác, chính quyền cộng sản coi cá nhân chỉ
như là một đơn vị trừu tượng. Trong chế độ chuyên chế, những người thuộc phái
trọng thương đã đẩy nền kinh tế vào sự bảo trợ hoàn toàn của nhà nước, còn
chính nhà vua (thí dụ Ekaterina) thì cho rằng nhà nước có trách nhiệm cải tạo
các thần dân của mình. Các lãnh tụ cộng sản cũng tư duy theo cách ấy. Nhưng dưới
chế độ chuyên chế, chính quyền chỉ cải tạo về tư tưởng các chủ sở hữu, còn bây
giờ, trong chế độ cộng sản, chính quyền vừa là chủ sở hữu vừa là nhà tư tưởng.
Nhưng điều đó không có nghĩa là cá tính đã biến mất, hay con người đã trở thành
một chiếc đinh ốc vô hồn di chuyển theo quyết định của một mụ phù thuỷ toàn
năng trong lòng của bộ máy to lớn nhưng vô hồn của nhà nước. Con người vừa có
xu hướng tập quần, vừa có xu hướng cá nhân cho nên ngay cả trong hệ thống này
nó vẫn tìm mọi cách bảo vệ cá tính mình. Chưa bao giờ cá tính con người lại bị
đè nén đến như thế cho nên nó phải thể hiện bằng những cách khác.
Thế giới của cá nhân đã trở thành thế giới của những lo toan thường nhật,
không có tương lai nào. Nhưng những lo toan thường nhật đó cũng luôn luôn đụng
độ với hệ thống, một hệ thống muốn đè bẹp tất cả nhu cầu vật chất và tinh thần
của con người nên ngay cái thế giới nhỏ bé đó của cá nhân cũng không được tự
do, không được bảo vệ. Trong chế độ cộng sản, cá nhân buộc phải học được cách
sống mà không có bất kì sự đảm bảo nào. Nếu nó chịu khuất phục thì nhà nước sẽ
để cho nó lay lắt qua ngày. Nó luôn bị giằng xé giữa ước muốn và khả năng. Nó
phải phục tùng quyền lợi tập thể, nhưng cũng như trong mọi hệ thống khác nó
luôn luôn chống đối các đại diện độc đoán của tập thể. Đa số công dân của chế
độ cộng sản không chống lại chủ nghĩa xã hội, nhưng họ bất bình cách thực hiện,
thực ra những người cộng sản đâu có xây dựng chủ nghĩa xã hội cho nên từng thần
dân của họ phải bất bình với những hạn chế không phải vì quyền lợi của toàn xã
hội mà chỉ nhân danh quyền lợi của nhóm đương quyền.
Những người thuộc các hệ thống khác không thể nào hiểu được vì sao các dân
tộc dũng cảm và đầy tự hào lại có thể chấp nhận để người ta tước đoạt tự do tư
tưởng và tự do lao động kiếm sống. Cách giải thích khá chính xác và đơn giản:
bộ máy đàn áp dã man và bao trùm lên tất cả. Nhưng còn có những nguyên nhân
khách quan sâu sắc hơn.
Một trong những nguyên nhân đó, nguyên nhân lịch sử, đã được chúng tôi nói
tới: khao khát cải tạo nền kinh tế đã buộc nhân dân phải chấp nhận mất tự do.
Nguyên nhân thứ hai là nguyên nhân trí dục và đức dục. Ước mơ chủ nghĩa xã
hội-chủ nghĩa cộng sản, ước mơ đạt được mức sống lí tưởng, niềm hi vọng, sự
phấn khích có thể nói sánh ngang với niềm phấn khích tôn giáo không chỉ đối với
những người cộng sản mà cho cả một bộ phận dân chúng nữa. Trong quan niệm của
đa số người không thuộc các giai cấp cũ thì việc vùng dậy có tổ chức nhằm chống
lại chính quyền, chống lại đảng đồng nghĩa với sự phản bội tổ quốc, phản bội
những lí tưởng cao đẹp nhất.
Phong trào đối lập có tổ chức không thể xuất hiện trong các chế độ cộng sản
dĩ nhiên là do tính chất bao trùm, tính chất toàn trị của các nhà nước đó. Tính
chất toàn trị thâm nhập vào mọi tế bào của xã hội, vào từng cá nhân, vào những
công trình nghiên cứu của các nhà bác học, vào cảm hứng của các thi sĩ, vào ước
mơ của các đôi tình nhân. Chống lại nó không chỉ có nghĩa là tự đưa mình đến
giá treo cổ mà còn chuốc lấy sự khinh bỉ và né tránh. Không một chút ánh sáng
nào, không một chút khí trời nào có thể lọt vào được dưới gót sắt của nó.
Cả hai phong trào đối lập, sinh ra từ các giai cấp cũ và xuất hiện ngay
trong lòng chế độ cộng sản đều không có khả năng tạo ra được đường lối đấu
tranh. Đại diện của phong trào thứ nhất sẽ biến mất, còn đại diện của phong
trào thứ hai thì quay ra phê phán chế độ bằng những thuật ngữ giáo điều vô
nghĩa lí. Điều kiện cho những con đường mới chưa xuất hiện.
Bên cạnh đó, nhân dân, bằng bản năng của mình, đã phát hiện ra các phương
pháp khác, họ luôn phản kháng, ngay cả chỉ vì những tiểu tiết. Phong trào phản
kháng này chính là mối đe doạ cụ thể nhất, lớn nhất đối với chế độ. Các lãnh tụ
cộng sản không biết nhân dân đang nghĩ gì, muốn gì. Biết rằng lòng dân không
yên, họ không thể tự tin như xưa nữa.
Nếu lịch sử chưa từng thấy một hệ thống nào có thể vô hiệu hoá những người
chống đối như chế độ chuyên chính vô sản thì nó cũng chưa từng thấy một trật tự
xã hội nào lại bị người dân chối bỏ đến như thế. Có vẻ như lương tâm càng bị
cầm tù và khả năng cho những hành động có tổ chức càng bị giới, hạn quần chúng
càng thêm ta thán, oán ghét.
Toàn trị cộng sản đưa tới oán cừu toàn diện, mọi tình cảm của con người đều
bị nung cháy trong ngọn lửa oán hận đó, chỉ còn lại nỗi tuyệt vọng và lòng hận
thù.
Sự chống đối một cách tự phát, từng ngày từng giờ, bùng lên vì những “việc
vặt” của hàng triệu người là hình thức phản kháng mà cộng sản không thể nào dập
tắt được. Có thể thấy điều đó ngay trong cuộc chiến tranh Xô-Đức. Có cơ sở để
tin rằng tinh thần chiến đấu của người Nga không phải đã cao đến thế ngay khi
quân Đức tràn vào Liên Xô. Nhưng Hitler đã để lộ mục đích: tiêu diệt nhà nước
Nga và biến tất cả người Slav thành nô lệ. Chỉ khi đó lòng yêu nước sâu xa
không gì dập tắt được mới bùng dậy. Trong suốt cuộc chiến tranh, Stalin không
một lần nào nhắc tới chính quyền Xô Viết hay chủ nghĩa xã hội, ông ta chỉ dùng
danh từ Tổ quốc. Người ta sẵn sàng chết vì tổ quốc ngay cả khi bên cạnh đó là
chủ nghĩa xã hội của Stalin.
8.
Các chế độ cộng sản đã giải quyết
được nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề dân tộc, mà những chế độ trước đó phải bó
tay. Nhưng họ không thể giải quyết được hoàn toàn vấn đề dân tộc. Vấn đề này đã
tái xuất hiện, dưới hình thức mới và nghiêm trọng hơn.
Bá quyền dân tộc ở Liên Xô đã được
thiết lập thể hiện qua bộ máy quan liêu có nhiều cành nhánh và thông qua những
đại diện của dân tộc được coi là hiện thân của chế độ. Nhưng ở Nam Tư, đã xảy
ra những cuộc tranh cãi vì mâu thuẫn giữa những bộ máy quan liêu của các dân
tộc khác nhau. Nhưng trong cả hai trường hợp, đây không phải là mâu thuẫn dân
tộc theo nghĩa cũ. Cộng sản vốn không phải là những người dân tộc
chủ nghĩa, đối với họ, chủ nghĩa dân tộc chỉ là một trong những biện pháp nhằm
củng cố sức mạnh mà thôi. Khi cần, họ có thể trở thành những người sô-vanh cực
đoan nhất. Stalin, một người Georgia, nhưng trong thực tế và tuyên truyền, khi
cần ông ta có thể trở thành một người Đại Nga điên cuồng nhất. Ngay cả
Khrushchev cũng phải công nhận rằng một trong những sai lầm của Stalin là ông
ta đã tiêu diệt toàn bộ một số sắc dân. Stalin và phe nhóm của ông ta đã lợi dụng
thành kiến dân tộc của người Nga – dân tộc lớn nhất – như thể đấy là những người
Hottentot[4] vậy.
Các lãnh tụ cộng sản sẽ luôn luôn tìm cách sử dụng tất cả những biện pháp mà họ
cho là có lợi, kể cả giáo lí về quyền bình đẳng giữa bộ náy quan liêu của những
dân tộc khác nhau, mà theo họ là tương đồng với quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
Nhưng quyền lợi dân tộc và tình cảm dân tộc
không phải là nền tảng của xung đột giữa các bộ máy quan liêu của các dân tộc
trong trong chế độ cộng sản. Có thể có một chút gì đó, nhưng nguyên nhân chính
nằm ở chỗ khác: quyền uy tối thượng trong khu vực của mình, trong khu vực mình
cai quản. Cuộc đấu tranh vì uy tín và quyền lực của nước cộng hòa “của mình”
thường không vượt quá ước mong củng cố quyền lực của chính mình. Các đơn vị nhà
nước cộng sản cũng chẳng có ý nghĩa gì hơn là khu vực quản lí lấy ngôn ngữ làm
cơ sở. Các quan chức cộng sản là những nhà yêu nước nhiệt thành đơn vị nắm dưới
quyền cai quản của mình, ngay cả khi những khu vực đó không được chia theo ngôn
ngữ hay chủng tộc. Trong một số đơn vị hành chính ở Nam Tư (hội đồng khu vực),
tinh thần sô-vanh còn cao hơn cả chính phủ các nước cộng hòa.
Ở một số đảng viên cộng sản người ta có thể thấy
cả chủ nghĩa sô-vanh thiển cận lẫn sự suy thoái về ý thức dân tộc. Tất cả phụ
thuộc vào cơ hội và nhu cầu.
Khó có thể gọi ngôn ngữ mà cộng sản dùng là
ngôn ngữ của chính người dân nước họ. Vẫn là những từ ngữ đó, nhưng câu cú,
khái niệm và ý tứ bên trong – tất cả đều có tính đặc thù, tính cộng sản.
Là những người có thái độ nghi ngờ với những hệ thống khác và trung
thành tuyệt đối với hệ thống của mình, người đảng viên cộng sản có thể trở
thành những người quốc tế chủ nghĩa nhiệt thành, đấy là nói khi quyền lợi của họ
đòi hỏi như thế.
Những dân tộc khác nhau, có thời từng là những dân tộc độc đáo, có lịch
sử và những kì vọng riêng của mình thì nay đã trở thành những dân tộc bất động,
thiếu sinh khí và chán nản, bị đè bẹp dưới gót giày của những ông trùm đầy quyền
lực, biết tuốt – thực chất là những kẻ chẳng thuộc về dân tộc nào. Cộng sản
không thể khuyến khích được tinh thần dân tộc. Theo nghĩa này, họ không giải
quyết được vấn đề dân tộc. Hiện nay ai còn biết tên các nhà văn hay chính khách
người Ukraine? Cái dân tộc lớn bằng Pháp và có thời từng là dân tộc tiến bộ nhất
của nước Nga đã gặp chuyện gì vậy? Có cảm tưởng bên dưới bộ máy đàn áp phi cá
tính đó, đấy chỉ còn là một đám đông chẳng có hình dạng gì.
Nhưng không phải thế.
Cá tính của con người, các giai cấp xã hội và ý tưởng tiếp tục sống,
các dân tộc thì cũng thế; các dân tộc tiếp tục hoạt động, tiếp tục đấu tranh chống
lại chế độ độc tài. Và tiếp tục giữ được bản sắc riêng của mình. Vâng, tinh thần
và linh hồn của dân tộc đã bị đàn áp, nhưng không bị bẻ gẫy. Bị khuất phục,
nhưng họ không đầu hàng. Không phải là chủ nghĩa dân tộc xưa cũ, chủ nghĩa dân
tộc tư sản mà là ước muốn được là chính mình, và bằng con đường phát triển
riêng của mình mà trở thành thành viên bình đẳng trong cộng đồng nhân loại đang
khuyến khích họ.
Giáo điều trong
kinh tế
1.
Trong chế độ cộng sản, quá trình phát triển kinh tế không chỉ là cơ sở mà
còn là tấm gương phản chiếu con đường chuyển hoá của chế độ từ chuyên chính
cách mạng sang chuyên chế phản động. Quá trình phát triển đầy chông gai và mâu
thuẫn đó cho ta thấy đồng thời nhu cầu can thiệp của nhà nước vào kinh tế trong
những giai đoạn đầu và dần dần biến thành chính sách liên quan trực tiếp đến
quyền lợi của những quan chức nắm quyền. Ban đầu, nhà nước giành tất cả các
phương tiện sản xuất: viện cớ là cần đầu tư cho quá trình công nghiệp hoá; và
kết quả là sự phát triển kinh tế được quản lí phù hợp với quyền lợi của giai
cấp cầm quyền.
Từ xưa đến nay, tất cả những người hữu sản đều làm như thế, họ chỉ quan tâm
đến lợi ích của mình mà thôi. Nhưng giai cấp mới khác với các chủ sở hữu cũ ở
chỗ họ nắm trong tay tất cả tài nguyên của đất nước, sức mạnh kinh tế được họ
tăng cường một cách tự giác hơn và có tổ chức hơn. Tính tổ chức được thực hiện
thông qua các tổ chức chính trị, kinh tế và các tổ chức khác cũng đã được các
giai cấp cũ áp dụng. Nhưng vì trong các hình thái kinh tế trước đây giai cấp
hữu sản là rất nhiều cá nhân riêng lẻ cũng như tồn tại những hình thức sở hữu
cạnh tranh với nhau, cho nên trong điều kiện bình thường nền kinh tế phát triển
một cách tự phát.
Nền kinh tế cộng sản cũng không tránh được điều đó, mặc dù khác với các nền
kinh tế kia, loại bỏ tính tự phát được coi là một trong các nhiệm vụ đầu tiên
của nó.
Cách làm đó dựa trên cơ sở lí luận như sau: các lãnh tụ cộng sản tin tưởng
rằng họ nắm được các qui luật kinh tế và có thể quản lí sản xuất trên cơ sở
những qui luật đó. Nhưng sự thật lại không phải như thế, sự thật là: họ đã
chiếm được nền kinh tế và cũng giống như họ đã giành được thắng lợi của cách
mạng, một lần nữa điều đó tạo cho họ ảo tưởng rằng dường như tất cả mọi chuyện
xảy ra đều là kết quả của phương pháp khoa học tuyệt vời của họ.
Tin vào sự đúng đắn của các lí thuyết của mình, họ đã áp dụng ngay những lí
thuyết ấy vào quản lí kinh tế. Đầu tiên, những người cộng sản so sánh những biện
pháp kinh tế của mình với các luận điểm của Marx và sau đó thì đem áp dụng. Ở
Nam Tư, người ta từng tuyên bố rằng kế hoạch hoá là theo Marx, mặc dù Marx
không những không phải là một nhân viên kế hoạch và nói chung ông hoàn toàn
không phải là chuyên gia trong lĩnh vực này. Nhưng điều quan trọng là lương tâm
của các lãnh tụ vẫn trong sáng, và điều quan trọng hơn là sự đàn áp và bóc lột
được biện hộ bằng những “mục đích cao cả” và có “cơ sở khoa học”.
Hệ thống cộng sản không thể tránh khỏi các giáo điều trong kinh tế. Nhưng
sẽ là sai lầm nếu cho rằng người ta làm kinh tế theo đúng các quan điểm giáo
điều vốn là đặc trưng chủ yếu của hệ thống kinh tế cộng sản, đúng ra đó là một
căn bệnh mãn tính. Chính trong kinh tế chứ không ở đâu khác, các lãnh tụ cộng sản
đã thể hiện sự khéo léo cực kì trong việc “áp dụng” lí thuyết cho những nhu cầu
của mình và nếu cần thì lờ luôn lí thuyết đi.
Ban lãnh đạo cộng sản buộc phải tiến hành công nghiệp hoá nhanh chóng là do
nhu cầu lịch sử như đã nói ở trên, nhưng bên cạnh, họ còn phải xây dựng nền
kinh tế bảo đảm cho sự tồn vong của chính mình. Dường như để xây dựng xã hội
phi giai cấp và thủ tiêu quan hệ người bóc lột người mà nó đã dựng lên hệ thống
quản lí kinh tế khép kín, dựng lên hình thức sở hữu do nó độc quyền thống trị.
Ban đầu chính các nguyên nhân khách quan đã buộc những người cộng sản phải lựa
chọn hình thức sở hữu tập thể. Nhưng bây giờ, họ tiếp tục củng cố hình thức sỡ
hữu này (không cần biết có phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế và quá trình
công nghiệp hoá hay không) vì mục đích của chính họ, vì quyền lợi riêng của
giai cấp cộng sản. Ban đầu, người ta đã tiếm đoạt quyền điều khiển nền kinh tế
vì lí tưởng, nhưng sau đó họ tiếp tục làm thế nhằm nắm giữ toàn bộ sở hữu và
quyền thống trị, đấy chính là thực chất của các biện pháp chính trị đã được
tiến hành có lớp lang và rộng khắp; đấy chính là thực chất các biện pháp quản
lí kinh tế không phải do nhu cầu của nền kinh tế, cũng không phải do nhu cầu
của quốc gia mà hoàn toàn tuân theo các nhu cầu chính trị ích kỉ của tầng lớp
nắm quyền.
Trong lần trả lời phỏng vấn hồi năm 1956, Tito đã phải công nhận rằng các
nền kinh tế phương Tây cũng hàm chứa các “thành tố xã hội chủ nghĩa”, nhưng
thiếu cái gọi là “tính tự giác”. Đấy là toàn bộ ý tưởng cộng sản: vì “tự giác”
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong nước mà những người cộng sản buộc phải chuyên
quyền, phải giữ độc quyền sở hữu tài sản.
Việc những người cộng sản gán cho “tính tự giác” trong các tiến trình phát
triển kinh tế và xã hội một ý nghĩa to lớn đã cho ta thấy bản chất bạo lực và
khát vọng chiếm hữu của họ. Nếu không thế thì họ nhấn mạnh nhân tố này để làm
gì?
Việc người cộng sản kiên quyết phủ nhận tất cả các hình thức sở hữu khác
ngoài hình thức mà họ cho là xã hội chủ nghĩa trước hết nói lên sự hám quyền và
lòng tham vô đáy của họ. Nhưng họ sẵn sàng từ bỏ thái độ như thế nếu nó không
đáp ứng quyền lợi, họ coi lí thuyết của mình chẳng khác gì một cái giẻ lau có
thể xài hoặc quẳng đi bất cứ lúc nào. Thí dụ, ở Nam Tư người ta đã thành lập
các hợp tác xã nông nghiệp, nhưng sau đó lại giải tán (vì sự trong sáng của chủ
nghĩa Marx và chủ nghĩa xã hội) và hiện nay quan niệm về vấn đề này rất mù mờ.
Những thí dụ tương tự như vậy có thể tìm thấy ở tất cả các nước cộng sản khác.
Nhưng xu hướng tiêu diệt tất cả các hình thức sở hữu, trừ hình thức do họ dựng
lên vẫn là mục đích bất di bất dịch của những người cộng sản.
Mỗi chính sách kinh tế đều thể hiện quyền lực đối với những lực lượng kinh
tế nhất định và là ước muốn quản lí các lực lượng này. Ngay những người cộng
sản cũng không thể đặt được quyền thống trị tuyệt đối đối với quá trình sản
xuất. Nhưng họ thường xuyên áp bức, luôn luôn buộc nó phải tuân thủ những mục
đích chính trị và tư tưởng của mình. Đấy là khác biệt của họ với tất cả những
đường lối khác.
2.
Tính chất toàn trị của sở hữu cũng như hệ tư tưởng thường đóng vai trò
quyết định trong chính sách kinh tế còn do vị trí đặc biệt của người sản xuất
trong chế độ cộng sản nữa. Ở Liên Xô, quyền tự do lao động đã bị hạn chế ngay
sau cách mạng. Nó đã không bị bãi bỏ hoàn toàn ngay cả khi nhu cầu công nghiệp
hoá là rất cao. Điều đó chỉ xảy ra sau khi cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn
thành, cũng như vị trí của giai cấp mới đã được củng cố. Luật pháp qui định mọi
người đều phải làm việc theo sự phân công của “tổ chức” được áp đặt vào năm
1940. Trong giai đoạn này cũng như sau Thế chiến II đã xuất hiện các trại lao
động, thực chất là một hình thức bóc lột nô lệ. Ngoài ra, lao động trong các
nhà máy và lao động khổ sai gần như không còn sự cách biệt nào.
Các trại lao động và những hình thức lao động “tình nguyện” khác chính là
những hình thức lao động khổ sai nặng nề nhất. Các trại lao động hoặc phong
trào tình nguyện có thể chỉ mang tính giai đoạn nhưng lao động bắt buộc là hiện
tượng cố hữu ở Liên Xô.
Mặc dù trong các nước cộng sản khác, lao động bắt buộc không đạt đến mức
như vậy nhưng hoàn toàn tự do lao động thì cũng không nước nào có cả.
Lao động bắt buộc trong các chế độ cộng sản là hậu quả của việc chiếm hữu
tất cả hay hầu như tất cả các nguồn lực quốc gia. Người lao động bị đặt trước
một sự kiện là sức lao động, cũng là hàng hoá duy nhất của anh ta, phải được
bán cho chỉ duy nhất một người, theo những điều kiện bất khả tương nhượng vì
không còn người mua nào khác. Nếu chỉ có một người mua là nhà nước thì người
công nhân chỉ còn một cách là chấp nhận mọi điều kiện nếu không muốn chết đói.
Thị trường sức lao động xấu xa, bỉ ổi của giai đoạn tiền tư bản đã bị quan hệ
sở hữu độc quyền của giai cấp mới tiêu diệt hoàn toàn. Nhưng người lao động thì
không vì thế mà được tự do hơn.
Người lao động trong chế độ cộng sản (kể cả ở các trại lao động khổ sai)
không phải là người nô lệ thời cổ đại, họ không bị coi là một loại đồ vật. Ngay
Aristotle, một nhà tư tưởng vĩ đại thời đó, cũng cho rằng một số người được
sinh ra là người tự do, còn số khác là nô lệ. Dù luôn kêu gọi cải tạo hệ thống
chiếm nô và đối sử nhân đạo với nô lệ, ông cũng chỉ coi nô lệ như một loại công
cụ sản xuất mà thôi. Không thể nào đối xử với một người công nhân hiện đại có
kiến thức khoa học kĩ thuật và tay nghề như vậy được. Lao động bắt buộc trong
chế độ cộng sản khác với thời cổ đại và cũng khác với mọi thời đại khác. Nó
không liên quan (hoặc rất ít liên quan) với trình độ kĩ thuật mà là kết quả của
một chính sách và quan hệ sở hữu nhất định.
Trong khi đó trình độ kĩ thuật hiện đại lại cần những người công nhân tự do
cho nên anh ta luôn luôn mâu thuẫn, khi thăng khi giáng, với chế độ lao động
bắt buộc, với độc quyền sở hữu và chế độ chính trị toàn trị cộng sản.
Về mặt hình thức, người công nhân trong chế độ cộng sản là người tự do,
nhưng mức độ tự do của anh ta vô cùng hạn chế. Nói chung, về mặt hình thức, chế
độ cộng sản không hạn chế tự do. Nó làm điều đó trên thực tế. Lao động và sức
lao động cũng chịu cảnh tương tự.
Trong một xã hội, khi mà tất cả tài sản đều nằm trong tay một nhóm người
thì sức lao động không thể có tự do. Nó cũng là một loại tài sản gián tiếp của
nhóm đó mà thôi. Dĩ nhiên là nhóm cầm quyền không thể sở hữu một trăm phần trăm
sức lao động của con người vì mỗi người lao động là một cá thể, mỗi người sử
dụng một phần sức lao động của mình. Nhưng đến lượt nó, sức lao động (nhìn một
cách trừu tượng và toàn diện) lại là một nhân tố của toàn bộ nền sản xuất xã
hội. Giai cấp cầm quyền mới đối xử với sức lao động cũng như họ đối xử với tất
cả các nguồn lực quốc gia và các phương tiện sản xuất khác mà không cần tính
đến yếu tố con người.
Vì vậy nhà nước, đúng hơn phải nói bộ máy đảng, có thể giữ độc quyền ấn
định điều kiện lao động, quyết định mức lương và những vấn đề liên quan khác.
Nắm giữ độc quyền tài sản, thực thi chuyên chế trong lĩnh vực chính trị, bộ máy
đảng nắm giữ luôn quyền quyết định điều kiện làm việc của người lao động[5].
Như vậy là, đối với bộ máy quan liêu chỉ có khái niệm sức lao động trừu
tượng, chỉ có những người công nhân như là một nhân tố của quá trình sản xuất.
Điều kiện làm việc trong từng nhà máy, trên từng công trường, trong từng lĩnh
vực cụ thể, việc gắn tiền lương với lợi nhuận của xí nghiệp, đối với bộ máy
quan liêu, tất cả những điều đó đều không tồn tại và không thể tồn tại được.
Khi toàn bộ sở hữu đã nằm trong tay của một nhóm người thì kết quả và ý nghĩa
của nền sản xuất cũng trở thành vô giá trị đối với ngay chủ nhân của nó. Tiền
lương và điều kiện lao động cũng như sức lao động trở thành những khái niệm
trừu tượng, vô hồn, chỉ là các định mức và hệ số mà thôi. Kết quả hoạt động của
từng xí nghiệp hoặc lĩnh vực không có hoặc có rất ít ý nghĩa đối với thu nhập
của người lao động. Đấy là nói chung, tuỳ vào điều kiện và nhu cầu, dĩ nhiên là
có những trường hợp ngoại lệ. Cách đặt vấn đề như thế nhất định sẽ dẫn tới sự
bàng quan của người lao động và cuối cùng là dẫn đến chất lượng kém, lãng phí
tài nguyên. Cộng sản luôn luôn kêu gọi nâng cao năng suất lao động nhưng họ đã
bỏ qua không thèm nghĩ đến việc sử dụng có hiệu quả sức lao động nói chung.
Trong tình hình như thế cần phải có rất nhiều biện pháp khen thưởng. Người
lao động bàng quan được động viên bằng mọi cách. Nhưng nếu không thay đổi toàn
bộ hệ thống, nếu vẫn nắm giữ toàn bộ tài sản và quyền lực, cộng sản không thể
tạo được sự quan tâm thường trực của từng người công nhân và của tất cả người
lao động đối với kết quả sản xuất nói chung.
Ngay những cố gắng nghiêm túc nhằm chia cho công nhân một phần lợi tức, như
ở Nam Tư và các nước Đông Âu khác, cũng đã kết thúc, bị bộ máy quan liêu chiếm
đoạt, lấy cớ là do lạm phát và để đầu tư cơ bản. Người lao động chỉ được nhận
một phần mang tính tượng trưng và quyền được phân phối số tiền nhỏ nhoi đó
thông qua các tổ chức đảng hoặc công đoàn mà thực chất vẫn là thông qua bộ máy
quan liêu đó. Không được quyền đình công cũng như quyền sở hữu, người công nhân
không được nhận và không được tham gia vào việc phân chia lợi nhuận. Tất cả
những quyền này liên quan mật thiết với nhau, cũng như liên quan mật thiết với
tự do chính trị, không thể có cái này mà thiếu cái kia được.
Trong hệ thống như thế không thể tồn tại tổ chức công đoàn độc lập, còn các
cuộc đình công là những hiện tượng cực kì đặc biệt, là biện pháp chẳng đặng
đừng, là sự bùng nổ của sự bất bình của quần chúng lao động (Đông Đức năm 1953,
Poznan – Ba Lan năm 1956)
Cộng sản giải thích việc không được tự do bãi công như sau: giai cấp công
nhân nắm chính quyền và thực hiện quyền làm chủ thông qua nhà nước, bãi công
thì hoá ra tự chống lại mình à! Quá trẻ con, dĩ nhiên rồi. Người ta lấy cớ là
không có tư hữu, nhưng thực tế là người chủ sở hữu thật sự đã khoác lên mình
một cái mặt nạ tập thể và không được xác định một cách chính thức.
Lí do chính của việc không được bãi công là chủ sở hữu, dù khoác nhiều bộ
mặt, vẫn chỉ là một chủ thể duy nhất, nắm toàn bộ tài nguyên mà chủ yếu là nắm
sức lao động cho nên mọi hành động chống lại nó, nếu không mang tính toàn diện,
đều rất khó thực hiện. Bãi công trong một hoặc một vài xí nghiệp, đấy là giả sử
chế độ toàn trị cho phép, cũng không tạo ra một mối nguy nào cho chủ sở hữu vì
tài sản của nó không nằm trong một xí nghiệp cụ thể mà là toàn bộ nền sản xuất
nói chung. Mất một vài xí nghiệp không phải là vấn đề, hơn nữa chính người sản
xuất nghĩa là toàn bộ xã hội sẽ phải làm bù. Như vậy là đối với cộng sản, đình
công, nếu có, cũng chỉ là vấn đề chính trị chứ không phải là vấn đề kinh tế.
Những cuộc đình công lẻ tẻ trên thực tế là không tổ chức được và cũng không
có ý nghĩa, điều kiện chính trị lại không cho phép tổng đình công. Nhưng trong
những trường hợp đặc biệt đã từng xảy ra đình công. Các cuộc đình công lẻ tẻ
thường biến thành tổng đình công và mang ý nghĩa chính trị. Ngoài ra, chế độ
cộng sản còn tiến hành đấu tranh chống lại các biểu hiện bất mãn, chia rẽ phong
trào công nhân bằng cách thăng tiến cho các cán bộ từ chính công nhân. Những
cán bộ này sẽ thực thi việc “giáo dục”, “rèn luyện tư tưởng” và “hướng dẫn”
quần chúng.
Các tổ chức công đoàn và các tổ chức nghề nghiệp khác thực chất chỉ là
những người giúp việc bộ máy đương quyền, và cũng là ông chủ duy nhất của tất
cả mọi loại tài sản. Điều đó quyết định các xu hướng chủ yếu trong hoạt động
của các tổ chức này: thúc đẩy việc “xây dựng chủ nghĩa xã hội” nghĩa là nâng
cao năng suất lao động, cũng như tuyên truyền ảo tưởng và lòng trung thành
trong giai cấp công nhân. Nâng cao trình độ văn hoá của công nhân có thể coi là
điểm tích cực duy nhất của các tổ chức này.
Không phải ngẫu nhiên mà công nhân luôn luôn là mối quan tâm lớn nhất của
chế độ, nhưng đây không phải là vấn đề tư tưởng hay nhân đạo hoặc các vấn đề
nào khác tương tự, mà chỉ bởi vì công nhân chính là người sản xuất ra của cải
vật chất, sự thịnh suy, thậm chí tồn vong của giai cấp mới phụ thuộc trực tiếp
vào họ.
3.
Dù lao động mang tính nô lệ, dù không có các tổ chức công đoàn độc lập,
việc bóc lột trong chế độ cộng sản cũng có một giới hạn nhất định. Đây là vấn
đề rất lớn, chỉ xin khảo sát những điểm quan trọng nhất.
Bên cạnh lí do chính trị, thí dụ nỗi sợ trước sự bất bình của quần chúng,
người ta vẫn phải xác định các giới hạn bóc lột: những hình thức và mức độ bóc
lột có thể đe doạ sự tồn vong của chế độ trước sau gì cũng bị huỷ bỏ hoặc hạn
chế.
Thí dụ ngày 25 tháng 4 năm 1956 Liên Xô đã ra nghị định bãi bỏ việc truy tố
người có hành vi đi muộn về sớm. Các trại lao động, nơi con người bị đối xử
không khác gì tội phạm và là một hình thức bóc lột lao động nô lệ rẻ tiền, đã
dần dần bị bãi bỏ. Sức lao động không phải nhờ thế mà thành tự do hơn, nhưng dù
sao đây cũng một bước thay đổi tích cực to lớn sau cái chết của Stalin.
Lao động nô lệ cưỡng bách không chỉ tạo cho chế độ nhiều khó khăn về mặt
chính trị mà còn vô cùng tốn kém. Sau khi Liên Xô có những máy móc phức tạp thì
lao động cưỡng bách trở thành gánh nặng. Dù chi phí cho một người lao động
cưỡng bách là không đáng kể, nhưng bộ máy hành chính để quản lí anh ta lại quá
cồng kềnh, lao động của người đó trở thành vô giá trị và vì thế mà bị xoá bỏ.
Nền sản xuất hiện đại cũng đặt ra những giới hạn cho sự bóc lột: người lao động
kiệt sức không thể tạo ra sản phẩm có chất lượng trên những máy móc hiện đại.
Tương tự như vậy, nếu muốn có sản phẩm người ta phải đáp ứng cả các yêu cầu về
văn hoá, y tế, vệ sinh…
Trong chế độ cộng sản, bên cạnh việc bóc lột, do bản chất quyền lực và sở
hữu, sức lao động còn bị hạn chế tự do. Khi chưa có sự thay đổi về quyền lực và
sở hữu thì sức lao động không thể nào có tự do, dù ít dù nhiều, nó vẫn nằm dưới
sự áp chế về kinh tế hoặc hành chính.
Đồng thời, do nhu cầu của sản xuất, chế độ cộng sản có thể tiến hành thay
đổi điều kiện lao động, thay đổi vị trí của người công nhân bằng những biện
pháp mạnh như: thời gian lao động, quyền nghỉ ngơi, học hành, bảo hiểm xã hội,
điều kiện lao động nữ, lao động trẻ em. Nhiều biện pháp sẽ nằm trên giấy, nhưng
đôi khi cũng sẽ có những biến đổi tích cực.
Xu hướng cải thiện quan hệ sản xuất, hướng đến sự ổn định và trật tự trong
sản xuất là công việc thường xuyên của các chính quyền cộng sản. Người chủ sở
hựu tập thể duy nhất giải quyết vấn đề một cách tổng thể. Hình thức sở hữu
không chấp nhận “vô chính phủ” trong lĩnh vực này. Sức lao động cũng như mọi
thành tố khác của quá trình sản xuất phải “luôn ổn định”. Quyền lợi sống còn
của người lao động chỉ đóng vai trò thứ yếu[6].
Nếu xem xét kĩ thì ta thấy việc người ta vẫn tuyên truyền rằng trong chế độ
cộng sản mọi người đều có việc làm cũng chứa đựng nhiều khiếm khuyết. Ngay khi
toàn bộ tài sản vật chất được tập trung vào tay chỉ một nhóm người thì lập tức
xuất hiện nhu cầu kể hoạch hoá, kể cả nhu cầu về sức lao động. Các đòi hỏi về
chính trị nhất định sẽ dẫn đến việc một số lĩnh vực bị lạc hậu và sống bám vào
những lĩnh vực khác. Thất nghiệp trên thực tế được che giấu bằng cách đó. Nếu
các lĩnh vực được tự do sản xuất không có sự can thiệp của chính quyền trong
việc nâng đỡ ngành này làm thiệt hại cho ngành khác thì thất nghiệp sẽ xuất
hiện ngay lập tức. Việc liên kết chặt chẽ với thị trường thế giới sẽ làm cho
quá trình này càng rõ ràng và mở rộng thêm.
Như vậy, việc mọi người đều có việc làm không phải là kết quả của chủ nghĩa
xã hội mà là một chính sách kinh tế, nó chỉ chứng tỏ sự mất cân đối và năng
suất lao động thấp mà thôi. Nó không phải là mặt mạnh mà chính là điểm yếu của
nền kinh tế bao cấp. Nếu Nam Tư chuyển sang nền kinh tế có hiệu quả hơn thì
tình trạng thất nghiệp sẽ xuất hiện và nền kinh tế càng hiệu quả thì tỉ lệ thất
nghiệp sẽ càng tăng.
Trong chế độ cộng sản, việc ai cũng có việc làm che giấu hiện tượng thất
nghiệp. Sự nghèo khổ chung làm lu mờ đi hiện tượng thất nghiệp của một bộ phận
dân chúng, cũng như sự phát triển nhanh của một vài lĩnh vực che đậy sự lạc hậu
của những lĩnh vực khác.
Tương tự như vậy, hình thức sở hữu đó cũng như hình thức chính quyền đó giữ
cho nền kinh tế không bị phá sản nhưng không thể cứu nó khỏi cuộc khủng hoảng
kinh niên. Sự độc quyền sở hữu tạo điều kiện xử lí để tránh đổ vỡ toàn diện
nhưng quyền lợi ích kỉ của giai cấp mới cũng như bản chất của nền kinh tế không
thể làm cho nó trở thành lành mạnh và cân đối được.
4.
Marx không phải là người đầu tiên cho rằng nền kinh tế tương lai sẽ là nền
kinh tế kế hoạch hoá. Nhưng ông là người đầu tiên hoặc một trong những người
đầu tiên nhận thấy rằng nền kinh tế hiện đại có xu hướng tiến đến kế hoạch hoá
vì bên cạnh các nguyên nhân xã hội còn có nguyên nhân nữa: dựa trên công nghệ
tiên tiến. Các công ty độc quyền chính là những công ty đầu tiên thực hiện kế
hoạch hoá trên bình diện quốc gia và quốc tế. Ngày nay, kế hoạch hoá là hiện
tượng chung, là thành phần quan trọng của chính sách kinh tế của nhiều chính
phủ các nước đã phát triển và đang phát triển, dù được thực hiện với những đặc
thù khác nhau. Kế hoạch hoá là kết quả của trình độ sản xuất nhất định, của
những điều kiện xã hội và quốc tế cũng như những điều kiện khác, không liên
quan gì đến một lí thuyết cụ thể nào, đặc biệt là lại càng không liên quan đến
chủ nghĩa Marx, vốn được xây dựng trên cơ sở quan hệ kinh tế - xã hội thấp hơn.
Liên Xô, dưới sự lãnh đạo của những người Marxist, là nước đầu tiên thực
hiện kế hoạch hoá trên toàn quốc, những người Marxist còn đánh đồng Liên Xô với
kế hoạch hoá và với chủ nghĩa Marx nữa. Sự thật là: học thuyết của Marx, tức là
cơ sở tư tưởng của cuộc cách mạng Nga, bị biến thành tấm bình phong che đậy cho
những hành động của các lãnh tụ Liên Xô.
Tất cả những nguyên do lịch sử của việc kế hoạch hoá nêu trên sau đó đều
được củng cố bằng lí luận, mà lí luận của Marx là gần gũi và dễ được chấp nhận
nếu tính đến cơ sở xã hội và lịch sử của phong trào cộng sản.
Bên cạnh nguyên lí Marxist, kế hoạch hoá trong chế độ cộng sản còn dựa trên
cơ sở vật chất to lớn và cơ sở tinh thần sâu sắc hơn nhiều. Nếu không có kế
hoạch, làm sao có thể quản lí được nền kinh tế đã hoặc đang chuyển vào tay một
người chủ sở hữu duy nhất? Thiếu kế hoạch, làm sao có thể đầu tư những khoản
tiền to lớn như vậy vào một nền công nghiệp đang phát triển như vũ bão? Trước
hết hãy là một nhu cầu, rồi sau sẽ trở thành lí tưởng. Kế hoạch hoá của cộng
sản diễn ra đúng như thế. Đầu tiên là hướng vào những lĩnh vực có tác dụng củng
cố chế độ. Đấy chỉ là nguyên tắc chung, vì trong mỗi nước cộng sản, đặc biệt là
những nước độc lập với Moskva, đều có những đặc thù và cách làm khác nhau.
Nhưng nguyên tắc này được áp dụng cho tất cả các nước[7].
Dĩ nhiên, phát triển kinh tế nói chung có ý nghĩa sống còn đối với chế độ
và sự phát triển của ngành này không thể tách rời với ngành khác. Nhưng trọng
tâm của kế hoạch hoá trong tất cả các nước cộng sản bao giờ cũng hướng vào
những lĩnh vực có ý nghĩa quyết định đối với sự ổn định chính trị của chế độ.
Và trước hết là các lĩnh vực đảm bảo sức mạnh, vai trò và đặc quyền đặc lợi của
bộ máy quan liêu. Chúng đồng thời củng cố chế độ trong lĩnh vực đối ngoại và
đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá. Cho đến nay, đấy là các ngành công nghiệp
nặng và công nghiệp quốc phòng. Dĩ nhiên là trong từng nước có thể có những
khác biệt. Hiện nay, ở Liên Xô ta có thể thấy nền công nghiệp năng lượng nguyên
tử đang là lĩnh vực đầu tầu: có thể đấy là do các tính toán về đối ngoại và
quân sự mà ra.
Tất cả đều phải phục vụ cho các mục đích do cấp trên quyết định. Vì vậy mà
có nhiều lĩnh vực lạc hậu, hoạt động không hiệu quả, mất cân đối, chi phí sản
xuất cao và lạm phát định kì là những hiện tượng thường thấy. Theo các số liệu
của Andre Philip (trên tờ The New Leader,
ra ngày 1 tháng 10 năm 1956) đầu tư vào công nghiệp nặng của Liên Xô đã tăng từ
53,3% vào năm 1954 lên 60% vào năm 1955. Đầu tư vào công nghiệp nặng chiếm 21%
GDP trong khi nó chỉ làm tăng có 7,4% GDP trên đầu người, trong đó có đến 6,4%
tăng trưởng là do đầu tư mới.
Trong tình hình như thế, mức sống của người dân không làm lãnh đạo phải bận
tâm, mặc dù theo Marx, con người là nhân tố sản xuất quan trọng nhất. Theo ông
Krankshown, một người gần gũi với Đảng lao động Anh, lương 600 rub một tháng
phải được coi là không đủ sống, trong khi Harrie Shvars, một nhà báo Mĩ lại cho
rằng có đến 8 triệu người chỉ được nhận dưới 300 rub một tháng[8].
Tribune, một tờ báo thể hiện quan điểm của của Công đảng (cánh tả), còn nhận
xét rằng: nhiều phụ nữ phải làm các công việc năng nhọc không phải do nhu cầu
bình đẳng giới. Việc tăng khoảng 30% lương gần đây ở Liên Xô chính là liên quan
đến tầng lớp có thu nhập thấp nói trên.
Đấy là nói về Liên Xô. Các nước cộng sản khác, ngay cả Tiệp Khắc, nơi có cở
sở kĩ thuật cao hơn, tình hình cũng tương tự. Nam Tư trước đây từng là nước
xuất khẩu nông sản thì nay phải nhập. Theo các số liệu thống kê chính thức, mức
sống của công nhân viên chức Nam Tư hiện nay thấp hơn thời trước chiến tranh,
mặc dù lúc đó nước này được coi là một nước tư bản kém phát triển.
Các lí do chính trị và tư tưởng đóng vai trò quan trọng hơn nhu cầu kinh tế
và thường là động lực của nền kinh tế kế hoạch hoá cộng sản. Chính các lí do
này đóng vai trò chủ đạo mỗi khi chế độ cần lựa chọn giữa sự tiến bộ kinh tế,
mức sống của người dân và quyền lợi chính trị của giới cầm quyền[9].
Kế hoạch hoá và chuyên chính vô sản (toàn trị) bổ sung cho nhau. Chính
những tính toán về chính trị đã thúc đẩy cộng sản tập trung đầu tư vào những
lĩnh vực nhất định nào đó. Tất cả kế hoạch đều tập trung cho những lĩnh vực
này. Chính điều đó đã gây ra mất cân đối mà thu nhập cướp được từ việc quốc hữu
hoá các nhà tư sản cũng như địa chủ lớn không thể bù đắp được, giai cấp công
nhân phải trả giá bắng mức lương chết đói, còn nông dân thị bị cướp bóc bằng hệ
thống mua sản phẩm cưỡng bức (ở Việt Nam gọi là bán nghĩa vụ - ND).
Người ta có thể cãi rằng nếu Liên Xô không thực hiện kế hoạch hoá, không
đẩy nhanh công nghiệp hoá thì sẽ buộc phải tham gia Thế chiến II với hai bàn
tay không và sẽ là miếng mồi ngon cho nước Đức phát-xít. Điều đó đúng, nhưng
không hoàn toàn như vậy. Sức mạnh của quốc gia không chỉ tính bằng số xe tăng
và đại bác. Nếu Stalin không theo đuổi những mục tiêu đế quốc về đối ngoại và
không tạo ra một chế độ đàn áp toàn diện về mặt đối nội thì đã không có tình
trạng là nước đó phải một mình trực diện với quân xâm lược.
Nhưng những câu chuyện theo lối trà dư tửu hậu như vậy thì biết nói đến bao
giờ cho xong[10].
Có thể khẳng định một điều: để có thể phát triển công nghiệp quốc phòng
không nhất thiết phải sử dụng phương pháp kế hoạch hoá và phát triển kinh tế
mang tính chính trị như thế. Những kẻ hữu sản nắm quyền áp dụng phương pháp đó
là do nhu cầu không chịu phụ thuộc vào các lực lượng khác ở cả trong và ngoài
nước, quốc phòng chỉ là tác nhân đi kèm, dù là tác nhân không có không được.
Liên Xô có thể tiến hành kế hoạch hoá theo cách khác mà vẫn có số vũ khí như
thế. Trong trường hợp đó, nó phải liên kết mật thiết với thị trường bên ngoài,
phụ thuộc vào thị trường này và như thế có nghĩa là phải có chính sách đối
ngoại khác. Trong điều kiện đan xen một cách chằng chịt các quyền lợi quốc tế
như hiện nay, khi chiến tranh mang tính tổng thể như hiện nay, thì dầu mỡ cũng
quan trọng chẳng kém gì súng đại bác. Điều này được khẳng định ngay với Liên
Xô: sự giúp đở của Mĩ về lương thực thực phẩm cũng có ích không khác gì vũ khí.
Nông nghiệp cũng có hiện tượng tương tự. Trong điều kiện hiện nay, nền nông
nghiệp hiện đại cũng có nghĩa là công nghiệp hóa. Nhưng nó cũng không bảo đảm
được rằng chế độ cộng sản sẽ độc lập với bên ngoài. Còn ở trong nước, chế độ sẽ
phải phụ thuộc vào nông dân, ngay cả khi đấy là những người nông dân đã là
thành viên của các hợp tác xã nông nghiệp. Vì vậy mà sắt thép được ưu tiên,
trong khi năng suất lao động trong nông nghiệp vẫn còn thấp. Người ta đã lập kế
hoạch cho sức mạnh chính trị chứ không phải tiến bộ kinh tế.
Như vậy là, kế hoạch hoá của Liên Xô là một loại kế hoạch hoá đặc biệt. Nó
không phải được tạo ra bởi trình độ kĩ thuật và tính tự giác “xã hội chủ
nghĩa”, mà được tạo ra bởi các điều kiện lịch sử, bởi một hình thức chính quyền
và hình thức sở hữu nhất định. Ngày nay là thời đại của các nhân tố khác, trong
đó có các nhân tố kĩ thuật, nhưng những nhân tố nêu trên vẫn đóng vai trò quan
trọng. Phải nắm được điều đó thì mới hiểu được tính chất của kế hoạch hoá và
khả năng của nền kinh tế cộng sản.
Kết quả của nền kinh tế và kế hoạch hoá là khác nhau trong các lĩnh vực
khác nhau.
Việc tập trung toàn bộ phương tiện sản xuất vào tay một nhóm người đã tạo
điều kiện cho những tiến bộ cực kì nhanh chóng trong một vài lĩnh vực. Thế giới
phải ngạc nhiên trước một số thành tích của Liên Xô. Nhưng sự lạc hậu trong
những lĩnh vực khác lại làm cho những tiến bộ đạt được thành ra không thể biện
hộ được về mặt kinh tế.
Nước Nga Sa Hoàng lạc hậu nay đã trở thành nước đứng thứ hai trong nhiều
lĩnh vực. Nó đã là nước có lực lượng bộ binh mạnh nhất thế giới. Có giai cấp
công nhân đông đảo, một lực lượng cán bộ khoa học kĩ thuật hùng hậu, có cơ sở
sản xuất hàng tiêu dùng mạnh mẽ.
Nhưng nền chuyên chính thì vẫn như xưa và không có cơ sở để nói rằng mức
sống đã được nâng lên phù hợp với khả năng kinh tế.
Với quan hệ sở hữu và quyền lực chính trị như thế, kế hoạch chỉ là phương
tiện, việc nâng cao mức sống người dân cũng như nới lỏng chuyên chính là điều
không thể xảy ra. Sự độc quyền tuyệt đối của một nhóm người cả trong kinh tế và
chính trị, kế hoạch hoá chỉ với mục đích củng cố sức mạnh của nhóm đó ở trong
và ngoài nước nhất định sẽ dẫn tới sự tăng thêm đặc quyền đặc lợi và sự phình
lên của chính nhóm đó; mức sống của người dân cũng như sự hài hoà của nền kinh
tế chỉ đóng vai trò thứ yếu. Nguyên nhân chủ yếu ở đây là sự mất tự do.
Tự do trong chế độ cộng sản trở thành vấn đề kinh tế quan trọng.
5.
Nền kinh tế kế hoạch hoá của cộng sản hàm chứa trong mình nó sự hỗn loạn.
Mặc dù có kế hoạch, nhưng ta có thể nói một cách dứt khoát rằng đây là một nền
kinh tế lãng phí nhất trong lịch sử loài người. Điều đó mới nghe có vẻ kì quặc,
nhất là nếu ta thấy sự phát triển nhanh trong một vài lĩnh vực và cả nền kinh
tế nói chung. Nhưng đây là khẳng định có căn cứ vững chắc.
Ngay cả trong trường hợp khi mà nhóm người nắm quyền không lãnh đạo tất, kể
cả lãnh vực kinh tế, chỉ trên cơ sở những tính toán về tư tưởng và sở hữu hạn
hẹp của mình, thì cũng không thể nào tránh được những mất mát khủng khiếp,
không thể nào thống kê nổi.
Liệu những người ấy, ngay cả khi họ không nhìn mọi sự từ đỉnh cao quyền lực
của mình, có thể quản lí một cách tiết kiệm và hữu hiệu nền kinh tế hiện đại
phức tạp, dù với những kế hoạch hoàn thiện nhất, nhưng vẫn luôn luôn xuất hiện
những xu hướng đối nghịch nhau hay không? Việc thiếu không những sự phê phán mà
thiếu ngay những “gợi ý” từ bên ngoài nhất định sẽ dẫn tới trì trệ và tổn thất
không thể chấp nhận được.
Do sự bao trùm tuyệt đối cả về chính trị và kinh tế cho nên đấy là những
tổn thất không thể tránh được, dù có muốn. Do thái độ của những người cộng sản
đối với nông nghiệp, nên cả một dân tộc đã coi thường nông nghiệp và đầu tư quá
mức vào công nghiệp nặng thì hậu quả sẽ như thế nào? Bao nhiêu đồng vốn đã đầu
tư một cách lãng phí vào những ngành kém hiệu quả? Việc coi thường nhu cầu giao
thông sẽ đưa đến đâu? Tiền lương thấp dẫn đến lãn công và sản phẩm hỏng, kém
chất lượng. Không có cách và không một kế toán viên nào có thể tính được tất cả
các khoản đó.
Coi thường ngay cả lí thuyết của chính mình, không có lĩnh vực nào mà các
lãnh tụ cộng sản lại có thái độ chủ quan như đối với lĩnh vực kinh tế. Thái độ
duy ý chí gây ra nhiều tai hoạ nhất trong lĩnh vực này. Những nhà lãnh đạo cộng
sản dù có muốn (nhỡ chuyện ấy xảy ra thì sao?) cũng không thể tính toán được
hết các lợi ích khách quan của toàn bộ nền kinh tế. Vì những toan tính chính
trị, lúc nào họ cũng sẵn sàng tuyên bố một vấn đề nào đó là “quan trọng sống
còn”, “có ý nghĩa quyết định” (đối với họ có thể là như thế thật), nhưng đồng
thời không gì có thể cản trở họ thực hiện những điều đã định vì họ đâu có sợ
mất quyền lực và quyền sở hữu.
Những khi công việc quá trì trệ hoặc có những tổn thất rõ ràng thì họ lại
làm cái việc gọi là phê bình và tự phê bình, rút kinh nghiệm. Khrushchev phê
phán chính sách nông nghiệp của Stalin, Tito phê bình chế độ của mình vì đầu tư
sai và lãng phí hàng tỉ đồng. Nhưng bản chất thì vẫn thế. Vẫn những con người
đó, vẫn những phương pháp đó và vẫn hệ thống đó; vấn đề chỉ còn là lúc nào thì
lại xuất hiện các “lệch lạc” mà thôi. Không thể nào tìm lại tài sản đã mất,
nhưng đảng và chế độ lại chẳng phải chịu trách nhiệm gì. Họ đã “rút kinh
nghiệm” và “hứa sửa chữa”. Tóm lại, “hãy nhìn việc họ làm, chớ nghe lời họ
nói”...
Không một lãnh tụ cộng sản nào từng bị trừng phạt vì lãng phí những nguồn
tài sản khổng lồ, song có rất nhiều người đã bị lật vì “lệch lạc” về tư tưởng.
Ăn cắp và lãng phí khối tài sản khổng lồ trong các chế độ cộng sản là việc
không thể nào tránh được. Mọi người đều được phép thò tay vào khối tài sản này
không phải vì nhu cầu mà đơn giản nó gần như là tài sản vô chủ. Giá trị dường
như không còn là giá trị nữa và đấy chính là điều kiện thuận lợi cho việc ăn
cắp và lãng phí. Ở Nam Tư, năm 1954 đã phát hiện 20 ngàn trường hợp ăn cắp “tài
sản xã hội”. Các lãnh tụ cộng sản nắm giữ tài sản quốc gia như tiền của mình,
nhưng đồng thời lại phung phí nó như tiền chùa vậy. Bản chất của sở hữu, của
quyền lực trong chế độ cộng sản là như thế đấy[11].
Nhưng lãng phí lớn nhất lại là khoản lãng phí không nhìn thấy được. Đấy
chính là lãng phí lao động.
Hàng triệu người làm việc một cách uể oải, không hề quan tâm đến kết quả
lao động của mình, sự cấm đoán những hoạt động bị dán nhãn “phi xã hội chủ
nghĩa” ngay cả khi đó không phải là lao động bóc lột là những lãng phí không
thể thống kê, nhưng vô cùng lớn mà không một chế độ cộng sản nào có thể tránh
được. Học thuyết của Smith, được Marx chấp nhận, coi lao động sống là cội nguồn
của mọi giá trị, nhưng các lãnh tụ cộng sản lại ít quan tâm đến lao động sống
nhất, họ lãng phí nó như một vật chẳng có giá trị gì, hoặc coi như nguồn lực
lúc nào cũng có thể bổ sung được.
Nỗi hoảng loạn của những người cộng sản trước viễn cảnh “phục hồi chủ nghĩa
tư bản”, các biện pháp kinh tế mang màu sắc chính trị và quyền lợi giai cấp hẹp
hòi đã gây ra những mất mát khủng khiếp cho các dân tộc, kìm hãm sự phát triển
của các quốc gia nằm dưới quyền thống trị của họ.
Bao nhiêu ngành nghề đã chết vì nhà nước không thể bao cấp được cho hoạt
động của những ngành này; chỉ “quốc doanh” mới được coi là xã hội chủ nghĩa.
Đúng như câu châm ngôn: “Chó già giữ xương”[13].
Dân tộc làm sao chịu đựng và có thể chịu đựng điều đó đến bao giờ? Liệu đã
tới lúc khi mà chính nền công nghiệp - ban đầu nó đã dựa vào những người cộng
sản để phát triển - sẽ có khả năng giúp thủ tiêu cả quyền lực, cả hình thức sở
hữu này?
Biết bao tiền của đã bị lãng phí vì sự cô lập của các nền kinh tế cộng sản.
Tất cả các nền kinh tế cộng sản về thực chất đều là tự cấp tự túc. Nguyên nhân
cũng là vì tính chất của quyền lực và hình thức sở hữu của chúng.
Không có nhà nước cộng sản nào, kể cả Nam Tư, do mâu thuẫn với Moskva mà
buộc phải mở rộng quan hệ với các nước phi cộng sản, vượt qua được trao đổi
hàng hoá truyền thống trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
Kế hoạch hoá cộng sản không hề quan tâm đến nhu cầu của thị trường thế giới
và quá trình sản xuất ở các nước khác. Một phần vì lí do đó và cũng vì những lí
do chính trị mà các nhà lãnh đạo cộng sản không hề quan tâm đến việc tạo điều
kiện thuận lợi tự nhiên cho việc phát triển sản xuất. Các xí nghiệp thường
thiếu cơ sở nguyên vật liệu, người ta không bao giờ quan tâm tới giá cả và giá
thành của từng sản phẩm trên thị trường thế giới. Một sản phẩm nào đó có thể
đắt gấp mấy lần giá trên thị trường quốc tế vẫn được đầu tư sản xuất, trong khi
lĩnh vực khác có hiệu quả cao hơn, có khả năng cạnh tranh thì lại bị bỏ bê. Có
những ngành mới được thành lập mặc dù trên thị trường quốc tế sản phẩm trong
lĩnh vực này đã tràn ngập từ lâu. Nhân dân phải trả giá hết: các nhà lãnh đạo
chỉ cần độc lập mà thôi.
Đấy là một phần của vấn đề, phải nói là chung cho mọi chế độ cộng sản.
Vấn đề khác, cuộc chạy đua của nước xã hội chủ nghĩa mạnh nhất, tức là Liên
Xô, với các nước tư bản phát triển khác để nhằm “đuổi kịp” và “vượt” họ. Cái
giá phải trả là bao nhiêu? Và điều đó sẽ dẫn đến đâu?
Có thể Liên Xô sẽ đuổi kịp các nước tư bản phát triển trong một hoặc một số
lĩnh vực nào đó. Cái giá phải trả là sự hao phí sản xuất cực kì khủng khiếp,
đồng lương công nhân thấp và sự tụt hậu của những ngành khác. Biết bao nhiêu hi
sinh và cố gắng, về mặt kinh tế có đáng giá hay không lại là một câu hỏi khác.
Các kế hoạch như vậy tự chúng đã có tính chất gây hấn. Phía bên kia sẽ nghĩ
gì: trong khi mức sống nhân dân còn thấp, chính phủ Liên Xô muốn dẫn đầu thế
giới về sản xuất than và dầu khí để làm gì? Cùng tồn tại hoà bình và hợp tác
hữu nghị sẽ như thế nào nếu đấy là kết quả của cuộc chạy đua về công nghiệp
nặng, trong khi trao đổi hàng hoá lại rất nghèo nàn? Làm thế nào để hợp tác nếu
các nền kinh tế cộng sản đều đóng kín, trong khi trên trường quốc tế họ chỉ
tranh chấp về lĩnh vực tư tưởng?
Những kiểu kế hoạch và quan hệ như thế, sức lao động và các nguồn lợi khác
của nước mình và các nước khác bị phí phạm như thế không thể biện minh được dù
đứng trên quan điểm nào, ngoại trừ quan điểm của những ông trùm cộng sản. Sự
tiến bộ về mặt kĩ thuật và nhu cầu luôn luôn thay đổi của đời sống sẽ đẩy khi
thì lĩnh vực này, khi thì lĩnh vực khác thành ra lĩnh vực quan trọng không chỉ
trên bình diện quốc gia mà trên bình diện quốc tế nữa. Nếu 50 năm nữa thép và
dầu không còn là những lĩnh vực quan trọng nhất thì sao? Chuyện này và nhiều
chuyện khác nữa không phải là mối bận tâm của các lãnh tụ cộng sản.
Mức độ tương tác của các nền kinh tế cộng sản, trước hết là Liên Xô, với
thế giới bên ngoài, ước muốn làm sâu sắc thêm các mối quan hệ đó tụt hậu rất xa
so với khả năng, kể cả khả năng về kĩ thuật. Ngay trình độ hiện thời đã cho phép
một sự hợp tác rộng lớn hơn rất nhiều.
Không sử dụng các điều kiện hiện có để hợp tác với các nước khác trong khi
lại đẩy mạnh các quan hệ với thế giới bên ngoài dưới góc độ tư tưởng là hậu quả
tất yếu của sự độc quyền của những người cộng sản trong lĩnh vực kinh tế và ước
muốn duy trì quyền lực của họ. Bản chất hệ thống của họ là như thế.
Lenin đã đúng khi cho rằng chính trị là “kinh tế cô đặc”. Trong chế độ cộng
sản, mọi thứ dường như đều lộn ngược: kinh tế trở thành chính trị, chính trị
đóng vai trò quyết định trong kinh tế.
Cô lập với thị trường quốc tế, bảo vệ một cách mù quáng khái niệm “hệ thống
thị trường quốc tế xã hội chủ nghĩa” mà thực chất vẫn là tự cấp tự túc của khối
xã hội chủ nghĩa, là một trong những nguyên nhân, nếu không nói nguyên nhân
quan trọng nhất của tình trạng căng thẳng quốc tế cũng như lãng phí các nguồn
tài nguyên trên bình diện quốc tế.
Độc quyền về sở hữu, các phương pháp sản xuất lạc hậu, ai sở hữu hay phương
pháp nào không quan trọng, quan trọng là điều đó mâu thuẫn với nhu cầu của nền
kinh tế quốc tế. Tự do và quyền sở hữu đã trở thành vấn đề quốc tế.
Không nghi ngờ rằng việc xoá bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa trong các
nước cộng sản lạc hậu đã tạo điều kiện cho phát triển kinh tế, dù là sự phát
triển mất cân đối. Đã xuất hiện những nhà nước mạnh, có sức chịu đựng cao, đầy
sinh lực. Các nhà nước đó được một giai cấp tự tin và cuồng tín, một giai cấp
vừa được nếm vị ngọt của quyền lực và quyền sở hữu dẫn dắt. Nhưng điều đó đã
không giải quyết (và với hình thức sở hữu và chính quyền hiện nay thì không thể
giải quyết) được những vấn đề mà phong trào xã hội chủ nghĩa thế kỉ XIX hoặc
Lenin đặt ra, nó cũng không thể đảm bảo được sự phát triển kinh tế một cách
bình thường, không bị những khó khăn và chao đảo.
Nhưng đây là vấn đề cần thảo luận riêng.
Hệ thống kinh tế cộng sản có sức mạnh vì được tập trung vào tay một nhóm
người, hấp dẫn vì có tính mới mẻ và đạt được những thành tựu, dù là thiếu cân
đối, trong một thời gian ngắn. Nhưng đồng thời, nó cũng cho thấy những vết rạn
nứt và tiêu cực ngay từ khi hình thái kinh tế này bao trùm lên toàn xã hội. Mặc
dù vẫn giữ được một số tiềm năng cũ, hệ thống kinh tế đã bắt đầu có vấn đề.
Tương lai của nó rất mù mờ, muốn sống còn, nó sẽ phải chiến đấu một cách quyết
liệt với cả kẻ thù bên trong lẫn bên ngoài.
Khủng bố về mặt
tinh thần
1.
Sau khi giành được chính quyền, những người cộng sản đã thực hiện việc
khủng bố về mặt tinh thần với một sự khéo léo đến trơ trẽn. Chủ nghĩa duy vật
cộng sản có thể là thế giới quan bất dung nhất từ trước tới nay, chỉ điều này
cũng đủ để có thể buộc các tín đồ của nó tiến hành những cuộc khủng bố “những
quan điểm không phù hợp”. Nhưng nếu thế giới quan ấy không liên kết với những
hình thức quyền lực và sở hữu nhất định thì người ta cũng không thể nào dùng nó
để biện hộ cho tính chất quái gở của việc đàn áp và tiêu diệt tư duy của con
người như đã từng xảy ra.
Mọi hệ tư tưởng, cũng như mọi quan điểm, đều cố gắng làm ra vẻ như là quan
điểm duy nhất đúng, duy nhất không có tì vết nào. Bản chất tư duy của con người
là như thế.
Ý định của Marx và Engels trong việc coi học thuyết của mình là đặc biệt
không chỉ được thể hiện trong tư tưởng của họ mà còn thể hiện rõ trong cách mà
tư tưởng đó được khẳng định. Họ phủ nhận mọi đóng góp về mặt khoa học và giá
trị “xã hội - tiến bộ” của những người cùng thời với mình. Thay vì thảo luận và
phân tích, họ gán cho ý kiến của những người đó cái nhãn “khoa học tư sản”.
Gót chân Achilles của chủ nghĩa Marx, sự hẹp hòi của Marx và Engels (đây
chính là môi trường sống cho thái độ bất dung của chủ nghĩa cộng sản về sau)
thể hiện rõ nhất trong việc họ không chịu tách thái độ chính trị của những nhà
khoa học, nhà tư tưởng đương thời khỏi giá trị khoa học và đạo đức của những
trước tác của họ. Họ đã áp dụng thái độ: “ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng”
với các nhà tư tưởng đương thời.
Sự phản đối quyết liệt mà “bóng ma của chủ nghĩa cộng sản” đã phải trực
diện ngay từ đầu chỉ biện hộ được phần nào cho thái độ như thế mà thôi.
Quan điểm bất dung thái quá của các “tổ sư” cộng sản xuất phát từ cội nguồn
học thuyết của họ: tin rằng không có ngôi sao nào trên bầu trời triết học nữa,
hơn nữa, họ còn cho rằng nếu có điều gì đó đáng giá xuất hiện thì nó nhất định
phải dựa trên cơ sở học thuyết của họ. Tinh thần thượng tôn khoa học của thời
đại cũng như nhu cầu của phong trào xã hội chủ nghĩa lúc đó làm cho Marx và
Engels coi mọi hiện tượng "không quan trọng” đối với họ (không thúc đẩy
phong trào) đều là thiếu khách quan và ít ý nghĩa.
Quá quan tâm đến việc định rõ danh giới “có tính nguyên tắc” trong đội ngũ
của mình, trên thực tế, họ đã bỏ quên đóng góp của những nhà tư tưởng lớn đương
thời.
Trong các trước tác của mình, họ không hề nhắc đến, thí dụ, nhà triết học
lớn như Schopenhuaer, hay nhà mĩ học Taine hoặc các nhà văn và hoạ sĩ lớn cùng
thời. Ngay những người say mê tư tưởng và tương lai do họ vẽ ra cũng ít được
nói tới. Marx và Engels sử dụng một phương pháp đầy bất dung và tìm cách “thanh
toán” những kẻ thù của phong trào xã hội chủ nghĩa, hệt như các nhà cách mạng
trước đây đã từng dùng với những kẻ thù của mình. Có thể phản bác đóng góp của
Proudhon cho khoa xã hội học, nhưng không ai có thể nghi ngờ giá trị những việc
ông đã làm cho sự phát triển của phong trào xã hội chủ nghĩa và cuộc đấu tranh
xã hội, nhất là ở Pháp. Ta có thể nói tương tự như vậy về Bakunin. Trong
cuốn Misery of Philosophy (Sự
khốn cùng của triết học), Marx không chỉ tranh cãi với Proudhon, mà còn coi ông
này chẳng có tí giá trị gì. Marx và Engels cũng có hành động tương tự với
Lassalle và những người đối lập khác trong phong trào của mình.
Mặt khác, họ lại có khả năng đánh giá chính xác các sự kiện lớn của thời
đại: thí dụ, họ là những người đầu tiên đồng ý với Darwin, họ nắm vững các giá
trị vĩnh hằng của quá khứ Cổ đại và Phục hưng, vốn là cội nguồn của văn hoá
châu Âu. Về mặt xã hội học, họ dựa vào kinh tế chính trị học (Smith, Ricardo),
về triết học, họ dựa vào triết học cổ điển Đức (Kant, Hegel), về lí thuyết phát
triển xã hội họ dựa vào chủ nghĩa xã hội Pháp, đúng hơn là những xu hướng diễn
ra sau cách mạng Pháp. Đấy đều là những đỉnh cao của tư tưởng khoa học, xã hội
học của châu Âu dân chủ và tiến bộ và của cả loài người nói chung.
So sánh với Lenin, ta thấy Marx là một nhà khoa học lớn, có thái độ khách
quan hơn. Lenin trước hết là một nhà cách mạng vĩ đại, được tôi luyện trong chế
độ chuyên chế, tư bản, nửa thuộc địa, của nước Nga và cuộc đấu tranh giành thị
trường của các tập đoàn độc quyền thế giới.
Dựa vào tư tưởng của Marx, Lenin đã đi đến kết luận rằng chủ nghĩa duy vật,
nếu nhìn qua lăng kính lịch sử thế giới, là tiến bộ, còn chủ nghĩa duy tâm là
phản động. Phải nói rằng kết luận này không những là phiến diện, nghĩa là thiếu
chính xác, mà còn làm cho lí thuyết của Marx vốn đã độc tôn còn độc tôn hơn.
Cũng cần phải nói rằng nguyên nhân đầu tiên chính là sự thiếu hiểu biết về lịch
sử triết học của chính Lenin. Vào năm 1908, khi viết cuốn Materialism and Empiro-Criticism (Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán), Lenin chưa thật sự hiểu các nhà triết học cổ đại cũng
như đương đại. Muốn mau chóng đập tan các kẻ thù tư tưởng, những người cản trở
sự phát triển của phong trào, ông đã bỏ qua một bên tất cả những gì không phù
hợp với quan điểm cách mạng của Marx. Tất cả những gì trái ngược với chủ nghĩa
Marx đều bị ông coi là sai, là vô nghĩa và vô giá trị.
Về khía cạnh này, có thể coi các trước tác của Lenin là khuôn mẫu của giáo
điều, rất lôgic và có sức thuyết phục.
Tin rằng trong lịch sử, chủ nghĩa duy vật luôn luôn là hệ tư tưởng của các
phong trào cách mạng, phong trào bạo loạn, Lenin rút ra kết luận phiến diện
rằng, về nguyên tắc, (kể cả áp dụng cho việc nghiên cứu các qui luật phát triển
của tư duy) chủ nghĩa duy vật là tiến bộ còn duy tâm là phản động. Đi xa hơn,
Lenin đã trộn lẫn hình thức và phương pháp với nội dung và tính khoa học của
mọi phát minh khoa học. Đối với Lenin, chỉ cần một người có quan điểm duy tâm
thì ngay lập tức các đóng góp thực tế cũng như vai trò của người đó trong khoa
học đều là “đồ bỏ” hết. Ông đã mở rộng thái độ bất dung về chính trị đối với kẻ
thù của mình thành thái độ bất dung đối với toàn bộ lịch sử tư tưởng thế giới.
Triết gia người Anh, ông Bertrand Russell, người có cảm tình với Cách mạng
tháng Mười ngay từ năm 1920 đã phát hiện được bản chất của của chủ nghĩa giáo
điều của Lenin, cũng có nghĩa là cả chủ nghĩa cộng sản như sau[1]:
Tôi có những
bất đồng về mặt nguyên tắc với một vài khía cạnh của chủ nghĩa cộng sản. Chủ
nghĩa cộng sản, đấy không chỉ là một học thuyết chính trị, nó còn là một tôn
giáo với một giáo lí hoàn chỉnh và những cuốn kinh thánh. Định chứng minh một
điều gì đó, chỉ cần có cơ hội, là bao giờ Lenin cũng trích dẫn Marx và Engels.
Người cộng sản chân chính không chỉ là người thừa nhận quan điểm rằng đất đai
và tư bản phải là của chung mà còn phải công nhận rằng tất cả sản phẩm làm ra
phải được chia một cách công bằng nhất. Đấy còn là người chấp nhận một số định
đề giáo điều có sẵn (thí dụ, chủ nghĩa duy vật), các định đề có thể phù hợp với
chân lí nhưng về mặt khoa học thì không thể chứng minh một cách không chối cãi
được rằng đấy chính là chân lí... Tôi tin tưởng rằng phương pháp khoa học là
đặc biệt quan trọng đối với nhân loại. Nếu một hệ thống kinh tế công bằng hơn
nào đó có thể được xây dựng với cái giá phải trả là không được tự do nghiên cứu
nữa và trở về với thời kì đen tối Trung cổ thì tôi cho rằng giá đó là quá cao.
Nhưng cũng phải công nhận rằng trong một khoảng thời gian ngắn nào đó chủ nghĩa
giáo điều có thể có lợi cho cuộc đấu tranh.
Thời Lenin đã là như thế.
Tuy không có kiến thức sâu sắc và chiều sâu tư tưởng như Lenin, Stalin tiếp
tục “phát triển” lí luận của ông này.
Ta có thể thấy rằng con người cho đến nay vẫn được Chrushchev coi là “nhà
lí luận Marxist số một” thực ra chưa hề đọc Das
Capital, tác phẩm quan trọng nhất của chủ nghĩa Marx. Một người cực kì thực
tế và giáo điều đã tự tạo ra “học thuyết về xây chủ nghĩa xã hội” mà không cần
đọc các tác phẩm về kinh tế của Marx! Ông cũng không nghiên cứu bất kì một nhà
triết học nào, Hegel thì bị coi là “con chó già” và là “phản ứng của chủ nghĩa
chuyên chế Phổ đối với cách mạng Pháp”.
Đồng thời ông lại hiểu rõ Lenin, thường trích dẫn Lenin hơn cả Lenin trích
dẫn Marx. Các tác gia khác cũng được Stalin trích dẫn theo Lenin. Điều duy nhất
mà ông nắm vững là lịch sử chính trị, đặc biệt là lịch sử Nga, phải nói thêm
rằng ông có một trí nhớ siêu phàm.
Để đóng vai của mình, Stalin chỉ cần có thế. Tất cả những gì không phù hợp
với ước muốn và sự hiểu biết của ông đều bị ông coi là “thù địch” và cấm tiệt.
Ba người, Marx, Lenin, Stalin không chỉ khác nhau như những cá nhân mà khác
nhau cả cách hành văn nữa.
Ở Marx, người ta thấy hình ảnh một nhà cách mạng, một giáo sư với văn phong
sống động, tự do và cực kì sắc bén. Lenin là hiện thân của cách mạng, văn phong
của ông có lửa, chặt chẽ và sắc sảo. Stalin tự coi mình là hiện thân của những
khát vọng của nhân dân, còn tư tưởng của mình là đỉnh cao của trí tuệ loài
người. Stalin cho rằng sức mạnh của ông nằm trong việc thỏa mãn tất cả những
ước muốn của con người, và tin rằng tư tưởng của ông là biểu hiện cao nhất của
tư duy của con người[2]. Văn
phong của Stalin đơn điệu, thiếu sức sống; nhưng chính nhờ tính chất logic và
giáo điều mà nó lại có tính thuyết phục đối với nhiều người. Sự đơn giản này
rất giống với giọng văn cô đọng của các thày tu, điều đó không chỉ là do thời
trai trẻ Stalin đã từng theo học trong trường dòng và mà còn phản ánh chính xác
tư duy giáo điều của những người cộng sản.
Không ai trong số những người kế tục Stalin có được sự hài hoà nội tại
nghiêm khắc của “lãnh tụ vĩ đại”, niềm tin và sức cuốn hút giáo điều như ông.
Là những người tầm thường trong mọi lĩnh vực, nhưng họ lại là những người rất
thực tế. Không có khả năng tạo dựng những hệ thống mới, không thể đưa ra được
những ý tưởng hay ho, nhưng họ lại có thể (nhờ khả năng nắm bắt được hiện thực)
ngăn chặn được những cái mới hoặc bóp chết mọi sáng kiến ngay từ trong trứng
nước.
Chủ nghĩa giáo điều trong tư tưởng cộng sản đã phát triển như thế đấy. Cái
gọi là “sự phát triển của chủ nghĩa Marx” cùng với việc củng cố giai cấp cầm
quyền mới như vậy là đã dẫn tới không chỉ sự độc quyền của một sơ đồ tư tưởng
duy nhất, mà còn tạo ra sự bao cấp về tư tưởng của một người hoặc một nhóm
người và như vậy kết quả nhất định sẽ là sự trì trệ về tinh thần và sự nghèo
nàn của chính hệ tư tưởng kia. Đồng thời, thái độ bất dung đối với mọi quan
điểm khác, đối với tư duy nói chung lại ngày một tăng thêm. Sức mạnh cũng như
sức sống của hệ tư tưởng này tỉ lệ nghịch với quyền lực về mặt vật chất của
những thánh tông đồ của nó.
Trở thành phiến diện và bất dung hơn, chủ nghĩa cộng sản hiện đại càng ngày
càng sản sinh ra thêm nhiều những “nửa” sự thật hoặc là dùng những nửa sự thật
như thế để biện hộ cho hành tung của mình. Mới nhìn thì một vài khía cạnh của
nó có vẻ giống y như thật. Nhưng chính nó lại chứa đầy dối trá. Khi toàn bộ đời
sống xã hội bị đặt dưới quyền kiểm soát của các lãnh tụ cộng sản thì những nửa
sự thật kia, thậm chí cả lí thuyết cộng sản càng ngày càng mất khả năng vận
động và chìm dần vào dối trá.
2.
Việc áp dụng luận điểm cho rằng chủ nghĩa Marx là phương pháp toàn năng mà
người cộng sản phải luôn luôn sử dụng nhất định sẽ dẫn đến sự khủng bố đối với
tất cả các lĩnh vực của đời sống tinh thần.
Nhà vật lí sẽ làm thế nào nếu các nguyên tử không chịu tuân theo nguyên lí
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập của Hegel và Marx? Nhà thiên văn
học sẽ làm thế nào nếu vũ trụ không tuân theo biện chứng pháp cộng sản? Nhà
sinh vật học sẽ phải hành động ra sao nếu cây cối không chịu theo lí luận của
Stalin và Lyshenko về sự hợp tác giữa các giai cấp trong “xã hội xã hội chủ
nghĩa”? Không thế nói dối “một cách chân thành”, các nhà khoa học phải trả giá
vì “tà thuyết” của mình. Các phát minh của họ chỉ có thể được công nhận nếu
chúng “khẳng định” các công thức của chủ nghĩa Marx-Lenin. Các nhà khoa học cứ
phải thường xuyên tìm cách lái kết quả hoặc phát minh của họ sao cho không trái
ngược với giáo điều chính thống. Khoa học bị buộc phải trở thành cơ hội và thoả
hiệp. Các lĩnh vực lao động trí óc khác cũng có số phận tương tự.
Sự bất dung của
phong trào cộng sản hiện đại làm người ta nhớ đến các giáo phái thời Trung cổ.
Những điều mà Jovan Dučič, một nhà thơ người Serbia, viết về thuyết Calvin (tác
phẩm: Sorrows and Calm) dường như thể
hiện chính xác bầu không khí tinh thần của đất nước cộng sản:
…Còn ông
Calvin, vốn là một luật sư và một người giáo điều, đã biến linh hồn của người
dân Geneva – cái linh hồn mà ông ta không đốt được trong ngọn lửa thiêu – thành
đá. Ông ta đã đưa nỗi buồn tôn giáo và sự khổ hạnh vào những ngôi nhà này; đến
tận hôm nay, đấy vẫn là những ngôi nhà lạnh lẽo và tăm tối; ông ta đã reo rắc
lòng hận thù đối niềm vui và sự say mê; ông ta đã nguyền rủa thi ca và âm nhạc
bằng các chỉ thị của mình. Là một chính khách và một kẻ bạo ngược, sau khi trở
thành người đứng đầu nước cộng hòa, ông ta đã rèn đúc các đạo luật, y như người
ta đúc cùm vậy, và trùm những đạo luật sắt của ông ta lên đời sống của nước cộng
hòa, thậm chí ông còn quản lí cả tình cảm gia đình nữa. Trong tất cả các nhân vật
mà công cuộc Cải cách tạo ra, Calvin có thể là nhà cách mạng cứng rắn nhất, còn
Kinh thánh của ông ta có thể là cuốn sách dạy đời đáng buồn nhất… Calvin không
phải một thánh tông đồ mới của Thiên chúa giáo, không phải là người mong ước
khôi phục lại đức tin đối với sự trong sáng, thơ ngây và duyên dáng tinh khôi
thuở ban đầu, tức là như thuở mới xuất hiện ở vùng Nazareth[3]. Calvin, một kẻ khổ hạnh người
Aryan, sau khi đã đoạn tuyệt với chế độ thì cũng đoạn tuyệt với tình yêu, đoạn
tuyệt với nền tảng chủ yếu của học thuyết của ông ta. Ông ta đã tạo ra một dân
tộc đứng đắn và đầy đức hạnh, nhưng cũng đầy thù hận với cuộc sống và chẳng biết
hạnh phúc là gì. Không có tôn giáo nào khủng khiếp hơn tôn giáo của ông ta,
không có nhà tiên tri nào đáng sợ hơn ông ta. Ông ta đã biến người dân Geneva
thành những kẻ bại liệt, thành những người không bao giờ biết niềm vui sống là
gì. Không có dân tộc nào trên thế giới mà đức tin lại mang đến nhiều đau khổ và
sợ hãi đến như thế. Calvin là một cây bút tôn giáo nổi tiếng, một người có nhiều
đóng góp cho sự trong sáng của tiếng Pháp, cũng như Luther – người dịch Kinh
thánh – đóng góp cho sự trong sáng của tiếng Đức vậy. Nhưng ông ta còn tạo ra nền
chính trị thần quyền chẳng khác gì chế độ chuyên chế của Giáo hoàng! Trong khi
tuyên bố rằng đang giải phóng tâm hồn của từng cá nhân con người thì ông ta lại
biến người công dân thành nô lệ hạ cấp nhất. Ông ta đã lôi kéo được dân chúng,
nhưng rồi đã tước đoạt hết niềm vui sống của họ. Ông ta đã làm thay đổi rất nhiều,
nhưng chẳng hoàn thành được bất cứ việc gì, chẳng có đóng góp gì. Gần 300 trăm
năm sau khi Calvin qua đời, Stendhal còn thấy ở Geneva những đôi trai gái suốt
ngày nói về vị linh mục của mình, về bài giảng cuối cùng của ông ta và đọc thuộc
lòng nhiều đoạn trong bài giàng đó.
Trong chủ nghĩa cộng sản hiện đại người ta có thể thấy sự bất dung giáo
điều của những người Thanh giáo thời Cromwell và thái độ bất dung về chính trị
của phái Jacobin. Dù sao vẫn có một khác biệt, nhưng đấy không phải là vì những
người Thanh giáo tin tưởng tuyệt đối vào Kinh thánh, còn cộng sản thì tin vào
khoa học hay quyền lực của cộng sản thì bao trùm hơn Jacobin. Sự khác biệt nằm
trong khả năng: không một tôn giáo hay một nền chuyên chế nào từng có một sức
mạnh vô giới hạn và toàn diện như chế độ cộng sản.
Vị trị của họ càng được củng cố thì các lãnh tụ cộng sản càng thêm tin
tưởng rằng họ đã chọn được con đường duy nhất đúng để đi tới hạnh phúc và xã
hội “lí tưởng”. Đã có một câu chuyện tiếu lâm nói rằng các lãnh tụ cộng sản xây
dựng chủ nghĩa cộng sản cho chính mình. Nhưng các lãnh tụ đã không đùa khi đồng
nhất mình với xã hội, với khát vọng của mọi người dân. Chế độ chuyên chế cực
quyền đồng nhất mình với niềm tin không lay chuyển vào hạnh phúc tối cao của
nhân loại, còn sự vạn năng của phương pháp và bao trùm của thế giới quan thì
đồng nhất với sự bao trùm và vạn năng của áp bức.
Chính quá trình phát triển đã biến các ông trùm cộng sản thành những cai
ngục của lương tâm con người, sự bao cấp về tư tưởng tăng lên theo đà phát
triển của sức mạnh và “thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Nam Tư cũng không tránh khỏi qui luật đó. Ở đây, các lãnh tụ thường xuyên
nhấn mạnh “tính tự giác cao của nhân dân ta” trong thời kì cách mạng, nghĩa là
khi nhân dân, đúng hơn, một bộ phận nhân dân đã tích cực ủng hộ họ. Ngày nay,
cũng theo lời các lãnh tụ này, ý thức tự giác “của nhân dân” rất thấp cho nên
không thể có dân chủ ngay được. Các lãnh tụ cộng sản Nam Tư tuyên bố công khai
rằng khi tính tự giác xã hội chủ nghĩa phát triển cao, họ tin rằng ngày đó sẽ
tới cùng với việc hoàn thành công nghiệp hoá, thì họ sẽ mở cánh cửa dân chủ.
Khi ngày đó chưa tới thì họ lại tin tưởng tuyệt đối rằng họ có quyền, nhân danh
tự do và hạnh phúc trong tương lai, dày xéo lên mọi mầm mống của những tư tưởng
và quan điểm đối nghịch với họ.
Có lẽ trong thời gian đầu các lãnh tụ Liên Xô mới buộc phải sử dụng những
lời hứa về chế độ "dân chủ trong tương lai". Còn bây giờ, họ tuyên bố
rằng đất nước đã có dân chủ rồi. Nhưng phải nói rằng chính họ cũng thấy con
thuyền đang chao đảo. Họ cũng thường xuyên phải “nâng cao” ý thức của nhân dân,
nghĩa là bắt dân chúng phải học thuộc lòng các công thức Marx-Lenin và các chỉ
thị của lãnh đạo. Tệ hơn nữa, họ còn bắt buộc dân chúng phải thề nguyền trung
thành với chủ nghĩa xã hội, trung thành với tổ quốc và tin vào sự lãnh đạo và
những lời hứa suông của họ.
Công dân của nhà nước cộng sản luôn luôn sợ hãi, luôn luôn lo lắng không
biết mình có làm gì sai để khỏi phải chứng minh rằng mình không phải là kẻ thù
của chủ nghĩa xã hội. Giống như thời Trung cổ, khi người ta luôn luôn phải
chứng tỏ rằng mình là người trung thành với nhà thờ.
Bắt đầu ngay từ nhà trường, với hệ thống giáo dục và sau đó là tất cả mọi
lĩnh vực của đời sống tinh thần cũng như đời sống xã hội đều nhằm mục đích đó.
Đảng cầm quyền quan tâm đến tính tự giác, lương tâm và sự “phát triển” của con
người từ khi sinh ra cho đến tận lúc chết. Các nhà báo, các nhà tư tưởng, các
văn nô, các trường học chuyên biệt, một hệ tư tưởng chủ đạo duy nhất, một khối
lượng tài sản khổng lồ được chi ra cho công việc đó. Để cho bức tranh được toàn
vẹn phải kể thêm số lượng khổng lồ các loại sách, loại báo, báo in, báo nói,
báo hình và các loại tuyên truyền khác.
Mặc dù vậy, thành tích thu được thật là khiêm tốn và không tương xứng với
chi phí cũng như biện pháp tiến hành (ngoại trừ đối với chính giai cấp mới, dĩ
nhiên là họ luôn luôn tuân thủ đường lối do chính họ lựa chọn). Nhưng họ chỉ
giành được kết quả khi tiến hành đàn áp các sáng kiến không phù hợp với hệ tư
tưởng chính thống cũng như cố tình tiêu diệt mọi tư tưởng đối nghịch.
Ngay cả trong chế độ cộng sản người ta vẫn suy nghĩ, vì người ta không thể
không suy nghĩ. Hơn nữa, người ta lại thường suy nghĩ khác với chỉ đạo. Xuất
hiện tư duy nước đôi: cách nghĩ ngầm, cho mình, và có một cách nữa là để trưng
ra, theo tiêu chuẩn chung. Đánh giá các sự kiện cũng theo kiểu nước đôi như
vậy.
Điều đó phản ánh, một mặt là kinh nghiệm của quần chúng và mặt khác là sức
mạnh của những người cộng sản[4].
Ngay cả trong chế độ cộng sản, con người cũng không bị bộ máy tuyên truyền
đơn điệu làm cho mụ mị đến mức không nhận chân được sự thật hay không vươn tới
được các ý tưởng mới. Nhưng, trong lĩnh vực tinh thần, kế hoạch của các ông
trùm cộng sản tạo ra nhiều tha hoá, thối nát nhiều hơn là “thành tích”.
Các ông trùm cộng sản, những kẻ bao cấp về tinh thần, luôn luôn tiến hành
theo dõi để tư tưởng của dân chúng không “đi lạc vào khu vực chống cộng”, họ
chỉ chuyên cung cấp cho dân chúng hàng tiêu dùng loại hai (những tư tưởng cũ
rích, đã hoá đá và không có khả năng thay đổi), chính họ đã đầu độc, đã giết
chết đời sống tinh thần của dân tộc mình. Họ đã nghĩ ra những từ ngữ phi nhân
chưa từng có - "đánh bật khỏi ý thức của con người" – và hành xử với
tư duy của con người không khác gì người ta hành xử với búi cỏ trên sa mạc. Khi
giết chết tư tưởng của người khác, không cho tư tưởng người khác được tự do bay
bổng thì chính họ cũng trở thành một bọn người nhạt nhẽo, trống rỗng, một bọn
người không hề biết đến những phút giây hạnh phúc của tư duy trầm mặc thâm sâu.
Cả xã hội giống như một nhà hát không khán giả: các diễn viên đóng trò và tự
sướng với nhau. Họ tư duy theo kiểu nhai lại: khi có nhu cầu là đầu óc bắt đầu
xào xáo những ý cũ rích. Công việc của những cố-đạo-cảnh-sát-viên, đồng thời là
chủ nhân ông không những của các phương tiện hoạt động trong lĩnh vực tinh thần
như nhà in, đài phát thanh,... mà còn là chủ nhân của các phương tiện vật chất
liên quan đến đời sống của từng con người như nhà ở và bánh mì, là như thế đấy.
Như vậy, chủ nghĩa cộng sản hiện đại có khác gì một giáo phái?
3.
Tuy nhiên, tất cả các nước cộng sản đều trải qua những bước nhảy vọt về kĩ
thuật, theo kiểu của mình và trong những giai đoạn nhất định, tất nhiên rồi.
Quá trình công nghiệp hoá trong một giai đoạn ngắn như vậy nhất định sẽ tạo
ra một tầng lớp cán bộ kĩ thuật đông đảo, tuy trình độ không thật cao, cũng như
một số người có tài.
Tốc độ công nghiệp hoá cao trong một số lĩnh vực cũng thúc đẩy công tác
nghiên cứu trong những lĩnh vực đó. Cả trong Thế chiến II, cũng như sau này,
Liên Xô đều không thua kém nước nào về kĩ thuật quân sự. Trong lĩnh vực năng
lượng hạt nhân, Liên Xô chỉ đứng sau Mĩ.
Các nhà sáng chế vẫn tích cực hoạt động, mặc dù bộ máy quan liêu ngăn chặn
áp dụng vào sản xuất, các phát minh sáng kiến nằm chất đống trong tủ của đủ thứ
cơ quan. Nhưng tác dụng tiêu cực nhất, có thể nói giết chết mọi phát minh, sáng
kiến, chính là sự bàng quan của chính các xí nghiệp.
Là những người rất thực tiễn, các lãnh tụ cộng sản lập tức hợp tác với các
chuyên gia, các kĩ sư và các nhà bác học mà không cần để ý tới thế giới quan
“tư sản” của họ. Họ biết rõ rằng không có cán bộ kĩ thuật thì không thể nào
tiến hành công nghiệp hoá được, hơn nữa, tự thân giới này lại không tạo ra cho
họ bất kì mối nguy nào. Đối với tầng lớp cán bộ kĩ thuật (đối với mọi thứ đều
như vậy) cộng sản đưa ra lí thuyết nửa vời: ai trả tiền thì các chuyên gia phục
vụ người ấy. Thế thì tại sao giai cấp vô sản, hay nói đúng hơn giai cấp mới,
lại không thuê chuyên gia? Hệ thống trọng dụng nhân tài xuất phát từ ý tưởng
đó.
Nhưng, dù có những tiến bộ kĩ thuật như thế, một điều rõ ràng là không có
một phát minh khoa học lớn nào được tạo ra dưới chính thể Xô Viết. Về điểm này,
Liên Xô còn kém hơn cả thời Sa Hoàng, khi đó, mặc dù còn bị lạc hậu về kĩ
thuật, nước Nga đã có những phát minh mang tính thời đại.
Việc lạc hậu về kĩ thuật tất nhiên sẽ gây ra nhiều cản trở cho phát minh
khoa học nhưng nguyên nhân chính vẫn là cơ cấu xã hội.
Giai cấp mới rất quan tâm tới tiến bộ kĩ thuật, nhưng nó còn quan tâm tới
sự ổn định, sự độc quyền về tư tưởng của mình hơn. Trong khi đó, bất kì một
phát minh khoa học lớn nào cũng đều là kết quả của quá trình thay đổi các quan
niệm về thế giới, diễn ra bên trong óc não nhà bác học. Quan niệm mới đó không
thể nhét vào các khung triết lí chính thức giáo điều. Những người làm nghiên
cứu khoa học trong chế độ cộng sản luôn luôn phải cân nhắc xem liệu có nên mạo
hiểm, luôn luôn phải đề phòng sao cho phát kiến của mình không đi ra ngoài cái
khung triết lí giáo điều để chính mình không bị coi là tà đạo.
Quan điểm coi chủ nghĩa Mác hay chủ nghĩa duy vật biện chứng là phương pháp
toàn năng, siêu hiệu quả đối với tất cả các lĩnh vực nghiên cứu, lãnh vực tinh
thần hay bất kì lĩnh vực nào khác cũng gây trở ngại cho quá trình phát triển
của khoa học. Ở Liên Xô, không một nhà khoa học lớn nào thoát được các rắc rối
về “đường lối chính trị”. Hoàn cảnh có thể khác nhau, nhưng các nhà bác học
thường xuyên bị săn đuổi vì phát minh của họ mâu thuẫn với hệ tư tưởng chính
thống. Ở Nam Tư, đàn áp có thể ít hơn, nhưng việc đề cao những nhà nghiên cứu
“trung thành” về chính trị, song lại yếu về chuyên môn cũng có thể được coi là
biểu hiện khác của cùng một căn bệnh.
Chế độ cộng sản khuyến khích tiến bộ kĩ thuật, nhưng đồng thời lại ngăn cản
tất cả các công trình nghiên cứu mang tính toàn diện, đòi hỏi rỡ bỏ mọi rào cản
trong tư duy. Khó tin, nhưng đấy lại là sự thật.
Ngay cả nếu ta đồng ý rằng chế độ này chỉ hạn chế một cách vừa phải sự phát
triển của khoa học thì nó vẫn là kẻ chuyên chế tuyệt đối đối với sự bay bổng
của trí tuệ nhân danh những điều mới mẻ. Dựa trên chỉ một triết lí, nó chính là
hệ thống phản triết học. Các chế độ này cho đến nay vẫn không sản sinh được một
nhà tư tưởng, một nhà nghiên cứu xã hội học chân chính nào, nếu không kể chính
các lãnh tụ, những người vừa “làm nghề nghiệp chính” vừa kiêm nhiệm “chức năng
triết gia” và chuyên gia về “củng cố nhận thức” của nhân dân. Trong chế độ cộng
sản, các ý tưởng mới, triết lí mới hoặc lí thuyết xã hội học mới buộc phải đi
theo những đường vòng lắt léo, thường là thông qua văn học hoặc những ngành
nghệ thuật khác. Tư tưởng mới buộc phải ẩn mình, phải chờ đợi “cơ hội thuận
lợi” trước khi có thể xuất hiện, trước khi được có tấm giấy thông hành vào đời.
Khó khăn nhất là môn xã hội học vì để tìm chân lí nó phải so sánh các quan
điểm, ý kiến, suy nghĩ khác nhau. Liệu có môn này không khi mà Marx và Engels
đã phân tích hết rồi, khi mà các lãnh tụ đã giành độc quyền giải quyết mọi vấn
đề liên quan đến xã hội và xã hội học rồi?
Thực chất là lịch sử, đặc biệt là lịch sử giai đoạn cộng sản chưa hề được
viết. Những hành động che giấu và ngụy tạo đã trở thành công việc thường nhật
và với một mức độ không thể nào tưởng tượng nổi.
Truyền thống chính trị bị tiếm đoạt, di sản tinh thần của nhân dân bị cướp
bóc. Những kẻ độc quyền đó hành xử như thể toàn bộ lịch sử trong quá khứ chỉ
làm mỗi một việc là chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ với họ mà thôi. Quá khứ được họ đo
với cái thước của họ, họ chia tất cả các sự kiện thành “tiến bộ” và “phản
động”. Các đài kỉ niệm cũng được xây theo nguyên tắc ấy. Những kẻ tầm thường
thì được dựng tượng còn tượng đài của các vĩ nhân (nhất là những người đương
đại) thì bị phá đi.
“Phương pháp khoa học duy nhất” cuối cùng chỉ còn là phương tiện bảo vệ và
biện hộ cho thái độ bất dung trong quá trình ép khoa học nói riêng và xã hội
nói chung phải khuất phục tầng lớp đương quyền.
4.
Nghệ thuật cũng chịu chung số phận giống như khoa học.
Trong nghệ thuật, sự tầm thường, những hình thức và quan niệm cũ rích được
coi là khuôn vàng thước ngọc, là đỉnh cao. Cũng dễ hiểu thôi: không thể có nghệ
thuật thiếu tư tưởng, thiếu tương tác với môi trường xung quanh. Không có tác
phẩm nghệ thuật lớn nào mà không có va chạm với những cấm đoán hoặc không bị
giới cầm quyền chóp bu lên án. Chính vì muốn nắm độc quyền đối với nhận thức
của người dân cũng như sự hạn chế và ngu dốt của họ mà cộng sản thường có thái
độ bảo thủ đối với nghệ thuật. Biểu hiện dân chủ nhất của một nhà lãnh đạo cộng
sản đối với trào lưu nghệ thuật mới là sự công nhận của ông ta rằng mặc dù
không hiểu nhưng ông ta cho rằng có thể cho phép. Quan điểm của Lenin đối với
chủ nghĩa vị lai của Mayakovsky đã là như thế.
Mặc dù vậy, bên cạnh sự hồi sinh về kĩ thuật trong các nước cộng sản lạc
hậu còn có sự hồi sinh cả về văn hoá cho dù dưới dạng văn hoá tuyên truyền,
nhưng dù sao nhân dân cũng dễ tiếp cận hơn. Giai cấp mới quan tâm đến vấn đề
này vì quá trình công nghiệp hoá đòi hỏi lao động phải có tay nghề cao. Đồng
thời với tiến trình này là việc hình thành cơ chế uốn nắn nhận thức của nhân
dân. Hệ thống trường học, các lớp xoá nạn mù chữ, các câu lạc bộ chuyên nghiệp
và nghiệp dư phát triển rất nhanh, nhiều khi vượt cả nhu cầu và điều kiện thực
tế. Dù sao thì sự tiến bộ trong lĩnh vực này là không thể chối cãi.
Ngay sau cách mạng, trong giai đoạn, khi mà giai cấp cầm quyền còn chưa kịp
giày xéo lên toàn thể xã hội, đã từng có một số tác phẩm lớn. Đấy là Liên Xô
những năm 30 và Nam Tư hiện nay. Cách mạng dường như đã đánh thức các tài năng,
vốn là con đẻ của cách mạng, đang mơ màng, trái với ước muốn của chế độ chuyên
chế trong việc đè nén những tài năng này.
Có hai phương cách đè nén: đấu tranh chống các trào lưu tư tưởng mới và đấu
tranh chống những hình thức thể hiện mới.
Dưới thời Stalin, tất cả các hình thức không hợp khẩu vị lãnh tụ đều bị đàn
áp. Mà khẩu vị của ông ta phải nói là không được tinh tế lắm, thính giác của
ông ta cũng không được tốt. Về thơ ca, ông ta chỉ thích loại thơ tám chữ và thơ
thời Alexandrine. Deutscher từng tuyên bố rằng văn phong của Stalin đã trở
thành văn phong của dân tộc. Tuân theo quan niệm chính thống về hình thức cũng là
một bắt buộc hệt như phải học thuộc lòng các tư tưởng chính thức vậy.
Tất nhiên, việc tuân theo các hình thức nhất định không phải lúc nào cũng
được thực hiện vì các hình thức này không phải là đặc trưng của chủ nghĩa cộng
sản. Năm 1925, Đảng cộng sản Liên Xô ban hành nghị định cho rằng Đảng không
theo đuổi một xu hướng văn học nghệ thuật cụ thể nào. Đồng thời Đảng vẫn tiếp
tục “giúp đỡ về mặt tư tưởng”, nghĩa là vẫn tiến hành theo dõi về mặt chính trị
và tư tưởng các nghệ sĩ. Đấy là mức độ dân chủ tối đa đối với văn học nghệ
thuật của chủ nghĩa cộng sản. Lãnh đạo Nam Tư hiện cũng có quan điểm như vậy.
Sau năm 1953, cùng với việc xa rời các hình thức dân chủ và trở về với chủ
nghĩa quan liêu trong quản lí, các thành phần thô lậu và phản động lại tiến
hành chiến dịch chê bai, truy bức cái mà họ gọi là “trí thức tiểu tư sản” để thực
hiện cho được mục đích là kiểm soát cả hình thức thể hiện trong lĩnh vực nghệ
thuật nữa. Toàn bộ giai cấp trí thức đã đồng loạt đứng dậy thách thức chế độ.
Chế độ đã phải lùi một bước. Trong một tuyên bố của mình, Kardelj đã nhấn mạnh
rằng Đảng không bắt buộc các nghệ sĩ phải theo một hình thức nào, nhưng không
cho phép tuyên truyền phản cách mạng, nghĩa là không cho phép các hình thức mà
chế độ cho là “phi xã hội chủ nghĩa”. Thế là vô tình ông ta đã nhắc lại nghị
định năm 1925 của Liên Xô đã nói ở trên. Đấy cũng là “mức trần” dân chủ mà Nam
Tư dành cho lĩnh vực văn học nghệ thuật, nhưng thái độ của các đa số lãnh đạo
đối với lĩnh vực này thì không thay đổi. Không
bao giờ! Trong thâm tâm, họ luôn cho rằng giới văn nghệ sĩ là tầng lớp “tiểu tư
sản”, không đáng tin. Tờ báo lớn nhất (tờ Politika
số ra ngày 25 tháng 5 năm 1954) đã trích thuật lời Tito như một chân lí bất
biến: “Một cuốn sách giáo khoa có ích bằng mấy cuốn tiểu thuyết”. Những phong
trào phê phán các “xu hướng đồi truỵ”, các “quan điểm thù địch” vẫn thường diễn
ra trên các phương tiện truyền thông đại chúng.
Khác với Liên Xô, nền văn học nghệ
Nam Tư đã có nhiều hình thức thể hiện sự bất bình, lo lắng của xã hội. Điều đó
cho đến nay vẫn không được phép ở Liên Xô. Có thể nói, trên đầu nền văn học
nghệ thuật Nam Tư vẫn treo lơ lửng một thanh kiếm, nhưng ở Liên Xô thì mũi kiếm
đã xuyên trúng tim.
Sự tự do tương đối về mặt hình thức
biểu hiện không làm cho văn nghệ trở thành hoàn toàn tự do vì một lí do đơn
giản là bất kì một tác phẩm nghệ thuật chân chính nào cũng nhất định phải thể
hiện được các tư tưởng mới. Thế mà dù có được tự do đến đâu thì vẫn còn đó mâu
thuẫn giữa hình thức tương đối tự do đó với việc kiểm soát gắt gao về mặt tư
tưởng. Thỉnh thoảng mâu thuẫn này lại bùng lên: khi thì dưới hình thức phản ứng
của chế độ với “các tư tưởng phản động”, khi thì dưới hình thức phản kháng của
văn nghệ sĩ chống lại sự đàn áp. Đấy chính là sự đối đầu giữa xu hướng độc
quyền của bên này và ước vọng sáng tạo của bên kia.
Thực chất, đây là mâu thuẫn giữa đòi
hỏi của tự do khám phá và giáo điều cộng sản được chuyển sang lĩnh vực văn
nghệ.
Tất cả các tư tưởng mới đều phải bị
kiểm soát, phải được cắt gọt cho vừa “khung an toàn”. Thực tế là như thế.
Các lãnh tụ cộng sản không thể giải
quyết được mâu thuẫn này, cũng như nhiều mâu thuẫn khác nữa. Như chúng ta đã
thấy, họ chỉ có thể nới lỏng sợi dây trói buộc, nhưng không thể dành cho văn
nghệ sự tự do đích thực được.
Do mâu thuẫn này mà trong chế độ
cộng sản vấn đề vai trò của văn nghệ trước các đề tài do cuộc sống đặt ra không
thể giải quyết được, cũng như các lí thuyết về sáng tạo nghệ thuật cũng không
thể phát triển được.
Vì về bản chất, tác phẩm nghệ thuật
gần như bao giờ cũng là sự phê phán các quan hệ xã hội cũng như phê phán xã hội
đương thời, sáng tạo ra các tác phẩm mang vấn đề thời sự trong chế độ cộng sản
là việc bất khả. Chỉ được quyền ca ngợi cái hiện có và phê phán kẻ địch, một
việc làm vô nhân đạo vì cái bị phê phán chính là cái bị săn đuổi và không có
khả năng tự vệ. Trên một “cơ sở” như vậy thì việc tạo ra các tác phẩm đi vào
các vấn đề thời sự, với một giá trị nào đó là việc bất khả thi.
Ở Nam Tư, giới chóp bu cũng như một
số nhà hoạt động văn nghệ thường xuyên kêu ca rằng không có “tác phẩm phản ánh
hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Ở Liên Xô thì ngược lại, người ta “sáng tác” ra vô
vàn tác phẩm mang đề tài thời sự, nhưng chính vì chúng không nói lên sự thật,
giá trị của chúng rất đáng ngờ, những tác phẩm kiểu đó đã nhanh chóng rơi vào
quên lãng.
Hình thức có thể khác nhau nhưng kết
quả cuối cùng thì ở đâu cũng thế.
5.
Trong tất cả các nước cộng sản cái
gọi là “phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa” chiếm thế thượng phong.
Ở Nam Tư, lí thuyết này đã hoàn toàn
thất bại, chỉ có những kẻ phản động giáo điều nhất là còn theo mà thôi. Trong
lĩnh vực này, cũng như trong nhiều lĩnh vực khác, chế độ có thừa sức để tận
diệt tất cả mọi luồng tư duy lí luận không “phù hợp”, nhưng nó lại quá yếu,
không thể nhồi sọ được quan điểm của mình. Có thể khẳng định rằng trong các
nước Đông Âu khác, lí thuyết này cũng có một số phận tương tự như ở Nam Tư.
Lí thuyết “phương pháp hiện thực xã
hội chủ nghĩa” không phải là một hệ thống hoàn chỉnh. Thuật ngữ này được Gorky
sử dụng trước tiên. Quan điểm của ông có thể nói ngắn gọn là trong điều kiện
của “chủ nghĩa xã hội” hiện nay, văn nghệ phải thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ
nghĩa và thể hiện càng chân thực đời sống thì càng tốt. Còn tất cả những điều
khác (tính điển hình, tính đảng...) thì hoặc là được cóp nhặt từ các lí thuyết
khác hoặc là được tạo ra từ các nhu cầu chính trị của chế độ.
Không được xây dựng thành một lí
thuyết hoàn chỉnh, phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, trên thực tế, chỉ có
nghĩa là sự độc quyền về tư tưởng của cộng sản, là cố gắng khoác cho những tư
tưởng phản động và hạn hẹp của các lãnh tụ hình thức nghệ thuật, là buộc phải
ca ngợi sự nghiệp của họ dưới dạng những bản anh hùng ca. Cuối cùng, lí thuyết
này chỉ còn là sự biện hộ giả trá của một cơ chế kiểm duyệt quan liêu và theo
dõi của chế độ mà thôi.
Trong các nước cộng sản khác nhau, việc
theo dõi được thực hiện theo những cách khác nhau: từ sự kiểm duyệt của bộ máy
đảng cho đến áp lực “về mặt tư tưởng”.
Thí dụ, ở Nam Tư chưa bao giờ có chế
độ kiểm duyệt. Việc giám sát được thực hiện một cách gián tiếp, thông qua các
đảng viên ở các nhà xuất bản, các hội nghệ thuật, các tạp chí và báo, các đảng
viên phải báo cáo ngay mọi “nghi ngờ” lên cấp trên. Kiểm duyệt thâm nhập vào
ngay môi trường sáng tác, trở thành tự kiểm duyệt. Có trường hợp, ngay các đảng
viên cũng “lừa” cả kiểm duyệt, nhưng bản năng tự kiểm duyệt đã buộc họ phải
sống lá mặt lá trái và làm đủ điều hạ đẳng, vô luân khác.
Về nguyên tắc, ở Liên Xô cũng như ở
tất cả các nước cộng sản khác, văn nghệ sĩ vẫn phải chịu trách nhiệm tự kiểm
duyệt dù có hay không kiểm duyệt chính thức. Hơn thế nữa, kiểm duyệt (tự kiểm
duyệt) thường được thể hiện dưới dạng “giúp đỡ về tư tưởng”.
Các mối quan hệ xã hội buộc người
ta, dù muốn dù không, phải tự kiểm duyệt, đây chính là hình thức theo dõi về tư
tưởng chủ yếu của cộng sản. Giống như thời Trung cổ, trước khi sáng tác, người
nghệ sĩ phải biết nhà thờ muốn gì; trong chế độ cộng sản, trước khi sáng tác,
người nghệ sĩ cũng phải “thâm nhập” vào tư duy, mà nhiều khi còn phải biết
“khẩu vị” của các nhà lãnh đạo nữa.
Sự đàn áp, cấm đoán, bao cấp về tư tưởng
và hình thức thể hiện, sự “chỉ đạo” của các viên chức quan liêu ngu dốt - tất
cả đều được thực hiện nhân danh nhân dân và quyền lợi của nhân dân. Theo nghĩa
này, “hiện thực xã hội chủ nghĩa” ngay cả trên lời nói cũng không khác gì chủ
nghĩa-xã hội dân tộc (phát xít - ND). Một nhà văn Nam Tư gốc Hung đã “phỏng
vấn” các lí thuyết gia về nghệ thuật của hai hệ thống và được kết quả:
L.I. Timofiev, lí thuyết gia Liên Xô (viết trong tác phẩm: Theory of Literature): “Văn học là tư
tưởng giúp con người nhận thức đời sống và cách hành xử trong cuộc đời”
Tờ Grundendanken Nationalcosialisticsher Culterpolitics (Nền
tảng của chính sách văn hóa của chủ nghĩa xã hội quốc gia): “Người nghệ sĩ
không chỉ là nghệ sĩ, anh ta luôn luôn là một nhà giáo dục”.
Baldur Fon Shirach,
lãnh tụ Hitlerungend (phong trào Thanh niên Hitler): “Một tác phẩm nghệ thuật
chân chính phải hướng đến toàn thể nhân dân”
Andrey Zhdanov,
Uỷ viên bộ chính trị đảng cộng sản Liên Xô: “Mọi tác phẩm vĩ đại đều dễ hiểu”
Wolfgang Schulz
viết trên tờ Grundendanken...: “Chính sách của chủ nghĩa xã hội dân tộc, trong
đó có chính sách văn học là do lãnh tụ và những người mà ông tín nhiệm quyết
định... Nếu ta muốn biết chính sách của chủ nghĩa xã hội dân tộc là gì, chúng
ta chỉ cần nhìn vào những người ấy, nhìn xem họ đang làm gì, họ đang đưa ra
những chỉ thị nào để cố kết xung quanh mình những người đồng chí hướng, những
người nhận thức được trách nhiệm trước nhiệm vụ được giao.”
Emelian
Iaroslavsky nói tại đại hội XVIII đảng cộng sản Nga (Bolshevik): “Đồng chí
Stalin động viên các văn nghệ sĩ, giao cho họ các tư tưởng chỉ đạo... Nghị
quyết ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Nga (Bolshevik) và báo cáo của
đồng chí A.A. Zhdanov đã đưa ra cho các văn nghệ sĩ Liên Xô một chương trình
công tác hoàn chỉnh.”
Các chế độ chuyên chế thù địch nhau cùng tiến hành tự biện hộ giống nhau
đến nỗi phải sử dụng cách nói giống hệt nhau.
6.
Là kẻ thù của tư duy khoa học và là kẻ thù của tự do dân chủ, các ông trùm
cộng sản đã làm băng hoại một cách toàn diện tinh thần của toàn thể nhân dân.
Các chủ đất phong kiến và các ông trùm tư bản trả tiền cho các văn nghệ sĩ theo
kiểu của họ và trong khi giúp đỡ về mặt vật chất, họ đã mua chuộc những người
đó. Trong chế độ cộng sản sự mua chuộc là một phần của chính sách quốc gia.
Nguyên tắc của chế độ cộng sản là nắm ngay lấy cổ, đè bẹp ngay mọi hoạt
động tinh thần mà họ không chấp nhận; nghĩa là đè bẹp tất cả những gì là độc
đáo và sâu sắc. Mặt khác, họ lại khen thưởng hậu hĩnh, động viên, thực ra là
mua chuộc thẳng thừng tất cả những gì mà hệ thống cho là có ích cho “chủ nghĩa
xã hội”, nghĩa là cho chính nó.
Ngay cả nếu để sang một bên những hình thức mua chuộc trắng trợn (huân
chương Stalin, sự bảo trợ, nhuận bút cao khi thực hiện các đơn đặt hàng..vv..)
thì sự thật vẫn là: chế độ cố tình mua chuộc giới trí thức, đặc biệt là giới
văn nghệ sĩ. Dù có bỏ kiểm duyệt và các phần thưởng đủ mọi loại thì mua chuộc
và áp lực vẫn cứ hiện diện khắp nơi.
Cơ sở của sự mua chuộc và áp lực là chế độ độc quyền quan liêu đảng trị
đang nô dịch toàn bộ xã hội. Người nghệ sĩ biết trốn đi đâu? Dù nói về tư tưởng
hay đồng lương thì đấy cũng là một sức mạnh mà anh ta không thể nào vượt qua
được. Mặc dù sức mạnh này không phải là quyền lực trực tiếp, nó vẫn ngấm vào
mọi ngõ ngách. Tiếng nói cuối cùng luôn luôn thuộc về nó.
Đối với người nghệ sĩ, điều quan trọng là làm sao để áp lực càng nhẹ càng
tốt, dù điều đó cũng chẳng có ảnh hưởng gì đến vị trí của anh ta trong xã hội.
Vì vậy, đối với văn nghệ sĩ, Nam Tư dễ chịu hơn Liên Xô nhiều.
Người nô lệ không có gì để chọn, anh ta buộc lòng phải chấp nhận sự băng
hoại về mặt tinh thần. Nếu có ai quan tâm đến nguyên nhân vì sao một phần tư
thế kỉ qua Liên Xô không có một tác phẩm nghệ thuật lớn nào (đặc biệt là trong
văn học) thì người đó sẽ phát hiện ra rằng băng hoại trí thức đóng vai trò
không nhỏ hơn (nếu không nói là lớn hơn) sự nô dịch.
Truy bức, bôi nhọ, buộc phải tự thú một cách nhục nhã (tự phê bình) những
văn nghệ sĩ chân chính, đồng thời lôi kéo những kẻ dễ bảo bằng nhuận bút cao,
phần thưởng lớn, nhà lầu, xe hơi, cho các chức vụ khác nhau...- bằng các chế độ
ưu tiên như thế, hệ thống cộng sản đã lựa chọn được sự tầm thường, được những
người chỉ biết phục tùng và không có khả năng sáng tạo.
Không có gì phải ngạc nhiên khi các văn nghệ sĩ lớn bị đặt trước sự lựa
chọn giữa một cuộc sống đói khát (còn bị đe doạ suốt đời nữa) và “ân sủng” của
các ông chủ, đã mất phương hướng và cùng với nó là niềm tin và sức mạnh vốn có
của mình. Tự sát, tuyệt vọng, chạy trốn vào rượu chè, mất sự ổn định nội tâm, mất
sự toàn vẹn của cá tính là kết quả của quá trình lừa dối và tự lừa dối - đấy là
số phận của những người thực sự muốn và có thể tạo ra cái mới.
Tâm hồn con người buộc phải sáng tạo vì nó không thể không sáng tạo trong
tuyệt vọng, nhưng dưới cái mặt nạ là chủ nghĩa lạc quan như thế đấy. Lương tâm
con người tồn tại cả trong những những điều kiện như thế, đấy có phải là minh
chứng rằng nó là bất khả chiến bại và đấy có phải là chỉ dấu về sự khốn cùng và
bệnh hoạn của hệ thống không?[5]
7.
Người ta thường cho rằng chuyên chính cộng sản thực hiện kì thị giai cấp
một cách trắng trợn. Nhưng không hoàn toàn như vậy.
Theo thời gian, kì thị giai cấp ngày càng giảm, còn kì thị về tư tưởng thì
ngày càng tăng. Quan niệm cho rằng chính quyền thuộc về giai cấp vô sản cũng
sai như quan niệm cho rằng cộng sản truy bức con người chỉ vì họ thuộc về giai
cấp tư sản. Không nghi ngờ rằng cộng sản đánh các giai cấp hữu sản, đặc biệt là
tư sản. Nhưng những người đã đầu hàng, những người đã “cải tạo” vẫn có thể tìm
được một chỗ “ấm cúng” và được chính quyền “thể tất”. Hơn thế nữa, cảnh sát mật
thường lựa được các gián điệp tài ba, còn các ông chủ thì tìm được đầy tớ trong
số “tư sản đã cải tạo” này. Nhưng những người nghi ngờ các quan điểm và biện
pháp cộng sản thì đừng hòng được tha thứ. Ở đây thành phần xuất thân không quan
trọng, chống quốc hữu hoá hay chỉ là những người quan sát vô tình cũng vậy mà
thôi, tư tưởng là thống soái.
Cần phải nói thêm rằng sự truy bức các tư tưởng dân chủ và xã hội chủ nghĩa
khác với cách nghĩ của tầng lớp chóp bu lại còn dữ dội hơn, mãnh liệt hơn cả
cuộc đấu tranh với các quan điểm phản động nhất của những người ủng hộ chế độ
cũ. Dễ hiểu, vì người ủng hộ chế độ cũ không nguy hiểm bằng, quan niệm của họ
hướng về quá khứ, nó có thể gây phiền phức nhưng cơ hội để phục hồi, để chiến
thắng là rất nhỏ.
Sau khi nắm được chính quyền, cộng sản liền tấn công tư hữu và bằng cách đó
tạo ra ảo tưởng rằng họ làm thế là vì quyền lợi của người lao động. Nhưng sau
này mới rõ rằng không hoàn toàn như thế, cơ sở của những hành động đó là ước
muốn thống trị, mà thống trị chỉ có thể thực hiện thông qua kì thị về mặt tư
tưởng chứ không phải giai cấp. Nếu vấn đề được đặt khác đi, thí dụ, thực sự
trao tài sản vào tay người lao động, thì kì thị giai cấp sẽ chiếm thế thượng phong
ngay.
Sự kiên trì kì thị về tư tưởng như thế có thể làm cho người ta nghĩ rằng
cộng sản là một giáo phái tin tưởng tuyệt đối vào những điều răn duy vật-vô
thần của mình và dùng sức mạnh ép buộc những người khác cũng tin như họ. Cộng
sản hành động như một giáo phái nhưng thực ra không phải như vậy.
Hệ tư tưởng toàn trị không phải là kết quả của một hình thức quyền lực và
sở hữu cụ thể. Tuy nó có đóng góp vào quá trình hình thành quyền lực và sở hữu,
nhưng nó là chỗ dựa vững chắc nhất của quá trình phát triển đó. Kì thị về tư
tưởng là điều kiện cần thiết sống còn của chế độ cộng sản.
Sẽ là sai lầm khi cho rằng các hình thức kì thị khác như chủng tộc, giai
cấp, dân tộc là những kì thị nặng nề hơn kì thị về tư tưởng. Bề ngoài chúng có
vẻ là như thế, nhưng các dạng kì thị đó chưa bao giờ đạt đến độ tinh vi và toàn
diện như kì thị về tư tưởng. Các dạng kì thị đó chỉ ảnh hưởng đến những bộ phận
nào đó của xã hội, trong khi kì thị về tư tưởng ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội và
từng thành viên riêng biệt. Loại thứ nhất giày xéo con người về mặt thể xác. Kì
thị tư tưởng đánh vào ngay cái Người nhất trong từng cá nhân. Khủng bố về mặt
tinh thần là sự khủng bố dã man và toàn diện nhất, nó là sự khởi đầu và kết
thúc của mọi sự khủng bố.
Trong hệ thống cộng sản, kì thị tư tưởng được thể hiện, một mặt, như là sự
cấm đoán các tư tưởng “không phù hợp” và mặt khác, bắt buộc chấp nhận các tư
tưởng của hệ thống. Đấy chỉ là hai khía cạnh rõ nhất của sự đàn áp không bút
nào tả xiết được. Tư tưởng chính là sức sáng tạo có hiệu quả nhất. Sống, lao
động, mà không suy nghĩ, không tưởng tượng là điều bất khả. Tuy phủ nhận, nhưng
cộng sản vẫn phải tính đến đặc trưng ấy của con người. Vì vậy họ mới đàn áp mọi
tư tưởng “không phù hợp”, nhất là khi những tư tưởng đó được đưa ra để giải
quyết các vấn đề mà xã hội đang gặp phải.
Con người có thể sống trong nghèo nàn, thiếu thốn. Nhưng người ta không thể
sống mà không nghĩ, không nói lên ý nghĩ của mình. Không có gì đau khổ hơn là
buộc phải câm lặng, không có sự đàn áp nào dã man hơn việc bắt người ta phải từ
bỏ các tư tưởng của mình và “nhai lại” suy nghĩ của kẻ khác.
Hạn chế tự do tư tưởng không chỉ là cuộc tấn công vào những nhóm chính trị
hay xã hội cụ thể, mà là cuộc tấn công vào tính ngưới, tính nhân bản của con
ngưới nói chung.
Dù thế, khát vọng tự do, tự do tư tưởng, khát vọng cải thiện và mở rộng sản
xuất của con người không bao giờ phai nhạt, nó luôn luôn được thể hiện như một
mệnh lệnh của những lực lượng nhất định. Nếu trong các chế độ cộng sản, các
mệnh lệnh đó chưa có biểu hiện rõ ràng thì cũng không có nghĩa là chúng không
tồn tại. Điều đó chỉ có nghĩa là chúng đang hình thành, đang vươn lên từ trong
lòng nhân dân mà thôi. Sự áp bức toàn trị dường như đã xoá tan ranh giới giữa
các tầng lớp nhân dân, nhân dân đang tập hợp lại để đòi tự do. Trong đó có tự do tư tưởng.
Lịch sử sẽ tha thứ cho những người
cộng sản nhiều tội lỗi mà họ đã phạm do hoàn cảnh, do nhu cầu tự vệ, nhu cầu
sống còn. Nhưng bóp nghẹt mọi quan điểm khác biệt, sự bất dung, sự độc quyền về
tư tưởng chỉ để nhằm bảo vệ những quyền lợi ích kỉ của họ là những tội lỗi
không thể tha thứ. Chủ nghĩa cộng sản sẽ phải đứng chung một hàng với những tội
lỗi nhục nhã khác trong lịch sử: toà án giáo hội và các đống lửa thiêu người
thời Trung cổ. Cộng sản có thể giành được vị trí “vinh quang nhất” trong đám
ấy.
Mục đích và phương tiện
1.
Các nhà cách mạng và các cuộc cách
mạng không bao giờ từ chối sử dụng các biện pháp vũ lực và đàn áp.
Nhưng chưa có cuộc cách mạng nào,
chưa có nhà cách mạng nào lại sử dụng bạo lực một cách có ý thức, đưa bạo lực
thành hoàn thiện, thành công việc thường ngày như những người cộng sản.
“Không được lựa chọn phương tiện
trong cuộc đấu tranh với kẻ thù của chế độ...hãy đàn áp tất cả những ai không
có ích, không giúp gì cho nước cộng hoà”. Dường như đấy không phải là những lời
của Saint-Just mà được phát ra từ miệng lưỡi các lãnh tụ cộng sản đương đại
vậy. Nhưng Saint-Just nói những lời này khi ngọn lửa cách mạng đang hừng hực
cháy, khi lòng ông tràn ngập nỗi đau cho số phận của cách mạng, còn cộng sản
thì khẳng định điều đó trong suốt cuộc hành trình, từ khi bước ra vũ đài chính
trị cho đến lúc đạt đến đỉnh cao quyền lực và bắt đầu tan rã.
Mặc dù bạo lực cộng sản bao trùm
hơn, kéo dài hơn, dã man hơn nhưng có thể nói rằng ngay trong cách mạng họ
thường biết lựa chọn phương tiện hơn là các đối thủ của mình. Nhưng sau cách
mạng thì phương pháp của họ, tuy ít đẫm máu hơn, nhưng càng ngày lại càng phi
nhân hơn.
Nếu không kể đến hoàn cảnh lịch sử,
chủ nghĩa cộng sản, cũng như bất kì phong trào chính trị-xã hội nào, cũng buộc
phải sử dụng một loạt các biện pháp (chính trị là chính trị) phù hợp với quyền
lợi và phân bố lực lượng trong xã hội, bất kể lí lẽ, bất kể đạo đức.
Ở đây chúng ta chỉ xem xét những
biện pháp làm cho chủ nghĩa cộng sản hiện đại khác biệt với các phong trào
chính trị xã hội khác, tuỳ hoàn cảnh, có thể dã man hơn, phi nhân hơn hay nhân
đạo hơn các phong trào kia. Cũng như trong các lĩnh vực khác, chúng ta chỉ quan
tâm tới sự khác biệt, tính đặc thù của các biện pháp được cộng sản sử dụng,
nghĩa là chỉ quan tâm tới sự khác biệt giữa cộng sản và các phong trào khác,
không cần biết đấy là có phải là phong trào cách mạng hay không.
Ta có thể nói ngay rằng sự dã man
không phải là điểm “khác biệt” của các biện pháp cộng sản. Dã man là điều dễ
thấy, nhưng không phải là điểm khác biệt chủ yếu. Phong trào đặt cho mình nhiệm
vụ khó khăn như thế - bằng bạo lực thay đổi toàn bộ nền kinh tế cũng như toàn
xã hội - nhất định phải sử dụng các biện pháp dã man. Nhưng các phong trào cách
mạng trước đó cũng đã buộc phải làm như vậy hay buộc phải tiến đến cách làm như
vậy. Tiến đến nhưng không thành: giai đoạn bạo lực của họ không thể kéo dài. Và
không thể toàn diện như bạo lực cộng sản: hoàn cảnh không cho phép.
Cũng không thể cho rằng cộng sản áp
dụng các biện pháp ấy là do họ là những người không có các nguyên tắc đạo đức
nhất định.
Những người cộng sản, ngoài việc là
cộng sản, họ cũng là những con người bình thường, trong giao tiếp với những
người khác họ buộc phải tuân thủ những nguyên tắc đạo đức của cộng đồng. Chân
không đạo đức của họ không phải là nguyên nhân mà là kết quả của những biện
pháp mà họ áp dụng. Trên nguyên tắc, cũng như trên lời nói, cộng sản luôn luôn
tỏ ra là những chiến sĩ đấu tranh kiên cường để bảo vệ đạo đức và chủ nghĩa nhân
đạo. Đôi khi họ có vi phạm các tiêu chuẩn đạo đức của mình thì cũng chỉ là do
hoàn cảnh bắt buộc. Nếu không phải làm như vậy thì sẽ tốt biết bao, họ vẫn
thường nói như thế. Về điểm này, họ cũng gần giống với các phong trào kia, nếu
có khác thì chính tính chất phi nhân của họ được thể hiện dưới những hình thức
phải gọi là quái gở và kéo dài hơn mà thôi.
Các biện pháp bạo lực chính là những
chỉ dấu phân biệt rõ nhất cộng sản với các phong trào chính trị khác. Điều kiện
lịch sử và nhiệm vụ mà phong trào cộng sản muốn giải quyết là nguồn gốc của
những biện pháp ấy.
Có một sự khác biệt căn bản mà mới
nhìn người ta có thể cho rằng chủ nghĩa cộng sản có những nét tương đồng với
những giáo phái trong quá khứ.
Đấy là những mục đích “lí tưởng”,
người cộng sản có thể áp dụng mọi thủ đoạn nhân danh những mục đích ấy. Thêm
nữa, thủ đoạn lại ngày càng trắng trợn hơn khi mục đích “lí tưởng” ngày càng xa
vời hơn.
Nếu trong quá trình cách mạng, cộng
sản phải sử dụng những biện pháp mà đối thủ cũng như tiến trình đấu tranh bắt
buộc phải làm như thế, thì sau khi đã nắm được chính quyền, sau khi đã tiêu
diệt được những kẻ thù trực tiếp, việc tiếp tục sử dụng những biện pháp đó,
thậm chí những biện pháp đàn áp dã man hơn vì “lí tưởng” như “chủ nghĩa xã
hội”, “chủ nghĩa cộng sản”, “quyền lợi của giai cấp công nhân và của toàn thể
nhân dân lao động” là điều không những không thể biện hộ được về mặt đạo đức mà
còn chứng tỏ họ là những kẻ bất lương và tham quyền tàn nhẫn. Các giai cấp cũ,
đảng phái cũ, hình thức sở hữu cũ đã không còn hoặc đã bị vô hiệu hoá, không
thể kháng cự, nhưng biện pháp thì vẫn như cũ. Hơn nữa, chỉ đến lúc này việc sử
dụng chúng mới thể hiện rõ tính phi nhân của toàn bộ hệ thống.
Tính chất bất nhân của các biện pháp
đàn áp của Stalin đạt đỉnh điểm chính trong quá trình xây dựng “chủ nghĩa xã
hội”. Khi tuyên bố quyền lợi của mình là mục đích tối thượng mà xã hội nhất
định phải tiến tới, khi đã tạo được cho mình sự độc quyền trong lĩnh vực tinh
thần cũng như các lĩnh khác, giai cấp mới tìm mọi cách hạ thấp giá trị của
phương tiện. Họ thường tuyên bố: “Quan trọng là mục đích, phương tiện chỉ là
thứ yếu”. “Điều quan trọng là chúng ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, những
việc khác rồi sau sẽ hay”, cộng sản thường biện hộ cho những hành động tội lỗi
đê tiện của mình như thế đấy.
Mục đích biện minh cho mọi phương
tiện, mà phương tiện ở đây chính là đảng. Đảng ngồi trên đầu trên cổ xã hội,
giống như nhà thờ Trung cổ, đảng biện minh cho chính mình.
“Khi gặp nguy hiểm nhà thờ vứt bỏ
hết mọi lời răn. Coi sự thống nhất là mục đích, nó đã dùng mọi phương tiện: lừa
dối, phản bội, đàn áp, mua quan bán tước, nhà tù và án tử hình. Vì mọi chế độ
đều nhân danh những mục đích chung nào đó và cá nhân phải hi sinh cho sự nghiệp
chung” (Dithrich Fon Nikhaim, Giám mục xứ Verden).
Câu này như được phát ra từ miệng
lưỡi của một trong những lãnh tụ cộng sản vậy.
Mặc dù chủ nghĩa cộng sản đương đại
khá giống với chủ nghĩa phong kiến (thí dụ, giáo điều đến mức cuồng tín) nhưng
chúng ta không sống trong thời Trung cổ và cộng sản cũng không phải nhà thờ.
Bề ngoài, cộng sản giống với nhà thờ
Trung cổ vì cả hai đều có tham vọng độc quyền về tư tưởng và cả các lĩnh vực
khác, cả hai đều áp dụng cùng một biện pháp “tác động”. Nhưng thực chất thì đây
là hai hiện tượng khác nhau. Nhà thờ chỉ nắm một phần quyền lực và sở hữu;
trong trường hợp xấu nhất, nó cũng chỉ đòi độc quyền trong lĩnh vực tinh thần
nhân danh hệ thống xã hội đương thời. Những kẻ dị giáo thường bị truy bức nhân
danh đức tin chứ không nhằm một lợi ích cụ thể nào vì lúc đó người ta cho rằng
thân thể kẻ dị giáo có bị giết đi thì tâm hồn tội lỗi của hắn mới được cứu rỗi,
nghĩa là mọi phương tiện trần thế đều có thể được sử dụng nhân danh thiên
đường.
Trong khi đó, tham vọng của cộng sản
là quyền lực trực tiếp, là chiếm và giữ chính quyền nhà nước. Và cả quyền lực
trong lĩnh vực tinh thần nữa, sự truy bức nhân danh “đức tin” chỉ là biện pháp
phụ trợ để củng cố quyền lực mà thôi. Khác với các cố đạo, cộng sản không phải
là điểm tựa của chế độ, họ chính là “hiện thân” của quyền lực.
Nói tất cả những điều này để thấy
rằng vì sao người cộng sản về lí thuyết không phải là những người sử dụng các
phương tiện một cách bừa bãi, nhưng trên thực tế, họ lại phản bội chính những
nguyên tắc của mình[6]. Vì
giai cấp mới không xuất hiện như một hiện tượng nhất thành bất biến mà biến đổi
từ lực lượng cách mạng thành giai cấp hữu sản và phản động, nghĩa là các phương
tiện của nó vẫn giữ cái vỏ bên ngoài, nhưng nội dung thì cùng với thời gian đã
từ cách mạng trở thành phản động, từ tự vệ thành đàn áp, áp bức.
Các phương tiện của cộng sản vốn là
vô đạo đức và trắng trợn, chúng cũng sẽ vẫn là như thế ngay cả khi về hình thức
đã không còn quá dã man như cũ. Quyền lực toàn trị tuyệt đối không từ bất kì
thủ đoạn nào. Cộng sản đã chứng tỏ cho mọi người thấy rằng họ không thể từ bỏ
nguyên tắc “mục đích biện minh cho phương tiện”, phương tiện bảo vệ quyền thống
trị tuyệt đối và quyền lợi ích kỉ của họ.
Cộng sản đã tiến hành áp bức, cướp
bóc, thủ tiêu con người mà không cần nhà tù và giá treo cổ. Điều đó được thưc
hiện bằng cách tước đoạt khả năng gây ảnh hưởng của người dân đối với những
thay đổi diễn ra trong xã hội, bằng cách tước quyền làm chủ ngay chính sức lao
động của họ, không cho họ được quyền nói lên suy nghĩ của mình. Cộng sản đã
biến tài sản xã hội thành tài sản của giai cấp mình, hứa huỷ bỏ nhà nước cùng
với quá trình dân chủ hoá, nhưng trên thực tế, càng ngày càng củng cố quyền lực
của chế độ chuyên chế; họ cũng làm tương tự như thế với các phương tiện đàn áp:
nếu họ có nới lỏng các biện pháp khi không còn kẻ thù hoặc kẻ thù đã bị vô hiệu
hoá thì cũng chỉ có tính chất tượng trưng[7].
Dù không muốn, cộng sản vẫn cứ là
những chủ sở hữu và những kẻ chuyên chế, không từ bất cứ thủ đoạn nào. Trái với
những lí thuyết đẹp đẽ và những dự định tốt đẹp, hệ thống bắt buộc họ phải làm
như thế. Khi một cái gì đó đã trở thành tất yếu thì nhất định hệ thống sẽ biến
một số tù nhân tinh thần của mình thành những kẻ thực hiện tự nguyện.
2.
Cộng sản thường nói đến “đạo đức
cộng sản”, đến “con người mới xã hội chủ nghĩa” như là những phạm trù đạo đức
cao cả. Nhưng những khái niệm đó chỉ có một nghĩa duy nhất: đoàn kết để chống
lại mọi ảnh hưởng từ bên ngoài. Trên thực tế, chúng không phải là những phạm
trù đạo đức.
Và, mặc dù người cộng sản không có
những qui tắc hành xử đặc biệt nào, cũng như không thể có “con người xã hội chủ
nghĩa”, nhưng cộng sản cố tình đưa vào hàng ngũ của mình “quan điểm riêng” về
đạo đức: không phải như những nguyên lí tuyệt đối mà là những tiêu chuẩn động,
ăn sâu bén rễ, thâm căn cố đế trong hệ thống thang bậc, nơi cấp trên có thể làm
nhiều việc mà nếu cấp dưới vi phạm và bị phát hiện thì sẽ bị “ăn đòn”.
Thái độ và tiêu chuẩn đạo đức mang
tính biệt phái của họ không phải là những tiêu chuẩn hoàn hảo và ổn định mà
trải qua một quá trình phát triển lâu dài, đôi khi chính chúng cũng có đóng góp
vào việc đưa giai cấp mới lên những tầng cao mới. Kết quả là, đã hình thành nên
những tiêu chuẩn đạo đức bất thành văn, phục vụ cho nhu cầu của tầng lớp chóp
bu, tuy bất thành văn, nhưng lại là những tiêu chuẩn bắt buộc. Nói tóm lại, quá
trình hình thành tiêu chuẩn đạo đức mang tính biệt phái đó trùng hợp với việc
thăng tiến của giai cấp mới, các tiêu chuẩn đó thực chất là nguyên tắc “mục
đích biện minh cho phương tiện”, không chấp nhận các phạm trù đạo đức chung của
nhân loại nữa.
Xin khảo sát từng vấn đề một cách cụ
thể hơn.
Tiêu chuẩn đạo đức cộng sản cũng như
mọi tiêu chuẩn đạo đức mang tính biệt phái khác, ban đầu, tuy thuộc về một
phong trào khép kín nhưng vẫn là các tiêu chuẩn nhân bản nói chung chứ chưa
phải hoàn toàn mang tính giáo phái hay biệt phái. Không phải vô tình mà phong
trào cộng sản đã xuất hiện như một phong trào có tính lí tưởng và hi sinh nhất,
đã tập hợp được trong đội ngũ của mình những người con ưu tú nhất, dũng cảm
nhất và dĩ nhiên là cũng đức hạnh nhất của dân tộc.
Kết luận này và tất cả những kết
luận nói đến ở trên liên quan đến các nước mà phong trào cộng sản sinh ra và
giành được sức mạnh trong lòng dân tộc (Nga, Nam Tư, Trung Quốc).
Khắp mọi nơi, phong trào cộng sản
đều bắt đầu từ ước mơ về những điều tốt đẹp hơn, ước mơ về lí tưởng; chính vì
thế nó mới hấp dẫn những người đức hạnh. Đồng thời, là một phong trào quốc tế,
như cây hướng dương tìm mặt trời, nó luôn hướng về nơi có phong trào mạnh nhất,
nơi phong trào đã giành được chính quyền. Cho đến nay đấy chính là Liên Xô. Vì
vậy, phong trào cộng sản ở những nước chưa giành được chính quyền đã mất chất
cộng sản lúc đầu và tiếp thu những phẩm chất cộng sản cầm quyền. Kết quả là,
các lãnh tụ cộng sản ở phương Tây hiện nay cũng có thói quen xuyên tạc sự thật
và lèo lái các tiêu chuẩn đạo đức hệt như các đồng nghiệp của họ ở Liên Xô. Nói
chung, trong giai đoạn đầu, cộng sản là phong trào của những người đức hạnh,
nguyên tắc đạo đức đó được người ta gìn giữ như báu vật và đấy là lí do của
những cuộc khủng hoảng, hậu quả của những hành động vô luân và duy ý chí của
các lãnh tụ về sau này.
Lịch sử có chưa nhiều các phong trào
bắt đầu và phát triển trên những nguyên tắc cao thượng và với những chiến sĩ xả
thân vì sự nghiệp, đoàn kết vì lí tưởng, gắn bó bằng tình yêu, tình đồng chí,
lòng chân thành, sự nhiệt tình, sinh ra trong bão lửa đấu tranh, nơi họ hoặc sẽ
chiến thắng hoặc sẽ chết như thế. Cùng làm việc, ước nguyện có cùng suy nghĩ và
cảm xúc, cùng chia sẻ niềm vui, hi sinh cá nhân cho sự nghiệp của đảng, của tập
thể, sẵn sàng hi sinh vì đồng đội, thương yêu thanh thiếu nên, chăm sóc người
già cả, đấy là đặc điểm của những người cộng sản trong giai đoạn khi mà phong
trào đang hình thành như một phong trào cộng sản chân chính. Đảng viên nữ, đấy
không chỉ là một chiến hữu, một người đồng chí bình thường. Cần luôn luôn nhớ
rằng chị đã hi sinh tất cả khi tham gia phong trào, cả tình yêu, cả khả năng
làm mẹ. Giữa đàn ông và đàn bà đã hình thành mối quan hệ trong sáng, ấm áp, một
mối tình đồng chí lí tưởng, bảo bọc lẫn nhau. Lòng trung thành, tương trợ lẫn
nhau, chân thành trong từng ý nghĩ cao thượng nhất, đấy là những nét đặc trưng
của những người cộng sản chân chính lúc đó.
Nhưng đấy là ở những giai đoạn ban
đầu, khi phong trào chưa được nếm vị ngọt ngào của quyền lực.
Để có những lí tưởng đó, phong trào
phải đi qua những đoạn đường dài, đầy chông gai, thử thách. Phong trào cộng sản
đã lôi cuốn được những thành viên của nhiều tầng lớp và lực lượng xã hội khác
nhau. Sự đồng nhất về mặt tâm lí không thể xuất hiện ngay, trước đó nhất định
phải diễn ra quá trình va chạm của những nhóm, những phe cánh khác nhau và
chiến thắng (nếu điều kiện khách quan cho phép) sẽ thuộc về phe nhận rõ thực
chất của phong trào và vì vậy cũng là phe thể hiện giá trị đạo đức cao nhất.
Trải qua các cuộc khủng hoảng về đạo đức, qua các âm mưu về chính trị, các trò
lừa đảo bẩn thỉu, các trò vu cáo lẫn nhau, các cuộc xung đột nội bộ, những vụ
vỡ mộng về tinh thần cũng như trí tuệ, phong trào phát triển mãi lên, tạo ra
hạt nhân lãnh đạo và giáo lí, đạo đức và tâm lí, phong cách và phương pháp làm
việc.
Khi phong trào cộng sản trở thành
một phong trào cách mạng thật sự và như ta đã thấy, trong một giai đoạn ngắn,
đã có những phẩm chất đạo đức cao thượng. Đã có một giai đoạn, khi lời nói
thường đi đôi với việc làm, nói đúng hơn, những người lãnh đạo phong trào,
những người trung thành nhất, những người cộng sản chân chính đã thực sự tin
vào lí tưởng của mình và một lòng một dạ thực hiện lí tưởng ấy. Đấy là giai đoạn
trước cuộc đấu tranh vũ trang giành chính quyền, là nói các phong trào phải
trải qua giai đoạn như vậy.
Tất nhiên, đấy là đạo đức có tính
biệt phái, nhưng là đạo đức cao thượng. Đây là một phong trào khép kín cho nên
nó thường khó nhìn nhận được sự thật, mặc dù như thế, không có nghĩa là người
ta không tìm kiếm và không yêu sự thật.
Tính biệt lập về trí thức và đạo đức
là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài vì sự thống nhất về tư tưởng và hành
động, ta sẽ khó tưởng tượng nổi một phong trào cộng sản cách mạng thiếu những
đặc trưng vừa kể. “Thống nhất về tư tưởng và hành động” sẽ không thể nào xảy ra
nếu thiếu sự thống nhất về tâm lí và đạo đức. Và ngược lại. Nhưng chính sự
thống nhất về đạo đức và tâm lí tự phát như thế, không cần một nội qui và qui
tắc nào, đã trở thành một thói quen và làm cho cộng sản thành một gia đình cố
kết, bảo vệ lẫn nhau, có cùng cách phản ứng, có cùng những suy nghĩ và tình
cảm, người bên ngoài không thể hiểu và không thể xâm nhập được. Sự xuất hiện
một tổ chức thống nhất về đạo đức và tâm lí như thế là dấu chỉ rằng phong trào
cộng sản đã đứng vững và trước mắt những người ủng hộ nó, cũng như trước mắt
nhiều người khác, đây đã là một cơ thể duy nhất, một tâm hồn duy nhất, một bàn
tay đã nắm thành quả đấm. Đấy là một phong trào đoàn kết nhất trí đầy tương
lai. Nhưng đấy là cái tương lai khác hẳn với ước nguyện ban đầu.
Tất cả rồi sẽ qua đi, sẽ bạc màu, sẽ
tan dần trong quá trình tiến đến đỉnh cao của quyền lực. Chỉ còn lại hình thức
và những thói quen rỗng tuếch, nội dung thực sự đã bị thay thế từ lâu.
Sự thống nhất hình thành trong cuộc
đấu tranh với kẻ thù và những nhóm “nửa” cộng sản khi đối diện với một nhóm
chóp bu nắm quyền (thường là một ông vua “xã hội chủ nghĩa”) đã biến thành sự
thống nhất của những tên tay sai, những kẻ quan liêu “ăn theo nói leo” trong
nội bộ phong trào. Thói luồn cúi, nịnh bợ, không dám phát biểu công khai, sự
can thiệp vào đời sống riêng tư (sự tương trợ có tính đồng chí trước đây đã trở
thành vũ khí nô dịch của nhóm đương quyền), hệ thống cấp bậc và khép kín, phụ
nữ chỉ còn vai trò thứ yếu và mang tính tượng trưng, thói bon chen, ích kỉ, đố
kị và thù hận – càng gần đến lúc giành được chính quyền thì những thói hư tật
xấu nói trên càng xuất hiện nhiều và thế chỗ dần cho những phẩm chất cao thượng
ban đầu. Tính nhân bản của một phong trào khép kín đã trở thành thói đạo đức
giả và bất dung của một giai cấp đặc quyền đặc lợi. Lòng chân thành cách mạng
giữa các đồng chí với nhau cũng chấm dứt, mánh khoé và dự giả dối đã thành lẽ
sống. Những người anh hùng (những người còn sống và chưa bị hất ra khỏi guồng
máy) mới ngày hôm qua còn sẵn sàng hi sinh tất cả, kể cả mạng sống của mình vì
người khác, vì lí tưởng và hạnh phúc của nhân dân đã trở thành những kẻ ích kỉ
hèn nhát, chẳng còn lí tưởng, cũng chẳng còn ai là đồng chí của ai nữa. Họ sẵn
sàng từ bỏ danh dự, từ bỏ chân lí và đạo đức miễn là được ở lại trong giai cấp
cầm quyền, miễn là giữ được chiếc ghế trong bộ máy. Nếu trước đây thế giới ít
khi được thấy nhiều người anh hùng như thế, nhiều người sẵn sàng chịu hi sinh,
chịu đau khổ, nhiều người có niềm tin, thông minh và không khoan nhượng như thế
(những người cộng sản đã là như vậy trước và trong cách mạng) thì thế giới cũng
chưa từng biết nhiều kẻ hèn nhát, thiếu tư cách đến như thế, những người anh
hùng ngày hôm qua, khi vừa nắm được quyền lực liền biến thành những kẻ bảo vệ
mù quáng những khẩu hiệu đã mất hết sức sống. Chỉ vì quyền lực, vì đặc quyền
đặc lợi mà thôi. Những phẩm chất nhân bản tuyệt vời là điều kiện tạo ra phong
trào và sự hấp dẫn và sức mạnh của phong trào ấy, thì tinh thần bè phái, sự chà
đạp đạo lí và đức hạnh lại là điều kiện bảo đảm cho sự hùng mạnh và sự sống còn
của chính nó. Nếu trước đây sự trung thực, lòng chân thành, đức hi sinh, tình
yêu chân lí là một cái gì đó hoàn toàn tự nhiên, là điều kiện tham gia phong
trào và điều kiện để chính phong trào tồn tại, thì nay sự giả trá cố ý, âm mưu,
vu khống, xuyên tạc, khiêu khích đã dần trở thành những hiện tượng đồng hành
không thể thiếu của sự thống trị toàn diện và tuyệt đối của giai cấp mới nói
chung và giữa các thành viên của giai cấp ấy với nhau nói riêng.
3.
Những người không nắm được sự phát
triển một cách biện chứng đó của phong trào cộng sản sẽ không bao giờ hiểu được
cái gọi là những vụ án Moskva và tại sao những cuộc khủng hoảng về đạo đức do
sự phản bội của những kẻ mới hôm qua còn được coi là thánh sống lại không gợi
lên trong tâm trí những người cộng sản sự chuyển biến mang tính quyết định mà
một người bình thường hay một thành viên của những phong trào khác sẽ nhận ra
ngay.
Khrushchev từng khẳng định rằng tra
tấn là biện pháp chủ yếu để buộc các nạn nhân các vụ thanh trừng của Stalin
phải “thú nhận tội lỗi”, tự vu khống mình. Ông ta không nhắc đến ma tuý mặc dù
có bằng chứng chứng tỏ rằng ma tuý đã được sử dụng. Nhưng sự đàn áp dã man nhất
và chất ma tuý có hoạt tính hữu hiệu nhất lại chính là cái chất có sẵn trong
lòng các “tội nhân”.
Những tội phạm bình thường, không
phải đảng viên thường không rơi vào trạng thái bị thôi miên, không tự vu khống
một cách điên rồ và không xin được chết vì “tội lỗi”. Chỉ những người có “tư
chất” đặc biệt, những đảng viên cộng sản mới làm như thế.
Đầu tiên, họ kinh ngạc vì sự tàn bạo
và vô luân của cú ra đòn và những lời buộc tội của thượng cấp, họ còn chưa chịu
tin rằng cái thượng cấp ấy lại vô nguyên tắc và vô luân đến như vậy dù rằng
trong thâm tâm (và giữa những bạn bè thân hữu) họ đã ngầm lên án nó vì nhiều
chuyện rồi. Thế mà bỗng nhiên họ bị bứt ra như người ta bứt mấy cây cỏ dại vậy.
Ai đã quyết chuyện đó? Chính giai cấp của họ, lãnh đạo của họ, lãnh tụ của họ
đã quyết như thế. Người ta đã nắm cổ và vứt họ ra đống rác. Tệ hơn nữa, họ đã
bị coi là những kẻ phản bội dù không làm gì nên tội. Thế mà từ lâu họ đã được
giáo dục, từ lâu họ đã quen là một tế bào của đảng, hết lòng vì lí tưởng của nó.
Nay, sau khi bị bật khỏi gốc rễ, họ trở thành những người cực kì cô đơn. Họ
không biết hoặc không nhớ rằng còn có một thế giới khác, thế giới bên ngoài
giáo phái cộng sản, bên ngoài những quan niệm và quan hệ bệnh hoạn của nó,
nhưng đã muộn, họ không còn thời gian: người ta không cho họ quay lại nữa, từ
lâu, trong tư tưởng, trong tâm lí, họ đã là tù binh của giáo lí đó rồi.
Con người không thể đấu tranh, thậm
chí không thể sống bên ngoài xã hội, bên ngoài cộng đồng. Đấy là dấu hiệu không
thể tách rời của con người, khi người ấy còn có thể được coi là người,
Aristotle đã nhận thấy điều đó, đã giải thích nó và gọi con người là “con vật
chính trị”.
Một người đã từng là thành viên của
một giáo phái biệt lập, nay bị tách ra khỏi môi trường quen thuộc, bị kết án về
mặt đạo đức, lại bị tra tấn một cách tinh vi và dã man, có thể làm được gì?
Người đó chỉ còn mỗi một việc là “thú nhận” và bằng cách đó giúp cho giai cấp,
giúp cho các “đồng chí”, những người đang cần những lời thú nhận đó để tiếp tục
chiến đấu với “kẻ thù của chủ nghĩa xã hội” với “bọn đế quốc”. Đấy là hành động
“vĩ đại”, hành động “cách mạng” cuối cùng của một thân phận đã bị bỏ lỡ, một
thân phận đã tan nát hoàn toàn.
Mọi người cộng sản chân chính đều
được dạy và tiếp tục dạy người khác rằng bè phái, tranh chấp nội bộ là tội ác
đối với đảng, đối với lí tưởng. Đúng như thế, nếu đảng cộng sản mà chia rẽ thì
nó sẽ không thể giành chiến thắng trong cách mạng, không thể giành và giữ được
quyền lực. Giữ sự thống nhất bằng mọi giá, đấy chính là cái mệnh lệnh bí hiểm
mà đằng sau nó, giống như đằng sau bức tường công sự, ẩn chứa ước mơ của giới
chóp bu về một quyền lực không giới hạn, không gì ngăn cản được. Ngay một người
đối lập trong đảng, một người đã nghi ngờ hay biết rõ điều đó cũng không thể
giải thoát khỏi sự thần bí của yêu cầu thống nhất. Ngoài ra, anh ta còn có thể
nghĩ rằng các lãnh tụ sẽ đến rồi đi, những kẻ ngu dốt và độc ác, ích kỉ và tham
quyền kia cũng sẽ phải đi, nhưng mục đích thì vẫn còn đó, vĩnh viễn. Mục đích
là tất cả, chẳng phải ngay từ đầu, từ ngày thành lập đảng đã là thế ư?
Chính Trotsky, một người đối lập
kiên trì nhất, cũng không vượt qua được cách lí luận như vậy. Một lần, trong
cơn phấn khích tự phê bình, Trotsky đã tuyên bố rằng đảng không bao giờ sai vì
đảng chính là hiện thân của nhu cầu lịch sử, nhu cầu xây dựng xã hội phi giai
cấp. Còn khi đã lưu vong, để lí giải sự vô luân không thể tưởng tượng được của
các vụ án ở Moskva, ông đã dựa vào các vụ tương tự trong lịch sử: xảy ra trước
khi Thiên chúa giáo giành thắng lợi ở Rome, trong thời Phục hưng, trong giai
đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản; tất cả đều kèm theo những vụ hành quyết vô luân,
vu khống và lừa dối đã là hiện tượng phổ biến và nhiều tội ác khác. Giai đoạn
quá độ sang chủ nghĩa xã hội cũng không thể tránh được những hiện tượng như
thế, đấy chính là tàn dư của xã hội có giai cấp, Trotsky đã kết luận như vậy
đấy. Ông ta chẳng lí giải được gì, nhưng bằng cách đó, ông đã tự an ủi: ông đã
không phản bội “chuyên chính vô sản”, không phản bội chính quyền Xô Viết, “hình
thức quyền lực duy nhất trong giai đoạn quá độ sang xã hội phi giai cấp”. Nhưng
nếu Trotsky đi sâu vào vấn đề thêm một chút nữa thì có lẽ ông đã hiểu rằng chủ
nghĩa cộng sản cũng như thời Phục hưng và nói chung trong lịch sử, khi một giai
cấp hữu sản nào đó đang dọn đường cho mình thì khó khăn càng lớn, bức tranh về
một thế giới ngày mai mà nó vẽ ra cho mình và cho những người khác càng “lí
tưởng”, ước vọng của những người chiến đấu cho thế giới ấy càng sâu sắc và càng
cao thượng thì đức hạnh càng ít có giá trị.
Tương tự như vậy, những người không
hiểu các thay đổi xã hội to lớn đang diễn ra sau khi cộng sản chiến thắng đã
đánh giá sai những cuộc khủng hoảng về đạo đức trong hàng ngũ của họ. Thí dụ,
người ta đã đánh giá quá cao cuộc công kích của những cộng sự của Stalin vào
phong cách làm việc của ông ta - được gọi là quá trình phi Stalin hoá.
Những cuộc khủng hoảng về đạo đức,
lớn có, nhỏ có, là một phần không thể thiếu được của tất cả các chế độ chuyên
chế vì những kẻ bảo vệ các chính thể ấy đã quen cho rằng đồng phục tư tưởng
chính là lòng yêu nước, là trách nhiệm công dân cao cả nhất và họ cảm thấy đau
khổ trước mỗi khúc quanh, trước mỗi thay đổi nhất định phải xảy ra. Các chế độ
toàn trị lại càng không thể tránh được những cuộc khủng hoảng như thế.
Đồng thời cộng sản lại biết rõ bằng
bản năng rằng, cứ sau mỗi khúc quanh như thế quyền lực toàn trị của giai cấp họ
không những không giảm mà còn tăng thêm, đấy chính là con đường phát triển tự
nhiên của họ, đức hạnh và bao điều khác không có vai trò gì, thậm chí còn có
hại. Họ nhanh chóng nhận thức được điều đó qua thực tiễn. Vì vậy mà những cuộc
khủng hoảng về đạo đức đó dù có sâu sắc đến đâu cũng chỉ là hiện tượng tạm
thời. Thực ra, khi toàn thể trái tim và khối óc đã dành cho các mục tiêu thực
tế, còn những cuộc thảo luận về lí tưởng chỉ là bức màn che giả tạo, thì phương
tiện nào mà chả tốt.
4.
Chủ nghĩa cộng sản còn giữ được đức
hạnh cho đến khi các lãnh tụ của nó bắt đầu thanh toán những người muốn lời nói
đi đôi với việc làm ngay trong hàng ngũ của mình[8]. Nhưng
việc mất giá về đạo đức đó trong mắt người ngoài không có nghĩa là cộng sản bắt
đầu suy yếu. Cho đến nay thì ngược lại. Tất cả các vụ thanh trừng, kể cả những
vụ án ở Moskva, không những không làm suy yếu, mà ngược lại còn tăng cường sức
mạnh của hệ thống nói chung và Stalin nói riêng. Tất nhiên, một số tầng lớp,
đặc biệt là giới trí thức, trong đó có Andre Gide, đã từ bỏ chủ nghĩa cộng sản
vì ngờ rằng trong tình hình hiện nay, đấy không phải là hiện thân của lí tưởng
mà họ hằng mơ ước. Nhưng chính cái chủ nghĩa cộng sản mà ta đang thấy không
những không yếu đi: giai cấp mới đã cứng cáp, đủ sức lực và sau khi giải phóng
khỏi những trở ngại về đạo đức thì đang dìm chính những chiến sĩ cộng sản chân
chính trong biển máu. Mất giá về đạo đức trong mắt người khác, chủ nghĩa cộng
sản trên thực tế đã tăng cường được quyền lực đối với xã hội và củng cố được
địa vị trong mắt giai cấp mình.
Chủ nghĩa cộng sản hiện thời chỉ có
thể bị mất giá về mặt đạo đức trong mắt chính giai cấp của mình khi bên cạnh
việc thanh toán lẫn nhau của các lãnh tụ còn phải kèm theo các điều kiện khác
nữa. Đấy là khi cách mạng không chỉ “ăn thịt những đứa con của mình” mà còn có
thể nói tự ăn thịt mình. Đấy là khi chính giai cấp cầm quyền nhận ra rằng mục
đích của nó là không thực tế, là không tưởng, không thể thực hiện được. Đấy là
khi những bộ óc thông thái nhất của nó nhận thức được rằng đây là giai cấp bóc
lột, chính quyền của nó là chính quyền bất công. Đấy là khi giai cấp đó hiểu
rằng, việc tiêu diệt nhà nước cũng như xây dựng xã hội cộng sản, nơi mọi người
làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu là không thực tế trong một tương lai có
thể nhìn thấy được. Khi đó họ sẽ hiểu rằng phương tiện mà giai cấp đã và đang
sử dụng, trên lời nói là cho mục đích cao cả, còn trong thực tế là để củng cố
quyền lực của mình đã không còn ý nghĩa nữa, khi đó họ sẽ hiểu tính phi nhân và
không phù hợp của những phương tiện đó. Điều đó có nghĩa là trong giai cấp cầm
quyền đã có dao động và chia rẽ, quá trình này sẽ không thể đảo ngược được. Nói
cách khác, cuộc đấu tranh cho sự sống còn của chính nó sẽ buộc giai cấp cầm
quyền nói chung và các phe nhóm trong lòng nó nói riêng từ bỏ các phương tiện
cũ cũng như từ bỏ chính mục đích không thực tế và thiếu tương lai.
Hi vọng sự xuất hiện một hoàn cảnh
như thế chỉ có tính chất lí thuyết, chưa có nước cộng sản nào gợi ý cho ta thấy
rằng hi vọng đó sẽ được hiện thực hoá trong một tương lai gần, Liên Xô sau
Stalin lại càng không. Giai cấp cầm quyền ở đó vẫn là một lực lượng cố kết, còn
việc lên án các biện pháp của Stalin lại được tiến hành nhằm bảo vệ chính giai
cấp ấy khỏi những hành động chuyên quyền của nền độc tài cá nhân. Tại đại hội
XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, Chrushchev đã biện hộ cho cuộc “khủng bố cần
thiết” chống kẻ thù và cho rằng nó khác xa với sự chuyên quyền của Stalin trong
quan hệ với “các đồng chí tốt”. Ông ta không lên án các biện pháp như chúng vốn
là, mà chỉ kết tội cách áp dụng có phần làm cho giới cầm quyền lo ngại. Những
thay đổi nhãn tiền sau cái chết của Stalin diễn ra trong nội bộ giai cấp cầm
quyền lúc này đã đủ mạnh, đủ sức ngăn chặn việc thiết lập quyền lực tuyệt đối
của lãnh tụ và bộ máy cảnh sát. Còn chính giai cấp và các biện pháp thì vẫn
chưa có thay đổi đáng kể, các vết rạn nứt và suy thoái đạo đức cũng chưa thấy
rõ. Nhưng những dấu hiệu của sự rạn nứt thì đã có, đấy là cuộc khủng hoảng đạo
đức như đã nói đến bên trên. Quá trình phân hoá về mặt đạo đức chỉ mới bắt đầu.
Những điều kiện cho quá trình ấy đã bắt đầu hiện ra ngày càng rõ nét hơn.
Khi nhóm chóp bu tự cho mình đặc
quyền chỉ trích việc Stalin o ép những người cộng sản thì câu chuyện đó nhất
định sẽ tìm được tiếng vọng trong lòng những người còn bị o ép gấp trăm, gấp
ngàn lần hơn thế. Giai cấp tư sản Pháp khi đã chán ngấy chiến tranh và chế độ
chuyên chế, cũng đã nổi dậy chống lại hoàng đế Napoleon của mình. Nhân dân Pháp
cuối cùng đã rút ra những bài học bổ ích. Các biện pháp của Stalin nhân danh xã
hội tươi sáng trong tương lai không thể nào trở lại được nữa. Nhưng điều đó
không có nghĩa là nhóm chóp bu hiện nay, dù không thể sử dụng bừa bãi mọi biện
pháp được nữa, về nguyên tắc sẽ đoạn tuyệt với những biện pháp ấy. Điều đó cũng
không có nghĩa rằng Liên Xô sẽ bất ngờ biến thành nhà nước dân chủ pháp quyền
trong một tương lai gần.
Nhưng, rõ ràng là đã có một số thay
đổi.
Trong tương lai, giai cấp cầm quyền
không thể biện hộ, dù trong nội bộ, việc sử dụng bừa bãi các biện pháp nhân
danh mục đích “lí tưởng”. Nó vẫn sẽ còn ba hoa về chủ nghĩa cộng sản như là mục
đích cuối cùng; nếu không thế thì sự độc quyền cũng sẽ tiêu ma. Nhưng đấy có lẽ
chỉ là thói quen sử dụng bừa bãi các phương tiện còn sót lại từ quá khứ mà
thôi. Không phải lúc nào nó cũng dám liều như trước nữa. Một sức mạnh lớn hơn,
đấy là nỗi sợ trước dư luận quốc tế, sợ làm ảnh hưởng đến hình ảnh của mình,
đến quyền lực tuyệt đối của mình đã làm cho nó dao động, chùn tay. Cảm thấy
mình đủ mạnh để có thể rỡ bỏ hiện tượng sùng bái cá nhân Stalin, sùng bái người
sáng lập hệ thống, giai cấp mới đã đánh một đón chí mạng vào ngay lí tưởng của
mình. Ngay khi đạt đến đỉnh cao của quyền lực, giai cấp mới bắt đầu tránh xa
cái hệ tư tưởng, cái lí thuyết giáo điều đã góp phần dẫn nó đến quyền lực. Đã
xuất hiện những vết rạn nứt, đã có dấu hiện rã đám. Trên bề mặt, dường như vẫn
phẳng lặng, vẫn yên tĩnh, nhưng ở trong lòng, ở ngay trong hàng ngũ của nó bắt
đầu xuất hiện những suy nghĩ mới, các tư tưởng mới đang cày xới nền đất, đang
tung ra những hạt giống cho những trận cuồng phong trong tương lai.
Chính vì vậy mà giai cấp mới sau khi
đã từ bỏ các biện pháp của Stalin cũng sẽ không thể giữ mãi được giáo điều
Stalin nữa. Các biện pháp đó chỉ là sự thể hiện giáo lí đó trên thực tế.
Không phải là lương tâm, cũng không
phải là lòng nhân đạo đã buộc các chiến hữu của Stalin công nhận tác hại của
những biện pháp mà ông ta đã sử dụng. Chính quyền lợi của giai cấp cầm quyền đã
buộc họ, dù hơi muộn, dù sau khi người thày của họ đã qua đời, phải quay lại
với lương tri và nhận ra rằng họ có thể xử sự một cách nhân đạo hơn.
Từ bỏ những biện pháp man rợ cực
đoan, nhóm chóp bu, dù không muốn, cũng đã gieo vào lòng giai cấp mình hạt
giống nghi ngờ chính những mục tiêu của nó. Trước đây mục đích đã là tấm màn
che đậy cho những phương tiện vô luân. Từ bỏ nguyên tắc “mục đích biện minh cho
phương tiện” tạo ra sự ngờ vực vào ngay chính mục đích. Nếu đã chứng minh rằng
các phương tiện phải đưa đến mục đích đó lại là những phương tiện độc ác, thì
mục đích tự nó cũng là bất khả thi. Vì trong chính trị chỉ có phương tiện là
thật còn mục đích, trên lời nói, thì lúc nào cũng là tốt đẹp cả. “Con đường đưa
đến địa ngục được xây bằng các ý tưởng tốt” là như thế đấy.
5.
Lịch sử chưa hề thấy mục đích lí
tưởng nào được xây dựng bằng những phương tiện vô nhân đạo, phản nhân tính;
cũng như nó chưa từng thấy một xã hội tự do nào lại được xây dựng bởi những kẻ
nô lệ. Không gì có thể phản ánh rõ thực chất của mục đích bằng chính các phương
tiện để đạt mục đích ấy.
Nếu mục đích có trách nhiệm biện
minh cho các phương tiện phản nhân tính thì phải nói mục đích có vấn đề. Trong
thực tế, chính là phương tiện, sự hoàn thiện liên tục và nhân đạo hoá các
phương tiện mới có thể biện minh cho mục đích, biện minh cho những cố gắng và
hi sinh cho thắng lợi của nó.
Chủ nghĩa cộng sản hiện đại chưa bắt
đầu quá trình này. Nó mới chỉ tạm dừng chân, lòng tràn đầy niềm tin vào sức
mạnh của mình và đang suy nghĩ về các phương tiện đã được lựa chọn.
Trong lịch sử không có chế độ dân
chủ (tương đối dân chủ thôi, phù hợp với hoàn cảnh) được xây dựng bằng ước vọng
đạt đến mục đích lí tưởng, mà chế độ dân chủ được xây dựng bằng những cố gắng tuy
nhỏ nhưng thấy được từng ngày với việc sử dụng các phương tiện phù hợp. Bằng
cách đó, các chế độ ấy đã và đang đưa, với ít nhiều tính tự phát, nhân dân họ
đến gần những mục đích lớn lao hơn. Trong khi đó các chế độ chuyên chế thường
tự biện hộ bằng những mục đích lí tưởng. Không chế độ chuyên chế nào có thể dẫn
người ta đến những mục đích cao thượng mà nó từng tuyên bố.
Chủ nghĩa cộng sản đương thời, bằng
các biện pháp cách mạng, đã đập tan một hình thái xã hội này và bằng các biện
pháp độc tài đã tạo ra một hình thái xã hội khác. Ban đầu, được cổ võ bởi ước
mơ thánh thiện nhất, vĩ đại nhất, ước mơ tự ngàn đời của con người về bình đẳng
và bác ái, sau đó, chính những ước mơ này đã trở thành tấm màn che địa vị thống
trị được áp đặt và thực thi bằng mọi phương tiện, kể cả những phương tiện xấu
xa, bỉ ổi nhất.
Giống như nhân vật Sigaliov trong
tác phẩm “Lũ người quỉ ám” của Dostoevsky:
Hắn xếp đặt mọi chuyện đâu ra đấy trong một cuốn sổ ghi chú.
Hắn vạch ra một mạng lưới do thám thật hay. Trong hệ thống đó, mỗi người của
phong trào sẽ dò xét mọi người khác và báo cáo về họ. Mỗi người đều thuộc về
tất cả và tất cả đều thuộc về mọi người. Tất cả đều là nô lệ và bình đẳng trong
sự nô lệ. Trong những trường hợp hãn hữu mới cần đến vu khống và xử tử, còn chủ
yếu là bình đẳng… Đám nô lệ phải được bình đẳng: không có sự chuyên chế thì
chẳng bao giờ có tự do hay bình đẳng…”[9]
Như vậy là, khi dùng mục đích để
biện minh cho phương tiện thì mục đích ngày càng trở nên xa vời và phi thực tế.
Còn phương tiện thì ngày càng khủng khiếp hơn và không thể nào chấp nhận được.
Bản
chất
1.
Không có lí thuyết nào nói về bản
chất của chủ nghĩa cộng sản hiện đại có thể chứa đựng được tất cả mọi vấn đề.
Tác phẩm này cũng vậy. Chủ nghĩa cộng sản hiện đại xuất hiện là do một loạt
nguyên nhân lịch sử, kinh tế, chính trị, tư tưởng, dân tộc và quan hệ quốc tế.
Vì vậy, một lí thuyết khẳng định một cách dứt khoát bản chất của nó không thể
coi là hoàn toàn đúng và đầy đủ được.
Không thể nắm được bản chất của chủ
nghĩa cộng sản trước khi nó chưa phát triển hoàn toàn, chưa thể hiện được toàn
bộ chính mình. Thời điểm đó sẽ tới khi chủ nghĩa cộng sản bước vào giai đoạn
chín muồi. Chỉ lúc đó ta mới có thể nhận thức được đầy đủ bản chất quyền lực,
quyền sở hữu và hệ tư tưởng của nó. Còn khi chủ nghĩa cộng sản vẫn đang phát
triển, đang là hiện thân chủ yếu như một hệ tư tưởng thì thật khó nhận thức
được bản chất thật sự của nó.
Giống như mọi sự thật khác, sự thật
về chủ nghĩa cộng sản hiện đại là công việc của nhiều tác giả, nhiều nước,
nhiều phong trào khác nhau. Sự thật này sẽ hé lộ từng bước một, song song với
sự phát triển của phong trào cộng sản, nhưng ta không thể nói đâu là sự thật
cuối cùng vì chính phong trào cộng sản cũng còn đang phát triển.
Nhưng dẫu vậy, đa số các lí thuyết
hiện thời đều chứa đựng những kết luận đúng và trong từng trường hợp cụ thể đã
nắm bắt được một nét đặc thù hay một hình thức biểu hiện cái bản chất của nó.
Tồn tại hai quan điểm khác nhau về
chủ nghĩa cộng sản hiện đại. Một quan điểm coi chủ nghĩa cộng sản hiện đại là
một loại tôn giáo kiểu mới. Nhưng, như chúng ta đã thấy bên trên, đây không
phải là tôn giáo, không phải nhà thờ, dù rằng chúng có nhiều nét tương đồng.
Quan điểm thứ hai lại coi chủ nghĩa
cộng sản là chủ nghĩa xã hội cách mạng, nghĩa là sự phủ nhận nền công nghiệp và
chủ nghĩa tư bản, sự phủ nhận nảy sinh từ trong lòng nó cùng với giai cấp vô
sản và những bất hạnh của giai cấp này. Chúng ta cũng đã khẳng định rằng quan
điểm này cũng chỉ đúng một phần: chủ nghĩa cộng sản xuất hiện trong lòng các
nước tư bản phát triển như một tư tưởng về sự công bằng và phản ứng đối với
tình trạng nghèo khó của quần chúng lao động trong quá trình công nghiệp hoá.
Nhưng sau khi giành được quyền lực ở những nước chậm phát triển, chủ nghĩa cộng
sản lại trở thành một cái gì đó khác hẳn – thành một hệ thống bóc lột, đi ngược
lại quyền lợi của chính giai cấp vô sản.
Quan điểm này được phát triển thêm
thành luận cứ cho rằng chủ nghĩa cộng sản hiện đại chỉ là biểu hiện hoàn toàn
mới của chủ nghĩa chuyên chế vốn là bản chất của những người nắm được quyền lực
trong tay. Chính bản chất nền kinh tế hiện đại với nhu cầu quản lí tập trung đã
tạo cho nó điều kiện trở thành quyền lực tuyệt đối. Cách đặt vấn đề như vậy
cũng có phần đúng: chủ nghĩa cộng sản hiện đại thực tế đúng là một chế độ, chế
độ đó nhất định có xu hướng trở thành toàn trị. Nhưng không phải chế độ chuyên
chế hiện đại nào cũng đều là cộng sản và về mức độ toàn trị thì các chế độ đó
không thể nào so với cộng sản được.
Như vậy là, sau khi xem xét các luận
điểm đó ta thấy rằng chúng chỉ giải thích một khía cạnh nào đó, một số đặc
trưng nào đó, một phần sự thật chứ không phải tất cả sự thật về chủ nghĩa cộng
sản hiện đại.
Quan điểm của tôi về bản chất của
chủ nghĩa cộng sản cũng không có tham vọng giành sự chính xác một trăm phần
trăm. Và nói chung mọi định nghĩa đếu là “màu xám”, nhất là khi nói về những
hiện tượng xã hội vốn rất phức tạp và sống động.
Nhưng về mặt lí thuyết, ta vẫn có
thể nói đến bản chất của chủ nghĩa cộng sản, nói đến những đặc điểm căn bản của
nó.
Chủ nghĩa cộng sản cũng như bản chất
của nó luôn luôn chuyển động, từ hình thức này sang hình thức khác. Chúng không
tồn tại bên ngoài chuyển động ấy. Vì vậy, nó mới thu hút những nhà nghiên cứu,
thu hút việc đào sâu mãi cái sự thật đã được phát hiện về chính mình.
Bản chất của chủ nghĩa cộng sản
chính là thành quả của một loạt điều kiện lịch sử và những điều kiện đặc thù
khác. Nhưng sau khi chủ nghĩa cộng sản đã đứng vững thì bản chất của nó lại trở
thành tác nhân độc lập, tự tạo ra những điều kiện cho sự tồn tại của chính
mình. Vì vậy, cần phải xem xét nó một cách riêng biệt, trong các hình thức,
điều kiện tồn tại và hoạt động của nó trong giai đoạn hiện nay.
2.
Quan điểm cho rằng chủ nghĩa cộng
sản hiện đại là biểu hiện của chủ nghĩa toàn trị mới đã được rất nhiều người
nói tới và là quan điểm hoàn toàn đúng. Nhưng toàn trị mới là gì, nhất là khi
liên hệ đến chủ nghĩa cộng sản thì lại chưa được lí giải đúng mức.
Chủ nghĩa cộng sản hiện đại là chủ
nghĩa toàn trị với ba nhân tố thống trị con người - quyền lực, sở hữu và tư
tưởng - cả ba đều là độc quyền sở hữu của một đảng chính trị duy nhất hay như
tôi đã trình bày và gọi ở trên là giai cấp mới, còn trong tình hình cụ thể hiện
nay thì là độc quyền của nhóm chóp bu của đảng đó hay giai cấp đó. Không có chế
độ toàn trị nào trong quá khứ và cả hiện nay, ngoài chế độ cộng sản, có được
cùng một lúc cả ba tác nhân thống trị đối với con người như vậy.
Xem xét và cân nhắc từng tác nhân,
ta có thể kết luận rằng quyền lực đã và vẫn là tác nhân quyết định cho sự phát
triển của chủ nghĩa cộng sản. Có thể một lúc nào đó, một trong hai tác nhân kia
sẽ nổi lên, nhưng phân tích những quan hệ hiện thời cũng như những điều kiện
khác cho thấy điều đó khó có thể xảy ra. Tôi nghĩ rằng quyền lực sẽ trở thành
đặc điểm chủ yếu của chủ nghĩa cộng sản.
Trong giai đoạn xuất hiện, chủ nghĩa
cộng sản chỉ mới là một hệ tư tưởng. Nhưng hệ tư tưởng đó đã chứa sẵn trong
lòng nó hạt giống của toàn trị và độc quyền. Có thể nói một cách tự tin rằng,
hiện nay tư tưởng đã không còn đóng vai trò chủ yếu, vai trò quyết định trong
việc đảm bảo cho quyền thống trị của nó đối với con người nữa. Như một hệ tư
tưởng, chủ nghĩa cộng sản đã đi hết lộ trình, nó không thể nói được điều gì mới
nữa. Mặt thật của nó hiện nay là quyền lực và sở hữu.
Có thể nói rằng, tranh đoạt một kiểu
quyền lực nào đó, dù đấy là quyền lực về chính trị, quyền lực về tinh thần,
quyền lực về kinh tế, là mục đích của mọi cuộc đấu tranh, là mục đích mọi hoạt động
xã hội của con người. Nhận xét này chứa đựng một phần sự thật. Có thể thêm
rằng, trong hoạt động chính trị thì quyền lực, đấu tranh để giành và giữ quyền
lực là vấn đề chủ yếu, hướng chủ yếu. Nhưng với chủ nghĩa cộng sản hiện đại vấn
đề không chỉ là quyền lực. Nó là quyền lực đặc biệt, quyền lực bao hàm trong nó
quyền thống trị đối với tư tưởng và sở hữu, nghĩa là quyền lực trở thành mục
đích tự thân.
Chế độ cộng sản Xô Viết, có lịch sử
dài nhất và phát triển nhất, đã trải qua ba giai đoạn. Chế độ cộng sản ở các
nước khác, dù ít dù nhiều, cũng đều trải qua các giai đoạn tương tự, ngoại trừ
Trung Quốc, nơi cộng sản đang ở giai đoạn hai, giai đoạn củng cố quyền lực.
Ba giai đoạn như sau: cách mạng,
giáo điều và phi giáo điều. Mỗi giai đoạn có những khẩu hiệu, nhiệm vụ và người
cầm cờ tương ứng: cướp chính quyền là Lenin; “chủ nghĩa xã hội” hay là xây dựng
hệ thống là Stalin; “pháp chế” hay là sự ổn định của hệ thống là “lãnh đạo tập
thể”.
Điều cần phải thấy là các giai đoạn
đó không có biên giới rõ ràng và mỗi giai đoạn riêng biệt lại vẫn chứa những
đặc điểm chung. Ngay trong giai đoạn của Lenin đã đầy giáo điều và bắt đầu “xây
dựng chủ nghĩa xã hội”, Stalin cũng vậy, ông ta không từ bỏ cách mạng và không
chấp nhận những giáo điều cản trở việc thành lập hệ thống.
Và hôm nay, gọi là chủ nghĩa cộng
sản phi giáo điều cũng chỉ là một cách gọi tượng trưng: giáo điều không phải là
lí do để nó từ bỏ lợi ích dù nhỏ đến đâu, mặt khác, trong khi theo đuổi lợi ích
nó sẽ không khoan nhượng đối với bất kì mối nghi ngờ nào về tính trong sáng và
chân thành của giáo lí.
Như vậy là, do nhu cầu và khả năng
của mình, chủ nghĩa cộng sản hiện nay đã tạm thời cho hạ cánh buồm cách mạng và
bành trướng quân sự xuống rồi. Cho hạ không có nghĩa là từ bỏ.
Vì vậy, việc chia làm ba giai đoạn
như trên chỉ đúng trong những biểu hiện chung nhất, chỉ có ý nghĩa khoa học
thuần tuý mà thôi. Trên thực tế, không có sự phân chia rành mạch, giữa các nước
cộng sản với nhau chúng cũng không trùng hợp về mặt thời gian.
Trong các nước cộng sản khác nhau,
sự phân cách giữa các giai đoạn, sự tương tác giữa chúng và hình thức biểu hiện
cũng không giống nhau. Thí dụ, Nam Tư đã trải qua cả ba giai đoạn nêu trên
trong một thời gian tương đối ngắn, dưới quyền lãnh đạo của vẫn một số người và
vì vậy, có ảnh hưởng đến quan điểm và nguyên tắc làm việc của những người đó.
Quyền lực đóng vai trò chủ yếu trong
cả ba giai đoạn. Đầu tiên; trong giai đoạn cách mạng, cần phải giành chính
quyền; sau đó trong giai đoạn “xây dựng chủ nghĩa cã hội”, phải dựa vào chính
quyền để thiết lập hệ thống; còn hôm nay, chính quyền phải bảo vệ hệ thống đó.
Trong thời gian đó, từ giai đoạn một
đến giai đoạn ba, bản chất cốt lõi nhất của chủ nghĩa cộng sản là quyền lực đã
trải qua quá trình tiến hoá từ phương tiện thành mục đích.
Trên thực tế, dù ít dù nhiều, quyền
lực vẫn là mục đích, nhưng các lãnh tụ cộng sản không quan niệm như vậy khi họ
tin tưởng rằng nhờ quyền lực, sử dụng quyền lực như là phương tiện, họ sẽ đạt
được mục đích “lí tưởng”. Chính vì quyền lực được coi là phương tiện để thực
hiện cái mưu toan viển vông là cải tạo thế giới, nên quyền lực nhất định phải
trở thành mục đích tự thân. Trong giai đoạn một và giai đoạn hai, nó có thể
giống như là phương tiện. Nhưng giai đoạn ba thì không thể che dấu được nữa, nó
đã là mục đích tối thượng, là bản chất của chế độ cộng sản.
Tư tưởng đã bị bạc màu, lại không
thể tuyên bố thẳng thừng về quyền sở hữu, chế độ cộng sản buộc phải bám lấy
quyền lực như là phương tiện chủ yếu, là biện pháp chính để đảm bảo quyền thống
trị đối với con người.
Trong cách mạng, cũng như trong bất
kì cuộc chiến tranh nào, tập trung toàn bộ nguồn lực vào tay chính quyền là lẽ
đương nhiên: cần phải thắng. Trong giai đoạn công nghiệp hoá việc đó cũng còn
có thể coi là tự nhiên: cần phải công nghiệp hoá, cần xây dựng “xã hội chủ
nghĩa”, biết bao nạn nhân đã được đặt lên bàn thờ của nó. Nhưng sau khi điều đó
đã được thực hiện thì mới rõ rằng quyền lực đối với cộng sản không chỉ là
phương tiện mà là mục đích chủ yếu, nếu không nói là duy nhất.
Hôm nay, đối với những người cộng
sản, những người đang cố giữ bằng được đặc quyền đặc lợi và sở hữu, thì quyền
lực vừa là phương tiện lại vừa là mục đích. Mà ở đây lại là một hình thức quyền
lực và sở hữu đặc biệt, nghĩa là dùng quyền lực để chiếm đoạt sở hữu cho nên
quyền lực vừa là mục đích tự thân vừa là bản chất của chế độ cộng sản. Các giai
cấp khác có thể giữ được sở hữu mà không cần độc chiếm quyền lực hoặc có quyền
lực mà không cần độc chiếm sở hữu. Nhưng giai cấp mới, giai cấp hình thành
trong chế độ cộng sản, thì chưa làm được như thế và có thể trong tương lai cũng
sẽ không làm được như thế.
Trong cả ba giai đoạn hình thành và
phát triển của chế độ cộng sản, quyền lực là mục đích bí ẩn, không nhìn thấy
được, không được gọi tên, tự phát, nhưng lại là mục đích chủ yếu. Quyền lực có
thể mạnh yếu khác nhau trong mỗi hình thức biểu hiện sự thống trị đối với con
người; trong giai đoạn một, tư tưởng là động lực để giành chính quyền; trong
giai đoạn hai, quyền lực đóng vai trò người sáng tạo xã hội mới, tuy không quên
tự tạo “điều kiện” cho chính mình; còn hôm nay, “sở hữu tập thể” đã nằm trọn
trong tay chính quyền, hoạt động theo nhu cầu của chính quyền.
Đối với chủ nghĩa cộng sản hiện đại,
quyền lực là tất cả, ngay cả khi nó cố tránh điều đó.
Các thứ tư tưởng, các nguyên lí
triết học và đạo đức, nhân dân và dân tộc, lịch sử của chính mình và ngay cả
một phần tài sản “của mình”, tất cả đều có thể đem đổi, có thể hi sinh. Nhưng
quyền lực thì không. Làm khác đi nghĩa là phủ nhận chính mình, phủ nhận ngay
bản chất của mình. Từng cá nhân có thể được. Nhưng cả giai cấp, cả đảng, cả
nhóm chóp bu thì không thể. Đấy chính là mục đích, là ý nghĩa sự tồn tại của
họ.
Mọi quyền lực đều vừa là phương
tiện, vừa là mục đích (đối với những người đang cố giành quyền) và nguồn gốc đặc
lợi.
Trong chế độ cộng sản, quyền lực gần
như hoàn toàn là mục đích vì nó là nguồn gốc và sự bảo đảm cho tất cả mọi đặc
lợi trên đời. Giai cấp nắm quyền nhờ nó và thông qua nó mà chiếm đoạt được tất
cả đặc lợi và quyền bá chủ đối với mọi tài sản quốc gia. Cân đong, đo đếm giá
trị của con người, cho con người được sống hay bắt phải chết đều là quyền lực
cả.
Đấy là sự khác biệt của quyền lực
trong chế độ cộng sản với mọi hình thức chính quyền khác. Cộng sản cũng khác
với mọi hệ thống khác chính vì thế.
Chính vì quyền lực là bản chất căn
bản nhất của chế độ cộng sản nên chế độ ấy nhất định phải trở thành toàn trị,
bất dung và khép kín. Giả sử chế độ ấy còn có (hay có khả năng có) những mục
đích khác thì nó buộc phải cho những lực lượng khác được tự do phát triển và
trở thành lực lượng đối lập với chính nó.
Chế độ cộng sản hiện nay có thể nằm
trong định nghĩa nào không phải là điều quan trọng. Nhưng vấn đề đó cũng phải
được đặt ra đối với bất kì người nào có ý định tìm cách giải thích nó; dù các
điều kiện cụ thể, trong đó người cộng sản ca tụng hệ thống của họ là “chủ nghĩa
xã hội”, “xã hội phi giai cấp’, “hiện thân của ước mơ ngàn đời của loài người”,
còn phía chống lại thì chỉ nhìn thấy những sự đàn áp vô nghĩa, hay những thắng
lợi “vô tình” của một nhóm những kẻ khủng bố và sự lăng mạ giống người.
Bất cứ môn khoa học nào muốn đơn
giản hoá việc mô tả cũng buộc phải sử dụng các phạm trù có sẵn.
Trong môn xã hội học có phạm trù
nào, dù là tương đối, có thể áp dụng cho chủ nghĩa cộng sản hiện đại hay không?
Cũng như nhiều tác giả, dù đứng trên
những quan điểm khác, trong những năm qua tôi đã coi chủ nghĩa cộng sản là chủ
nghĩa tư bản nhà nước, đúng hơn là chủ nghĩa tư bản nhà nước toàn trị.
Quan điểm này đã từng chiếm thế
thượng phong ở Nam Tư trong giai đoạn đối đầu với chính phủ Liên Xô. Nhưng
người ta đã nói không quá rằng cộng sản thay đổi “quan điểm khoa học” của mình
như người ta thay tất tay vậy. Các lãnh tụ cộng sản Nam Tư cũng thay đổi quan
điểm của mình (một cách bí mật và nhục nhã) sau khi đã “làm lành” với chính phủ
Liên Xô và lại tuyên bố Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa, còn việc tấn công
nước Nam Tư độc lập của chủ nghĩa đế quốc Xô Viết chỉ là một biến cố đầy “kịch
tính và khó hiểu” xuất phát từ “sự tuỳ tiện của một vài cá nhân”, như Tito từng
nói.
Chủ nghĩa cộng sản hiện đại rất
giống với chủ nghĩa tư bản nhà nước toàn trị. Nguồn gốc và những nhiệm vụ của
nó đã nói lên điều đó: cẩn phải cải tạo công nghiệp, tương tự như chủ nghĩa tư
bản đã làm, nhưng khác với chủ nghĩa tư bản, ở đây người ta sử dụng bộ máy nhà
nước để làm việc đó.
Có thể dẫn ra không ít lí lẽ (nếu
không nói là nhiều) chống lại định nghĩa đó.
Nếu nhà nước trong chế độ cộng sản
là chủ sở hữu thay mặt cho xã hội, cho dân tộc thì hình thức quyền lực chính
trị của nó phải thay đổi, vì một lí do đơn giản là xã hội đó, dân tộc đó có rất
nhiều khát vọng, hoài bão. Về bản chất, nhà nước là cơ quan liên kết và hoà hợp
xã hội chứ không chỉ là sức mạnh áp đặt lên xã hội. Thay mặt xã hội nắm tài sản
có nghĩa là thực hiện những chức năng đó của nó, hay nói cách khác, các lực
lượng và xu hướng mà nó có trách nhiệm giữ cho cân bằng sẽ thể hiện quyền lực
đối với nhà nước dưới những hình thức cực kì đa dạng. Nhà nước không thể vừa là
chủ sở hữu vừa là người cai trị được. Ở đây hoàn toàn ngược lại: nhà nước là
công cụ, nó chỉ phục vụ cho quyền lợi của một chính đảng, của một ông chủ duy
nhất hay một xu hướng duy nhất trong lĩnh vực kinh tế cũng như tất cả các lĩnh
vực khác của đời sống xã hội.
Tài sản nhà nước ở phương Tây phải
được coi là chủ nghĩa tư bản nhà nước chứ không phải là sở hữu như trong chế độ
cộng sản.
Khẳng định chủ nghĩa cộng sản là chủ
nghĩa tư bản nhà nước phát xuất từ sự “cắn rứt lương tâm” của những người thất
vọng với hệ thống cộng sản, không lí giải nổi hệ thống ấy và đem so sánh nó với
các khiếm khuyết của chủ nghĩa tư bản. Vì trong chế độ cộng sản tài sản tư nhân
không hề tồn tại, về mặt hình thức, tất cả sở hữu đều thuộc về nhà nước cho nên
mọi tội lỗi đều có thể đổ cho nhà nước cũng là hợp logic vậy. Từ đó mà có chủ
nghĩa tư bản nhà nước. Định nghĩa này cũng được những người cho rằng tư hữu
không phải là xấu, hơn nữa họ còn luôn nhấn mạnh rằng cộng sản cũng là tư bản,
nhưng tồi hơn nhiều.
Khẳng định rằng chủ nghĩa cộng sản
hiện đại là giai đoạn chuyển tiếp sang một cái gì đó chỉ là đưa vấn đề vào ngõ
cụt và làm cho mọi tìm tòi giải pháp đều trở thành bất khả.
Chủ nghĩa cộng sản hiện đại, ngay cả
khi cho rằng nó hàm chứa những đặc trưng của chủ nghĩa tư bản nhà nước đi chăng
nữa, thì nó cũng chứa nhiều đặc thù không kém và vì vậy phải coi nó là một hệ
thống xã hội đặc biệt, hoàn toàn mới.
Không thể lẫn lộn bản chất của chủ
nghĩa cộng sản hiện đại với bất kì một hệ thống nào khác. Hàm chứa nhiều đặc
điểm của chủ nghĩa phong kiến, chủ nghĩa tư bản, và ngay cả chế độ chiếm nô,
đồng thời nó vẫn là một chế độ hoàn toàn độc đáo, hoàn toàn riêng biệt, chưa
từng có.
Chủ
nghĩa cộng sản dân tộc
1.
Thống nhất về bản chất, nhưng chế độ
cộng sản lại được thực hiện bằng những biện pháp và tốc độ khác nhau trong từng
nước riêng biệt. Vì vậy, các hệ thống cộng sản riêng biệt có thể được xem như
là những hình thức khác nhau của cùng một hiện tượng.
Sự khác nhau giữa các nước cộng sản,
mà Stalin đã cố gắng loại bỏ một cách vô vọng, là hậu quả của tính đặc thù lịch
sử của từng nước.
Ngay một người quan sát hời hợt nhất
cũng nhận thấy, thí dụ, chủ nghĩa quan liêu ở Liên Xô hiện nay là sự tiếp tục
của chế độ của Sa Hoàng mà ngay Engels đã nói rằng quan chức ở đó là một “giai
tầng đặc biệt”. Có thể nói tương tự như vậy về cơ chế quyền lực ở Nam Tư nữa.
Sau khi nắm được “tay lái”, những
người cộng sản ở các nước khác nhau phải trực diện với những trình độ kĩ
thuật-văn hoá khác nhau, với những quan hệ xã hội không giống nhau, với những
đặc thù dân tộc khác nhau, chính quyền mới không thể không tính đến điều đó.
Những khác biệt này mỗi ngày lại càng sâu sắc thêm. Nhưng dù ít dù nhiều,
nguyên nhân đưa họ đến quyền lực là giống nhau, kẻ thù bên trong và bên ngoài
của họ cũng giống nhau, cho nên nói chung cộng sản không chỉ tiến hành một cuộc
đấu tranh chung mà còn theo đuổi một tư tưởng chung nữa.
Tương tự như tất cả những thứ khác
trong chủ nghĩa cộng sản, tinh thần quốc tế cộng sản, đã một thời là biểu hiện
sự tương đồng về hoàn cảnh và nhiệm vụ mà xã hội đặt ra trước những người cách
mạng, đã biến chất cùng với thời gian. Bây giờ, đây không chỉ là một “cái chảo
quyền lợi chung” của bộ máy quan liêu cộng sản quốc tế mà còn là môi trường
dung dưỡng cho những cuộc cắn xé và bất hoà của cái “tập thể” ấy trên cơ sở
quốc gia-dân tộc. Chủ nghĩa quốc tế vô sản chỉ còn là những khẩu hiệu; giờ đây
nó chỉ còn là một hố sâu che giấu những lợi ích trong quan hệ đối nội và đối
ngoại trần trụi, che đậy những kế hoạch, dự định của các nhóm cộng sản chóp bu
đương quyền mà thôi.
Bản chất của quyền lực và sở hữu, sự
tương đồng về vai trò trên trường quốc tế cũng như hệ tư tưởng, nhất định sẽ
buộc những người cộng sản phải tham khảo kinh nghiệm của nhau.
Mặc dù vậy, sẽ là sai lầm nếu không
thấy hoặc không đánh giá đúng ý nghĩa của những sự khác biệt về tốc độ và con
đường phát triển của các nước cộng sản. Sự đa dạng về đường lối, hình thức và
tốc độ của từng nước là đương nhiên. Không có chế độ cộng sản nào, dù có vẻ
giống các chế độ khác đến đâu, có thể tồn tại được nếu nó không khoác lên mình
những biểu hiện của chủ nghĩa cộng sản dân tộc. Hơn thế nữa, để có thể trụ
được, chế độ cộng sản càng ngày càng phải có hình thức dân tộc chủ nghĩa hơn,
càng phải thích nghi với thực tiễn của dân tộc hơn.
Hình thức quyền lực và sở hữu, nội
dung của tư tưởng trong các nước cộng sản khác nhau không đáng kể. Vì bản chất
thì ở đâu cũng là một: nhà nước toàn trị. Nhưng để có thể giành và giữ được
quyền lực, người cộng sản buộc phải thích ứng, nghĩa là làm cho đường lối và
tốc độ áp đặt những hình thức quyền lực và sở hữu giống nhau đó phù hợp với
điều kiện của từng dân tộc.
Sự khác nhau giữa các nước càng lộ
rõ khi những người cộng sản ở một nước nào đó, vì hoàn cảnh, đã chiếm được
quyền lực bằng những con đường “phi truyền thống” và với tốc độ khác các nước
kia. Và họ phải là những người tương đối độc lập.
Cụ thể chỉ có ba nước: Liên Xô,
Trung Quốc và Nam Tư (nơi nhiều nơi ít khác nhau), nơi những người cộng sản tự
tiến hành cách mạng, giành chính quyền và bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội
theo kiểu của mình và với tốc độ do mình định đoạt. Các nước này đã giữ được
độc lập sau khi đã trở thành cộng sản, ngay cả khi Nam Tư trước đây và Trung
Quốc hiện nay bị áp lực lớn từ phía Liên Xô. Tại phiên họp kín đại hội XX,
Chrushchev đã vén bức màn bí mật về việc ngăn chặn vụ tranh chấp giữa Stalin
với ban lãnh đạo Trung Quốc. Như vậy là, vụ đối đầu với Nam Tư không phải là vụ
duy nhất, nó chỉ là vụ đầu tiên và kịch tính nhất, trồi lên trên bề mặt trong
thời gian gần đây mà thôi.
Như ta đã biết, tất cả các nước cộng
sản khác đều là do lãnh đạo Liên Xô áp đặt bằng quân đội của mình. Vì vậy, sự
khác biệt về đường lối và tốc độ phát triển không đạt đến mức như Nam Tư và
Trung Quốc. Nhưng cùng với sự củng cố của bộ máy quan liêu đương quyền, cùng
với việc bộ máy này càng ngày càng độc lập hơn, nó sẽ càng ngày càng nhận thức
được rằng việc tuân theo, việc sao chép Liên Xô một cách mù quáng chỉ làm cho
nó thêm mất giá, nó sẽ bắt chước Nam Tư, nghĩa là phát triển độc lập hơn. Cộng
sản Đông Âu là tay sai của Liên Xô không phải là vì họ thích như thế mà vì họ
quá yếu. Cùng với việc ổn định vị thế của mình và khi điều kiện cho phép, nhất
định họ sẽ bắt đầu khao khát độc lập, sẽ bắt đầu bảo vệ “nhân dân nước mình”
khỏi bá quyền Xô Viết.
Sau thắng lợi của cách mạng cộng
sản, chính quyền đã lọt vào tay giai cấp mới. Giai cấp này không muốn hi sinh
đặc quyền đặc lợi đã giành được “bằng mồ hôi và cả máu” nhân danh tinh thần
đoàn kết vì lí tưởng chung nữa, nó cũng không chịu hi sinh quyền lợi của mình
cho quyền lợi của giai cấp gọi là “anh em” ở những nước khác nữa.
Các nước, nơi mà cách mạng cộng sản
chiến thắng chủ yếu nhờ vào nội lực, nhất định sẽ chọn đường lối phát triển
riêng và sẽ mâu thuẫn với các nước khác, nhất là với Liên Xô, nước cộng sản
mạnh nhất và cũng có thái độ đế quốc nhất. Theo quan điểm triết học thì như vậy
có nghĩa là tầng lớp quan liêu của dân tộc ấy đã nhận thức được bản chất của
mình, đã giành được chính quyền và nay đòi hỏi quyền bình đẳng.
Điều đó không chỉ có nghĩa là sự
xung đột của hai hệ thống quan liêu. Tham gia vào cuộc đụng độ này còn có cả
những nhà cách mạng của nước phụ thuộc, những người chống đối quyết liệt và
không khoan nhượng “quyền của kẻ mạnh”, những người luôn luôn cho rằng quan hệ
giữa các nước cộng sản phải là quan hệ lí tưởng như giáo lí vẫn dạy. Quần chúng
nhân dân, trong sâu thẳm của tâm hồn, vẫn là lực lượng ủng hộ độc lập, cũng
không thể đứng ngoài cuộc xung đột. Dù sao nhân dân cũng được lợi vì một mặt,
họ không phải cống nạp cho chính quyền ngoại bang, mặt khác, giảm được ách nô
dịch của chính phủ nước mình, một chính phủ không muốn và không thể sao chép
mãi các biện pháp ngoại lai nữa. Cuộc xung đột còn đánh thức cả các lực lượng
khác, ở các nước khác và phong trào khác. Nhưng bản chất của cuộc xung đột cũng
như người tham gia xung đột thì vẫn thế. Cộng sản Liên Xô cũng như cộng sản Nam
Tư đều không thay đổi bản chất của mình cả trước, trong và sau cuộc cải vã. Sự
thật là bất đồng về đường lối và tốc độ phát triển đã dẫn đến sự phủ nhận tính
chất xã hội chủ nghĩa của đối tác, nhưng cuối cùng, họ đã làm lành với nhau vì
hiểu ra rằng nếu họ không muốn làm tổn hại đến uy tín và đánh mất điều quan
trọng nhất (thực ra là một) thì phải tôn trọng sự khác biệt.
Các chính quyền cộng sản phụ thuộc ở
Đông Âu có thể và phải giành lấy độc lập từ tay Liên Xô. Ước muốn độc lập sẽ đi
xa đến đâu, cũng như mâu thuẫn sẽ biểu hiện dưới hình thức nào, là vấn đề không
ai có thể đoán trước được, điều đó phụ thuộc vào hàng loạt tác nhân cả quốc gia
và quốc tế. Nhưng bộ máy quan liêu cộng sản từng nước sẽ càng ngày càng độc lập
hơn và nắm được nhiều quyền lực hơn, đấy là một điều chắc chắn. Phong trào phản
đối Tito ở Đông Âu khi Stalin còn sống, cũng như việc công khai nói đến “xây
dựng chủ nghĩa xã hội” theo “con đường riêng”, nhất là ở Ba Lan và Hungari,
hiện nay, đã chứng minh điều đó. Chính phủ trung ương Liên Xô còn phải giải
quyết vấn đề “dân tộc chủ nghĩa” ngay với những nhà lãnh đạo do họ nặn ra
(Ukraine, Caucasia), nói gì đến các nước Đông Âu.
Một điều quan trọng nữa, Liên Xô đã
không thể và trong tương lai cũng không thể đồng hóa được nền kinh tế các nước
Đông Âu, và vì vậy ước muốn độc lập sẽ ngày càng dâng cao. Ước muốn này có thể
bị đè nén hoặc đình chỉ trong một thời gian nào đó vì áp lực từ bên ngoài hoặc
vì sự hốt hoảng của những người cộng sản trước “chủ nghĩa đế quốc” và “tư bản”
nhưng không thể bị tiêu diệt hoàn toàn được. Ngược lại, xu hướng này sẽ ngày
một tăng thêm.
Dĩ nhiên là không thể dự đoán được
quan hệ giữa các nước cộng sản sẽ phát triển theo những hình thức nào. Sự hợp
tác của những người cộng sản có thể đưa đến sự hợp nhất về tư tưởng, nhưng mâu
thuẫn của các nước cộng sản lại có thể phát triển dưới mọi hình thức, dẫn đến
mọi kiểu xung đột, kể cả chiến tranh. Không phải “chủ nghĩa xã hội” ở Nam Tư và
Liên Xô mà chính là do Stalin đã không dám liều đi nước cờ “được ăn cả ngã về
không”, mức độ lan rộng của nó không thể dự đoán trước, đã giúp tránh được cuộc
đụng độ giữa hai nước.
Quan hệ giữa các nước cộng sản phụ
thuộc vào một loạt hoàn cảnh, các sự kiện chính trị sẽ đóng vai trò chủ yếu, nhưng
quyền lợi của tầng lớp quan liêu, thể hiện khi thì dưới dạng dân tộc khi thì
dưới dạng quyền lợi chung, sẽ có vai trò không nhỏ. Tất cả những điều đó đang
diễn ra trong xu hướng giành quyền tự chủ ngày càng dâng cao, không gì cản trở
được của các nước cộng sản đàn em.
2.
Trước khi Thế chiến II kết thúc,
khái niệm chủ nghĩa cộng sản dân tộc là khái niệm vô giá trị, vì lúc đó chủ
nghĩa đế quốc Xô Viết chưa thể hiện được hết khả năng của nó không chỉ trong
quan hệ với các nước tư bản mà còn trong quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa
nữa. Khái niệm này chỉ xuất hiện khi xảy ra đụng độ giữa Nam Tư và Liên Xô.
Việc “ban lãnh đạo tập thể”
Chrushchev-Bulganin phê phán các phương pháp của Stalin có thể đã làm cho quan
hệ giữa Liên Xô và các nước cộng sản khác bớt căng thẳng, nhưng bình thường hoá
hoàn toàn thì chưa. Với Liên Xô, chúng ta không chỉ chạm trán với chủ nghĩa
cộng sản mà còn đối diện với tham vọng đế quốc của đế chế Đại-Nga-Xô nữa. Tham
vọng này có thể thay đổi hình thức và phương pháp “tác động” nhưng không thể
nào biến mất được, cũng như xu hướng độc lập của các nước cộng sản khác cũng là
xu hướng bất khả tương nhượng vậy.
Các quốc gia cộng sản khác cũng có
cùng xu hướng phát triển như vậy. Một lúc nào đó, tuỳ vào khả năng và hoàn
cảnh, các chế độ đó cũng sẽ muốn trở thành (và sẽ trở thành) các nước đế quốc
và bá quyền theo kiểu của mình.
Chính sách đối ngoại của Liên Xô đã
trải qua hai giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, mặc dù ngay cả giai đoạn tuyên truyền
cách mạng ở các nước khác cũng có thể được coi là có tính đế quốc. Tôi nghĩ
rằng không đủ cơ sở để coi giai đoạn đầu tiên, giai đoạn cách mạng trong quá
trình phát triển ở Liên Xô là mang tính đế quốc vì khi đó nước này chủ yếu là
tự vệ chứ chưa tấn công. Nhưng không nghi ngờ rằng trong chính sách của tầng
lớp chóp bu đã có xu hướng đế quốc chủ nghĩa (thí dụ, trong quan hệ với vùng
Caucasus)
Như vậy là, nếu không kể giai đoạn
thứ nhất, giai đoạn hai, bắt đầu với chiến thắng cùa Stalin, của công nghiệp
hoá và sự thống trị của giai cấp mới trong những năm 1930, chính sách đối ngoại
của Liên Xô bắt đầu mang tính đế quốc chủ nghĩa. Bước ngoặt này xảy ra ngay
trước chiến tranh, khi chính quyền Stalin đáng ra phải (và đã có điều kiện)
chuyển từ những tuyên bố yêu chuộng hoà bình và chống đế quốc thành việc làm
thực tế thì việc thay đổi lãnh đạo Bộ ngoại giao, từ một người cởi mở, khả ái
và có nguyên tắc là Litvinov bằng một người người kín đáo và vô nguyên tắc là
Molotov lại cho thấy điều ngược lại.
Không nghi ngờ gì rằng bản chất bóc
lột và chuyên chế của giai cấp mới là nguyên nhân chủ yếu của chính sách đối
ngoại mang tính đế quốc chủ nghĩa của nhà nước cộng sản. Nhưng để có thể bộc lộ
những tham vọng đế quốc của mình, giai cấp đó phải có lực lượng và những hoàn
cảnh nhất định. Lực lượng ấy đã sẵn sàng ngay trước chiến tranh. Còn chiến
tranh lại là điều kiện cho những tính toán, tham vọng đế quốc chủ nghĩa. Các
nước nhỏ bé vùng Baltic không thể nào đe doạ được an ninh của một nước khổng lồ
như Liên Xô, hơn nữa, những nước này hoàn toàn không có thái độ thù địch. Nhưng
đây lại là miếng mồi ngon cho lòng tham vô đáy của chế độ quan liêu cộng sản
đại Nga.
Tinh thần quốc tế cộng sản trước đó
đã là một phần trong chính sách đối ngoại của Liên Xô, thì nay, trong Thế chiến
II, đã xung đột với quyền lợi của bộ máy quan liêu Xô Viết. Các tổ chức của
Quốc tế III đã trở thành thừa. Ý tưởng giải tán Quốc tế cộng sản (Comintern),
theo lời Georgi Dimitrov, xuất hiện ngay sau khi chiếm đóng các nước vùng
Baltic, nhưng việc giải tán chỉ được thực hiện trong giai đoạn hai của cuộc
chiến, khi đã liên minh với các nước phương Tây.
Phòng thông tin (Cominform), bao gồm
các đảng Đông Âu, Pháp và Ý, được thành lập theo sáng kiến của Stalin nhằm bảo
đảm cho sự thống trị của Liên Xô trong các nước tay sai và duy trì ảnh hưởng
của nó ở Tây Âu. Phòng thông tin không thể nào so sánh được với Quốc tế Cộng
sản, tuy vẫn là sự áp chế tuyệt đối của Moskva, nhưng dù sao cũng có đại diện
của tất cả các đảng cộng sản. Phòng thông tin thực ra chỉ bao gồm khu vực ảnh
hưởng của Liên Xô mà thôi. Cuộc đụng độ với Nam Tư chứng tỏ rằng Phòng thông
tin chỉ làm mỗi một việc là duy trì sự lệ thuộc của các nước và các đảng cộng
sản vào chính quyền Xô Viết, sự lệ thuộc này đã giảm nhiều cùng với việc củng
cố các chế độ cộng sản dân tộc. Sau khi Stalin chết, Phòng thông tin cũng bị
giải thể. Nhằm tránh những mâu thuẫn lớn và nguy hiểm trong tương lai, người ta
đã phải công nhận quyền của cái gọi là con đuờng xây dựng chủ nghĩa xã hội
riêng của mỗi nước.
Sự thay đổi về tổ chức như thế có
thể diễn ra được là do một loạt nguyên nhân về kinh tế và chính trị.
Khi các đảng cộng sản Đông Âu chưa
đủ mạnh và chính Liên Xô cũng chưa củng cố được về mặt kinh tế, chính phủ Xô
Viết (ngay cả nếu không có sự độc đoán của Stalin) buộc phải dùng các biện pháp
hành chính để duy trì sự thống trị trong các nước Đông Âu. Chủ nghĩa đế quốc
Liên Xô đã buộc phải sử dụng các biện pháp chính trị, mà trước hết là cảnh sát
và lực lượng vũ trang, để bù đắp cho những yếu kém, trước hết là về kinh tế của
mình.
Đây chỉ là biểu hiện ở một trình độ
cao hơn của chủ nghĩa đế quốc phong kiến – quân phiệt thời Sa Hoàng, nó cũng
phù hợp với cơ cấu nội tại của Liên Xô, nơi bộ máy hành chính và cảnh sát đặt
dưới sự chỉ huy của một cá nhân duy nhất đang giữ thế thượng phong.
Chủ nghĩa Stalin chính là sự kết hợp
của nền chuyên chính cộng sản độc tài cá nhân và chủ nghĩa đế quốc quân phiệt.
Lập ra các tổ chức xã hội hữu nghị
và các tổ chức khác ở mỗi nước, sử dụng áp lực chính trị để nhập khẩu hàng hoá
từ Đông Âu theo giá thấp hơn giá cả trên thị trường quốc tế, thành lập “thị
trường xã hội chủ nghĩa”, kiểm soát tất cả chính sách của các chính phủ và các
đảng phụ thuộc, biến tình cảm tốt đẹp của những người cộng sản đối với “quê
hương của chủ nghĩa xã hội” thành sự sùng bái nhà nước Xô Viết, sùng bái Stalin
là những chính sách không thể tách rời của chủ nghĩa đế quốc Xô Viết.
Chuyện gì đã xảy ra?
Ở Liên Xô, trong nội bộ giai cấp cầm
quyền đã diễn ra sự thay đổi “thầm lặng”, Stalin đã ngăn chặn sự xuất hiện công
khai của những thay đổi này. Những thay đổi tương tự cũng đã diễn ra trong các
nước Đông Âu: bộ máy quan liêu dân tộc ở đấy, trong khi củng cố quyền lực và sở
hữu của mình, đã vấp phải những vấn đề do áp lực bá quyền của Liên Xô gây ra.
Nếu trước đây, để giành quyền lực, họ phải từ bỏ đặc thù dân tộc của mình thì
ngày nay quan điểm đó đã trở thành chướng ngại vật trên con đường tiến lên của
họ. Ngoài ra, chính phủ Liên Xô cũng không còn đủ khả năng theo đuổi chính sách
đe doạ sử dụng vũ lực và cách li vừa tốn kém vừa nguy hiểm như thời còn Stalin,
đồng thời, họ cũng không thể giữ mãi một loạt nước châu Âu trong “sân sau” của
mình trong thời buổi mà những tình cảm chống đế quốc dâng cao như hiện nay nữa.
Sau một giai đoạn lúng túng và câu
dầm, các lãnh tụ Liên Xô buộc phải công nhận rằng những lời kết án chống lại
các nhà lãnh đạo Nam Tư về việc họ là gián điệp của phát xít Đức và của Mĩ vì
họ đã bảo vệ quyền xây dựng chủ nghĩa xã hội của mình là không có cơ sở. Tito
đã trở thành nhân vật nổi tiếng của phong trào cộng sản đương đại. Nguyên tắc dân
tộc đã được công nhận về mặt hình thức. Nhưng đồng thời, Nam Tư cũng đánh mất
vai trò của lực lượng sáng tạo trong phong trào cộng sản. Cách mạng Nam Tư đã
được “thuần hoá”, bắt đầu một thời kì phát triển hoà bình và đơn điệu dưới
quyền cai trị của độc tài cộng sản. Tình thân giữa các kẻ thù cũ không trở
thành vĩnh cửu, các cuộc tranh cãi cũng chưa kết thúc. Chỉ là một giai đoạn
mới.
Đồng thời Liên Xô cũng chuyển sang
giai đoạn hai, giai đoạn sử dụng các biện pháp kinh tế và chính trị cho các
tham vọng đế quốc của mình. Ít nhất, ta có cảm tưởng như thế khi phân tích các
sự kiện hiện có trong ngày hôm nay.
Chủ nghĩa cộng sản dân tộc đã trở
thành hiện tượng phổ biến. Nơi nhiều, nơi ít, nhưng nó đã thâm nhập vào phong
trào cộng sản tất cả các nước. Liên Xô là trường hợp ngoại lệ, đấy chính là đối
tượng mà các phong trào dân tộc chĩa mũi dùi vào. Nhưng trong thời Stalin, cộng
sản Liên Xô cũng đã từng là cộng sản dân tộc. Khi đó phong trào cộng sản Nga đã
chối bỏ chủ nghĩa quốc tế, nó chỉ lợi dụng tinh thần quốc tế như là công cụ của
chính sách đối ngoại của mình mà thôi..
Chế độ cộng sản Xô Viết đã và đang
đối diện với đòi hỏi phải công nhận một thực tế mới trong phong trào cộng sản
quốc tế.
Với những thay đổi diễn ra từ bên
trong, chủ nghĩa đế quốc Xô Viết cũng buộc phải thay đổi chính sách đối ngoại.
Nó đã chuyển từ những biện pháp kiểm soát hành chính sang chính sách hợp tác
kinh tế với các nước Đông Âu, lập kế hoạch chung trong những lĩnh vực quan
trọng nhất. Các chính phủ cộng sản Đông Âu hiện nay tỏ ra tự nguyện hợp tác vì
họ biết rằng mình chưa đủ mạnh kể cả ở trong nước cũng như trên trường quốc tế.
Tình trạng này không thể kéo dài
được lâu vì chứa đựng trong lòng nó những mâu thuẫn cơ bản. Một mặt, tinh thần
dân tộc sẽ ngày càng được củng cố, và mặt khác, chủ nghĩa đế quốc Xô Viết cũng
là hiện tượng không thể nào loại bỏ được. Chính phủ Liên Xô và các chính phủ
Đông Âu, trong đó có Nam Tư, phải tìm ra được các biện pháp hợp tác, phối hợp
sức mạnh để giải quyết những vấn đề chung, quan trọng nhất, đấy là bảo vệ cho
bằng được hình thức quyền lực và sở hữu hiện nay. Đấy là lĩnh vực duy nhất có
thể hợp tác, ngoài ra thì không. Các điều kiện để hợp tác với chính phủ Liên Xô
sẽ ngày càng nhiều thêm, nhưng những điều kiện đưa đến sự độc lập của các chính
phủ Đông Âu thì còn nhiều hơn. Chính phủ Liên Xô sẽ không từ bỏ vai trò thống
trị của mình, đồng thời, chính phủ các nước đó cũng cố gắng đấu tranh để giành
cho bằng được một cái gì đó giống như sự tự chủ của Nam Tư. Mức độ tự chủ của
từng nước sẽ phụ thuộc vào tương quan lực lượng, cả trong nước và quốc tế.
Việc chính phủ Liên Xô phải “nghiến
răng” công nhận các hình thức dân tộc của phong trào cộng sản là một sự kiện
cực kì quan trọng nhưng cũng cực kì nguy hiểm cho chủ nghĩa đế quốc Xô Viết.
Điều đó đã tạo ra một sự trao đổi
tương đối tự do và như thế có nghĩa là một sự độc lập về tư tưởng. Từ nay trở
đi, ảnh hưởng của một tư tưởng “tà giáo” nào đó đối với chủ nghĩa cộng sản
không chỉ phụ thuộc vào lòng tốt của Moskva mà còn phụ thuộc vào chính sức mạnh
của “tà giáo” đó nữa. Nếu Moskva dùng mọi cách để giữ ảnh hưởng của mình trong
thế giới cộng sản trên cơ sở “tự nguyện” và một “hệ tư tưởng chung”, thì việc
ngăn chặn quá trình phân li là bất khả thi.
Chính Moskva cũng đã không còn như
xưa nữa. Độc quyền về tư tưởng và đạo đức đã không còn. Sau khi đoạn tuyệt với
Stalin, Moskva không đã còn là trung tâm tư tưởng nữa. Thời đại của những hoàng
đế cộng sản vĩ đại và những tư tưởng vĩ đại đã chấm dứt, bây giờ là thời của
những viên chức quan liêu cộng sản tầm thường.
“Ban lãnh đạo tập thể” không hề nghi
ngờ về những vấn đề và những mất mát đang chờ đợi nó, kể cả trong lẫn ngoài
nước. Phải làm sao đây? Chủ nghĩa đế quốc Stalin không chỉ quá tốn kém và nguy
hiểm, tệ hơn thế, còn không có hiệu quả. Nó không chỉ tạo ra sự bất bình trong
dân chúng mà còn ngay trong hàng ngũ của những người cộng sản, thậm trí ngay
khi tình hình quốc tế cực kì căng thẳng.
Liên Xô không còn là trung tâm tư
tưởng của phong trào cộng sản quốc tế nữa. Sự thống nhất của phong trào cộng
sản quốc tế đã bị một vết thương không gì cứu chữa được, hiện chưa có dấu hiệu
gì chứng tỏ nó sẽ hồi sinh trong một tương lai không xa.
Nhưng dù đã thay thế Stalin, “Ban
lãnh đạo tập thể” không thể thay đổi được bản chất của hệ thống ở Liên Xô; cũng
như các phong trào cộng sản dân tộc, dù đã vững mạnh lên sau khi thoát khỏi ảnh
hưởng của Moskva, cũng không thể thay đổi được bản chất nội tại của mình, đấy
là nhà nước toàn trị, độc quyền tư tưởng và bộ máy quan liêu. Thực ra nó cũng
đã hạn chế được áp lực và làm chậm lại quá trình củng cố quyền sở hữu, đặc biệt
là ở nông thôn. Nhưng chủ nghĩa cộng sản dân tộc không có ý định và không thể
trở thành một cái gì khác ngoài chủ nghĩa cộng sản. Chính vì vậy mà nó luôn
luôn và một cách vô thức quay về với Liên Xô như là “cội nguồn của mọi cội
nguồn”. Nó không thể tách số phận của mình khỏi số phận của các nước và các
phong trào cộng sản khác.
Biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc
trong phong trào cộng sản đã tạo ra nhiều nguy cơ cho chủ nghĩa đế quốc Xô Viết
giai đoạn Stalin, nhưng không phải là nguy cơ của chính phong trào cộng sản.
Ngược lại, nó có thể tăng cường sức mạnh ở những nơi đã giành được quyền lực và
như thế, trở nên hấp dẫn hơn với những con mắt nhìn vào từ bên ngoài.
Chủ nghĩa cộng sản dân tộc xuất hiện
trong giai đoạn phi giáo điều, nghĩa là giai đoạn bài Stalin của phong trào
cộng sản và cũng là đặc điểm quan trọng của giai đoạn này.
3.
Chủ nghĩa cộng sản dân tộc không có
khả năng thay đổi tình hình chính trị thế giới cả trên bình diện quan hệ giữa
các quốc gia lẫn trong nội bộ phong trào công nhân. Dĩ nhiên là nó có thể có
ảnh hưởng to lớn với cả hai tiến trình này.
Thí dụ, chủ nghĩa cộng sản dân tộc
Nam Tư đã có tác động không nhỏ trong việc xói mòn chủ nghĩa đế quốc Xô Viết và
hạ bệ chủ nghĩa Stalin trong nội bộ phong trào cộng sản quốc tế. Nguyên nhân
của những sự thay đổi đang diễn ra ở Liên Xô và các nước Đông Âu nằm ngay trong
lòng những nước đó. Nhưng những thay đổi đầu tiên theo kiểu đó đã xảy ra ở Nam
Tư. Và cũng kết thúc ở đấy trước. Chủ nghĩa cộng sản dân tộc Nam Tư, bằng cuộc
đối đầu với chủ nghĩa Stalin, đã khơi mào cho một giai đoạn mới, giai đoạn hậu
Stalin trong phong trào cộng sản quốc tế. Ảnh hưởng của nó đối với phong trào
cộng sản quốc tế là rõ ràng, đối với quan hệ quốc tế và phong trào công nhân
phi cộng sản, dĩ nhiên là ảnh hưởng của nó có yếu hơn.
Sẽ là không có cơ sở khi cho rằng
Nam Tư sẽ phát triển theo hướng dân chủ xã hội hay sẽ là chiếc cầu nối giữa dân
chủ xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Các lãnh tụ Nam Tư không phải là những người
nhất quán trong vấn đề này. Trong giai đoạn bị áp lực từ phía Liên Xô, họ tỏ ra
muốn liên kết với những người dân chủ xã hội. Nhưng sau khi đã làm hoà với
Moskva, Tito lại tuyên bố rằng Phòng thông tin cũng như Quốc tế xã hội đều là
những tổ chức không thiết thực, mặc dù trước đó không lâu Quốc tế xã hội
(Socialist International) đã kiên quyết bảo vệ Nam Tư trong khi các đại diện
của Phòng thông tin thì mở những cuộc tấn công điên cuồng vào nước này. Say sưa
với chính sách gọi là cùng tồn tại tích cực, một chính sách đáp ứng đầy đủ nhất
quyền lợi của họ trong thời điểm hiện nay, các nhà lãnh đạo Nam Tư tuyên bố
rằng Phòng thông tin và Quốc tế xã hội đã đánh mất vai trò của mình chỉ vì một
lí do đơn giản là chúng được hai khối thù địch dựng lên.
Các nhà lãnh đạo Nam Tư đã lẫn lộn
giữa ước mơ và hiện thực, giữa quyền lợi nhất thời với những dị biệt sâu xa về
xã hội và lịch sử.
Phòng thông tin là sản phẩm của
Stalin, ông ta muốn tạo ra khối quân sự Đông Âu. Cũng không nên phủ nhận mối
quan hệ của Quốc tế xã hội, hoạt động trong khuôn khổ các nước Tây Âu, với khối
NATO. Nhưng Quốc tế xã hội trước hết vẫn là tổ chức của những người xã hội chủ
nghĩa hoạt động trong lòng các nước tư bản phát triển, các nước có truyền thống
dân chủ; các tổ chức xã hội, trong đó có Quốc tế xã hội, có thể tồn tại mà
không cần NATO.
Các liên minh và khối quân sự là
những hiện tượng nhất thời, trong khi chủ nghĩa xã hội phương Tây và chủ nghĩa
cộng sản phương Đông là những xu hướng có tính ổn định và có nguồn gốc sâu xa
hơn nhiều.
Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa cộng sản và
phong trào dân chủ xã hội không chỉ vì sự khác nhau về nguyên tắc (ít lí do
nhất) mà là sự khác nhau về xu hướng phát triển của sức mạnh kinh tế và tinh
thần. Điều mà Deutscher đã gọi rất đúng là khởi đầu một sự chia rẽ vĩ đại trong
lịch sử - vụ đụng độ giữa Martov và Lenin tại Đại hội II Đảng dân chủ xã hội
Nga ở London năm 1903 về vấn để đảng tịch, đúng hơn là về mức độ tập trung hoá
và kỉ luật – đã đưa đến một loạt hậu quả mà những người khởi xướng cuộc tranh luận
ấy không thể nào mường tượng nổi. Đấy không chỉ là sự khởi đầu của hai phong
trào mà là sự khởi đầu của hai hệ thống xã hội khác nhau.
Không thể nào loại bỏ được hố sâu
ngăn cách giữa những người cộng sản và những người dân chủ xã hội nếu không
thay đổi bản chất của hai phong trào ấy, nếu không thay đổi ngay cái hoàn cảnh
đã tạo ra mâu thuẫn giữa chúng với nhau. Trong nửa thế kỉ qua, dù có một số lần
xích lại gần nhau trong những giai đoạn ngắn, sự khác biệt chỉ ngày một sâu sắc
thêm, bản chất khác nhau của mỗi bên càng lộ rõ thêm. Hôm nay, dân chủ xã hội
và chủ nghĩa cộng sản không chỉ là hai phong trào mà còn là hai thế giới.
Chủ nghĩa cộng sản dân tộc, sau khi
tách khỏi Moskva, đã không có khả năng vượt qua được hố sâu ngăn cách đó, mặc
dù đã có một vài cố gắng làm giảm nhẹ sự khác biệt. Đấy là sự hợp tác giữa ban
lãnh đạo những người cộng sản Nam Tư với những người dân chủ xã hội – nhiều
tuyên bố mà ít thực chất, vì “lịch sự” hơn là “theo tiếng gọi của con tim”. Sự
hợp tác đã không đem lại kết quả khả dĩ nào cho cả hai bên.
Sự thiếu thống nhất giữa những người
dân chủ xã hội châu Á và phương Tây lại có lí do hoàn toàn khác. Họ không có sự
khác nhau quá lớn về bản chất và nguyên tắc. Vấn đề chính ở đây là hành động.
Vì những vấn đề hoàn toàn có tính dân tộc mà những người xã hội châu Á không
thể hợp nhất với dân chủ xã hội Tây Âu được. Dù là những người phản đối chế độ
thực dân nhưng những người xã hội phương Tây vẫn là đại diện cho những nước
phát triển, dù không có thế thượng phong về chính trị ở những nước kém phát
triển kia nhưng vẫn là những nước bóc lột họ. Mâu thuẫn giữa những người dân
chủ xã hội châu Á và Phương Tây là mâu thuẫn sinh ra do sự phát triển không
đồng đều được chuyển vào phong trào. Mặc dù các mâu thuẫn đó là khá sâu sắc,
nhưng sự gần gũi của hai phong trào cũng thật rõ ràng và bằng vào những gì ta
thấy hôm nay, có thể nói rằng khả năng hợp tác là hoàn toàn có thể xảy ra trong
tương lai.
4.
Giống như Nam Tư, nếu các đảng cộng
sản ở các nước phi cộng sản theo đuổi đường lối dân tộc chủ nghĩa thì ảnh hưởng
của nó trên trường quốc tế sẽ còn lớn hơn cả ảnh hưởng của những đảng cộng sản
dân tộc chủ nghĩa đã giành được chính quyền. Trước hết, đấy là đảng cộng sản
Pháp và Ý, là những đảng tập hợp được đa số tuyệt đối giai cấp công nhân và nếu
không kể đến một vài đảng ở châu Á, thì đây là những đảng có ảnh hưởng mạnh
nhất trong thế giới phi cộng sản.
Các biểu hiện của chủ nghĩa cộng sản
dân tộc trong các đảng đó hiện chưa đạt được qui mô và sự hưởng ứng có ý nghĩa.
Nhưng các biểu hiện như vậy nhất định sẽ xảy ra và cuối cùng sẽ dẫn tới những
thay đổi cơ bản trong nội bộ những đảng đó.
Không thể coi sự xa rời của các đảng
đó khỏi ảnh hưởng của Moskva là do nhu cầu cạnh tranh với phong trào dân chủ xã
hội, một phong trào đang sử dụng các khẩu hiệu xã hội chủ nghĩa để lôi kéo về
phía mình khối quần chúng bất mãn. Càng không thể coi đấy là do sự thay đổi
đường lối một cách đột ngột của Moskva và các đảng cộng sản chấp chính khác,
tức là những thay đổi đã đặt những người cộng sản vừa kể và cả những người chưa
được kể, hiện chưa nắm chính quyền, trước sự “khủng hoảng về mặt lương tâm”,
phải lên án những điều mà vừa mới hôm qua còn được đưa lên tận chín tầng mây,
buộc phải thay đổi đường lối một cách đột ngột. Việc tuyên truyền của các đảng phái
đối lập cũng như áp lực của ban lãnh đạo xí nghiệp đối với công nhân đều không
có ảnh hưởng đáng kể đối với sự chuyển hóa của các đảng này.
Bản chất các hệ thống xã hội của nhà
nước, nơi các đảng đó hoạt động là nguyên nhân chủ yếu làm cho các đảng đó tách
khỏi Moskva. Nếu giai cấp công nhân các nước đó có thể (khả năng này rất dễ xảy
ra) giành được sự cải thiện điều kiện sống của mình bằng con đường nghị trường
và bằng cách đó, làm biến đổi cả hệ thống, thì cho dù có những truyền thống
cách mạng đến mức nào họ cũng sẽ quay lưng lại với những người cộng sản.
Chỉ một nhóm những người cộng sản
giáo điều là có thể bình thản đứng nhìn sự xa lánh của công nhân, trong khi
những nhà lãnh đạo chính trị tỉnh táo sẽ tìm mọi cách để cải thiện vị thế của
mình, dù cái giá phải trả là giảm thiểu liên hệ với Moskva.
Các cuộc bầu cử tuy có đem lại cho
các đảng cộng sản một số phiếu to lớn, nhưng điều đó không thể hiện sức mạnh
thực sự của các đảng đó, nó chỉ chứng tỏ sự bất bình của quần chúng với trật tự
hiện hành và sức cuốn hút của những ảo tưởng còn sót lại mà thôi. Những khối
quần chúng đang đi theo các lãnh tụ cộng sản sẽ dễ dàng bỏ rơi họ một khi nhận
ra rằng người cộng sản sẵn sàng hi sinh các biểu hiện dân tộc và những cơ hội
cụ thể của giai cấp công nhân vì bản chất quan liêu, vì chế độ “chuyên chính vô
sản” và các quan hệ với Moskva của họ.
Tất cả những điều vừa nói dĩ nhiên
chỉ là giả thiết.
Hiện nay các đảng đó đang rơi vào
tình trạng cực kì khó khăn. Nếu thực sự muốn theo con đường nghị trường, các
lãnh tụ của họ phải từ bỏ đường lối chống nghị trường, nghĩa là ủng hộ chủ
nghĩa cộng sản dân tộc, mà như thế - nếu tính đến vị trí của họ hiện nay – cũng
có nghĩa là sự phân liệt của các đảng này.
Khả năng thực hiện được những thay
đổi xã hội và cải thiện điều kiện sống của giai cấp công nhân bằng con đường
dân chủ sẽ ngày một tăng lên, các bước đi lắt léo của Moskva sau khi bãi bỏ tệ
sùng bái cá nhân Stalin cuối cùng sẽ dẫn tới sự tan rã của trung tâm tư tưởng,
sự cạnh tranh của những người dân chủ xã hội, xu hướng thống nhất của phương
Tây không chỉ trong lĩnh vực quân sự mà còn trên cơ sở xã hội, việc củng cố sức
mạnh quân sự của phương Tây, việc giảm khả năng “giúp đỡ anh em” của quân đội
Liên Xô, việc không thể thực hiện được những cuộc cách mạng cộng sản mới nếu
không có Thế chiến III, tất cả những điều đó đã buộc lãnh đạo các đảng này phải
quay sang sử dụng những hình thức dân tộc chủ nghĩa; nhưng nỗi sợ hãi trước hậu
quả của con đường nghị trường và sự đoạn tuyệt với Moskva lại làm họ tê liệt,
không thể hành động. Sự khác biệt ngày càng sâu sắc giữa phương Đông và phương
Tây có ảnh hưởng cực kì to lớn. Cả Togliatti và Thorez đều lúng túng. Họ đã
đứng ngoài sự vận động cả bên trong lẫn bên ngoài đảng của mình.
Khi tuyên bố tại Đại hội XX rằng
ngày nay nghị trường có thể là “hình thức quá độ” đi lên chủ nghĩa xã hội,
Chrushchev một mặt muốn tạo thuận lợi cho các đảng cộng sản trong “các nước tư
bản chủ nghĩa”, mặt khác, thúc đẩy sự hợp tác giữa những người cộng sản và dân
chủ xã hội trong việc lập ra “mặt trận nhân dân”. Trên lời nói, ông ta tin vào
phương án này, vì kết quả của những biến đổi đã dẫn đến việc củng cố chủ nghĩa
cộng sản và hoà bình trên trái đất. Nhưng trên thực tế, bằng cách đó, ông ta đã
ngầm công nhận không chỉ điều mà ai cũng rõ: cách mạng cộng sản trong các nước
phát triển là điều bất khả, mà hơn thế nữa, việc mở rộng chủ nghĩa cộng sản
trong điều kiện hiện nay là không thể thực hiện được, nguy cơ chiến tranh là
không thể tránh khỏi. Chính sách của nhà nước Xô Viết tựu trung lại là, giữ nguyên
hiện trạng, chủ nghĩa cộng sản sẽ đấu tranh giành những vị trí mới bằng những
biện pháp khác.
Đấy chính là khởi đầu của một cuộc
khủng hoảng trong các đảng cộng sản ở các nước phi cộng sản. Chuyển sang lập
trường cộng sản dân tộc thì có nguy cơ đánh mất bản chất, mà không chuyển thì
mất người ủng hộ. Để thoát khỏi mâu thuẫn này, các lãnh tụ, nghĩa là những
người đại diện cho bản chất cộng sản sẽ phải rất khéo léo. Nhưng họ cũng khó
ngăn chặn được quá trình tan rã. Họ sẽ mâu thuẫn với những xu hướng phát triển
mới cả trong nước cũng như trên trường quốc tế.
Chủ nghĩa cộng sản dân tộc trong các
nước phi cộng sản nhất định sẽ dẫn tới sự li khai với chính phong trào cộng
sản, sự tan rã của các đảng cộng sản. Cơ hội của chủ nghĩa cộng sản dân tộc
trong các nước phi cộng sản là rất lớn, nhưng chắc chắn nó sẽ dẫn đến việc li
khai với phong trào cộng sản. Kết quả là chủ nghĩa cộng sản dân tộc ở các nước
đó sẽ tích tụ được sức mạnh, qua những chặng đường đầy cam go và những vụ “bột
phát” ngắn hạn.
Khi xem xét những đảng cộng sản
không chấp chính, ta thấy rằng chủ nghĩa cộng sản dân tộc, mặc dù, với ý định
“làm mới” chủ nghĩa cộng sản “nói chung” hay với ý định củng cố nó, nhưng đồng
thời đấy lại là một một dị giáo, nó nhất định sẽ phá nát cái chủ nghĩa cộng sản
“nói chung” ấy. Chủ nghĩa cộng sản dân tộc chứa đầy mâu thuẫn nội tại. Về bản
chất, nó là cộng sản Xô Viết, nhưng về hình thức, nó lại có xu hướng tách ra,
mang màu sắc dân tộc. Trên thực tế, đấy là chủ nghĩa cộng sản trong giai đoạn
suy đồi, giai đoạn thoái trào.
Trong thế giới ngày nay
1.
Để có thể xác định được vị trí quốc tế của chủ nghĩa cộng sản đương đại phải xem xét, dù là một cách sơ lược, những sự kiện đang diễn ra trên thế giới ngày nay.
Để có thể xác định được vị trí quốc tế của chủ nghĩa cộng sản đương đại phải xem xét, dù là một cách sơ lược, những sự kiện đang diễn ra trên thế giới ngày nay.
Thế chiến I đã biến nước Nga Sa Hoàng thành một nhà nước kiểu mới, nghĩa là ở đó đã hình thành những quan hệ xã hội kiểu mới. Ngoài ra, sự cách biệt về trình độ kĩ thuật và tốc độ phát triển giữa Mĩ và Tây Âu đang ngày một rộng thêm. Sự cách biệt này, vốn là kết quả của Thế chiến II, có nguy cơ trở thành hố sâu ngăn cách không thể nào vượt qua được nếu ở Mĩ không diễn ra những thay đổi sâu sắc về cơ cấu kinh tế.
Không chỉ chiến tranh - chiến tranh chỉ là chất xúc tác - là nguyên nhân của sự cách biệt đáng kể giữa Mĩ và phần còn lại của thế giới. Nguyên nhân của sự phát triển nhanh chóng của Mĩ dĩ nhiên là do những khả năng của nước này: đấy là những điều kiện tự nhiên và xã hội cũng như đặc điểm của nền kinh tế Mĩ. Chủ nghĩa tư bản Mĩ đã phát triển trong những hoàn cảnh khác hẳn với châu Âu và đạt đỉnh cao khi những kẻ cạnh tranh châu Âu đã đi vào thoái trào.
Ngày nay, sự cách biệt được thể hiện như sau: 6% dân số thế giới sống ở Mĩ sản xuất 40% tất cả sản phẩm vật chất và dịch vụ toàn cầu. So với châu Âu, tình hình như sau: giai đoạn giữa Thế chiến I và Thế chiến II, tỉ trọng của Mĩ trong nền sản xuất thế giới chiếm 35%, sau Thế chiến II đã là 50%. Châu Âu, không tính Liên Xô, tình hình hoàn toàn ngược lại: tỉ trọng của nó giảm từ 68% năm 1870 còn 42% trong những năm từ 1925 đến 1929, sau đó giảm còn 34% vào năm 1937 và 25% vào năm 1948 (số liệu của Liên hợp quốc).
Sự phát triển nền công nghiệp ở các nước thuộc địa cũng có vai trò to lớn, chính nhờ đó mà đa số những nước này đã giành được độc lập sau Thế chiến II.
Trong giai đoạn giữa Thế chiến I và Thế chiến II, chủ nghĩa tư bản đã trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế cực kì sâu sắc, với những hậu quả xã hội rất to lớn mà chỉ có những người cộng sản giáo điều, đặc biệt là tại Liên Xô, mới không chịu công nhận mà thôi. Cuộc đại khủng hoảng năm 1929 chứng tỏ rằng nó vượt xa những cuộc khủng hoảng hồi thế kỉ XIX và những sự xáo trộn tương tự như vậy có thể đe doạ cơ cấu xã hội, thậm chí sự sống còn của cả một dân tộc. Các nước phát triển, đặc biệt là Mĩ, đã phải từng bước và bằng những con đường khác nhau, áp dụng một nền kinh tế kế hoạch hoá, ban đầu là trên bình diện quốc gia và sau Thế chiến II thì mở rộng ra bình diện quốc tế. Cùng với nó, đã diễn ra những thay đổi, tuy không được nói đến nhiều về mặt lí luận, có ý nghĩa thời đại cho các nước đó và cho toàn thế giới nữa.
Cũng trong giai đoạn này đã hình thành các hệ thống toàn trị, ở Liên Xô cũng như ở một vài nước tư bản (nước Đức quốc xã).
Khác với Mĩ, nước Đức nằm trong tình trạng bất bình thường, nghĩa là nó không có khả năng sử dụng những biện pháp kinh tế để giải quyết các vấn đề nội bộ cũng như khuyếch trương thế lực trên trường quốc tế. Chiến tranh và chế độ toàn trị (chủ nghĩa quốc xã) là lối thoát duy nhất của các tập đoàn độc quyền Đức và vì vậy, họ đã khuất phục đảng phát xít quân phiệt.
Liên Xô, như chúng ta đã thấy, áp dụng chế độ toàn trị vì những lí do khác: đấy là điều kiện cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá.
Nhưng còn một điều nữa, có thể ít được để ý, nhưng thực ra lại là bước ngoặt cho thế giới hiện đại.
Đấy chính là chiến tranh. Chiến tranh tạo ra những thay đổi to lớn ở cả những nơi mà hậu quả của nó không phải là cách mạng. Chiến tranh không chỉ gây ra những sự tàn phá khủng khiếp, nó còn làm đảo lộn trật tự thế giới và làm rối loạn quan hệ trong từng nước riêng biệt nữa.
Tính chất bước ngoặt của các cuộc chiến tranh hiện đại được thể hiện không chỉ trong việc kích thích tiến bộ kĩ thuật mà còn tạo ra những thay đổi trong cơ cấu kinh tế và xã hội nữa. Chả phải là Thế chiến II đã cho nước Anh thấy những quan hệ lỗi thời và làm cho những quan hệ này lung lay đến mức người ta phải tiến hành quốc hữu hoá trên diện rộng ư? Chả phải là Burma, Ấn Độ, Indonesia nhờ đó mà trở thành những nước độc lập ư? Sự thống nhất Âu châu chả phải là hậu quả của nó ư? Chả phải nó đã đưa Mĩ và Liên Xô thành hai lực lượng kinh tế và chính trị chủ yếu ư?
Chưa bao giờ chiến tranh lại có ảnh hưởng sâu
rộng như thế đối với đời sống của từng quốc gia nói riêng và cả nhân loại nói
chung. Có hai lí do. Thứ nhất, chiến tranh hiện đại nhất định phải là chiến
tranh tổng lực. Tất cả các nguồn nhân vật lực đều phải được động viên vì trình
độ kĩ thuật cao không cho phép bất cứ lĩnh vực nào “được ngồi chơi xơi nước”
nữa. Thứ hai, vì những lí do về kinh tế, kĩ thuật và hàng loạt lí do khác, thế
giới đã trở thành một thể thống nhất hơn bao giờ hết, bất cứ một sự thay đổi
nhỏ nào (chiến tranh tạo ra biết bao thay đổi) của một bộ phận cũng tạo ra,
giống như với một cơ thể sống, những phản ứng của các bộ phận khác. Bất cứ cuộc
chiến tranh hiện đại nào cũng đều có xu hướng trở thành chiến tranh thế
giới.
Những bước ngoặt về kinh tế và quân sự “không nhìn thấy được” đó có ý nghĩa vô cùng to lớn và diện tác động vô cùng rộng. Và điều quan trọng là những biến đổi đó đều có “tính tự phát” (khác với các cuộc cách mạng bạo lực, có tổ chức và bị điều kiện hoá về tư tưởng) cho nên nó càng cho thấy rõ xu hướng phát triển của thế giới hiện đại.
Những bước ngoặt về kinh tế và quân sự “không nhìn thấy được” đó có ý nghĩa vô cùng to lớn và diện tác động vô cùng rộng. Và điều quan trọng là những biến đổi đó đều có “tính tự phát” (khác với các cuộc cách mạng bạo lực, có tổ chức và bị điều kiện hoá về tư tưởng) cho nên nó càng cho thấy rõ xu hướng phát triển của thế giới hiện đại.
Như vậy là, thế giới ngày nay, sau Thế chiến II, đã không còn là cái thế giới như trước kia nữa.
Năng lượng nguyên tử mà con người tranh đoạt được của thiên nhiên, của vũ trụ, là một mốc son chói lọi nhưng không phải mốc son duy nhất của thời đại mới.
Vì đã nói đến năng lượng nguyên tử nên cũng phải ghi nhận rằng chính những người cộng sản đã lựa chọn nó làm biểu tượng của chế độ cộng sản cũng như máy hơi nước từng là biểu tượng và tiền đề của chủ nghĩa tư bản công nghiệp.
Nhưng dù có đánh giá cao biểu tượng đó đến đâu đi chăng nữa thì sự thật vẫn là: năng lượng nguyên tử đã tạo ra những thay đổi không chỉ trong những nước riêng biệt mà trên toàn thế giới. Nhưng những thay đổi này không đưa nhân loại về hướng chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa xã hội như các “lí thuyết gia” cộng sản kì vọng.
Năng lượng nguyên tử không phải là con đẻ của một dân tộc cụ thể nào, nó là sản phẩm của hàng trăm năm lao động miệt mài của những khối óc vĩ đại nhất của nhiều dân tộc. Việc áp dụng nó cũng là kết quả của những cố gắng của một loạt nước, cố gắng không chỉ trong lĩnh vực khoa học mà của cả lĩnh vực kinh tế nữa. Thiếu sự thống nhất trên toàn thế giới thì việc sử dụng năng lượng hạt nhân đã không thể xảy ra được.
Năng lượng nguyên tử trong tương lai cũng sẽ được sử dụng cho mục đích làm cho thế giới trở thành ngày một thống nhất hơn. Trên đường đi của mình, nhất định nó sẽ phá vỡ những rào cản mà nhân loại đã thừa kế được từ quá khứ, đấy có thể là quan hệ sở hữu, quan hệ xã hội, nhưng trước hết là những hệ thống và hệ tư tưởng khép kín, thí dụ như chủ nghĩa cộng sản trước cũng như sau khi Stalin chết.
2.
Xu hướng hợp nhất quốc tế là đặc điểm chủ yếu, đặc điểm nổi bật trong thời đại của chúng ta.
Nhưng điều đó không có nghĩa là trước đây thế giới không có xu hướng hợp nhất, dĩ nhiên là hợp nhất bằng những phương pháp khác.
Xu hướng thiết lập các mối liên hệ quốc tế thông qua thị trường thế giới đã giành thế thượng phong ngay từ giữa thế kỉ XIX. Đấy đã là sự hợp nhất quốc tế trong thời đại các nền kinh tế tư sản dân tộc và các cuộc chiến tranh dân tộc chủ nghĩa. Sự hợp nhất quốc tế như vậy là đã được thực hiện thông qua các nền kinh tế quốc gia và các cuộc chiến tranh giữa các dân tộc.
Quá trình hợp nhất quốc tế tiếp tục được thiết lập bằng cách phá vỡ những hình thức sản xuất tiền tư bản trong những vùng chưa phát triển và sự phân chia những khu vực này giữa các nước đã phát triển. Đấy là giai đoạn của chủ nghĩa tư bản độc quyền và chiến tranh xâm lược thuộc địa, trong đó mối liên hệ và quyền lợi của các tập đoàn thường đóng vai trò chính, nhiều khi còn lớn hơn cả nhu cầu quốc phòng của đất nước. Khi đó xu hướng hợp nhất quốc tế được thể hiện chủ yếu thông qua cuộc đấu tranh và thống nhất của tư bản độc quyền. Đấy là hình thức hợp nhất cao hơn sự hợp nhất thông qua thị trường. Tư bản đã vượt ra khỏi quốc gia, trụ vững và làm chủ toàn thể thế giới.
Xu hướng hợp nhất ngày hôm nay hoàn toàn khác hẳn. Sự tiến lên liên tục theo hướng đó đòi hỏi trình độ phát triển cao, nền khoa học hiện đại, phương pháp tư duy khoa học. Hợp nhất không thể tiếp tục tiến lên trên cơ sở dân tộc (càng không thể chỉ dựa vào cơ sở dân tộc) hay bằng cách chia thế giới thành những vùng ảnh hưởng độc quyền được nữa.
Xu hướng hợp nhất mới (hợp nhất về sản xuất) đặt cơ sở trên mức độ hợp nhất đã có trước đây, nghĩa là hợp nhất về thị trường và tư bản, lại vấp phải những hình thức quan hệ không phù hợp, lỗi thời; đấy là quan hệ trong từng quốc gia, giữa các quốc gia và trước hết là quan hệ xã hội. Nếu trước đây hợp nhất đạt được thông qua những cuộc đấu tranh dân tộc (va chạm và chiến tranh) thì ngày nay hợp nhất chỉ có thể đạt được thông qua việc loại bỏ những quan hệ xã hội đã lỗi thời.
Sự phối hợp và hợp tác trong sản xuất trên bình diện quốc tế sẽ được thực hiện bằng con đường nào, chiến tranh hay hoà bình, không ai có thể nói trước được, nhưng xu hướng là không thể đảo ngược và cũng không có gì phải nghi ngờ.
Con đường thứ nhất: chiến tranh. Sự hợp nhất được thực hiện bằng vũ lực, nghĩa là bằng sự thống trị của một nhóm nào đó. Nhưng “di sản” là không thể tránh khỏi - ngọn lửa chiến tranh, bất hoà và bất công tiếp tục âm ỉ. Hợp nhất bằng chiến tranh là hợp nhất với cái gía là sự hi sinh của những kẻ yếu, những kẻ chiến bại. Ngay cả trong trường hợp chiến tranh có “giải quyết” được những quan hệ cụ thể thì di sản của nó vẫn là một loạt mâu thuẫn và hố sâu chia rẽ.
Ngoài ra, vì nhiên liệu chủ yếu của ngọn lửa chiến tranh hiện là mâu thuẫn giữa hai hệ thống, cho nên nó sẽ mang đặc trưng giai cấp chứ không phải dân tộc hay quốc gia như trước nữa. Chiến tranh vì vậy sẽ cực kì mãnh liệt và tàn khốc. Cuộc chiến tranh tương lai sẽ là chiến tranh thế giới hoặc nội chiến chứ không còn là chiến tranh giữa các dân tộc và quốc gia. Chính vì thế mà chiến tranh sẽ khủng khiếp hơn và ảnh hưởng của nó với công cuộc phát triển hoà bình sau này cũng lớn hơn.
Hợp nhất bằng biện pháp hoà bình sẽ diễn ra chậm hơn nhưng là biện pháp bền vững, là biện pháp hợp lí và công bằng duy nhất có thể chấp nhận được.
Cứ theo những gì đang diễn ra hiện nay, ta có thể cho rằng sự hợp nhất sẽ tính đến những mâu thuẫn của hai hệ thống, ngược với mâu thuẫn đặc trưng (dân tộc) cho những quá trình tương tự, đã diễn ra trong thời gian qua.
Nhưng điều đó không có nghĩa là những mâu thuẫn hiện nay chỉ giới hạn trong sự đối đầu giữa hai hệ thống. Đang tồn tại và sẽ tiếp tục tồn tại những mâu thuẫn khác, kể cả những mâu thuẫn có nguồn gốc từ quá khứ. Xu hướng hợp nhất nền sản xuất toàn cầu phản ánh một cách rõ ràng và toàn diện nhất trên tấm gương của sự đối đầu giữa hai hệ thống.
Đồng thời, sẽ là không thực tế khi cho rằng sự hợp nhất nền sản xuất toàn cầu sẽ được thực hiện trong tương lai gần. Quá trình hợp nhất sẽ kéo dài (vì là kết quả của hoạt động một cách kiên trì, có sự phối hợp và tổ chức tốt của các lực lượng sản xuất và các lực lượng khác của toàn thể nhân loại) và sự hợp nhất hoàn toàn cũng là điều bất khả thi. Những cố gắng hợp nhất trong quá khứ chưa từng đạt được kết quả hoàn hảo. Sự hợp nhất hiện nay cũng chỉ là một xu hướng, một cái đích mà sản xuất (của các nước phát triển nhất) cố gắng vươn tới mà thôi.
3.
Cuối Thế chiến II, xu hướng phân li trên cơ sở hệ thống này hay hệ thống kia đã được khẳng định trên phạm vi toàn cầu. Những quốc gia rơi vào vòng ảnh hưởng của Liên Xô, dù đấy chỉ là một phần dân tộc (Đức, Triều Tiên), đã có những nét tương đồng của một hệ thống. Tình hình tương tự cũng diễn ra ở phía bên kia.
Các nhà lãnh đạo Liên Xô hiểu rõ như thế. Tôi còn nhớ trong một bữa ăn tối vào năm 1945, Stalin đã nói như vô tình: “Không như thời xưa, người chiến thắng trong cuộc chiến tranh hiện đại sẽ áp đặt hệ thống của mình”. Điều đó được tuyên bố khi tiếng súng chiến tranh còn chưa chấm dứt, khi dường như mối thiện cảm và sự tin cậy giữa các đồng minh đang rất cao, hi vọng do những tình cảm ấy mang lại tưởng như vô bờ bến. Còn vào tháng 2 năm 1948, ông ta đã tuyên bố với những người Bulgaria và người Nam Tư chúng tôi như sau: “Họ, phương Tây sẽ thành lập nhà nước trên phần Tây Đức, còn chúng ta sẽ thành lập nhà nước trên phần Đông Đức. Chuyện đó là không thể tránh được.”
Bây giờ người ta hay chia - không phải là không có cơ sở - chính sách của Liên Xô thành “tiền” và “hậu” Stalin. Nhưng không phải một mình Stalin phát minh ra hệ thống, còn những người kế vị ông ta cũng bám vào hệ thống chặt không khác gì thời còn Stalin. Sự khác biệt của thời hậu Stalin chỉ là cách tiếp cận của các lãnh tụ Liên Xô đối với quan hệ giữa hai hệ thống, chứ không động tới các hệ thống. Chả phải là chính Khrushchev, tại đại hội XX, đã khẳng định tính chất đặc biệt, riêng rẽ của “thế giới xã hội chủ nghĩa”, “hệ thống xã hội chủ nghĩa” đấy ư? Trên thực tế, điều đó chỉ có nghĩa là ý định ngoan cố trong việc chia thế giới thành những hệ thống, giữ nguyên tính khép kín của hệ thống của mình nhằm bảo vệ độc quyền lãnh đạo ở bên trong.
Cuộc xung đột Đông - Tây được khoác cho hình thức đấu tranh tư tưởng vì thực chất nó là cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống. Cuộc chiến tranh tư tưởng, đã đầu độc tâm hồn dân chúng của cả hai phe đối địch, không chấm dứt ngay cả khi hai bên đạt được những nhượng bộ tạm thời. Hơn thế nữa, khi cuộc đụng độ về kinh tế, về chính trị và các mặt khác càng khốc liệt thì người ta lại càng có cảm giác như đấy chính cuộc đấu tranh tư tưởng “đơn thuần”. Trên thực tế, tư tưởng đã trở thành lực lượng trừu tượng, đã là một thế giới đặc biệt, đã là vật tự thân từ lâu.
Cũng còn một kiểu nhà nước nữa, đấy là các nước đã giành được độc lập từ tay chủ nghĩa thực dân (Burma, Ấn Độ, Indonesia, các nước A Rập...). Những nước này đã thực hiện mọi biện pháp nhằm xây dựng một nền kinh tế tự chủ với hi vọng sẽ tạo cho họ nền độc lập thật sự. Tại đó, cùng lúc đang hiện diện nhiều thời đại và hệ thống đan xen vào nhau, mà trước hết là hai hệ thống đương thời.
Vì nhiều lí do, mà chủ yếu là các lí do mang tính dân tộc, những nước này chính là đại diện chân thành của tư tưởng độc lập, hoà bình và hiểu biết lẫn nhau. Không đủ sức loại bỏ cuộc xung đột giữa hai hệ thống, họ chỉ có thể làm cho nó bớt căng thẳng phần nào mà thôi: chính những nước này đang là vũ đài tranh chấp của hai hệ thống. Nhưng vai trò của họ có thể gia tăng. Đáng tiếc là hiện nay các nước này chưa có vai trò quyết định.
Cần phải thấy rằng mỗi hệ thống đều cho rằng sự hợp nhất thế giới phải được thực hiện theo hình mẫu của mình. Hai hệ thống đều nói “có” đối với hợp nhất, nhưng lại có quan điểm hoàn toàn trái ngược về hình thức. Xu hướng hợp nhất thế giới ngày nay đã có hình thù cụ thể và sẽ được thực hiện thông qua cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập, một cuộc đấu tranh nóng bỏng chưa từng có trong điều kiện hoà bình.
Như ta đã biết, biểu hiện về mặt chính trị và tư tưởng của cuộc đấu tranh đó là (phương Tây) dân chủ và (phương Đông) cộng sản.
Nhưng tại phương Tây, với nền chính trị dân chủ, trình độ văn hoá và khoa học kĩ thuật cao hơn nên các xu hướng hợp nhất tự phát cũng biểu hiện rõ ràng hơn, chính phương Tây đang thể hiện như lực lượng bảo vệ tự do, tự do chính trị và tự do tư tưởng.
Hình thức sở hữu ở các nước đó có thể làm chậm lại hay thắt chặt xu hướng này, tất cả phụ thuộc vào hoàn cảnh. Nhưng xu hướng hợp nhất đã và đang hiện diện khắp nơi. Các công ty độc quyền chỉ là trở ngại không đáng kể đối với quá trình hợp nhất: họ thực hiện hợp nhất bằng biện pháp lỗi thời – thông qua khu vực ảnh hưởng. Vì quyền lợi của mình, họ cũng có xu hướng hợp nhất. Đảng lao động Anh, kẻ thù của các công ty độc quyền, cũng là những người ủng hộ hợp nhất, tất nhiên hợp nhất theo cách của họ. Ở Mĩ, ngay cả nếu nền kinh tế có bị quốc hữu hoá, xu hướng hợp nhất còn biểu hiện rõ ràng hơn. Xu hướng hợp nhất thể hiện rõ không chỉ ở Mĩ mà còn ở Anh, một nước đang tiến hành quốc hữu hoá. Nhưng ngay ở Mĩ quá trình quốc hữu hoá cũng đang được thực hiện, tuy không phải bằng cách thay đổi hình thức sở hữu mà bằng cách chuyển vào tay nhà nước phần lớn thu nhập quốc dân.
4.
Xã hội nói chung và từng thành viên của nó đều cố gắng mở rộng và hoàn thiện quá trình sản xuất. Đấy là qui luật. Trong giai đoạn phát triển hiện nay của khoa học, kĩ thuật và tư duy, qui luật này tác động dưới dạng xu hướng hợp nhất nền sản xuất thế giới. Xu hướng này, nói chung, mạnh hơn ở những nơi có trình độ văn hoá và trình độ sản xuất vật chất cao hơn.
Ở phương Tây, xu hướng hợp nhất thể hiện trước hết nhu cầu của kinh tế, kĩ thuật, và những nhu cầu khác; chỉ sau đó mới đến quyền lợi của các lực lượng chính trị, các chủ sở hữu và các lực lượng khác.
Phe Liên Xô tình hình lại hoàn toàn khác. Dù không có các lí do khác, phương Đông cộng sản vẫn phải (chính vì sự lạc hậu) co cụm lại, khép kín lại về mặt kinh tế và tư tưởng, lấy các biện pháp chính trị bù đắp cho sự yếu kém về mọi mặt, trong đó có các yếu kém về kinh tế.
Người ta có thể ngạc nhiên, nhưng sự thật là: cái gọi là sở hữu xã hội chủ nghĩa là trở ngại chủ yếu đối với xu hướng hợp nhất thế giới. Tập thể về mặt hình thức, toàn trị về mặt nội dung, sở hữu mà giai cấp mới đang nắm giữ đã tạo ra một hệ thống kinh tế và chính trị khép kín, ngăn cản việc thiết lập các mối liên kết quốc tế. Hệ thống này có thể sẽ biến đổi một cách cực kì chậm chạp và thật lâu; trên thực tế, nó không hề biểu hiện một sự quan tâm nào đến việc thâm nhập, hội nhập với những hệ thống khác, nghĩa là nó không hề quan tâm đến việc hợp nhất thế giới. Sự biến đổi diễn ra bên trong nó chỉ có mục đích duy nhất là tự củng cố. Đối với hệ thống này, một hệ thống khép kín về bản chất, hợp nhất với thế giới đồng nghĩa với tan rã. Hệ thống với một hình thức sở hữu, quyền lực và tư tưởng duy nhất nhất định phải là hệ thống khép kín, nó sẽ giữ mãi hướng đi độc đáo của mình.
Các lãnh tụ Liên Xô không thể nào tưởng tượng được một thế giới hợp nhất khác với thế giới của chính họ. Thế giới thuộc về họ. Cùng tồn tại hoà bình giữa những hệ thống khác nhau, mà họ thường nói, đối với họ không có nghĩa là hội nhập mà chỉ có nghĩa là sự tồn tại tĩnh của một hệ thống này bên cạnh hệ thống kia cho đến khi hệ thống tư bản bị chinh phục hoặc tự cắn nát mình từ bên trong.
Như đã nói bên trên, sự đối đầu giữa hai hệ thống không có nghĩa là các cuộc xung đột giữa các dân tộc hay chiến tranh giải phóng dân tộc đã chấm dứt. Nhưng những cuộc xung đột này cũng biểu hiện rõ tính chất chủ yếu của thế giới ngày nay: mâu thuẫn của hai hệ thống. Cuộc khủng hoảng kênh đào Suez suýt nữa đã biến thành vụ đụng độ giữa hai hệ thống, đây chính là sự tranh chấp giữa chủ nghĩa dân tộc và nền thương mại thế giới do những lực lượng thực dân cũ là Anh và Pháp đại diện.
Sự căng thẳng trong đời sống quốc tế là kết quả không thể tránh khỏi của những mối quan hệ kiểu đó. Chiến tranh lạnh là tình trạng bình thường của thế giới ngày nay. Hình thức của nó có thể luôn luôn biến đổi, có thể nóng lên hay dịu đi, nhưng trong tình hình hiện nay thì không thể loại bỏ hoàn toàn được. Muốn loại bỏ nó, trước hết phải loại bỏ nguyên nhân sâu xa hơn, nguyên nhân nằm trong bản chất của thế giới hiện đại, ở bản chất của các hệ thống mà trước hết là hệ thống cộng sản. Chiến tranh lạnh là nguyên nhân của sự căng thẳng trong quan hệ giữa hai hệ thống, nhưng chính nó lại là sản phẩm của những mâu thuẫn sinh ra từ trong quá khứ.
Thế giới mà chúng ta đang sống là thế giới không thể dự đoán được. Đây là thế giới với những chân trời khoa học rộng mở, đang vẫy gọi con người; nhưng nó cũng làm lạnh sống lưng khi nghĩ đến những thảm hoạ toàn cầu mà phương tiện chiến tranh hiện đại có thể gây ra.
Thế giới này nhất định phải thay đổi. Nó không thể tồn tại, hay ít nhất không thể tồn tại lâu trong tình trạng lưỡng lự, nửa muốn phân li nửa muốn hợp nhất như hiện nay. Quan hệ quốc tế, sau khi thoát khỏi tình trạng rắc rối hiện nay, sẽ không phải là những quan hệ lí tưởng và cũng không tránh khỏi va chạm. Nhưng đấy sẽ là những quan hệ khác hẳn hiện nay.
Tình trạng đối đầu giữa hai hệ thống đồng thời lại chứng tỏ rằng loài người đang tiến đến một hệ thống duy nhất. Tình trạng đối đầu hiện nay cũng chứng tỏ rằng việc hợp nhất thế giới, đúng hơn là sự hợp nhất của nền sản xuất quốc tế sẽ diễn ra thông qua cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống.
Xu hướng hợp nhất nền sản xuất quốc tế không dẫn tới và không thể dẫn tới một hình thức sản xuất duy nhất, nghĩa là không dẫn tới một hình thức sở hữu, quyền lực,..v.v…duy nhất. Sự thống nhất này có nghĩa và chỉ có nghĩa là ước mơ vượt qua những trở ngại do quá khứ để lại hoặc do người ta cố tình tạo ra (về chính trị, do các hình thức sở hữu..v.v…), ngăn cản sự mở rộng và nâng cao hiệu quả của nền sản xuất hiện đại. Nó có nghĩa là sự thích nghi đầy đủ của nền sản xuất với những điều kiện của tự nhiên, dân tộc và địa phương. Xu hướng hợp nhất thực sự thúc đẩy sự đa dạng hoá phương pháp sản xuất, sự phối hợp chặt chẽ và sử dụng hiệu quả tất cả những khả năng của nền sản xuất quốc tế.
May là không có hệ thống duy nhất nào thống lĩnh được thế giới[2]. Ngược lại, không may là có quá ít hệ thống khác nhau. Không may nhất là các hệ thống này, dù kiểu gì đi nữa, cũng đều là những hệ thống khép kín, tách rời nhau.
Sự khác nhau ngày càng sâu sắc giữa các hội đoàn, các quốc gia, các hệ thống chính trị cùng với sự nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất là một trong những qui luật phát triển của xã hội. Các dân tộc sẽ hợp nhất, con người sẽ càng ngày càng hoà nhập với thế giới xung quanh nhưng đồng thời càng ngày càng có cá tính hơn, cá tính hoá hơn.
Thế giới sẽ trở thành đa dạng hơn nhưng cũng thống nhất hơn. Sự hợp nhất trong tương lai chỉ có thể xảy ra nhờ sự đa dạng chứ không phải sự đơn điệu và đồng nhất. Dù sao mặc lòng, cho đến nay mọi sự đã là như thế. Đơn điệu và đồng nhất chỉ có nghĩa là nô dịch và thoái hoá, có nghĩa là ít tự do hơn.
Một dân tộc không nhận thức được các quá trình và xu hướng đó sẽ phải trả giá đắt: đấy sẽ là dân tộc lạc hậu, dù sức mạnh quân sự có như thế nào và dân số có đông đến đâu, nó vẫn buộc phải hội nhập. Không ai hay nước nào có thể tránh được điều đó, cũng như trước đây đã không có nước nào cản trở được sự thâm nhập của tư bản và sự xác lập mối liên hệ với các dân tộc khác thông qua thị trường quốc tế.
Vì vậy, bất kì nền kinh tế nào có xu hướng tự cô lập theo kiểu tự cấp tự túc (dù với bất kì hình thức sở hữu, chế độ chính trị và ngay cả trình độ kĩ thuật nào đi nữa) cũng sẽ phải đối diện với những mâu thuẫn không thể nào giải quyết được và sẽ bị thoái hoá. Điều đó cũng đúng cho cả các hệ thống xã hội, các hệ tư tưởng v.v... Ngày nay, trong một hệ thống khép kín, người ta chỉ có thể kéo lê cuộc đời, chứ không thể có bất kì tiến bộ nào và không thể giải quyết một cách rốt ráo những vấn đề do kĩ nghệ và tư duy hiện đại đặt ra, không giải quyết được những vấn đề do nhu cầu của các quan hệ bên trong cũng như bên ngoài hệ thống đặt ra cho con người.
Đồng thời, cùng với tiến trình phát triển của thế giới, ta lại có thể nhận ra rằng lí luận của cộng sản (Stalin) về khả năng xây dựng chủ nghĩa xã hội (cộng sản) trong một nước chỉ chứng tỏ đấy là phương pháp củng cố chế độ độc tài toàn trị, nghĩa là sự thống trị tuyệt đối của giai cấp mới, giai cấp bóc lột duy nhất mà thôi. Trong tình hình thế giới hiện nay, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản hay bất kì kiểu xã hội nào khác trong một nước hay một nhóm nước tách biệt khỏi toàn bộ cộng đồng thế giới nói chung là điều vô nghĩa, nhất định sẽ dẫn đến một nền kinh tế tự cấp tự túc, sẽ dẫn đến sự tự cô lập, dẫn đến chế độ chuyên chế và sự suy giảm khả năng phát triển về kinh tế và xã hội của chính những nước đó. Nhưng vẫn còn một khả năng khác: đấy là đảm bảo cho nhân dân nước mình (phù hợp và trong mối liên hệ với xu hướng tiến bộ về kinh tế và dân chủ trên thế giới) nhiều bánh mì hơn, nhiều tự do hơn, phân phối phúc lợi một cách công bằng hơn và với một tốc độ phát triển kinh tế bình thường. Nhưng phải với điều kiện là có những thay đổi trong quan hệ sở hữu cũng như các quan hệ về chính trị của chế độ cộng sản vốn là những trở ngại (trở ngại nghiêm trọng), tuy không phải là duy nhất trên con đường dẫn đến tiến bộ của từng quốc gia cũng như của toàn thế giới.
5.
Xu hướng hợp nhất, cùng với những lí do khác, sẽ có ảnh hưởng đối với sự
thay đổi trong quan hệ sở hữu.
Nói một cách ngắn gọn, vai trò của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế sẽ ngày
một gia tăng.
Vai trò quyết định và ngày một nâng cao của các cơ quan nhà nước trong lĩnh
vực kinh tế, dẫn đến việc nâng cao vai trò của nhà nước trong lĩnh vực quan hệ
sở hữu cũng phản ánh xu hướng hợp nhất quốc tế. Dĩ nhiên là xu hướng này có
biểu hiện khác nhau trong những nước và những hệ thống khác nhau, có thể là lực
cản của quá trình hội nhập: thí dụ, ở những nơi (trong các nước cộng sản) mà sở
hữu nhà nước chỉ là hình thức, chỉ là bức màn che đậy sự độc quyền toàn trị và
sự thống trị của một giai cấp.
Ở Anh, sau khi Đảng Lao động tiến hành quốc hữu hoá, tài sản tư nhân, đúng
hơn là tư nhân độc quyền, đã không còn tính thiêng liêng và trong sạch pháp lí
nữa. Người ta đã quốc hữu hoá hơn 20% năng lực sản xuất của nước Anh, đấy là
chưa kể tài sản khá lớn của các công xã. Trong các nước Bắc Âu, bên cạnh sở hữu
nhà nước còn có hình thức sở hữu tập thể của các hợp tác xã[3].
Vai trò to lớn của nhà nước trong đời sống kinh tế thể hiện rõ trong những
nước thuộc địa và nửa thuộc địa trước đây, dù đấy có là chính phủ xã hội chủ
nghĩa như Burma, chính phủ theo đường lối dân chủ như Ấn Độ hay độc tài quân sự
như Ai Cập, ở đâu nhà nước cũng là nhà đầu tư lớn nhất, cũng kiểm soát xuất
khẩu và thu vào ngân sách khoản ngoại tệ ngày càng lớn,..v.v… Khắp mọi nơi, nhà
nước đều là người đưa ra các sáng kiến trong cải cách kinh tế và quốc hữu hoá,
quốc doanh đang là hình thức sở hữu ngày càng lớn.
Tình hình tương tự có vẻ như cũng đang diễn ra cả ở Mĩ, nước tư bản nhất
trong các nước tư bản. Bắt đầu từ cuộc Đại khủng hoảng năm 1929, mọi người đều
nhận thức được vai trò ngày càng tăng của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế và
không còn ai phản đối vai trò tự nhiên đó của nó nữa.
James Blaine Walker, trong tác phẩm The
Epic of American Industry[4], từng nhấn mạnh rằng: “Mối liên hệ của nhà
nước với đời sống kinh tế là một trong những đặc điểm nổi bật của thế kỉ XX.”
Walker dẫn số liệu như sau: năm 1938 khoảng 20% ngân sách lấy từ xí nghiệp
quốc doanh, năm 1940 con số này đã nâng lên 25%. Từ khi Roosevelt lên cầm
quyền, người ta đã tiến hành kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân một cách có hệ
thống. Số lượng các viên chức nhà nước, chức năng của chính phủ, đặc biệt là
chính phủ liên bang cũng tăng lên không ngừng.
Johnson và Cross, trong tác phẩm The
Origin and Development of the American Economy[5] cũng đưa ra các số liệu
tương tự. Họ cũng xác nhận rằng quản lí đã tách khỏi sở hữu và vai trò của nhà
nước như người chủ nợ đã tăng lên đáng kể.
Hai ông viết như sau: “Một trong những đặc trưng cơ bản của thế kỉ XX là sự
tăng cường liên tục ảnh hưởng của chính phủ, đặc biệt là chính phủ liên bang
đối với các hoạt động kinh tế”.
Trong tác phẩm The American Way[6],
Shepard B. Clough còn dẫn những số liệu về chi tiêu và nợ nần của chính phủ
liên bang chứng tỏ xu hướng đó như sau:
Giai đoạn
|
Chi tiêu của chính phủ Liên bang (triệu $)
|
Nợ chính phủ liên bang (ngàn $)
|
1869-1878
|
309,6
|
243.645
|
1929-1938
|
8.998,1
|
42.967.531
|
1950
|
40.166,8
|
256.708.000
|
Clough, trong tác phẩm đã dẫn, còn nói đến cuộc cách mạng quản lí
(managerial revolution), được hiểu như là sự xuất hiện của các nhà quản trị
chuyên nghiệp, các chủ sở hữu sẽ không thể quản lí nổi doanh nghiệp nếu thiếu
họ. Số lượng, vai trò và sự đoàn kết của các nhà quản lí này sẽ ngày càng tăng,
các chủ doanh nghiệp có khả năng quản lí như John Rockefeller, John Wanamaker,
Charles Shwab,..v.v... sẽ không thể xuất hiện được nữa.
Faneson và Gordon, trong tác phẩm Government
and the American Economy[7], cho
rằng, trước đây quyền lực đã là một tác nhân to lớn đối với nền kinh tế, các
nhóm xã hội khác nhau đã lợi dụng quyền lực để gây ảnh hưởng đối với đời sống
kinh tế. Nhưng hiện nay, sự khác biệt là rõ ràng, hai tác giả này cho rằng vai
trò điều tiết của nhà nước thể hiện không chỉ trong lĩnh vực lao động mà cả
trong lĩnh vực sản xuất, thí dụ, trong những lĩnh vực quan trọng đối với quốc
gia như vận tải, khai thác dầu khí, khai thác than. “Những biến chuyển mới và
có hậu quả sâu xa thể hiện rõ nhất trong việc mở rộng các doanh nghiệp nhà
nước, việc bảo vệ nguồn nhân lực cũng như vật lực. Doanh nghiệp nhà nước có vai
trò quan trọng trong các lĩnh vực như ngân hàng, tín dụng, điện lực và cung cấp
các căn hộ rẻ tiền.” Họ nhận xét rằng, vai trò của nhà nước đã được nâng cao
hơn rất nhiều so với nửa thế kỉ, thậm chí mười năm trước đây. “Kết quả là đã
xuất hiện “nền kinh tế hỗn hợp”, trong đó, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp
một phần vốn nhà nước và doanh nghiệp tư nhân cùng tồn tại bên nhau”.
Các tác giả nêu trên và nhiều tác giả khác đã đưa ra các đặc trưng cơ bản
của quá trình này như sau: nhu cầu được đảm bảo về mặt xã hội, về học vấn được
thực hiện thông qua các cơ quan nhà nước ngày một tăng; số lượng viên chức nhà
nước cũng ngày càng tăng,..v.v..
Trong Thế chiến II, vì nhu cầu quân sự mà quá trình này đã đạt đến qui mô
chưa từng có. Nhưng sau chiến tranh, nó không những không giảm mà còn diễn ra
với tốc độ cao hơn thời tiền chiến nữa. Không chỉ chính phủ dân chủ mà ngay
chính phủ cộng hoà của Eisenhower - được bầu năm 1952 - một chính phủ giành
được quyền lực dưới ngọn cờ trả lại sáng kiến cá nhân, cũng không làm thay đổi
được tình hình một cách đáng kể. Chính phủ bảo thủ ở Anh cũng gặp tình hình
tương tự. Mặc dù chính phủ này không tiến hành tư hữu hoá, trừ ngành sản xuất
thép, vai trò của nó trong lĩnh vực kinh tế nếu không tăng lên thì cũng không
giảm đi so với chính phủ của Đảng lao động.
Sự can thiệp của chính phủ vào lĩnh vực kinh tế là kết quả tất yếu của các
xu hướng đã ăn sâu vào nhận thức của dân chúng. Tất cả các nhà kinh tế học, kể
từ Keyenes, đều thống nhất với nhau luận điểm về sự cần thiết phải can thiệp
như thế. Ngày nay, đấy đã là một thực tế mang tầm vóc toàn cầu. Sự can thiệp
của nhà nước và sở hữu nhà nước đã là một tác nhân quan trọng và ở một số nơi
là tác nhân quyết định đối với sự phát triển kinh tế.
Dường như có thể rút ra kết luận: sự đối đầu giữa hai hệ thống không phải
chỉ là do trong một hệ thống (phương Đông) nhà nước đóng vai trò quan trọng,
còn trong hệ thống kia (phương Tây) sở hữu tư nhân, sở hữu của các công ty và
tập đoàn độc quyền đóng vai trò quan trọng. Hơn thế nữa, vai trò của sở hữu tư
nhân ở phương Tây đang ngày một giảm đi, trong khi vai trò của nhà nước ngày
một tăng thêm.
Nhưng vấn đề không phải như vậy.
Hai hệ thống này có sự khác nhau căn bản trong việc điều tiết của chính phủ
đối với lĩnh vực kinh tế và trong chính sở hữu nhà nước. Tuy về mặt hình thức,
hai loại sở hữu đều là nhà nước – bên nhiều, bên ít – nhưng hai hình thức sở
hữu này chẳng những khác nhau mà còn đối kháng nhau. Cũng có thể nói tương tự
như vậy về tác động của nhà nước đối với kinh tế.
Không một chính phủ nào ở phương Tây nhận vào mình trách nhiệm như người
chủ sở hữu trong phạm vi toàn quốc. Chính phủ không chỉ không phải là chủ nhân
của khối tài sản đã quốc hữu hoá mà còn không phải là chủ của khối tài sản thu
được qua thuế khoá nữa. Điều đó không thể xảy ra được, vì chính phủ thay đổi
thường xuyên. Việc quản lí và phân phối phải được thực hiện dưới sự kiểm soát
của quốc hội. Tất nhiên là chính phủ bị tác động từ mọi phía, nhưng nó vẫn
không phải là chủ. Chính phủ chỉ quản lí và phân phối (khi còn cầm quyền), khối
tài sản không thuộc về nó.
Trong các nước cộng sản tình hình khác hẳn. Chính phủ quản lí và phân phối
toàn bộ tài sản quốc gia. Giai cấp mới, nghĩa là cơ quan thực hiện - giới chóp
bu của đảng hành xử như là chủ nhân, và trên thực tế nó đúng là chủ nhân. Không
một chính phủ siêu phản động, “siêu tư bản” nào dám mơ đến sự độc quyền trong
lĩnh vực kinh tế đến như thế.
Như vậy là, quan hệ sở hữu ở phương Tây và phương Đông chỉ giống nhau về
mặt hình thức, biểu hiện trong việc nâng cao vai trò của nhà nước đối với lĩnh
vực kinh tế, còn trên thực tế, nó là hai hình thức sở hữu hoàn toàn khác nhau,
thậm chí đối kháng nhau.
6.
Hình thức sở hữu sau Thế chiến I có
thể đã là một trong những nguyên nhân căn bản của sự đối đầu giữa phương Tây và
Liên Xô. Khi đó các tập đoàn tư bản độc quyền đã có vai trò lớn hơn hiện nay
rất nhiều và dĩ nhiên là chúng không chấp nhận việc một phần thế giới, cụ thể
là Liên Xô, bị giằng ra khỏi móng vuốt của mình. Tầng lớp quan liêu cộng sản
lúc đó cũng mới chỉ chuẩn bị trở thành giai cấp cầm quyền mà thôi.
Đối với Liên Xô, quan hệ sở hữu vẫn
là tác nhân quan trọng trong quan hệ với các nước khác. Liên Xô luôn luôn tìm
cách áp đặt, bằng sức mạnh, hình thức sở hữu cũng như quan hệ chính trị của
mình cho các nước khác. Sự phát triển các liên hệ thương mại hạn chế với thế
giới bên ngoài không vượt qua và không thể vượt qua giới hạn của giai đoạn trao
đổi hàng hoá của các nền kinh tế quốc gia. Điều đó đúng cho cả Nam Tư trong
thời kì đoạn giao với Moskva. Nam Tư không vượt qua được hình thức trao đổi hàng
hoá, mặc dù xu hướng hợp tác toàn diện hơn bao giờ cũng có và cùng với thời
gian còn trở nên bức thiết hơn. Như vậy là nền kinh tế Nam Tư cũng là nền kinh
tế đóng.
Còn một loạt yếu tố góp phần làm cho
tình hình và các mối quan hệ phức tạp thêm.
Việc tăng cường xu hướng hợp nhất
nền sản xuất toàn cầu, trên thực tế, đã dẫn đến ưu thế của một nước (Mĩ), trong
trường hợp tốt nhất, là ưu thế của một nhóm nước.
Chính sự tự phát của các quan hệ đã
bóc lột và buộc nền kinh tế, thậm chí toàn bộ đời sống của các nước chậm phát
triển lệ thuộc vào các nước phát triển. Nhưng như thế không có nghĩa là muốn
sống còn các nước chậm phát triển phải tự vệ bằng các biện pháp chính trị, bằng
cách tự cô lập. Đấy là một
cách. Cách thứ hai: dựa vào sự giúp đỡ của các nước phát triển. Không có cách
thứ ba. Thực ra cách thứ hai cũng chưa có: sự giúp đỡ hiện không đáng kể.
Sự khác biệt trong thu nhập thực tế của một người Mĩ với, thí dụ, một công
nhân Indonesia còn cao hơn là sự khác biệt của người Mĩ đó với một người nắm
cực nhiều cổ phiếu: năm 1940 người Mĩ thu nhập ít nhất là 1.440$, trong khi
người Indonesia chỉ nhận 27$, thấp hơn đến 53 lần (số liệu của Liên hợp quốc).
Quan hệ bất bình đẳng của phương Tây đã phát triển với những nước chậm phát
triển càng ngày càng chuyển vào địa hạt kinh tế. Sự thống trị truyền thống của
các viên toàn quyền và các lãnh chúa địa phương đã trở thành dĩ vãng. Ngày nay,
các nền kinh tế kém phát triển của các quốc gia độc lập về chính trị đã rơi
xuống vai trò phụ thuộc.
Không một dân tộc nào chịu tự nguyện
đóng vai trò phụ thuộc như thế, cũng như không có người nào chịu từ bỏ lợi thế
do sức lao động với năng suất cao mang lại cho anh ta.
Đòi hỏi người công nhân Mĩ hay công
nhân phương Tây, chưa nói các sở hữu chủ, từ bỏ những phúc lợi mà họ có được
nhờ trình độ kĩ thuật và năng suất lao động cao cũng vô nghĩa như thuyết phục
những người dân nghèo khó ở châu Á rằng họ phải cảm thấy hạnh phúc với vài xu
tiền công mỗi ngày.
Sự tương trợ giữa các quốc gia, từng
bước tạo ra sự đồng đều trong lĩnh vực phát triển kinh tế và các lĩnh vực khác
giữa các dân tộc phải là thành quả của nhu cầu sống còn, chỉ khi đó chúng mới
trở thành sản phẩm của những quan hệ tốt đẹp mà thôi.
Sự giúp đỡ về mặt kinh tế đã trở
thành nhu cầu sống còn. Nhưng đấy là trong trường hợp khi các nước phát triển
coi khả năng thanh toán thấp cũng như nền sản xuất thiếu hiệu năng tại các nước
chậm phát triển là lực cản, là gánh nặng đối với chính mình. Sự đối đầu hiện
nay giữa hai hệ thống là trở ngại chính cho việc biến sự trợ giúp về kinh tế
thành một nhu cầu. Đấy không chỉ bởi vì một khối tài sản không lồ đã được sử
dụng cho việc trang bị vũ khí và các mục chi tiêu tương tự. Các quan hệ hiện
nay đã trở thành tác nhân cản trở sự phát triển kinh tế, cản trở xu hướng hợp
nhất và vì vậy, ngăn chặn sự trợ giúp những người cần được giúp đỡ về mặt kinh
tế, thiếu nó thì chính các nước phương Tây cũng không thể phát triển nhanh
được.
Sự cách biệt về mặt vật chất và các
mặt khác giữa các nước phát triển và các nước chậm phát triển thể hiện ngay trong
đời sống của các quốc gia đó. Sẽ là sai lầm nếu coi nền dân chủ phương Tây chỉ
là sự đoàn kết của những người giầu trong việc cướp bóc người nghèo vì trước
khi có được những siêu lợi nhuận nhờ bóc lột thuộc địa, phương Tây đã có tự do,
tuy mức độ thấp hơn hiện nay. Nhưng không nghi ngờ gì rằng nền dân chủ phương
Tây hiện nay đã có một bước phát triển cao hơn thời của Marx và Lenin. Sự khác
nhau là rõ ràng, cũng rõ ràng như sự khác nhau của chủ nghĩa tư bản độc quyền
hay tư bản tự do với nhà nước tư bản hiện đại vậy.
Trong tác phẩm In Place of Fear[8], ông Aneurin Bevan, một nhà xã hội học
người Anh, viết:
Cần phải phân biệt giữa ước mong và thành tựu của chủ nghĩa
tự do: nó muốn giành quyền lực cho những hình thức sở hữu do cách mạng công
nghiệp tạo ra. Nhưng điều nó làm được lại là: nhân dân, bất chấp sở hữu, đã
giành được quyền lực chính trị...
…Từ quan điểm lịch sử, nền dân chủ đại nghị với quyền phổ
thông đầu phiếu chính là đem đặc quyền đặc lợi của tầng lớp có của cho nhân dân
tấn công. Nghị viện đã trở thành vũ đài[9].
Nhận xét này của Bevin liên quan đến
Anh quốc. Nhưng cũng có thể mở rộng sang các nước phương Tây khác. Nhưng chỉ
cho các nước phương Tây mà thôi.
Tất cả mọi người đều đồng ý rằng sự
chênh lệch về vật chất và về các lĩnh vực khác giữa các nước phương Tây và các
nước chậm phát triển không những không biến mất mà sẽ ngày càng rộng thêm[10].
Vì vậy, phương Tây đã sử dụng các
đòn bẩy kinh tế như là những biện pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hội nhập.
Tại phương Đông, trong khối cộng
sản, chính trị vẫn được coi là đòn bẩy chủ yếu.
Hoá ra Liên Xô chỉ có thể “nhập” cái
nó sẽ chiếm đoạt. Về điểm này, chế độ mới cũng chẳng đem lại được một sự thay
đổi có ý nghĩa nào. Theo quan điểm của Liên Xô, các dân tộc bị áp bức là các
dân tộc bị chính phủ nước ngoài áp đặt ách nô dịch, mọi chính phủ, trừ chính
phủ Liên Xô. Mọi sự giúp đỡ, kể cả tín dụng đều phải tuân theo các mục đích
chính trị của Liên Xô.
Điều đó có nghĩa là nền kinh tế Liên
Xô chưa đạt đến trình độ buộc nó phải tiến đến hợp nhất với nền sản xuất quốc
tế. Chính các nguyên nhân nội tại của nó đã tạo ra những mâu thuẫn và khó khăn
cho nó. Hệ thống hiện vẫn có thể tồn tại trong sự cô lập với thế giới bên
ngoài. Rất tốn kém, nhưng còn có thể được nếu vẫn tiếp tục sử dụng bạo lực trên
diện rộng. Nền kinh tế Liên Xô chưa đủ sức “thức tỉnh” các nhà độc tài đầy
quyền năng. Nhưng điều đó không thể nào tiếp tục mãi được, sự cáo chung là
không tránh khỏi. Nó sẽ là sự khởi đầu của sự kết liễu ách nô dịch của tầng lớp
quan liêu chính trị, kết liễu ách nô dịch của giai cấp mới.
Chủ nghĩa cộng sản hiện đại có thể
yểm trợ cho quá trình hợp nhất thế giới trước hết là bằng các biện pháp chính
trị, nghĩa là thực hiện quá trình dân chủ hoá ở bên trong và công khai hoá với
bên ngoài. Nhưng có vẻ còn xa mới đến ngày ấy. Và liệu nó có thể làm một cái gì
tương tự như thế hay không?
Chủ nghĩa cộng sản hiện đại đang
nhìn thế giới xung quanh và chính mình bằng con mắt như thế nào?
Khi còn trong giai đoạn độc quyền,
chủ nghĩa Marx, được Lenin cải biên và “phát triển”, đã vẽ ra trước những người
cộng sản và Đảng Bolshevik bức tranh khá đúng về tình hình cả bên trong lẫn bên
ngoài nước Nga Sa Hoàng và những nước tương tự như nước Nga. Vì vậy, phong trào
do Lenin lãnh đạo đã có thể đấu tranh và đã chiến thắng. Dưới trào Stalin, hệ
tư tưởng ấy, lại một lần nữa được cải biên, có thể được coi là hiện thực vì nó
đã xác định đúng vị trí và vai trò của nhà nước mới trong trật tự quốc tế lúc
đó. Nhà nước Liên Xô và giai cấp mới đã nhận thức rõ quan hệ đối nội và đối
ngoại của mình, khuất phục tất cả những gì có thể khuất phục, mà trước hết là
khuất phục phong trào cộng sản quốc tế.
Các nhà lãnh đạo Liên Xô hiện nay
gặp nhiều khó khăn hơn. Họ không còn khả năng nhận chân được thế giới hiện đại
nữa. Hình ảnh mà họ có là một thế giới của quá khứ, hoặc là một cái gì đó được
sinh ra từ chính trí tưởng tượng của họ, chứ không phải cái đang là hiện nay.
Bám mãi vào các giáo điều cũ rích,
các lãnh tụ cộng sản cho rằng thế giới xung quanh họ sẽ sa lầy vào mâu thuẫn,
thối nát và bất hoà. Điều đó đã không xảy ra. Phương Tây đã giành được những
tiến bộ khả quan trong cả lĩnh vực kinh tế và tinh thần. Họ luôn đoàn kết mỗi
khi đứng trước mối nguy, dù là nhỏ, do phía kia, tức hệ thống cộng sản gây ra.
Các xứ thuộc địa đã trở thành tự do, nhưng phi cộng sản và không dẫn đến sự
đoạn tuyệt với chính quốc.
Phương Tây đã không sụp đổ vì khủng
hoảng và chiến tranh. Năm 1949, thay mặt chính phủ Liên Xô, Vyshinsky, tuyên bố
tại Liên hợp quốc rằng cuộc đại khủng hoảng ở Mĩ và trong toàn khối tư bản là không
tránh khỏi. Điều đó đã không xảy ra không phải vì chủ nghĩa tư bản là tốt hay
xấu mà chỉ vì chủ nghĩa tư bản theo quan niệm của các lãnh tụ Liên Xô đã không
còn tồn tại nữa. Ban lãnh đạo Liên Xô vẫn “không nhận ra” rằng Ấn Độ và các
nước Ả-rập sau khi giành được độc lập đã không ủng hộ chính sách đối ngoại của
Liên Xô. Trước đấy họ đã không hiểu và nay cũng chưa hiểu phong trào dân chủ xã
hội. Từ sự kiện là, đất nước họ không phát triển theo con đường mà phong trào
dân chủ xã hội dự đoán, họ liền rút ra kết luận rằng dân chủ xã hội phương Tây
cũng là bọn “phản bội” và không có sức sống.
Đánh giá của họ về mâu thuẫn cơ bản,
nghĩa là mâu thuẫn giữa hai hệ thống và xu hướng hội nhập của nền sản xuất thế
giới cũng có số phận tương tự. Và ở đây, họ buộc phải “bơi”, họ không thể không
“bơi”.
Xem xét mâu thuẫn như là một trận
quyết đấu giữa hai hệ thống đối địch, họ tưởng tượng như sau: trong một hệ
thống (dĩ nhiên là của họ) không có giai cấp hoặc là đang diễn ra quá trình thủ
tiêu các giai cấp, còn sở hữu thì thuộc chính phủ; hệ thống kia (của người ta,
dĩ nhiên) thì đang xảy ra khủng hoảng, đang diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp,
tất cả tài sản nằm trong tay tư nhân, chính phủ thì phục vụ cho quyền lợi một
nhóm những nhà tư bản độc quyền tham lam vô độ. Khi đã vẽ ra cho mình và cho
người khác bức tranh như thế, họ liền tuyên bố rằng có thể tránh được xung đột
nếu phương Tây “thôi” sử dụng các quan hệ kiểu như thế.
Mấu chốt vấn đề là ở đấy.
Nếu quan hệ ở phương Tây phù hợp với
ước mơ của những người cộng sản, nghĩa là trở thành quan hệ cộng sản thì mâu
thuẫn không những còn mà có thể còn sâu sắc hơn. Vì vấn đề không chỉ là hình
thức sở hữu mà còn là sự hiện hữu của rất nhiều xu hướng đối địch nhau, đằng
sau các xu hướng đó là nền kĩ nghệ hiện đại, là quyền lợi của các dân tộc, mà
từng nhóm, từng giai cấp hay đảng phái đều cố gắng giải quyết cùng một vấn đề,
xuất phát từ nhu cầu của chính mình. Nhất định phải giải quyết.
Khi các nhà lãnh Liên Xô coi các
chính phủ phương Tây hiện đại chỉ là công cụ mù quáng trong tay các tập đoàn tư
bản độc quyền thì họ đã sai, cũng như người ta đã sai khi cho rằng xã hội của
họ là xã hội phi giai cấp chỉ vì sở hữu tập thể ở đó chiếm ưu thế. Tất nhiên,
các tập đoàn tư bản độc quyền vẫn còn vai trò, phải nói là không nhỏ, trong
chính sách của phương Tây, nhưng không phải là vai trò như trước Thế chiến I
hay Thế chiến II nữa. Đằng sau chính sách đó là xu hướng hợp nhất thế giới
không gì ngăn cản được, xu hướng này được thể hiện qua việc quốc hữu hoá và sự
điều tiết của nhà nước và ảnh hưởng của chúng còn mạnh hơn ảnh hưởng của các
tập đoàn tư bản độc quyền.
Giai cấp, đảng và lãnh tụ càng bóp
nghẹt sự phê bình bao nhiêu, quyền lực của họ càng tuyệt đối bao nhiêu, thì
đánh giá của họ càng dễ sai lầm và không thực tế bấy nhiêu. Đấy là điều đang
xảy ra đối với các ông trùm cộng sản. Họ không làm chủ được ngay những hành vi
của chính mình, ngày nay không phải họ, mà hiện thực sinh động mới là người áp
đặt “luật chơi”. Nhưng ở đây họ vẫn còn một đặc quyền: họ phải tự biến thành
những người thực tế hơn. Dĩ nhiên là có những nhược điểm, vì họ không nhìn thấy
viễn cảnh hay một điều gì đó có thể coi là viễn cảnh. Không định hướng được
trong tình hình thế giới hiện nay, nói chung họ chỉ biết tự vệ hoặc là chuyển
sang tấn công một cách mù quáng. Những giáo điều xơ cứng đã đẩy họ vào những
hành động thiếu cân nhắc và sau đó mới “tỉnh ngộ”, tuy bị nhiều thiệt hại nhưng
bao giờ họ cũng “tỉnh ngộ” cả. Hy vọng rằng tác nhân này cuối cùng sẽ trở thành
chủ đạo. Khi nhận chân được thế giới, những người cộng sản có thể thất bại.
Nhưng họ sẽ thắng với tư cách là những con người bình thường, như một phần của
nhân loại.
Dù sao mặc lòng, thế giới sẽ tiếp
tục thay đổi, sẽ đi theo con đường mà nó đã chọn, con đường mà nó đã bước chân
lên, con đường dẫn đến sự hợp nhất, tiến bộ và tự do. Sức mạnh của hiện thực,
sức mạnh của cuộc đời đã luôn luôn và sẽ mãi mãi mạnh hơn mọi áp bức, hiện thực
hơn tất cả mọi lí thuyết.
Giai cấp mới
Tác phẩm của Milovan Djilas, xuất
bản lần đầu năm 1957
Bản tiếng Việt do Phạm Nguyên Trường
dịch, theo: Milovan Djilas, Bộ mặt của chủ nghĩa toàn trị, Nhà xuất bản
Novosti, Moskva, 1992. Bản dịch từ tiếng Serb-horvatsky của P. A. Shetinin, E.
A. Polak, O. A Kirilova.
Có tham khảo bản dịch tiếng Anh: Milovan Djilas, The New Class
A Harvest/HJB Book
Harcourt Brace Jovanovich, Publisher
San Diego New York
London
[1]
Bản tiếng Anh phần 2 và 3 nhập làm một – ND.
[2]
Bản tiếng Nga không có câu này – ND.
[3]
Ghi chú của người dịch: những đoạn viết về quốc hữu hoá bên trên phản ánh quan
điểm của những năm 1950. Sau này, trong những năm 1980 ở Anh đã thực hiện quá
trình giải tư. Còn hiện nay, với việc khởi động lại chủ nghĩa tân bảo thủ thì
sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào hoạt động kinh tế như thế đã không còn
được hoan nghênh nữa.
[4]
New York, Harper, 1949.
[5]
New York, Prentice-Hall, 1955.
[6]
New York, T. Y. Cromwell, 1953.
[7]
New York, W.W. Norton, 1941.
[8]
New York edition, Simon & Schuster, 1952, trang 9.
[9]
Ibid, trang 6.
[10]
Bản tiếng Anh không có câu này – ND.
[1] Trích
từ: Bolshevism: Practice and Theory;
New York, Harcourt, Brace & Howe.
[2]
Bản tiếng Nga không có câu này – ND.
[3] Ý
nói những lời dạy của Chúa Jesus Christ – ND.,
[4]
Bản tiếng Anh không có câu này – ND.
[5]
Bản tiếng Anh không có đoạn này – ND.
[6]
Bản tiếng Anh không có câu này – ND.
[7]
Bản tiếng Bản tiếng Anh không có đoạn này – ND.
[8]
Bản tiếng Anh không có câu này – ND.
[9]
Theo bản dịch Lũ người quỉ ám của
Nguyễn Ngọc Minh, Nhà xuất bản Văn học Trung tâm ngôn ngữ đông tây, 2000, trang
521 – ND.
[1]
Bản tiếng Anh không có câu này – ND.
[2]
Bản tiếng Nga không có câu này – ND.
[4]
Một dân tộc ở miền nam châu Phi – ND.
[5]
Bản tiếng Anh không có đoạn này – ND.
[6]
Bản tiếng Anh không có câu này – ND.
[7]
Bản tiếng Anh không có câu này – ND.
[8]
Đây là mức lương trước vụ đổi tiền năm 1961. Sau này tương ứng là 60 và 30 rub.
[9]
Bản tiếng Anh không có đoạn này – ND.
[10]
Bản tiếng Anh không có câu này – ND.
[11]
Bản tiếng Anh không có câu này – ND.
[12]
Bản tiếng Anh phần 6 nhập vào phần 5 – ND.
[13]
Bản tiếng Anh không có câu này – ND.
[1]
New York, Prentice-Hall, 1951.
[2]Câu
này trong bản tiếng Anh được dịch là: Trong con mắt người dân bình thường, cán
bộ cộng sản là những kẻ rất giàu có và chẳng phải làm gì - ND.
[3]
Bản tiếng Anh không có câu này – ND.
[5]
Không có câu này trong bản tiếng Nga – ND.
[6]
Câu này trong bản tiếng Anh có hơi khác một chút – ND.
[7]
Trong bản tiếng Anh không có hai câu này – ND.
[8]
Bản tiếng Anh không có câu này – ND.
[9]
Bản tiếng Anh không có câu này – ND.
[10]
Bản tiếng Anh không có đoạn này – ND.
[11]
Bản tiếng Anh không có hai câu này – ND.
[12]
Bản tiếng Anh: sau công nguyên – ND.
[13]
Bản tiếng Anh không có đoạn này – ND.
[14]
Bản tiếng Anh không có câu này – ND.
[15]
Bản tiếng Anh không có câu này – ND.
[16]
Bản tiếng Nga không có câu này – ND.
[17]
Bản tiếng Nga không có câu này – ND.
[18]
Bản tiếng Nga không có câu này – ND.
[19]
Bản tiếng Nga không có đoạn này – ND.
[1]
Câu này trái ngược hẳn với bản dịch tiếng Anh: Nhưng lực lượng xã hội mà ông có
thể dựa vào thì chưa có. Theo thiển ý của người dịch, bản tiếng Nga chính xác
hơn.
[2]
Chắc chắn rằng tôi không phải là người mac-xít rồi – tiếng Pháp.
[3]
Câu này trái ngược hẳn với bản dịch tiếng Anh: Có thể là giáo điều nhất. Theo thiển ý của người dịch, bản tiếng Anh
chính xác hơn.
[4]
Bản tiếng Anh không có đoạn này.
[5]
Bản tiếng Anh: Đảng cộng sản có khoảng 80 ngàn đảng viên.
[6]
Bản tiếng Anh: According to the Malthusian theory (Theo thuyết của Malthus) –
có lẽ có sự nhầm lẫn vì Albert
Mathiez (1874-1932) là nhà sử học có một số tác phẩm viết về Cách mạng Pháp.
[7]Selected
Works, Tập X; New York, International Publishers, 1936.
[8]
Foundation of Leninism, New York, International Publishers, 1939.
[9]
Bản tiếng Anh: Hàng ngàn người đã bị đàn áp - ND
[10]
Hiện nay số liệu được đưa ra là từ 21.768 đến 22.000 người - ND.
[11]Bản
tiếng Anh không có câu này – ND.
[12]
V. I. Lenin, Toàn tập, Tập 30, trang 328 (tiếng Nga).
[13]
Bản tiếng Anh không có đoạn này – ND.
[14]
Bản tiếng Anh không có đoạn này – ND.
[15]
Bản tiếng Anh không có câu này – ND.
düzce evden eve nakliyat
ReplyDeletedenizli evden eve nakliyat
kırşehir evden eve nakliyat
çorum evden eve nakliyat
afyon evden eve nakliyat
ETG038
22F73
ReplyDeleteİzmir Şehirler Arası Nakliyat
Yalova Şehir İçi Nakliyat
Giresun Şehir İçi Nakliyat
Hatay Şehir İçi Nakliyat
Çerkezköy Çelik Kapı
Bitrue Güvenilir mi
Edirne Evden Eve Nakliyat
trenbolone enanthate for sale
Çorlu Lojistik
E6B00
ReplyDeleteReferans Kimliği Nedir
Sinop Evden Eve Nakliyat
Batıkent Parke Ustası
Malatya Evden Eve Nakliyat
Aksaray Evden Eve Nakliyat
Yalova Evden Eve Nakliyat
Çerkezköy Fayans Ustası
Lbank Güvenilir mi
Keçiören Fayans Ustası
CD68D
ReplyDeleteen iyi kripto para uygulaması
bitcoin hangi bankalarda var
canlı sohbet
bkex
canli sohbet
kripto para nereden alınır
binance
probit
binance referans kimliği
62716
ReplyDeletetoptan sabun
cointiger
en güvenilir kripto borsası
okex
kraken
bitcoin seans saatleri
binance referans
telegram kripto para kanalları
btcturk
E9421
ReplyDeleteİçerik Editörü (Makale Yazarı)
Instagram Reklam Verme
Silkroad Sunucu
Youtube Para Kazanma
fuar standı
fuar standı
Backlink Paketleri
Hosting Firmaları
SEO Hizmeti
E5C96
ReplyDeleteseo
fuar standı
Telegram Kanal
Lisans Satışı
Pvp
dedicated server
Youtube Reklam Verme
Wordpress Temaları
Opencart SEO
1D040
ReplyDeleteHosting Firmaları
twitch abone satın al
offshore
coin kazanma
Tiktok Reklam Verme
domain firmaları
takipçi satın al twitter
iOS Uygulama Yapma
adwords kupon satışı
077D7
ReplyDeleteInstagram Para Kazanma
SEO Eğitimi
offshore
Online Oyunlar
Youtube İzlenme Satın Al
Youtube SEO
metin2 pvp
Twitter Hesap Satın Al
adwords hesap satışı
nvdcvdfgbvfdgfbffg
ReplyDeleteتصليح افران جدة
J,LIKL,
ReplyDeleteتسليك مجاري بالاحساء
شركة مكافحة حشرات بالاحساء MYXPNeHx0z
ReplyDeleteشركة مكافحة حشرات بالاحساء sDvC2FXlFN
ReplyDelete