Milovan Djilas
Milovan Djilas (1911-1995)
Giai cấp mới
Phạm Nguyên Trường dịch
Khủng bố về mặt tinh thần (Tiếp theo)
3.
Tuy nhiên, tất cả các nước cộng sản đều trải qua những bước nhảy vọt về kĩ thuật, theo kiểu của mình và trong những giai đoạn nhất định, tất nhiên rồi.
Quá trình công nghiệp hoá trong một giai đoạn ngắn như vậy nhất định sẽ tạo ra một tầng lớp cán bộ kĩ thuật đông đảo, tuy trình độ không thật cao, cũng như một số người có tài.
Tốc độ công nghiệp hoá cao trong một số lĩnh vực cũng thúc đẩy công tác nghiên cứu trong những lĩnh vực đó. Cả trong Thế chiến II, cũng như sau này, Liên Xô đều không thua kém nước nào về kĩ thuật quân sự. Trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân, Liên Xô chỉ đứng sau Mĩ.
Các nhà sáng chế vẫn tích cực hoạt động, mặc dù bộ máy quan liêu ngăn chặn áp dụng vào sản xuất, các phát minh sáng kiến nằm chất đống trong tủ của đủ thứ cơ quan. Nhưng tác dụng tiêu cực nhất, có thể nói giết chết mọi phát minh, sáng kiến, chính là sự bàng quan của chính các xí nghiệp.
Là những người rất thực tiễn, các lãnh tụ cộng sản lập tức hợp tác với các chuyên gia, các kĩ sư và các nhà bác học mà không cần để ý tới thế giới quan “tư sản” của họ. Họ biết rõ rằng không có cán bộ kĩ thuật thì không thể nào tiến hành công nghiệp hoá được, hơn nữa, tự thân giới này lại không tạo ra cho họ bất kì mối nguy nào. Đối với tầng lớp cán bộ kĩ thuật (đối với mọi thứ đều như vậy) cộng sản đưa ra lí thuyết nửa vời: ai trả tiền thì các chuyên gia phục vụ người ấy. Thế thì tại sao giai cấp vô sản, hay nói đúng hơn giai cấp mới, lại không thuê chuyên gia? Hệ thống trọng dụng nhân tài xuất phát từ ý tưởng đó.
Nhưng, dù có những tiến bộ kĩ thuật như thế, một điều rõ ràng là không có một phát minh khoa học lớn nào được tạo ra dưới chính thể Xô Viết. Về điểm này, Liên Xô còn kém hơn cả thời Sa Hoàng, khi đó, mặc dù còn bị lạc hậu về kĩ thuật, nước Nga đã có những phát minh mang tính thời đại.
Việc lạc hậu về kĩ thuật tất nhiên sẽ gây ra nhiều cản trở cho phát minh khoa học nhưng nguyên nhân chính vẫn là cơ cấu xã hội.
Giai cấp mới rất quan tâm tới tiến bộ kĩ thuật, nhưng nó còn quan tâm tới sự ổn định, sự độc quyền về tư tưởng của mình hơn. Trong khi đó, bất kì một phát minh khoa học lớn nào cũng đều là kết quả của quá trình thay đổi các quan niệm về thế giới, diễn ra bên trong óc não nhà bác học. Quan niệm mới đó không thể nhét vào các khung triết lí chính thức giáo điều. Những người làm nghiên cứu khoa học trong chế độ cộng sản luôn luôn phải cân nhắc xem liệu có nên mạo hiểm, luôn luôn phải đề phòng sao cho phát kiến của mình không đi ra ngoài cái khung triết lí giáo điều để chính mình không bị coi là tà đạo.
Quan điểm coi chủ nghĩa Mác hay chủ nghĩa duy vật biện chứng là phương pháp toàn năng, siêu hiệu quả đối với tất cả các lĩnh vực nghiên cứu, lãnh vực tinh thần hay bất kì lĩnh vực nào khác cũng gây trở ngại cho quá trình phát triển của khoa học. Ở Liên Xô, không một nhà khoa học lớn nào thoát được các rắc rối về “đường lối chính trị”. Hoàn cảnh có thể khác nhau, nhưng các nhà bác học thường xuyên bị săn đuổi vì phát minh của họ mâu thuẫn với hệ tư tưởng chính thống. Ở Nam Tư, đàn áp có thể ít hơn, nhưng việc đề cao những nhà nghiên cứu “trung thành” về chính trị, song lại yếu về chuyên môn cũng có thể được coi là biểu hiện khác của cùng một căn bệnh.
Chế độ cộng sản khuyến khích tiến bộ kĩ thuật, nhưng đồng thời lại ngăn cản tất cả các công trình nghiên cứu mang tính toàn diện, đòi hỏi rỡ bỏ mọi rào cản trong tư duy. Khó tin, nhưng đấy lại là sự thật.
Ngay cả nếu ta đồng ý rằng chế độ này chỉ hạn chế một cách vừa phải sự phát triển của khoa học thì nó vẫn là kẻ chuyên chế tuyệt đối đối với sự bay bổng của trí tuệ nhân danh những điều mới mẻ. Dựa trên chỉ một triết lí, nó chính là hệ thống phản triết học. Các chế độ này cho đến nay vẫn không sản sinh được một nhà tư tưởng, một nhà nghiên cứu xã hội học chân chính nào, nếu không kể chính các lãnh tụ, những người vừa “làm nghề nghiệp chính” vừa kiêm nhiệm “chức năng triết gia” và chuyên gia về “củng cố nhận thức” của nhân dân. Trong chế độ cộng sản, các ý tưởng mới, triết lí mới hoặc lí thuyết xã hội học mới buộc phải đi theo những đường vòng lắt léo, thường là thông qua văn học hoặc những ngành nghệ thuật khác. Tư tưởng mới buộc phải ẩn mình, phải chờ đợi “cơ hội thuận lợi” trước khi có thể xuất hiện, trước khi được có tấm giấy thông hành vào đời.
Khó khăn nhất là môn xã hội học vì để tìm chân lí nó phải so sánh các quan điểm, ý kiến, suy nghĩ khác nhau. Liệu có môn này không khi mà Marx và Engels đã phân tích hết rồi, khi mà các lãnh tụ đã giành độc quyền giải quyết mọi vấn đề liên quan đến xã hội và xã hội học rồi?
Thực chất là lịch sử, đặc biệt là lịch sử giai đoạn cộng sản chưa hề được viết. Những hành động che giấu và ngụy tạo đã trở thành công việc thường nhật và với một mức độ không thể nào tưởng tượng nổi.
Truyền thống chính trị bị tiếm đoạt, di sản tinh thần của nhân dân bị cướp bóc. Những kẻ độc quyền đó hành xử như thể toàn bộ lịch sử trong quá khứ chỉ làm mỗi một việc là chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ với họ mà thôi. Quá khứ được họ đo với cái thước của họ, họ chia tất cả các sự kiện thành “tiến bộ” và “phản động”. Các đài kỉ niệm cũng được xây theo nguyên tắc ấy. Những kẻ tầm thường thì được dựng tượng còn tượng đài của các vĩ nhân (nhất là những người đương đại) thì bị phá đi.
“Phương pháp khoa học duy nhất” cuối cùng chỉ còn là phương tiện bảo vệ và biện hộ cho thái độ bất dung trong quá trình ép khoa học nói riêng và xã hội nói chung phải khuất phục tầng lớp đương quyền.
4.
Nghệ thuật cũng chịu chung số phận giống như khoa học.
Trong nghệ thuật, sự tầm thường, những hình thức và quan niệm cũ rích được coi là khuôn vàng thước ngọc, là đỉnh cao. Cũng dễ hiểu thôi: không thể có nghệ thuật thiếu tư tưởng, thiếu tương tác với môi trường xung quanh. Không có tác phẩm nghệ thuật lớn nào mà không có va chạm với những cấm đoán hoặc không bị giới cầm quyền chóp bu lên án. Chính vì muốn nắm độc quyền đối với nhận thức của người dân cũng như sự hạn chế và ngu dốt của họ mà cộng sản thường có thái độ bảo thủ đối với nghệ thuật. Biểu hiện dân chủ nhất của một nhà lãnh đạo cộng sản đối với trào lưu nghệ thuật mới là sự công nhận của ông ta rằng mặc dù không hiểu nhưng ông ta cho rằng có thể cho phép. Quan điểm của Lenin đối với chủ nghĩa vị lai của Mayakovsky đã là như thế.
Mặc dù vậy, bên cạnh sự hồi sinh về kĩ thuật trong các nước cộng sản lạc hậu còn có sự hồi sinh cả về văn hoá cho dù dưới dạng văn hoá tuyên truyền, nhưng dù sao nhân dân cũng dễ tiếp cận hơn. Giai cấp mới quan tâm đến vấn đề này vì quá trình công nghiệp hoá đòi hỏi lao động phải có tay nghề cao. Đồng thời với tiến trình này là việc hình thành cơ chế uốn nắn nhận thức của nhân dân. Hệ thống trường học, các lớp xoá nạn mù chữ, các câu lạc bộ chuyên nghiệp và nghiệp dư phát triển rất nhanh, nhiều khi vượt cả nhu cầu và điều kiện thực tế. Dù sao thì sự tiến bộ trong lĩnh vực này là không thể chối cãi.
Ngay sau cách mạng, trong giai đoạn, khi mà giai cấp cầm quyền còn chưa kịp giày xéo lên toàn thể xã hội, đã từng có một số tác phẩm lớn. Đấy là Liên Xô những năm 30 và Nam Tư hiện nay. Cách mạng dường như đã đánh thức các tài năng, vốn là con đẻ của cách mạng, đang mơ màng, trái với ước muốn của chế độ chuyên chế trong việc đè nén những tài năng này.
Có hai phương cách đè nén: đấu tranh chống các trào lưu tư tưởng mới và đấu tranh chống những hình thức thể hiện mới.
Dưới thời Stalin, tất cả các hình thức không hợp khẩu vị lãnh tụ đều bị đàn áp. Mà khẩu vị của ông ta phải nói là không được tinh tế lắm, thính giác của ông ta cũng không được tốt. Về thơ ca, ông ta chỉ thích loại thơ tám chữ và thơ thời Alexandrine. Deutscher từng tuyên bố rằng văn phong của Stalin đã trở thành văn phong của dân tộc. Tuân theo quan niệm chính thống về hình thức cũng là một bắt buộc hệt như phải học thuộc lòng các tư tưởng chính thức vậy.
Tất nhiên, việc tuân theo các hình thức nhất định không phải lúc nào cũng được thực hiện vì các hình thức này không phải là đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản. Năm 1925, Đảng cộng sản Liên Xô ban hành nghị định cho rằng Đảng không theo đuổi một xu hướng văn học nghệ thuật cụ thể nào. Đồng thời Đảng vẫn tiếp tục “giúp đỡ về mặt tư tưởng”, nghĩa là vẫn tiến hành theo dõi về mặt chính trị và tư tưởng các nghệ sĩ. Đấy là mức độ dân chủ tối đa đối với văn học nghệ thuật của chủ nghĩa cộng sản. Lãnh đạo Nam Tư hiện cũng có quan điểm như vậy. Sau năm 1953, cùng với việc xa rời các hình thức dân chủ và trở về với chủ nghĩa quan liêu trong quản lí, các thành phần thô lậu và phản động lại tiến hành chiến dịch chê bai, truy bức cái mà họ gọi là “trí thức tiểu tư sản” để thực hiện cho được mục đích là kiểm soát cả hình thức thể hiện trong lĩnh vực nghệ thuật nữa. Toàn bộ giai cấp trí thức đã đồng loạt đứng dậy thách thức chế độ. Chế độ đã phải lùi một bước. Trong một tuyên bố của mình, Kardelj đã nhấn mạnh rằng Đảng không bắt buộc các nghệ sĩ phải theo một hình thức nào, nhưng không cho phép tuyên truyền phản cách mạng, nghĩa là không cho phép các hình thức mà chế độ cho là “phi xã hội chủ nghĩa”. Thế là vô tình ông ta đã nhắc lại nghị định năm 1925 của Liên Xô đã nói ở trên. Đấy cũng là “mức trần” dân chủ mà Nam Tư dành cho lĩnh vực văn học nghệ thuật, nhưng thái độ của các đa số lãnh đạo đối với lĩnh vực này thì không thay đổi. Không bao giờ! Trong thâm tâm, họ luôn cho rằng giới văn nghệ sĩ là tầng lớp “tiểu tư sản”, không đáng tin. Tờ báo lớn nhất (tờ Politika số ra ngày 25 tháng 5 năm 1954) đã trích thuật lời Tito như một chân lí bất biến: “Một cuốn sách giáo khoa có ích bằng mấy cuốn tiểu thuyết”. Những phong trào phê phán các “xu hướng đồi truỵ”, các “quan điểm thù địch” vẫn thường diễn ra trên các phương tiện truyền thông đại chúng.
Khác với Liên Xô, nền văn học nghệ Nam Tư đã có nhiều hình thức thể hiện sự bất bình, lo lắng của xã hội. Điều đó cho đến nay vẫn không được phép ở Liên Xô. Có thể nói, trên đầu nền văn học nghệ thuật Nam Tư vẫn treo lơ lửng một thanh kiếm, nhưng ở Liên Xô thì mũi kiếm đã xuyên trúng tim.
Sự tự do tương đối về mặt hình thức biểu hiện không làm cho văn nghệ trở thành hoàn toàn tự do vì một lí do đơn giản là bất kì một tác phẩm nghệ thuật chân chính nào cũng nhất định phải thể hiện được các tư tưởng mới. Thế mà dù có được tự do đến đâu thì vẫn còn đó mâu thuẫn giữa hình thức tương đối tự do đó với việc kiểm soát gắt gao về mặt tư tưởng. Thỉnh thoảng mâu thuẫn này lại bùng lên: khi thì dưới hình thức phản ứng của chế độ với “các tư tưởng phản động”, khi thì dưới hình thức phản kháng của văn nghệ sĩ chống lại sự đàn áp. Đấy chính là sự đối đầu giữa xu hướng độc quyền của bên này và ước vọng sáng tạo của bên kia.
Thực chất, đây là mâu thuẫn giữa đòi hỏi của tự do khám phá và giáo điều cộng sản được chuyển sang lĩnh vực văn nghệ.
Tất cả các tư tưởng mới đều phải bị kiểm soát, phải được cắt gọt cho vừa “khung an toàn”. Thực tế là như thế.
Các lãnh tụ cộng sản không thể giải quyết được mâu thuẫn này, cũng như nhiều mâu thuẫn khác nữa. Như chúng ta đã thấy, họ chỉ có thể nới lỏng sợi dây trói buộc, nhưng không thể dành cho văn nghệ sự tự do đích thực được.
Do mâu thuẫn này mà trong chế độ cộng sản vấn đề vai trò của văn nghệ trước các đề tài do cuộc sống đặt ra không thể giải quyết được, cũng như các lí thuyết về sáng tạo nghệ thuật cũng không thể phát triển được.
Vì về bản chất, tác phẩm nghệ thuật gần như bao giờ cũng là sự phê phán các quan hệ xã hội cũng như phê phán xã hội đương thời, sáng tạo ra các tác phẩm mang vấn đề thời sự trong chế độ cộng sản là việc bất khả. Chỉ được quyền ca ngợi cái hiện có và phê phán kẻ địch, một việc làm vô nhân đạo vì cái bị phê phán chính là cái bị săn đuổi và không có khả năng tự vệ. Trên một “cơ sở” như vậy thì việc tạo ra các tác phẩm đi vào các vấn đề thời sự, với một giá trị nào đó là việc bất khả thi.
Ở Nam Tư, giới chóp bu cũng như một số nhà hoạt động văn nghệ thường xuyên kêu ca rằng không có “tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Ở Liên Xô thì ngược lại, người ta “sáng tác” ra vô vàn tác phẩm mang đề tài thời sự, nhưng chính vì chúng không nói lên sự thật, giá trị của chúng rất đáng ngờ, những tác phẩm kiểu đó đã nhanh chóng rơi vào quên lãng.
Hình thức có thể khác nhau nhưng kết quả cuối cùng thì ở đâu cũng thế.
5.
Trong tất cả các nước cộng sản cái gọi là “phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa” chiếm thế thượng phong.
Ở Nam Tư, lí thuyết này đã hoàn toàn thất bại, chỉ có những kẻ phản động giáo điều nhất là còn theo mà thôi. Trong lĩnh vực này, cũng như trong nhiều lĩnh vực khác, chế độ có thừa sức để tận diệt tất cả mọi luồng tư duy lí luận không “phù hợp”, nhưng nó lại quá yếu, không thể nhồi sọ được quan điểm của mình. Có thể khẳng định rằng trong các nước Đông Âu khác, lí thuyết này cũng có một số phận tương tự như ở Nam Tư.
Lí thuyết “phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa” không phải là một hệ thống hoàn chỉnh. Thuật ngữ này được Gorky sử dụng trước tiên. Quan điểm của ông có thể nói ngắn gọn là trong điều kiện của “chủ nghĩa xã hội” hiện nay, văn nghệ phải thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa và thể hiện càng chân thực đời sống thì càng tốt. Còn tất cả những điều khác (tính điển hình, tính đảng...) thì hoặc là được cóp nhặt từ các lí thuyết khác hoặc là được tạo ra từ các nhu cầu chính trị của chế độ.
Không được xây dựng thành một lí thuyết hoàn chỉnh, phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, trên thực tế, chỉ có nghĩa là sự độc quyền về tư tưởng của cộng sản, là cố gắng khoác cho những tư tưởng phản động và hạn hẹp của các lãnh tụ hình thức nghệ thuật, là buộc phải ca ngợi sự nghiệp của họ dưới dạng những bản anh hùng ca. Cuối cùng, lí thuyết này chỉ còn là sự biện hộ giả trá của một cơ chế kiểm duyệt quan liêu và theo dõi của chế độ mà thôi.
Trong các nước cộng sản khác nhau, việc theo dõi được thực hiện theo những cách khác nhau: từ sự kiểm duyệt của bộ máy đảng cho đến áp lực “về mặt tư tưởng”.
Thí dụ, ở Nam Tư chưa bao giờ có chế độ kiểm duyệt. Việc giám sát được thực hiện một cách gián tiếp, thông qua các đảng viên ở các nhà xuất bản, các hội nghệ thuật, các tạp chí và báo, các đảng viên phải báo cáo ngay mọi “nghi ngờ” lên cấp trên. Kiểm duyệt thâm nhập vào ngay môi trường sáng tác, trở thành tự kiểm duyệt. Có trường hợp, ngay các đảng viên cũng “lừa” cả kiểm duyệt, nhưng bản năng tự kiểm duyệt đã buộc họ phải sống lá mặt lá trái và làm đủ điều hạ đẳng, vô luân khác.
Về nguyên tắc, ở Liên Xô cũng như ở tất cả các nước cộng sản khác, văn nghệ sĩ vẫn phải chịu trách nhiệm tự kiểm duyệt dù có hay không kiểm duyệt chính thức. Hơn thế nữa, kiểm duyệt (tự kiểm duyệt) thường được thể hiện dưới dạng “giúp đỡ về tư tưởng”.
Các mối quan hệ xã hội buộc người ta, dù muốn dù không, phải tự kiểm duyệt, đây chính là hình thức theo dõi về tư tưởng chủ yếu của cộng sản. Giống như thời Trung cổ, trước khi sáng tác, người nghệ sĩ phải biết nhà thờ muốn gì; trong chế độ cộng sản, trước khi sáng tác, người nghệ sĩ cũng phải “thâm nhập” vào tư duy, mà nhiều khi còn phải biết “khẩu vị” của các nhà lãnh đạo nữa.
Sự đàn áp, cấm đoán, bao cấp về tư tưởng và hình thức thể hiện, sự “chỉ đạo” của các viên chức quan liêu ngu dốt - tất cả đều được thực hiện nhân danh nhân dân và quyền lợi của nhân dân. Theo nghĩa này, “hiện thực xã hội chủ nghĩa” ngay cả trên lời nói cũng không khác gì chủ nghĩa-xã hội dân tộc (phát xít - ND). Một nhà văn Nam Tư gốc Hung đã “phỏng vấn” các lí thuyết gia về nghệ thuật của hai hệ thống và được kết quả:
L.I. Timofiev, lí thuyết gia Liên Xô (viết trong tác phẩm: Theory of Literature): “Văn học là tư tưởng giúp con người nhận thức đời sống và cách hành xử trong cuộc đời”
Tờ Grundendanken Nationalcosialisticsher Culterpolitics (Nền tảng của chính sách văn hóa của chủ nghĩa xã hội quốc gia): “Người nghệ sĩ không chỉ là nghệ sĩ, anh ta luôn luôn là một nhà giáo dục”.
Baldur Fon Shirach, lãnh tụ Hitlerungend (phong trào Thanh niên Hitler): “Một tác phẩm nghệ thuật chân chính phải hướng đến toàn thể nhân dân”
Andrey Zhdanov, Uỷ viên bộ chính trị đảng cộng sản Liên Xô: “Mọi tác phẩm vĩ đại đều dễ hiểu”
Wolfgang Schulz viết trên tờ Grundendanken...: “Chính sách của chủ nghĩa xã hội dân tộc, trong đó có chính sách văn học là do lãnh tụ và những người mà ông tín nhiệm quyết định... Nếu ta muốn biết chính sách của chủ nghĩa xã hội dân tộc là gì, chúng ta chỉ cần nhìn vào những người ấy, nhìn xem họ đang làm gì, họ đang đưa ra những chỉ thị nào để cố kết xung quanh mình những người đồng chí hướng, những người nhận thức được trách nhiệm trước nhiệm vụ được giao.”
Emelian Iaroslavsky nói tại đại hội XVIII đảng cộng sản Nga (Bolshevik): “Đồng chí Stalin động viên các văn nghệ sĩ, giao cho họ các tư tưởng chỉ đạo... Nghị quyết ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Nga (Bolshevik) và báo cáo của đồng chí A.A. Zhdanov đã đưa ra cho các văn nghệ sĩ Liên Xô một chương trình công tác hoàn chỉnh.”
Các chế độ chuyên chế thù địch nhau cùng tiến hành tự biện hộ giống nhau đến nỗi phải sử dụng cách nói giống hệt nhau.
6.
Là kẻ thù của tư duy khoa học và là kẻ thù của tự do dân chủ, các ông trùm cộng sản đã làm băng hoại một cách toàn diện tinh thần của toàn thể nhân dân. Các chủ đất phong kiến và các ông trùm tư bản trả tiền cho các văn nghệ sĩ theo kiểu của họ và trong khi giúp đỡ về mặt vật chất, họ đã mua chuộc những người đó. Trong chế độ cộng sản sự mua chuộc là một phần của chính sách quốc gia.
Nguyên tắc của chế độ cộng sản là nắm ngay lấy cổ, đè bẹp ngay mọi hoạt động tinh thần mà họ không chấp nhận; nghĩa là đè bẹp tất cả những gì là độc đáo và sâu sắc. Mặt khác, họ lại khen thưởng hậu hĩnh, động viên, thực ra là mua chuộc thẳng thừng tất cả những gì mà hệ thống cho là có ích cho “chủ nghĩa xã hội”, nghĩa là cho chính nó.
Ngay cả nếu để sang một bên những hình thức mua chuộc trắng trợn (huân chương Stalin, sự bảo trợ, nhuận bút cao khi thực hiện các đơn đặt hàng..vv..) thì sự thật vẫn là: chế độ cố tình mua chuộc giới trí thức, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ. Dù có bỏ kiểm duyệt và các phần thưởng đủ mọi loại thì mua chuộc và áp lực vẫn cứ hiện diện khắp nơi.
Cơ sở của sự mua chuộc và áp lực là chế độ độc quyền quan liêu đảng trị đang nô dịch toàn bộ xã hội. Người nghệ sĩ biết trốn đi đâu? Dù nói về tư tưởng hay đồng lương thì đấy cũng là một sức mạnh mà anh ta không thể nào vượt qua được. Mặc dù sức mạnh này không phải là quyền lực trực tiếp, nó vẫn ngấm vào mọi ngõ ngách. Tiếng nói cuối cùng luôn luôn thuộc về nó.
Đối với người nghệ sĩ, điều quan trọng là làm sao để áp lực càng nhẹ càng tốt, dù điều đó cũng chẳng có ảnh hưởng gì đến vị trí của anh ta trong xã hội. Vì vậy, đối với văn nghệ sĩ, Nam Tư dễ chịu hơn Liên Xô nhiều.
Người nô lệ không có gì để chọn, anh ta buộc lòng phải chấp nhận sự băng hoại về mặt tinh thần. Nếu có ai quan tâm đến nguyên nhân vì sao một phần tư thế kỉ qua Liên Xô không có một tác phẩm nghệ thuật lớn nào (đặc biệt là trong văn học) thì người đó sẽ phát hiện ra rằng băng hoại trí thức đóng vai trò không nhỏ hơn (nếu không nói là lớn hơn) sự nô dịch.
Truy bức, bôi nhọ, buộc phải tự thú một cách nhục nhã (tự phê bình) những văn nghệ sĩ chân chính, đồng thời lôi kéo những kẻ dễ bảo bằng nhuận bút cao, phần thưởng lớn, nhà lầu, xe hơi, cho các chức vụ khác nhau...- bằng các chế độ ưu tiên như thế, hệ thống cộng sản đã lựa chọn được sự tầm thường, được những người chỉ biết phục tùng và không có khả năng sáng tạo.
Không có gì phải ngạc nhiên khi các văn nghệ sĩ lớn bị đặt trước sự lựa chọn giữa một cuộc sống đói khát (còn bị đe doạ suốt đời nữa) và “ân sủng” của các ông chủ, đã mất phương hướng và cùng với nó là niềm tin và sức mạnh vốn có của mình. Tự sát, tuyệt vọng, chạy trốn vào rượu chè, mất sự ổn định nội tâm, mất sự toàn vẹn của cá tính là kết quả của quá trình lừa dối và tự lừa dối - đấy là số phận của những người thực sự muốn và có thể tạo ra cái mới.
Tâm hồn con người buộc phải sáng tạo vì nó không thể không sáng tạo trong tuyệt vọng, nhưng dưới cái mặt nạ là chủ nghĩa lạc quan như thế đấy. Lương tâm con người tồn tại cả trong những những điều kiện như thế, đấy có phải là minh chứng rằng nó là bất khả chiến bại và đấy có phải là chỉ dấu về sự khốn cùng và bệnh hoạn của hệ thống không?
7.
Người ta thường cho rằng chuyên chính cộng sản thực hiện kì thị giai cấp một cách trắng trợn. Nhưng không hoàn toàn như vậy.
Theo thời gian, kì thị giai cấp ngày càng giảm, còn kì thị về tư tưởng thì ngày càng tăng. Quan niệm cho rằng chính quyền thuộc về giai cấp vô sản cũng sai như quan niệm cho rằng cộng sản truy bức con người chỉ vì họ thuộc về giai cấp tư sản. Không nghi ngờ rằng cộng sản đánh các giai cấp hữu sản, đặc biệt là tư sản. Nhưng những người đã đầu hàng, những người đã “cải tạo” vẫn có thể tìm được một chỗ “ấm cúng” và được chính quyền “thể tất”. Hơn thế nữa, cảnh sát mật thường lựa được các gián điệp tài ba, còn các ông chủ thì tìm được đầy tớ trong số “tư sản đã cải tạo” này. Nhưng những người nghi ngờ các quan điểm và biện pháp cộng sản thì đừng hòng được tha thứ. Ở đây thành phần xuất thân không quan trọng, chống quốc hữu hoá hay chỉ là những người quan sát vô tình cũng vậy mà thôi, tư tưởng là thống soái.
Cần phải nói thêm rằng sự truy bức các tư tưởng dân chủ và xã hội chủ nghĩa khác với cách nghĩ của tầng lớp chóp bu lại còn dữ dội hơn, mãnh liệt hơn cả cuộc đấu tranh với các quan điểm phản động nhất của những người ủng hộ chế độ cũ. Dễ hiểu, vì người ủng hộ chế độ cũ không nguy hiểm bằng, quan niệm của họ hướng về quá khứ, nó có thể gây phiền phức nhưng cơ hội để phục hồi, để chiến thắng là rất nhỏ.
Sau khi nắm được chính quyền, cộng sản liền tấn công tư hữu và bằng cách đó tạo ra ảo tưởng rằng họ làm thế là vì quyền lợi của người lao động. Nhưng sau này mới rõ rằng không hoàn toàn như thế, cơ sở của những hành động đó là ước muốn thống trị, mà thống trị chỉ có thể thực hiện thông qua kì thị về mặt tư tưởng chứ không phải giai cấp. Nếu vấn đề được đặt khác đi, thí dụ, thực sự trao tài sản vào tay người lao động, thì kì thị giai cấp sẽ chiếm thế thượng phong ngay.
Sự kiên trì kì thị về tư tưởng như thế có thể làm cho người ta nghĩ rằng cộng sản là một giáo phái tin tưởng tuyệt đối vào những điều răn duy vật-vô thần của mình và dùng sức mạnh ép buộc những người khác cũng tin như họ. Cộng sản hành động như một giáo phái nhưng thực ra không phải như vậy.
Hệ tư tưởng toàn trị không phải là kết quả của một hình thức quyền lực và sở hữu cụ thể. Tuy nó có đóng góp vào quá trình hình thành quyền lực và sở hữu, nhưng nó là chỗ dựa vững chắc nhất của quá trình phát triển đó. Kì thị về tư tưởng là điều kiện cần thiết sống còn của chế độ cộng sản.
Sẽ là sai lầm khi cho rằng các hình thức kì thị khác như chủng tộc, giai cấp, dân tộc là những kì thị nặng nề hơn kì thị về tư tưởng. Bề ngoài chúng có vẻ là như thế, nhưng các dạng kì thị đó chưa bao giờ đạt đến độ tinh vi và toàn diện như kì thị về tư tưởng. Các dạng kì thị đó chỉ ảnh hưởng đến những bộ phận nào đó của xã hội, trong khi kì thị về tư tưởng ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội và từng thành viên riêng biệt. Loại thứ nhất giày xéo con người về mặt thể xác. Kì thị tư tưởng đánh vào ngay cái Người nhất trong từng cá nhân. Khủng bố về mặt tinh thần là sự khủng bố dã man và toàn diện nhất, nó là sự khởi đầu và kết thúc của mọi sự khủng bố.
Trong hệ thống cộng sản, kì thị tư tưởng được thể hiện, một mặt, như là sự cấm đoán các tư tưởng “không phù hợp” và mặt khác, bắt buộc chấp nhận các tư tưởng của hệ thống. Đấy chỉ là hai khía cạnh rõ nhất của sự đàn áp không bút nào tả xiết được. Tư tưởng chính là sức sáng tạo có hiệu quả nhất. Sống, lao động, mà không suy nghĩ, không tưởng tượng là điều bất khả. Tuy phủ nhận, nhưng cộng sản vẫn phải tính đến đặc trưng ấy của con người. Vì vậy họ mới đàn áp mọi tư tưởng “không phù hợp”, nhất là khi những tư tưởng đó được đưa ra để giải quyết các vấn đề mà xã hội đang gặp phải.
Con người có thể sống trong nghèo nàn, thiếu thốn. Nhưng người ta không thể sống mà không nghĩ, không nói lên ý nghĩ của mình. Không có gì đau khổ hơn là buộc phải câm lặng, không có sự đàn áp nào dã man hơn việc bắt người ta phải từ bỏ các tư tưởng của mình và “nhai lại” suy nghĩ của kẻ khác.
Hạn chế tự do tư tưởng không chỉ là cuộc tấn công vào những nhóm chính trị hay xã hội cụ thể, mà là cuộc tấn công vào tính ngưới, tính nhân bản của con ngưới nói chung.
Dù thế, khát vọng tự do, tự do tư tưởng, khát vọng cải thiện và mở rộng sản xuất của con người không bao giờ phai nhạt, nó luôn luôn được thể hiện như một mệnh lệnh của những lực lượng nhất định. Nếu trong các chế độ cộng sản, các mệnh lệnh đó chưa có biểu hiện rõ ràng thì cũng không có nghĩa là chúng không tồn tại. Điều đó chỉ có nghĩa là chúng đang hình thành, đang vươn lên từ trong lòng nhân dân mà thôi. Sự áp bức toàn trị dường như đã xoá tan ranh giới giữa các tầng lớp nhân dân, nhân dân đang tập hợp lại để đòi tự do. Trong đó có tự do tư tưởng.
Lịch sử sẽ tha thứ cho những người cộng sản nhiều tội lỗi mà họ đã phạm do hoàn cảnh, do nhu cầu tự vệ, nhu cầu sống còn. Nhưng bóp nghẹt mọi quan điểm khác biệt, sự bất dung, sự độc quyền về tư tưởng chỉ để nhằm bảo vệ những quyền lợi ích kỉ của họ là những tội lỗi không thể tha thứ. Chủ nghĩa cộng sản sẽ phải đứng chung một hàng với những tội lỗi nhục nhã khác trong lịch sử: toà án giáo hội và các đống lửa thiêu người thời Trung cổ. Cộng sản có thể giành được vị trí “vinh quang nhất” trong đám ấy.
Tốc độ công nghiệp hoá cao trong một số lĩnh vực cũng thúc đẩy công tác nghiên cứu trong những lĩnh vực đó. Cả trong Thế chiến II, cũng như sau này, Liên Xô đều không thua kém nước nào về kĩ thuật quân sự. Trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân, Liên Xô chỉ đứng sau Mĩ.
Các nhà sáng chế vẫn tích cực hoạt động, mặc dù bộ máy quan liêu ngăn chặn áp dụng vào sản xuất, các phát minh sáng kiến nằm chất đống trong tủ của đủ thứ cơ quan. Nhưng tác dụng tiêu cực nhất, có thể nói giết chết mọi phát minh, sáng kiến, chính là sự bàng quan của chính các xí nghiệp.
Là những người rất thực tiễn, các lãnh tụ cộng sản lập tức hợp tác với các chuyên gia, các kĩ sư và các nhà bác học mà không cần để ý tới thế giới quan “tư sản” của họ. Họ biết rõ rằng không có cán bộ kĩ thuật thì không thể nào tiến hành công nghiệp hoá được, hơn nữa, tự thân giới này lại không tạo ra cho họ bất kì mối nguy nào. Đối với tầng lớp cán bộ kĩ thuật (đối với mọi thứ đều như vậy) cộng sản đưa ra lí thuyết nửa vời: ai trả tiền thì các chuyên gia phục vụ người ấy. Thế thì tại sao giai cấp vô sản, hay nói đúng hơn giai cấp mới, lại không thuê chuyên gia? Hệ thống trọng dụng nhân tài xuất phát từ ý tưởng đó.
Nhưng, dù có những tiến bộ kĩ thuật như thế, một điều rõ ràng là không có một phát minh khoa học lớn nào được tạo ra dưới chính thể Xô Viết. Về điểm này, Liên Xô còn kém hơn cả thời Sa Hoàng, khi đó, mặc dù còn bị lạc hậu về kĩ thuật, nước Nga đã có những phát minh mang tính thời đại.
Việc lạc hậu về kĩ thuật tất nhiên sẽ gây ra nhiều cản trở cho phát minh khoa học nhưng nguyên nhân chính vẫn là cơ cấu xã hội.
Giai cấp mới rất quan tâm tới tiến bộ kĩ thuật, nhưng nó còn quan tâm tới sự ổn định, sự độc quyền về tư tưởng của mình hơn. Trong khi đó, bất kì một phát minh khoa học lớn nào cũng đều là kết quả của quá trình thay đổi các quan niệm về thế giới, diễn ra bên trong óc não nhà bác học. Quan niệm mới đó không thể nhét vào các khung triết lí chính thức giáo điều. Những người làm nghiên cứu khoa học trong chế độ cộng sản luôn luôn phải cân nhắc xem liệu có nên mạo hiểm, luôn luôn phải đề phòng sao cho phát kiến của mình không đi ra ngoài cái khung triết lí giáo điều để chính mình không bị coi là tà đạo.
Quan điểm coi chủ nghĩa Mác hay chủ nghĩa duy vật biện chứng là phương pháp toàn năng, siêu hiệu quả đối với tất cả các lĩnh vực nghiên cứu, lãnh vực tinh thần hay bất kì lĩnh vực nào khác cũng gây trở ngại cho quá trình phát triển của khoa học. Ở Liên Xô, không một nhà khoa học lớn nào thoát được các rắc rối về “đường lối chính trị”. Hoàn cảnh có thể khác nhau, nhưng các nhà bác học thường xuyên bị săn đuổi vì phát minh của họ mâu thuẫn với hệ tư tưởng chính thống. Ở Nam Tư, đàn áp có thể ít hơn, nhưng việc đề cao những nhà nghiên cứu “trung thành” về chính trị, song lại yếu về chuyên môn cũng có thể được coi là biểu hiện khác của cùng một căn bệnh.
Chế độ cộng sản khuyến khích tiến bộ kĩ thuật, nhưng đồng thời lại ngăn cản tất cả các công trình nghiên cứu mang tính toàn diện, đòi hỏi rỡ bỏ mọi rào cản trong tư duy. Khó tin, nhưng đấy lại là sự thật.
Ngay cả nếu ta đồng ý rằng chế độ này chỉ hạn chế một cách vừa phải sự phát triển của khoa học thì nó vẫn là kẻ chuyên chế tuyệt đối đối với sự bay bổng của trí tuệ nhân danh những điều mới mẻ. Dựa trên chỉ một triết lí, nó chính là hệ thống phản triết học. Các chế độ này cho đến nay vẫn không sản sinh được một nhà tư tưởng, một nhà nghiên cứu xã hội học chân chính nào, nếu không kể chính các lãnh tụ, những người vừa “làm nghề nghiệp chính” vừa kiêm nhiệm “chức năng triết gia” và chuyên gia về “củng cố nhận thức” của nhân dân. Trong chế độ cộng sản, các ý tưởng mới, triết lí mới hoặc lí thuyết xã hội học mới buộc phải đi theo những đường vòng lắt léo, thường là thông qua văn học hoặc những ngành nghệ thuật khác. Tư tưởng mới buộc phải ẩn mình, phải chờ đợi “cơ hội thuận lợi” trước khi có thể xuất hiện, trước khi được có tấm giấy thông hành vào đời.
Khó khăn nhất là môn xã hội học vì để tìm chân lí nó phải so sánh các quan điểm, ý kiến, suy nghĩ khác nhau. Liệu có môn này không khi mà Marx và Engels đã phân tích hết rồi, khi mà các lãnh tụ đã giành độc quyền giải quyết mọi vấn đề liên quan đến xã hội và xã hội học rồi?
Thực chất là lịch sử, đặc biệt là lịch sử giai đoạn cộng sản chưa hề được viết. Những hành động che giấu và ngụy tạo đã trở thành công việc thường nhật và với một mức độ không thể nào tưởng tượng nổi.
Truyền thống chính trị bị tiếm đoạt, di sản tinh thần của nhân dân bị cướp bóc. Những kẻ độc quyền đó hành xử như thể toàn bộ lịch sử trong quá khứ chỉ làm mỗi một việc là chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ với họ mà thôi. Quá khứ được họ đo với cái thước của họ, họ chia tất cả các sự kiện thành “tiến bộ” và “phản động”. Các đài kỉ niệm cũng được xây theo nguyên tắc ấy. Những kẻ tầm thường thì được dựng tượng còn tượng đài của các vĩ nhân (nhất là những người đương đại) thì bị phá đi.
“Phương pháp khoa học duy nhất” cuối cùng chỉ còn là phương tiện bảo vệ và biện hộ cho thái độ bất dung trong quá trình ép khoa học nói riêng và xã hội nói chung phải khuất phục tầng lớp đương quyền.
4.
Nghệ thuật cũng chịu chung số phận giống như khoa học.
Trong nghệ thuật, sự tầm thường, những hình thức và quan niệm cũ rích được coi là khuôn vàng thước ngọc, là đỉnh cao. Cũng dễ hiểu thôi: không thể có nghệ thuật thiếu tư tưởng, thiếu tương tác với môi trường xung quanh. Không có tác phẩm nghệ thuật lớn nào mà không có va chạm với những cấm đoán hoặc không bị giới cầm quyền chóp bu lên án. Chính vì muốn nắm độc quyền đối với nhận thức của người dân cũng như sự hạn chế và ngu dốt của họ mà cộng sản thường có thái độ bảo thủ đối với nghệ thuật. Biểu hiện dân chủ nhất của một nhà lãnh đạo cộng sản đối với trào lưu nghệ thuật mới là sự công nhận của ông ta rằng mặc dù không hiểu nhưng ông ta cho rằng có thể cho phép. Quan điểm của Lenin đối với chủ nghĩa vị lai của Mayakovsky đã là như thế.
Mặc dù vậy, bên cạnh sự hồi sinh về kĩ thuật trong các nước cộng sản lạc hậu còn có sự hồi sinh cả về văn hoá cho dù dưới dạng văn hoá tuyên truyền, nhưng dù sao nhân dân cũng dễ tiếp cận hơn. Giai cấp mới quan tâm đến vấn đề này vì quá trình công nghiệp hoá đòi hỏi lao động phải có tay nghề cao. Đồng thời với tiến trình này là việc hình thành cơ chế uốn nắn nhận thức của nhân dân. Hệ thống trường học, các lớp xoá nạn mù chữ, các câu lạc bộ chuyên nghiệp và nghiệp dư phát triển rất nhanh, nhiều khi vượt cả nhu cầu và điều kiện thực tế. Dù sao thì sự tiến bộ trong lĩnh vực này là không thể chối cãi.
Ngay sau cách mạng, trong giai đoạn, khi mà giai cấp cầm quyền còn chưa kịp giày xéo lên toàn thể xã hội, đã từng có một số tác phẩm lớn. Đấy là Liên Xô những năm 30 và Nam Tư hiện nay. Cách mạng dường như đã đánh thức các tài năng, vốn là con đẻ của cách mạng, đang mơ màng, trái với ước muốn của chế độ chuyên chế trong việc đè nén những tài năng này.
Có hai phương cách đè nén: đấu tranh chống các trào lưu tư tưởng mới và đấu tranh chống những hình thức thể hiện mới.
Dưới thời Stalin, tất cả các hình thức không hợp khẩu vị lãnh tụ đều bị đàn áp. Mà khẩu vị của ông ta phải nói là không được tinh tế lắm, thính giác của ông ta cũng không được tốt. Về thơ ca, ông ta chỉ thích loại thơ tám chữ và thơ thời Alexandrine. Deutscher từng tuyên bố rằng văn phong của Stalin đã trở thành văn phong của dân tộc. Tuân theo quan niệm chính thống về hình thức cũng là một bắt buộc hệt như phải học thuộc lòng các tư tưởng chính thức vậy.
Tất nhiên, việc tuân theo các hình thức nhất định không phải lúc nào cũng được thực hiện vì các hình thức này không phải là đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản. Năm 1925, Đảng cộng sản Liên Xô ban hành nghị định cho rằng Đảng không theo đuổi một xu hướng văn học nghệ thuật cụ thể nào. Đồng thời Đảng vẫn tiếp tục “giúp đỡ về mặt tư tưởng”, nghĩa là vẫn tiến hành theo dõi về mặt chính trị và tư tưởng các nghệ sĩ. Đấy là mức độ dân chủ tối đa đối với văn học nghệ thuật của chủ nghĩa cộng sản. Lãnh đạo Nam Tư hiện cũng có quan điểm như vậy. Sau năm 1953, cùng với việc xa rời các hình thức dân chủ và trở về với chủ nghĩa quan liêu trong quản lí, các thành phần thô lậu và phản động lại tiến hành chiến dịch chê bai, truy bức cái mà họ gọi là “trí thức tiểu tư sản” để thực hiện cho được mục đích là kiểm soát cả hình thức thể hiện trong lĩnh vực nghệ thuật nữa. Toàn bộ giai cấp trí thức đã đồng loạt đứng dậy thách thức chế độ. Chế độ đã phải lùi một bước. Trong một tuyên bố của mình, Kardelj đã nhấn mạnh rằng Đảng không bắt buộc các nghệ sĩ phải theo một hình thức nào, nhưng không cho phép tuyên truyền phản cách mạng, nghĩa là không cho phép các hình thức mà chế độ cho là “phi xã hội chủ nghĩa”. Thế là vô tình ông ta đã nhắc lại nghị định năm 1925 của Liên Xô đã nói ở trên. Đấy cũng là “mức trần” dân chủ mà Nam Tư dành cho lĩnh vực văn học nghệ thuật, nhưng thái độ của các đa số lãnh đạo đối với lĩnh vực này thì không thay đổi. Không bao giờ! Trong thâm tâm, họ luôn cho rằng giới văn nghệ sĩ là tầng lớp “tiểu tư sản”, không đáng tin. Tờ báo lớn nhất (tờ Politika số ra ngày 25 tháng 5 năm 1954) đã trích thuật lời Tito như một chân lí bất biến: “Một cuốn sách giáo khoa có ích bằng mấy cuốn tiểu thuyết”. Những phong trào phê phán các “xu hướng đồi truỵ”, các “quan điểm thù địch” vẫn thường diễn ra trên các phương tiện truyền thông đại chúng.
Khác với Liên Xô, nền văn học nghệ Nam Tư đã có nhiều hình thức thể hiện sự bất bình, lo lắng của xã hội. Điều đó cho đến nay vẫn không được phép ở Liên Xô. Có thể nói, trên đầu nền văn học nghệ thuật Nam Tư vẫn treo lơ lửng một thanh kiếm, nhưng ở Liên Xô thì mũi kiếm đã xuyên trúng tim.
Sự tự do tương đối về mặt hình thức biểu hiện không làm cho văn nghệ trở thành hoàn toàn tự do vì một lí do đơn giản là bất kì một tác phẩm nghệ thuật chân chính nào cũng nhất định phải thể hiện được các tư tưởng mới. Thế mà dù có được tự do đến đâu thì vẫn còn đó mâu thuẫn giữa hình thức tương đối tự do đó với việc kiểm soát gắt gao về mặt tư tưởng. Thỉnh thoảng mâu thuẫn này lại bùng lên: khi thì dưới hình thức phản ứng của chế độ với “các tư tưởng phản động”, khi thì dưới hình thức phản kháng của văn nghệ sĩ chống lại sự đàn áp. Đấy chính là sự đối đầu giữa xu hướng độc quyền của bên này và ước vọng sáng tạo của bên kia.
Thực chất, đây là mâu thuẫn giữa đòi hỏi của tự do khám phá và giáo điều cộng sản được chuyển sang lĩnh vực văn nghệ.
Tất cả các tư tưởng mới đều phải bị kiểm soát, phải được cắt gọt cho vừa “khung an toàn”. Thực tế là như thế.
Các lãnh tụ cộng sản không thể giải quyết được mâu thuẫn này, cũng như nhiều mâu thuẫn khác nữa. Như chúng ta đã thấy, họ chỉ có thể nới lỏng sợi dây trói buộc, nhưng không thể dành cho văn nghệ sự tự do đích thực được.
Do mâu thuẫn này mà trong chế độ cộng sản vấn đề vai trò của văn nghệ trước các đề tài do cuộc sống đặt ra không thể giải quyết được, cũng như các lí thuyết về sáng tạo nghệ thuật cũng không thể phát triển được.
Vì về bản chất, tác phẩm nghệ thuật gần như bao giờ cũng là sự phê phán các quan hệ xã hội cũng như phê phán xã hội đương thời, sáng tạo ra các tác phẩm mang vấn đề thời sự trong chế độ cộng sản là việc bất khả. Chỉ được quyền ca ngợi cái hiện có và phê phán kẻ địch, một việc làm vô nhân đạo vì cái bị phê phán chính là cái bị săn đuổi và không có khả năng tự vệ. Trên một “cơ sở” như vậy thì việc tạo ra các tác phẩm đi vào các vấn đề thời sự, với một giá trị nào đó là việc bất khả thi.
Ở Nam Tư, giới chóp bu cũng như một số nhà hoạt động văn nghệ thường xuyên kêu ca rằng không có “tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Ở Liên Xô thì ngược lại, người ta “sáng tác” ra vô vàn tác phẩm mang đề tài thời sự, nhưng chính vì chúng không nói lên sự thật, giá trị của chúng rất đáng ngờ, những tác phẩm kiểu đó đã nhanh chóng rơi vào quên lãng.
Hình thức có thể khác nhau nhưng kết quả cuối cùng thì ở đâu cũng thế.
5.
Trong tất cả các nước cộng sản cái gọi là “phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa” chiếm thế thượng phong.
Ở Nam Tư, lí thuyết này đã hoàn toàn thất bại, chỉ có những kẻ phản động giáo điều nhất là còn theo mà thôi. Trong lĩnh vực này, cũng như trong nhiều lĩnh vực khác, chế độ có thừa sức để tận diệt tất cả mọi luồng tư duy lí luận không “phù hợp”, nhưng nó lại quá yếu, không thể nhồi sọ được quan điểm của mình. Có thể khẳng định rằng trong các nước Đông Âu khác, lí thuyết này cũng có một số phận tương tự như ở Nam Tư.
Lí thuyết “phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa” không phải là một hệ thống hoàn chỉnh. Thuật ngữ này được Gorky sử dụng trước tiên. Quan điểm của ông có thể nói ngắn gọn là trong điều kiện của “chủ nghĩa xã hội” hiện nay, văn nghệ phải thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa và thể hiện càng chân thực đời sống thì càng tốt. Còn tất cả những điều khác (tính điển hình, tính đảng...) thì hoặc là được cóp nhặt từ các lí thuyết khác hoặc là được tạo ra từ các nhu cầu chính trị của chế độ.
Không được xây dựng thành một lí thuyết hoàn chỉnh, phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, trên thực tế, chỉ có nghĩa là sự độc quyền về tư tưởng của cộng sản, là cố gắng khoác cho những tư tưởng phản động và hạn hẹp của các lãnh tụ hình thức nghệ thuật, là buộc phải ca ngợi sự nghiệp của họ dưới dạng những bản anh hùng ca. Cuối cùng, lí thuyết này chỉ còn là sự biện hộ giả trá của một cơ chế kiểm duyệt quan liêu và theo dõi của chế độ mà thôi.
Trong các nước cộng sản khác nhau, việc theo dõi được thực hiện theo những cách khác nhau: từ sự kiểm duyệt của bộ máy đảng cho đến áp lực “về mặt tư tưởng”.
Thí dụ, ở Nam Tư chưa bao giờ có chế độ kiểm duyệt. Việc giám sát được thực hiện một cách gián tiếp, thông qua các đảng viên ở các nhà xuất bản, các hội nghệ thuật, các tạp chí và báo, các đảng viên phải báo cáo ngay mọi “nghi ngờ” lên cấp trên. Kiểm duyệt thâm nhập vào ngay môi trường sáng tác, trở thành tự kiểm duyệt. Có trường hợp, ngay các đảng viên cũng “lừa” cả kiểm duyệt, nhưng bản năng tự kiểm duyệt đã buộc họ phải sống lá mặt lá trái và làm đủ điều hạ đẳng, vô luân khác.
Về nguyên tắc, ở Liên Xô cũng như ở tất cả các nước cộng sản khác, văn nghệ sĩ vẫn phải chịu trách nhiệm tự kiểm duyệt dù có hay không kiểm duyệt chính thức. Hơn thế nữa, kiểm duyệt (tự kiểm duyệt) thường được thể hiện dưới dạng “giúp đỡ về tư tưởng”.
Các mối quan hệ xã hội buộc người ta, dù muốn dù không, phải tự kiểm duyệt, đây chính là hình thức theo dõi về tư tưởng chủ yếu của cộng sản. Giống như thời Trung cổ, trước khi sáng tác, người nghệ sĩ phải biết nhà thờ muốn gì; trong chế độ cộng sản, trước khi sáng tác, người nghệ sĩ cũng phải “thâm nhập” vào tư duy, mà nhiều khi còn phải biết “khẩu vị” của các nhà lãnh đạo nữa.
Sự đàn áp, cấm đoán, bao cấp về tư tưởng và hình thức thể hiện, sự “chỉ đạo” của các viên chức quan liêu ngu dốt - tất cả đều được thực hiện nhân danh nhân dân và quyền lợi của nhân dân. Theo nghĩa này, “hiện thực xã hội chủ nghĩa” ngay cả trên lời nói cũng không khác gì chủ nghĩa-xã hội dân tộc (phát xít - ND). Một nhà văn Nam Tư gốc Hung đã “phỏng vấn” các lí thuyết gia về nghệ thuật của hai hệ thống và được kết quả:
L.I. Timofiev, lí thuyết gia Liên Xô (viết trong tác phẩm: Theory of Literature): “Văn học là tư tưởng giúp con người nhận thức đời sống và cách hành xử trong cuộc đời”
Tờ Grundendanken Nationalcosialisticsher Culterpolitics (Nền tảng của chính sách văn hóa của chủ nghĩa xã hội quốc gia): “Người nghệ sĩ không chỉ là nghệ sĩ, anh ta luôn luôn là một nhà giáo dục”.
Baldur Fon Shirach, lãnh tụ Hitlerungend (phong trào Thanh niên Hitler): “Một tác phẩm nghệ thuật chân chính phải hướng đến toàn thể nhân dân”
Andrey Zhdanov, Uỷ viên bộ chính trị đảng cộng sản Liên Xô: “Mọi tác phẩm vĩ đại đều dễ hiểu”
Wolfgang Schulz viết trên tờ Grundendanken...: “Chính sách của chủ nghĩa xã hội dân tộc, trong đó có chính sách văn học là do lãnh tụ và những người mà ông tín nhiệm quyết định... Nếu ta muốn biết chính sách của chủ nghĩa xã hội dân tộc là gì, chúng ta chỉ cần nhìn vào những người ấy, nhìn xem họ đang làm gì, họ đang đưa ra những chỉ thị nào để cố kết xung quanh mình những người đồng chí hướng, những người nhận thức được trách nhiệm trước nhiệm vụ được giao.”
Emelian Iaroslavsky nói tại đại hội XVIII đảng cộng sản Nga (Bolshevik): “Đồng chí Stalin động viên các văn nghệ sĩ, giao cho họ các tư tưởng chỉ đạo... Nghị quyết ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Nga (Bolshevik) và báo cáo của đồng chí A.A. Zhdanov đã đưa ra cho các văn nghệ sĩ Liên Xô một chương trình công tác hoàn chỉnh.”
Các chế độ chuyên chế thù địch nhau cùng tiến hành tự biện hộ giống nhau đến nỗi phải sử dụng cách nói giống hệt nhau.
6.
Là kẻ thù của tư duy khoa học và là kẻ thù của tự do dân chủ, các ông trùm cộng sản đã làm băng hoại một cách toàn diện tinh thần của toàn thể nhân dân. Các chủ đất phong kiến và các ông trùm tư bản trả tiền cho các văn nghệ sĩ theo kiểu của họ và trong khi giúp đỡ về mặt vật chất, họ đã mua chuộc những người đó. Trong chế độ cộng sản sự mua chuộc là một phần của chính sách quốc gia.
Nguyên tắc của chế độ cộng sản là nắm ngay lấy cổ, đè bẹp ngay mọi hoạt động tinh thần mà họ không chấp nhận; nghĩa là đè bẹp tất cả những gì là độc đáo và sâu sắc. Mặt khác, họ lại khen thưởng hậu hĩnh, động viên, thực ra là mua chuộc thẳng thừng tất cả những gì mà hệ thống cho là có ích cho “chủ nghĩa xã hội”, nghĩa là cho chính nó.
Ngay cả nếu để sang một bên những hình thức mua chuộc trắng trợn (huân chương Stalin, sự bảo trợ, nhuận bút cao khi thực hiện các đơn đặt hàng..vv..) thì sự thật vẫn là: chế độ cố tình mua chuộc giới trí thức, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ. Dù có bỏ kiểm duyệt và các phần thưởng đủ mọi loại thì mua chuộc và áp lực vẫn cứ hiện diện khắp nơi.
Cơ sở của sự mua chuộc và áp lực là chế độ độc quyền quan liêu đảng trị đang nô dịch toàn bộ xã hội. Người nghệ sĩ biết trốn đi đâu? Dù nói về tư tưởng hay đồng lương thì đấy cũng là một sức mạnh mà anh ta không thể nào vượt qua được. Mặc dù sức mạnh này không phải là quyền lực trực tiếp, nó vẫn ngấm vào mọi ngõ ngách. Tiếng nói cuối cùng luôn luôn thuộc về nó.
Đối với người nghệ sĩ, điều quan trọng là làm sao để áp lực càng nhẹ càng tốt, dù điều đó cũng chẳng có ảnh hưởng gì đến vị trí của anh ta trong xã hội. Vì vậy, đối với văn nghệ sĩ, Nam Tư dễ chịu hơn Liên Xô nhiều.
Người nô lệ không có gì để chọn, anh ta buộc lòng phải chấp nhận sự băng hoại về mặt tinh thần. Nếu có ai quan tâm đến nguyên nhân vì sao một phần tư thế kỉ qua Liên Xô không có một tác phẩm nghệ thuật lớn nào (đặc biệt là trong văn học) thì người đó sẽ phát hiện ra rằng băng hoại trí thức đóng vai trò không nhỏ hơn (nếu không nói là lớn hơn) sự nô dịch.
Truy bức, bôi nhọ, buộc phải tự thú một cách nhục nhã (tự phê bình) những văn nghệ sĩ chân chính, đồng thời lôi kéo những kẻ dễ bảo bằng nhuận bút cao, phần thưởng lớn, nhà lầu, xe hơi, cho các chức vụ khác nhau...- bằng các chế độ ưu tiên như thế, hệ thống cộng sản đã lựa chọn được sự tầm thường, được những người chỉ biết phục tùng và không có khả năng sáng tạo.
Không có gì phải ngạc nhiên khi các văn nghệ sĩ lớn bị đặt trước sự lựa chọn giữa một cuộc sống đói khát (còn bị đe doạ suốt đời nữa) và “ân sủng” của các ông chủ, đã mất phương hướng và cùng với nó là niềm tin và sức mạnh vốn có của mình. Tự sát, tuyệt vọng, chạy trốn vào rượu chè, mất sự ổn định nội tâm, mất sự toàn vẹn của cá tính là kết quả của quá trình lừa dối và tự lừa dối - đấy là số phận của những người thực sự muốn và có thể tạo ra cái mới.
Tâm hồn con người buộc phải sáng tạo vì nó không thể không sáng tạo trong tuyệt vọng, nhưng dưới cái mặt nạ là chủ nghĩa lạc quan như thế đấy. Lương tâm con người tồn tại cả trong những những điều kiện như thế, đấy có phải là minh chứng rằng nó là bất khả chiến bại và đấy có phải là chỉ dấu về sự khốn cùng và bệnh hoạn của hệ thống không?
7.
Người ta thường cho rằng chuyên chính cộng sản thực hiện kì thị giai cấp một cách trắng trợn. Nhưng không hoàn toàn như vậy.
Theo thời gian, kì thị giai cấp ngày càng giảm, còn kì thị về tư tưởng thì ngày càng tăng. Quan niệm cho rằng chính quyền thuộc về giai cấp vô sản cũng sai như quan niệm cho rằng cộng sản truy bức con người chỉ vì họ thuộc về giai cấp tư sản. Không nghi ngờ rằng cộng sản đánh các giai cấp hữu sản, đặc biệt là tư sản. Nhưng những người đã đầu hàng, những người đã “cải tạo” vẫn có thể tìm được một chỗ “ấm cúng” và được chính quyền “thể tất”. Hơn thế nữa, cảnh sát mật thường lựa được các gián điệp tài ba, còn các ông chủ thì tìm được đầy tớ trong số “tư sản đã cải tạo” này. Nhưng những người nghi ngờ các quan điểm và biện pháp cộng sản thì đừng hòng được tha thứ. Ở đây thành phần xuất thân không quan trọng, chống quốc hữu hoá hay chỉ là những người quan sát vô tình cũng vậy mà thôi, tư tưởng là thống soái.
Cần phải nói thêm rằng sự truy bức các tư tưởng dân chủ và xã hội chủ nghĩa khác với cách nghĩ của tầng lớp chóp bu lại còn dữ dội hơn, mãnh liệt hơn cả cuộc đấu tranh với các quan điểm phản động nhất của những người ủng hộ chế độ cũ. Dễ hiểu, vì người ủng hộ chế độ cũ không nguy hiểm bằng, quan niệm của họ hướng về quá khứ, nó có thể gây phiền phức nhưng cơ hội để phục hồi, để chiến thắng là rất nhỏ.
Sau khi nắm được chính quyền, cộng sản liền tấn công tư hữu và bằng cách đó tạo ra ảo tưởng rằng họ làm thế là vì quyền lợi của người lao động. Nhưng sau này mới rõ rằng không hoàn toàn như thế, cơ sở của những hành động đó là ước muốn thống trị, mà thống trị chỉ có thể thực hiện thông qua kì thị về mặt tư tưởng chứ không phải giai cấp. Nếu vấn đề được đặt khác đi, thí dụ, thực sự trao tài sản vào tay người lao động, thì kì thị giai cấp sẽ chiếm thế thượng phong ngay.
Sự kiên trì kì thị về tư tưởng như thế có thể làm cho người ta nghĩ rằng cộng sản là một giáo phái tin tưởng tuyệt đối vào những điều răn duy vật-vô thần của mình và dùng sức mạnh ép buộc những người khác cũng tin như họ. Cộng sản hành động như một giáo phái nhưng thực ra không phải như vậy.
Hệ tư tưởng toàn trị không phải là kết quả của một hình thức quyền lực và sở hữu cụ thể. Tuy nó có đóng góp vào quá trình hình thành quyền lực và sở hữu, nhưng nó là chỗ dựa vững chắc nhất của quá trình phát triển đó. Kì thị về tư tưởng là điều kiện cần thiết sống còn của chế độ cộng sản.
Sẽ là sai lầm khi cho rằng các hình thức kì thị khác như chủng tộc, giai cấp, dân tộc là những kì thị nặng nề hơn kì thị về tư tưởng. Bề ngoài chúng có vẻ là như thế, nhưng các dạng kì thị đó chưa bao giờ đạt đến độ tinh vi và toàn diện như kì thị về tư tưởng. Các dạng kì thị đó chỉ ảnh hưởng đến những bộ phận nào đó của xã hội, trong khi kì thị về tư tưởng ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội và từng thành viên riêng biệt. Loại thứ nhất giày xéo con người về mặt thể xác. Kì thị tư tưởng đánh vào ngay cái Người nhất trong từng cá nhân. Khủng bố về mặt tinh thần là sự khủng bố dã man và toàn diện nhất, nó là sự khởi đầu và kết thúc của mọi sự khủng bố.
Trong hệ thống cộng sản, kì thị tư tưởng được thể hiện, một mặt, như là sự cấm đoán các tư tưởng “không phù hợp” và mặt khác, bắt buộc chấp nhận các tư tưởng của hệ thống. Đấy chỉ là hai khía cạnh rõ nhất của sự đàn áp không bút nào tả xiết được. Tư tưởng chính là sức sáng tạo có hiệu quả nhất. Sống, lao động, mà không suy nghĩ, không tưởng tượng là điều bất khả. Tuy phủ nhận, nhưng cộng sản vẫn phải tính đến đặc trưng ấy của con người. Vì vậy họ mới đàn áp mọi tư tưởng “không phù hợp”, nhất là khi những tư tưởng đó được đưa ra để giải quyết các vấn đề mà xã hội đang gặp phải.
Con người có thể sống trong nghèo nàn, thiếu thốn. Nhưng người ta không thể sống mà không nghĩ, không nói lên ý nghĩ của mình. Không có gì đau khổ hơn là buộc phải câm lặng, không có sự đàn áp nào dã man hơn việc bắt người ta phải từ bỏ các tư tưởng của mình và “nhai lại” suy nghĩ của kẻ khác.
Hạn chế tự do tư tưởng không chỉ là cuộc tấn công vào những nhóm chính trị hay xã hội cụ thể, mà là cuộc tấn công vào tính ngưới, tính nhân bản của con ngưới nói chung.
Dù thế, khát vọng tự do, tự do tư tưởng, khát vọng cải thiện và mở rộng sản xuất của con người không bao giờ phai nhạt, nó luôn luôn được thể hiện như một mệnh lệnh của những lực lượng nhất định. Nếu trong các chế độ cộng sản, các mệnh lệnh đó chưa có biểu hiện rõ ràng thì cũng không có nghĩa là chúng không tồn tại. Điều đó chỉ có nghĩa là chúng đang hình thành, đang vươn lên từ trong lòng nhân dân mà thôi. Sự áp bức toàn trị dường như đã xoá tan ranh giới giữa các tầng lớp nhân dân, nhân dân đang tập hợp lại để đòi tự do. Trong đó có tự do tư tưởng.
Lịch sử sẽ tha thứ cho những người cộng sản nhiều tội lỗi mà họ đã phạm do hoàn cảnh, do nhu cầu tự vệ, nhu cầu sống còn. Nhưng bóp nghẹt mọi quan điểm khác biệt, sự bất dung, sự độc quyền về tư tưởng chỉ để nhằm bảo vệ những quyền lợi ích kỉ của họ là những tội lỗi không thể tha thứ. Chủ nghĩa cộng sản sẽ phải đứng chung một hàng với những tội lỗi nhục nhã khác trong lịch sử: toà án giáo hội và các đống lửa thiêu người thời Trung cổ. Cộng sản có thể giành được vị trí “vinh quang nhất” trong đám ấy.
No comments:
Post a Comment