Trích tác phẩm Power vs. Force của David R. Hawkins, Thaihabooks ấn hành, Phạm Nguyên Trường dịch, 2022.
Kinesiology:
danh từ. Cơ thể động học - Nghiên cứu các cơ và chuyển động của chúng, đặc biệt
là để ứng dụng cho việc rèn luyện các cơ bắp. [Xuất phát từ tiếng Hy Lạp:
Kinesis, vận động (kinein, động từ vận động) + -logy] .
Nửa sau thế kỉ XX, lần
đầu tiên giới khoa học chú ý tới nghiên cứu về cơ thể động học là do công trình
của Tiến sĩ George Goodheart, người đi tiên phong trong lĩnh vực mà ông gọi là
cơ thể động học ứng dụng (applied kinesiology), sau khi phát hiện được rằng
kích thích vật lý tốt lành - ví dụ, thực phẩm bổ sung có lợi - có thể làm cho một
số cơ chỉ thị nào đó mạnh lên, trong khi các kích thích có hại có thể làm cho
những cơ chỉ thị này đột ngột yếu đi . Hàm ý ở đây là, ở tầng rất sâu bên dưới
ý thức dựa trên khái niệm, cơ thể “đã biết” và báo hiệu - thông qua quá trình
kiểm tra các cơ - cái gì tốt và cái xấu đối với những cơ này. Ví dụ kinh điển
(sẽ được trích dẫn trong phần sau) được nhiều người nhận ra là các cơ chỉ thị yếu
đi khi thí nghiệm được tiến hành mà cạnh đó có đường hóa học, trong khi các cơ
này lại mạnh lên khi thí nghiệm được tiến hành mà cạnh đó có thực phẩm bổ sung
tự nhiên, lành mạnh.
Cuối những năm 1970, Tiến
sĩ John Diamond đã chau truốt lĩnh vực này thành một môn học mới mà ông gọi là
Cơ thể động học hành vi (behavioral kinesiology). Phát hiện đáng chú ý của Tiến
sĩ Diamond là các cơ chỉ thị có thể mạnh lên hoặc yếu đi khi có các kích thích
liên quan đến cảm xúc và trí tuệ – tích cực hoặc tiêu cực – tương tự như các
kích thích vật lý . Một nụ cười có thể làm bạn mạnh lên – trong khi câu “Tôi
ghét anh” lại khiến bạn yếu đi.
Trước khi tiếp tục, xin
được giải thích chi tiết cách thức “kiểm tra”, nhất là khi độc giả cũng muốn tự
mình thực hiện. Những nét chính của quy trình được Tiến sĩ Diamond áp dụng -
tác phẩm Your Body Doesn’t Lie (tạm dịch: Cơ thể bạn không nói dối), xuất bản
năm 1979 – được trình bày trong tác phẩm mang tính kinh điển: Muscles: Testing
and Function (tạm dịch: Cơ: Kiểm tra và chức năng) của H. O. Kendall
(Baltimore: Williams & Wilkins, 2nd ed., 1971).
Phải có hai người thì mới
tiến hành kiểm tra được. Hãy chọn một người bạn hoặc người thân trong gia đình.
Chúng ta sẽ gọi người đó là đối tượng.
1. Để đối tượng đứng thẳng, tay phải buông
thõng bên người, tay trái đưa ngang, song song với sàn nhà, cùi chỏ thẳng (có
thể dùng tay kia, nếu muốn).
2. Đứng trước mặt đối tượng và đặt tay
trái của bạn lên vai phải của đối tượng để giữ chắc người đó. Rồi đặt tay phải
của bạn lên đúng cổ tay trái đang duỗi ra của đối tượng.
3. Nói với đối tượng rằng bạn sẽ cố gắng ấn
tay trái của người đó xuống, còn người đó sẽ hết sức chống lại.
4. Rồi ấn tay của người đó xuống thật
nhanh, kiên quyết và đều lực. Ấn đủ mạnh nhằm kiểm tra lực đẩy và đàn hồi của
cánh tay, nhưng không mạnh đến mức làm cho cơ bị mỏi. Vấn đề không phải là ai mạnh
hơn mà là để xem cơ tay có thể “khóa chặt” với khớp vai nhằm chống lại lực đẩy
hay không.
Giả sử cơ đó không có vấn
đề gì về mặt vật lý và đối tượng có tâm trạng bình thường, thoải mái, không có
kích thích từ bên ngoài (đấy là lý do vì sao người tiến hành kiểm tra không được
cười hoặc có bất kì tương tác nào khác với đối tượng), thì cơ sẽ thử mạnh (test
strong) – cánh tay sẽ nằm yên như cũ. Nếu tiến hành kiểm tra mà cạnh đó có các
kích thích tiêu cực (ví dụ, đường hóa học), thì “mặc dù lần này bạn ấn không mạnh
như lần trước, cơ vẫn sẽ không thể chống lại được lực ấn và cánh tay của đối tượng
sẽ buông xuống” (thử yếu – test weak).
Đáng chú ý là, các đối
tượng trong công trình nghiên cứu của Diamond có phản ứng giống nhau. Kết quả
có thể dự đoán được, lặp đi lặp lại và giống nhau đối với tất cả các đối tượng.
Xảy ra ngay cả khi kích thích và phản hồi không có mối liên hệ duy lý nào.
Không hiểu vì lý do gì mà một số biểu tượng trừu tượng lại làm cho tất cả các đối
tượng đều “thứ yếu” trong khi những biểu tượng khác thì ngược lại. Một số kết
quả làm người ta lúng túng: một số tranh ảnh với nội dụng không hoàn toàn tích
cực cũng không hoàn toàn tiêu cực có thể làm cho tất cả các đối tượng đều thử yếu,
trong khi những hình ảnh “trung tính” khác lại làm cho tất cả các đối tượng đều
thử mạnh. Và một số kết quả trở thành cơ sở cho phỏng đoán có giá trị: Trong
khi gần như toàn bộ âm nhạc cổ điển và hầu hết nhạc Pop (trong đó có cả rock
and roll “cổ điển”) đều làm cho tất cả các đối tượng đểu phản ứng mạnh, thì nhạc
rock “hard” hay “metal” rock - phổ biến hồi cuối những năm 1970 – lại làm cho tất
cả các đối tượng đều phản ứng yếu.
Diamond còn nhắc tới một
hiện tượng nữa, mặc dù ông không phân tích sâu những hàm ý khác thường của nó.
Các đối tượng đều có kết quả thử yếu khi nghe các đoạn băng ghi âm những lời dối
trá mà mọi người đều biết -), Edward
Kennedy bao biện vụ tai nạn ở Chappaquiddick. Còn khi nghe những đoạn băng ghi
âm các tuyên bố rõ ràng là chân thực, thì đều có kết quả thử mạnh . Đây là xuất
phát điểm của công trình nghiên cứu của tác giả cuốn sách này – ông David R.
Hawkins, một Tiến sĩ và nhà tâm thần học nổi tiếng. Năm 1975, Tiến sĩ Hawkins bắt
đầu nghiên cứu về phản ứng cơ thể động học (kinesiologic response) đối với sự
thật và giả dối.
Các lần kiểm tra được
tiến hành sao cho các đối tượng không biết gì về cái (hay vấn đề) được được đem
ra đánh gía. Trong các công trình nghiên cứu hoàn toàn khách quan – và trong
các buổi trình diễn trước các khán giả – tất cả các đối tượng đều thử yếu trước
các phong bì chứa đường hóa học và thử mạnh trước các phong bì chứa giả dược giống
y như mấy phong bì kia. Phản ứng tương tự cũng xuất hiện trong những lần kiểm
tra các giá trị mang tính trí tuệ. (Trang 10-13)
Thông
tin tổng quát
Trường năng lượng của ý
thức có vô số chiều kích. Một số tầng cụ thể tương quan với ý thức của con người
được hiệu chỉnh từ 1 đến 1.000 (Xem Phụ lục B: Bản đồ ý thức). Những trường
năng lượng này phản ánh và thống trị ý thức của con người.
Vạn vật trong vũ trụ đều
phát ra một tần số cụ thể hoặc trường năng lượng cực nhỏ vĩnh viễn được lưu lại
trong lĩnh vực ý thức. Do đó, mỗi người hoặc sinh vật đã từng sống và bất cứ điều
gì liên quan đến họ, trong đó, bất kỳ sự kiện, suy nghĩ, hành động, cảm giác hoặc
thái độ nào đều được vĩnh viễn ghi lại và có thể được truy xuất tại bất kỳ thời
điểm nào trong hiện tại hoặc tương lai.
Kỹ
thuật
Phản ứng kiểm tra cơ là
phản ứng “có” hoặc “không có” (không) trước một tác nhân kích thích cụ thể nào
đó. Kiểm tra bằng cách bảo đối tượng đưa thẳng cánh tay ra đằng trước, người kiểm
tra dùng hai ngón tay ấn nhẹ xuống cổ tay của cánh tay mà đối tượng đang đưa
ra. Thường thì tay kia của đối tượng cầm chất cần kiểm tra và đặt lên vùng bụng
ở phía dưới xương sườn (solar plexus – đám rối dương). Người kiểm tra nói với đối
tượng kiểm tra: “Chống lại” nếu chất được kiểm tra có lợi cho đối tượng, cánh
tay sẽ mạnh mẽ, tức là khó ấn xuống. Nếu nó không có lợi hoặc nó có tác dụng
ngược, cánh tay sẽ yếu đi, tức là dễ bị ấn xuống. Phản ứng diễn rất nhanh.
Điều quan trọng cần lưu
ý là ý định, cũng như cả người kiểm tra và người được kiểm tra đều phải có điểm hiệu chỉnh trên 200 thì phản ứng
mới chính xác.
Kinh nghiệm từ các nhóm
thảo luận trực tuyến cho thấy, nhiều nhà nghiên cứu thu được kết quả không
chính xác. Nghiên cứu thêm cho thấy, ở điểm 200, vẫn có 30% khả năng bị lỗi. Tầng
ý thức của nhóm kiểm tra càng cao thì kết quả càng chính xác. Tốt nhất là những
người tham gia đều có thái độ vô tư, tuyên bố trước khi nói ra điểm hiệu chính
như sau: “Nhân danh điều tốt đẹp nhất, điểm đúng của… Hơn 100, hơn 200”, v.v..
Đặt trong bối cảnh “nhân danh điều tốt đẹp nhất” làm gia tăng mức độ chính xác,
vì nó siêu việt mọi lợi ích và động cơ tư lợi cá nhân.
Suốt nhiều năm, người
ta đều nghĩ rằng bài kiểm tra này chỉ là phản ứng cục bộ của hệ kinh mạch hoặc
hệ thống miễn dịch của cơ thể. Nhưng, một công trình nghiên cứu sau này đã tiết
lộ rằng, phản ứng đó hoàn toàn không phải là phản ứng cục bộ với cơ thể mà là
phản ứng tổng thể của bản thân ý thức đối với năng lượng của một chất hoặc một
lời tuyên bố. Cái gì đúng, cái gì có lợi hoặc hỗ trợ đời sống thì tạo ra phản ứng
tích cực, xuất phát từ khu vực phi cá nhân của ý thức, vốn hiện diện trong tất
cả mọi người đang sống. Cơ bắp trong cơ thể mạnh lên chứng tỏ rằng phản ứng là
tích cực. Đồng tử cũng có phản ứng (dối trá thì đồng tử giãn ra và sự thật thì
đồng tử co lại), chụp ảnh cộng hưởng từ cũng phát hiện được thay đổi trong chức
năng của não bộ. (Để cho tiện, người ta thường dùng cơ delta [còn gọi là cơ
vai, cơ bả vai – ND] làm cơ chỉ thị; tuy nhiên, có thể sử dụng bất kỳ cơ nào).
Trước khi đưa ra câu hỏi
(dưới dạng một lời tuyên bố), cần xin phép; tức là, nói: “Tôi xin phép hỏi về
những điều tôi đang nghĩ”(Có/Không). Hoặc: “Công cuộc hiệu chính này nhằm phục
vụ cho những điều cao cả nhất”.
Nếu lời tuyên bố là sai
hoặc một chất mà đối tượng đang cầm có hại, thì các cơ bắp yếu đi một cách
nhanh chóng nhằm phản ứng trước mệnh lệnh: “Chống lại”. Kết quả này chứng tỏ rằng,
tác nhân kích thích là tiêu cực, không đúng sự thật, phản sự sống hoặc câu trả
lời là “không”. Phản ứng diễn ra rất nhanh. Sau đó, cơ thể sẽ phục hồi nhanh
chóng và cơ bắp căng lên như bình thường.
Có ba cách kiểm tra.
Phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu và cũng thường được sử dụng nhất cần
hai người: người kiểm tra và đối tượng được kiểm tra. Không gian nên yên tĩnh
và không có nhạc nền. Đối tượng được kiểm tra nhắm mắt lại. Người kiểm tra phải
đưa ra câu hỏi dưới dạng một lời tuyên bố. Phản ứng của cơ bắp chính là câu trả
lời “có” hoặc “không”. Ví dụ, không được hỏi: “Đây có phải là một con ngựa khỏe
mạnh không?”. Mà phải nói: “Con ngựa này khỏe”, hoặc ngược lại: “Con ngựa này ốm
yếu”.
Sau khi đưa ra tuyên bố,
người kiểm tra nói với đối tượng kiểm tra đang đang đưa thẳng cánh tay song
song với đất: “Chống lại”. Người kiểm tra ấn nhanh và nhẹ hai ngón tay lên cổ
tay của cánh tay đang đưa ra. Cánh tay của đối tượng kiểm tra giữ chắc là “có”
còn yếu đi là “không có” (không). Phản ứng xảy ra ngay tức thì.
Phương pháp thứ hai là
gọi là vòng chữ O, một người có thể làm được. Cong ngón cái và ngón giữa trên
cùng một bàn tay thành hình chữ O, rồi níu chặt vào nhau. Sau đó móc ngón trỏ của
bàn tay kia vào vòng O và tìm cách kéo hai ngón tay ra xa nhau. Lực giữa phản ứng
“có” và “không” khác nhau đáng kể.
Phương pháp thứ ba là
phương pháp đơn giản nhất, nhưng cũng như các phương pháp còn lại, phải luyện tập
thì mới thành thục. Chỉ cần nâng một vật nặng, ví dụ, cuốn từ điển dày hoặc vài
viên gạch, từ mặt bàn lên tới thắt lưng. Nghĩ về một hình ảnh hoặc câu nói đúng
cần tính điểm và sau nâng vật nặng kia lên. Sau đó, ngược lại, nghĩ về một điều
gì đó đã biết trước là sai. Để ý rằng, khi sự thật hiện lên trong tâm trí thì
nâng một cách nhẹ nhàng, nhưng khi nghĩ đến cái sai (không đúng) thì phải cần
nhiều sức hơn. Có thể dùng hai phương pháp đã nói bên trên để kiểm tra kết quả.
(Trang 354-357)
nghị lực rất quan trọng
ReplyDeleteRất hữu ích, xin cảm ơn tác giả!
ReplyDelete