July 20, 2019

SỐ PHẬN CỦA VIỆT NAM (Phần 1)

Chương II, Tác phẩm Vạc Dầu Châu Á (trang 96 – 124)


Ấn tượng về Hà Nội là mang tính ký ức: điều mà thủ đô của Việt Nam lưu giữ trong sự đóng băng khung hình chính là tiến trình lịch sử của nó. Tôi không có ý rằng lịch sử chỉ đơn thuần như là hồi trống của các triều đại kế tiếp nhau và những cuộc cướp phá dựa theo thuyết định mệnh và được quyết định trên phương diện địa lý; và lịch sử cũng không phải như là sự tổng kết về những hành động cá nhân dũng cảm và những tính toán cân não. Các bản đồ, mô hình và tấm bia xám lớn trong Bảo tàng Lịch sử tưởng niệm về cuộc kháng chiến khắc khoải chống lại các đế chế nhà Tống , nhà Minh và nhà Thanh của Trung Quốc, trong các thế kỷ thứ XI, XV và XVIII: cho dù Việt Nam bị sáp nhập vào Trung Quốc cho đến thế kỷ thứ X, nhưng từ sau đó bản sắc chính trị riêng biệt của Việt Nam so với đế chế Trung Hoa cổ xưa đã luôn là điều gì đó của một phép lạ mà không một lý thuyết nào của quá khứ có thể giải thích thỏa đáng.

Nhiều tấm bia được dựng lên vào cuối thế kỷ thứ XV trong Văn Miếu , đã cứu vớt một cách đầy xúc động những cái tên và đóng góp của 82 học giả thời Trung cổ khỏi sự quên lãng. Thực tế tồn tại một sức mạnh đặc biệt về trí tưởng tượng lịch sử Việt Nam. Nét thâm trầm và sự xô bồ của đền Ngọc Sơn (ngôi đền tưởng niệm chiến thắng trước nhà Nguyên của Trung Quốc vào thế kỷ thứ XIII), với tượng Đức Phật tráng đồng chìm ngập giữa những hương trầm, vàng lá, gỗ màu đỏ thẫm và bao vòng quanh là một hồ nước đầy lá với sương mù dày đặc, tạo dựng sự chuẩn bị về mặt tinh thần cho lăng mộ chân phương hơn của chính cụ Hồ Chí Minh . Hồ Chí Minh, một trong những thanh niên vĩ đại của thế kỷ XX và một trong những người thực tế tuyệt vời của lịch sử, đã hợp nhất chủ nghĩa Mác , Nho giáo và chủ nghĩa dân tộc thành một thứ vũ khí chống lại quân Trung Quốc, Pháp và Mỹ, đặt nền móng cho những cuộc kháng chiến thành công của Việt Nam chống lại ba đế quốc mang tầm vóc thế giới. Những bức tượng Hồ Chí Minh mạ vàng giống như Đức Phật chiếm nhiều không gian trong các phòng họp chính thức tại thủ đô này. Lăng mộ của ông nổi lên giữa những nhà thờ và tòa nhà kiểu châu Âu được quét vôi trắng hàng thế kỷ trước, từng một thời là trung tâm đầu não chính trị của Đông Dương thuộc Pháp, một công trình không chắc chắn mà Paris đã cố gắng một cách dũng cảm, kiên trì để duy trì sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai , gây ra một cuộc chiến tranh chống người dân Việt với kết cuộc là sự kiện rất bẽ mặt đối với Pháp: Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.

Đông Dương thuộc Pháp còn bao gồm Lào và Campuchia, nhưng cũng giống như Hà Nội là thủ phủ chính trị của khu vực, thì Sài Gòn là thủ phủ thương mại. Nói cách khác, Việt Nam chiếm địa vị chi phối Đông Dương, với việc các lực lượng người Thái và Khơme , như một vài ví dụ, thường hợp tác với Trung Quốc để chống lại sức mạnh của Việt Nam. Thực tế, trong khi Hoa Kỳ đã chiến đấu để duy trì một Việt Nam Cộng hòa độc lập chống lại miền Bắc theo chủ nghĩa cộng sản , một nước Việt Nam thống nhất nổi lên dưới sự kiểm soát của cộng sản với thất bại của Mỹ hóa ra lại sẽ là một mối đe dọa cho Trung Quốc lớn hơn nhiều so với Mỹ. Đó là dấu ấn về sự vận động phát triển của Việt Nam trong khu vực.

Ngoài những dinh thự Pháp cũ, những nỗ lực mới nhất mang tính lâu dài chống lại định mệnh lịch sử cũng đang diễn ra: khu vực thương mại ồn ào, náo nhiệt của Hà Nội, với hàng đoàn xe máy cá nhân – những người lái xe đang nhắn tin trên điện thoại trong tình trạng ùn tắc giao thông – và diện mạo tân tiến nhất đang dần xâm nhập khu mặt tiền lộn xộn cũ kỹ buồn tẻ của các cửa hàng. Đây là giai đoạn tư bản chủ nghĩa tiền chuỗi cửa hàng, với các quán cà phê ở khắp mọi nơi - mỗi quán có phong cách, thiết kế khác nhau – cung cấp một số loại cà phê ngon nhất thế giới, nhưng chưa thấy bóng dáng của Starbucks. Hà Nội, dù xuyên suốt cả chiều dài lịch sử, không phải là bảo tàng ngoài trời như các thành phố lớn của châu Âu. Nó vẫn đang loay hoay trong quá trình chuyển đổi, gần giống với thời hỗn mang rối bời của Ấn Độ hơn là sự khô cằn đến khó gần của Xin-ga-po . Người Việt hiện đang dò dẫm tìm hướng đi đến với thế giới thứ nhất (trở thành nước công nghiệp giàu có – người dịch), rõ ràng là vì lợi ích của chính bản thân và gia đình họ, nhưng cũng để giữ gìn nền độc lập của họ trước một Trung Quốc không kém phần năng động.

Hà Nội, như bấy lâu nay kể từ thời cổ đại, vẫn là một thành phố của những tính toán cân não về chính trị: những cái giá phải trả ngày nay của một cường quốc tầm trung tiềm năng - quốc gia đông dân thứ mười ba trên thế giới - với một bờ biển dài nằm ở nút giao của các tuyến hàng hải quan trọng và gần với các khu dự trữ năng lượng ngoài khơi. Việt Nam là “tay chơi chính” của Đông Nam Á trong tranh chấp biển Đông , khẳng định chủ quyền trên cả hai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa , “dựa trên cứ liệu lịch sử có niên đại ít nhất là từ thế kỷ thứ XVII”, các học giả Clive Schofield và Ian Storey viết. Một quan chức hàng đầu của Mỹ nói với tôi “nếu Trung Quốc có thể ngăn chặn Việt Nam, họ sẽ giành được Biển Đông”. “Ma-lai-xia đang cố né tránh vấn đề, Brunei đã giải quyết vấn đề của mình với Trung Quốc, In-đô-nê-xia không có chính sách đối ngoại rõ ràng về vấn đề này, Phi-lip-pin không có nhiều lá bài để chơi bất chấp những tuyên bố khiêu khích và hành động quyết liệt khéo léo của nước này, Xin-ga-po có khả năng nhưng quy mô lại nhỏ”. Nói cách khác, tất cả đều phụ thuộc vào Việt Nam.

 Việt Nam, tay chơi chính trong tranh chấp Biển Đông

Sự tiến đến thời khắc này của Việt Nam là dần dần từng bước. Ngô Quang Xuân , Phó Chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại của Quốc hội , nói với tôi rằng năm mấu chốt đối với Việt Nam đương đại không phải là năm 1975, khi miền Bắc theo chủ nghĩa cộng sản tràn sang chiếm đóng miền Nam Việt Nam; mà chính là năm 1995, khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ, gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và tham gia vào một thỏa thuận “khung” với Liên minh châu Âu . “Nói cách khác, chúng tôi đã hội nhập thế giới”. Ông ấy thừa nhận rằng trước những quyết định này, “chúng tôi đã có nhiều cuộc bàn thảo khó khăn trong nội bộ”. Theo như các quan chức Việt Nam giải thích với tôi qua một loạt các cuộc hội thoại trong một vài tuần, cho dù có liên tiếp chiến thắng quân Pháp và quân Mỹ thì sự thật là những người cộng sản Việt Nam luôn cảm thấy bị hạ thấp bởi những sự kiện sau đó.

Hãy xem xét: Việt Nam đã tràn sang Campuchia vào năm 1978, giải phóng đất nước này khỏi sự diệt chủng điên rồ của chế độ Khơme Đỏ Pol Pot. Mặc dù cuộc xâm chiếm đó là một hành động mang tính hiện thực không thương tiếc – vì Khơme Đỏ thân Trung Quốc là một mối đe dọa chiến lược đối với Việt Nam – nhưng nó lại có tác động nhân đạo rất rộng lớn và tích cực. Tuy nhiên, vì chính hành vi nhân từ mang tính then chốt này, Việt Nam vốn thân Liên Xô đã bị cấm vận bởi một liên minh ủng hộ Trung Quốc trong đó có Hoa Kỳ vốn đã nghiêng về phía Bắc Kinh từ sau chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Richard Nixon năm 1972. Năm 1979, chính Trung Quốc đã xâm chiếm Việt Nam nhằm ngăn chặn Việt Nam tiến quân qua Campuchia đến Thái Lan . Trong khi đó, Liên Xô đã không đến trợ giúp cho chính quyền ở Hà Nội vốn chịu ảnh hưởng của Liên Xô. Việt Nam lúc bấy giờ bị cô lập về mặt ngoại giao, mắc kẹt trong một vũng lầy gây tiêu hao sinh lực ở Campuchia và hứng chịu gánh nặng từ sự nghèo đói cùng cực, chủ yếu là kết quả của chủ nghĩa quân phiệt của chính Việt Nam. Đến thăm Hà Nội vào những năm 1970, Thủ tướng Xin-ga-po lúc bấy giờ, Lý Quang Diệu , viết rằng ông nhận thấy các nhà lãnh đạo Việt Nam là “không thể chịu đựng được”, tự kiêu hãnh là “những người Phổ” của Đông Nam Á. Nhưng theo như các nhà lãnh đạo Việt Nam nói với tôi, sự kiêu ngạo đó không tồn tại lâu. Với tình trạng thiếu lương thực trầm trọng và sự sụp đổ của Đế chế Xô Viết trong năm 1989 - 1991, Việt Nam cuối cùng buộc phải rút quân đội của mình ra khỏi Campuchia . Việt Nam lúc bấy giờ hoàn toàn không có bạn bè, chiến thắng trước những người Mỹ đã là một kí ức xa vời. Một nhà ngoại giao Việt giải thích “cảm giác chiến thắng trong cuộc chiến ấy luôn bị lắng xuống vì chưa bao giờ có một phần thưởng hoà bình”.

Một nhà ngoại giao phương Tây nói với tôi “người Việt không quên những ký ức liên quan đến cuộc chiến chống Mỹ những năm 1960 và 1970”. “Mà đúng hơn là một thế hệ người Mỹ nhất định vẫn đang bị mắc kẹt trong ký ức quá khứ”. Người Việt Nam đã không quên rằng 20 phần trăm đất nước của họ là không thể ở được vì số bom đạn Mỹ chưa nổ ; hoặc vì ảnh hưởng của chất độc da cam gây rụng lá, không bao giờ có thứ gì có thể phát triển trên những phần đất đáng kể. Ba phần tư trong tổng số dân Việt được sinh ra sau “chiến tranh chống Mỹ”, theo cách gọi của người Việt về cuộc chiến với Mỹ nhằm phân biệt nó với tất cả những cuộc chiến khác mà họ đã chiến đấu trước và sau đó. Và một tỷ lệ phần trăm thậm chí còn lớn hơn không có ký ức gì về cuộc chiến đó.

Các sinh viên và cán bộ trẻ tôi từng gặp tại Học viện Ngoại giao Việt Nam , một nhánh thuộc Bộ Ngoại giao , theo trình tự thời gian ngày càng không còn liên quan gì đến cuộc chiến tranh chống Mỹ, xa cách hơn nhiều so với thế hệ trẻ từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai . Trong một buổi trao đổi với tôi theo kiểu cuộc họp đại chúng, trên thực tế, họ thỉnh thoảng chỉ trích Hoa Kỳ: nhưng vì những lý do không liên quan gì đến cuộc chiến chống Mỹ. Họ tức giận vì Mỹ đã không can thiệp chống lại Trung Quốc vào những năm 1990 khi Bắc Kinh thách thức quyền sở hữu bãi Vành Khăn của Phi-lip-pin , thuộc quần đảo Trường Sa ở biển Đông; và rằng nước Mỹ đã không gắn kết hơn về mặt kinh tế và ngoại giao với Myanmar trước năm 2011, để ngăn chặn nước này trở thành một vệ tinh của Bắc Kinh . Một sinh viên tổng kết: “sức mạnh Hoa Kỳ là cần thiết cho an ninh thế giới”. Thật vậy, một sinh viên và cán bộ tại Học viện Ngoại giao lần lượt đều sử dụng thuật ngữ “cân bằng quyền lực (trong tương quan với Trung Quốc)” để mô tả Hoa Kỳ. Một nhà phân tích nữ nói, “người Trung Quốc quá mạnh, quá hung hăn”, “đó là lý do tại sao một nền hòa bình dưới sự thống trị của Trung Quốc là sự đe dọa rất lớn đối với chúng tôi”.

Giáo sư Carlyle A. Thayer của Học viện Lực lượng Quốc phòng Úc ở Canberra viết: cả Việt Nam và Hoa Kỳ “cùng chia sẻ lợi ích trong việc ngăn chặn Trung Quốc thống trị các tuyến đường thương mại trên biển và thực thi các yêu sách lãnh thổ thông qua ép buộc”. “Việt Nam nhìn nhận sự hiện diện của Mỹ như là một hàng rào chống lại sức mạnh quân sự đang ngày càng gia tăng của Trung Quốc”.

David Lamb, người đã đưa tin về cuộc chiến trong những năm 1960 và trở lại trong những năm 1990 với vai trò là phóng viên Thời báo Los Angeles tại Hà Nội , viết rằng “người Việt Nam”, chỉ đơn thuần là “thích người Mỹ… Họ đã mất 3 triệu dân [một phần mười bị giết hoặc bị thương], bị dội liên tiếp 15 triệu tấn đạn dược - gấp đôi trọng lượng đạn dược được thả xuống trên cả châu Âu và châu Á trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai - và trải qua một cuộc chiến đã tạo ra 7 triệu người tị nạn ở Việt Nam Cộng hòa và phá hủy nền công nghiệp và cơ sở hạ tầng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa . Ông viết tiếp “tuy nhiên, họ đã bỏ cuộc chiến lại phía sau theo cái cách mà nhiều người Mỹ đã không làm được. Các bệnh viện của họ không đầy ắp các cựu chiến binh bị sang chấn tâm lý hậu chiến và họ không có đài tưởng niệm quốc gia như kiểu Bức tường Chiến tranh Việt Nam ở Washington. Họ không viết sách về cuộc chiến. Các cựu chiến binh không tụ tập quanh những vại bia và trò chuyện về cuộc chiến đó. Học sinh nghiên cứu nó chỉ trên một trang giấy ngắn gọn trong lịch sử 2.500 năm của đất nước họ”.

Thật vậy, khá nhiều người châu Âu và các thành viên Cánh tả Mỹ (the American Left) với sự hoài nghi và bực tức luôn xem Hoa Kỳ là hoàn toàn không tồn tại ở Việt Nam. Tóm lược thái độ chung này, Nguyễn Đức Hùng , một cựu Đại sứ tại Canada , nói với tôi: “trong khi người Việt mở rộng dần về phía Nam trong nhiều thế kỷ để xác lập mình như một quốc gia, thì người Mỹ mở rộng về phía Tây và điều đó không phải là vì vàng ở California, mà đó là vì sự tự do”.

Tuy nhiên, trong khi Mỹ đóng vai trò không đáng kể trong quá khứ của Việt Nam, thì Trung Quốc lại chiếm phần rất quan trọng. Chính thuật ngữ Đông Dương là chính xác ở mức độ nhất định khi mà sự ảnh hưởng của Ấn Độ rõ ràng xuyên suốt phần còn lại của Đông Nam Á, trong khi sự ảnh hưởng của Trung Quốc lại tập trung phần lớn ở miền bắc Việt Nam . Nó sẽ cần “giai đoạn hỗn loạn kéo dài” hậu kỳ triều nhà Đường và thời kỳ bán hỗn loạn tiếp theo của Ngũ Đại Thập Quốc vào thế kỷ thứ X ở Trung Quốc để một nhà nước Việt Nam độc lập có thể định hình. “Điểm nhấn mang tính chi phối của lịch sử chính thống Việt Nam là về sự phản kháng, hầu như luôn nhằm chống lại Trung Quốc”, Robert Templer viết trong một cuốn sách tiên phong về Việt Nam đương đại có nhan đề Bóng và Gió : Một cái nhìn về Việt Nam hiện đại. “Nỗi sợ hãi về sự đô hộ luôn dai dẳng và đã vượt qua mọi khoảng cách về ý thức hệ, nó đã tạo ra những cảm giác lo lắng và phòng vệ về bản sắc Việt”. Nỗi lo sợ của người Việt về Trung Quốc thật sự rất lớn bởi vì Việt Nam không thể thoát khỏi vòng tay của quốc gia láng giềng khổng lồ phương Bắc có dân số gấp mười lăm lần so với Việt Nam. Người Việt biết rằng địa lý quyết định các điều kiện về mối quan hệ của họ với Trung Quốc: họ có thể giành phần thắng trong trận chiến, nhưng sau đó họ vẫn luôn đến Bắc Kinh để cống nạp. Đó là một tình huống lạ lẫm đối với Mỹ - một quốc gia gần giống như đảo.

Một nhà ngoại giao Việt khác giải thích: “Trung Quốc xâm chiếm Việt Nam mười bảy lần. Mỹ xâm chiếm Mexico chỉ một lần và hãy xem mức độ nhạy cảm của người Mexico về điều đó. Chúng tôi lớn lên với những cuốn sách giáo khoa đầy ắp những câu chuyện về các anh hùng dân tộc đã chiến đấu với Trung Quốc”. Hay như một chuyên gia phương Tây về Việt Nam đã nói: “Hãy nghĩ đến mức nhạy cảm của người Canada về Mỹ, bây giờ hãy tưởng tượng nếu Mỹ đã nhiều lần đưa quân vào Canada”.

Mối thù trong lịch sử Việt đối với Trung Quốc, một phần, được thêu dệt một cách giả tạo: người Việt ngày nay nhấn mạnh những cuộc kháng chiến chống lại sự đô hộ của Trung Quốc thời trung cổ và tiền hiện đại, trong khi lại hạ thấp về nhiều thế kỷ “theo đuôi” Trung Quốc và các mối quan hệ tốt đẹp với nó, nhằm phục vụ các nhu cầu về một bản sắc nhà nước đậm nét. Tuy nhiên, hầu như không thể phủ nhận cái cảm xúc mạnh khiến người Việt lên tiếng quan ngại về người hàng xóm phương Bắc của họ.

Bản sắc Việt độc đáo ở chỗ nó đã được hình thành “thông qua và đối lập với” sự ảnh hưởng của Trung Quốc, theo từ ngữ trong một báo cáo của Tập đoàn truyền thông Anh (BBC) . Bản thân Việt Nam khởi đầu như một tiền đồn phía nam của văn hóa Trung Hoa . Nó bị sáp nhập bằng vũ lực vào Đế chế nhà Hán của Trung Quốc năm 111 trước Công nguyên. Từ thời điểm đó trở đi, Việt Nam đã bị Trung Quốc chiếm đóng hoặc dưới ách thống trị của nước này trong tình trạng chư hầu gần một thiên niên kỷ, cho đến khi, như tôi đã nói, Việt Nam cuối cùng tự giải phóng trong thời kỳ cuối triều đại nhà Đường của Trung Quốc năm 939 sau Công nguyên. Sau đó, Neil L. Jamieson, cựu học giả Đại học George Mason đã ghi nhận trong tác phẩm Hiểu biết về Việt Nam rằng các triều đại Việt như Lý, Trần, Lê có uy thế thực sự nhờ vào sự phản kháng đối với sự kiểm soát của Trung Quốc từ phía bắc, đẩy lùi làn sóng các đội quân hùng hậu về số lượng. Người Việt Nam không phải lúc nào cũng thành công: sự chiếm đóng của nhà Minh giữa các năm 1407 và 1427 là bằng chứng về cách người Trung Quốc cuối thời trung cổ không bao giờ chấp nhận sự độc lập của Việt Nam. Điều làm sáng rõ sự thừa nhận một nước Việt Nam độc lập của triều nhà Thanh vào thế kỷ XIX là sự khẳng định của các nhà lập bản đồ người Pháp về việc phân định phần lãnh thổ Đông Dương của riêng Việt Nam tách bạch với lãnh thổ của Trung Quốc.

Keith Weller Taylor - một chuyên gia khu vực thuộc Đại học Cornell - đã viết trong cuốn sách Sự khai sinh của Việt Nam rằng “những ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam bao trùm trên tất cả các khía cạnh của nền văn hóa, xã hội và chính quyền, từ những đôi đũa người nông dân sử dụng đến những cây bút lông của các học giả và quan chức”. Tên dòng họ gia đình người Việt, từ vựng, ngữ pháp, cũng như các thể loại nghệ thuật và văn học đều phản ánh ảnh hưởng sâu sắc từ Trung Quốc. Thật vậy, văn chương Việt Nam “thấm đậm” nét di sản Nho giáo cổ điển của Trung Quốc. Tiếng Trung từng là ngôn ngữ học thuật của Việt Nam giống như tiếng Latin từng là ngôn ngữ học thuật ở châu Âu: dù thực tế rằng cùng với tiếng Trung Quốc, thì ngôn ngữ tiếng Việt còn có các gốc ngôn ngữ Môn Khơme và Thái. Vượt qua tất cả những điều đó, văn hóa nông dân Việt Nam vẫn lưu giữ nét độc đáo của nó đến một mức độ lớn hơn so với văn hóa của tầng lớp tinh hoa Việt. Theo lời giải thích của Victor Lieberman - chuyên gia về Đông Nam Á thuộc Đại học Michigan , trong tầng lớp tinh hoa đó, các quy tắc hành chính Trung Quốc “đã được tiếp thu đến mức mà nguồn gốc ngoại lai của chúng đã trở nên không còn quan trọng”. Điều giúp củng cố khát vọng mãnh liệt của mọi người Việt Nam muốn được tách biệt ra khỏi Trung Quốc chính là sự tiếp xúc của họ với người Chăm và người Khơme ở phía nam, những người mà bản thân họ bị ảnh hưởng bởi các nền văn minh không phải của Trung Quốc, điển hình là nền văn minh Ấn Độ . Chính vì sự tương đồng rất lớn với người Trung Quốc, người Việt đang chịu sự đè nặng - như tôi đã nói – của tính tự đại về những khác biệt nhỏ và điều này làm cho các sự kiện trong quá khứ trở nên chói lọi hơn với họ.

Những chiến thắng quân sự của Việt Nam trước Trung Quốc ở phía Bắc, như chiến thắng của Hoàng đế Lê Lợi ở gần Hà Nội năm 1426 và chiến thắng chống lại người Chăm và Khơme ở phía Nam vào năm 1471 và năm 1778, tất cả cùng góp phần tạo nên một bản sắc dân tộc riêng biệt, càng được thúc đẩy bởi thực tế rằng, xuyên suốt thời hiện đại, Trung Quốc hiếm khi để Việt Nam yên. Năm 1946, người Trung Quốc đã cấu kết với người Pháp để lực lượng quân Pháp thay thế lực lượng quân Trung Quốc đang chiếm đóng ở miền bắc Việt Nam. Năm 1979, như chúng ta biết, bốn năm sau khi Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam, 100.000 quân Trung Quốc đã xâm chiếm Việt Nam. Robert Templer viết, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình “không bao giờ mất đi sự thù ghét Việt Nam đến tận xương tủy” và do đó, đã đưa ra chính sách “vét sạch túi của Hà Nội - bleeding Hanoi white”, bằng cách khiến Việt Nam bị mắc kẹt trong một cuộc chiến tranh du kích ở Campuchia . Giờ đây, vì xung đột các yêu sách đối với Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc, sự xâm nhập Vịnh Bắc Bộ của hải quân Trung Quốc và thái độ thèm thuồng của Trung Quốc đối với vùng bờ biển 1.900 dặm của Việt Nam trải dài trên các tuyến giao thông liên lạc trên biển liên kết Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương , tất cả điều này đã trở thành lịch sử động; trong khi cuộc chiến của Việt Nam với Mỹ đơn giản là không phải vậy: dù có ngoại trừ một chi tiết. Bởi vì người Việt đánh bại Hoa Kỳ trong một cuộc chiến tranh, họ tự xem mình như bên có địa vị cao hơn trong mối quan hệ song phương: họ không có gì phải lo ngại đến, không có lý do gì để phải dính líu vào, không có gì để phải mất thể diện về một liên minh quân sự trên thực tế với Mỹ trong tương lai. Người Việt tương đối ít nhạy cảm về cuộc chiến chống Mỹ chính là vì họ đã giành chiến thắng.

Cuộc chiến tranh chống Mỹ, cũng như cuộc xâm lược của Trung Quốc sau đó và cuộc xâm lấn Campuchia của Việt Nam dẫn đến cuộc xâm lược của Trung Quốc, tất cả đều là một phần của một lịch sử tương tự, một lịch sử dường như đã trôi qua từ lâu. Đó là một lịch sử của những cuộc chiến tranh trên mặt đất vốn bắt nguồn, một phần, từ quá trình phi thực dân hóa phương Tây. Hiện nay, các vấn đề biên giới trên bộ được giải quyết, cạnh tranh dân tộc ở nhiều nước châu Á đã mở rộng đến lĩnh vực hàng hải; cụ thể là Biển Đông. Trên thực tế, Việt Nam có huyền thoại lập quốc rằng đất nước được thành lập nhờ sự kết hôn giữa thần rồng Lạc Long Quân và tiên nữ Âu Cơ. Họ cùng nhau sinh ra một trăm người con, năm mươi theo mẹ lên núi và năm mươi theo cha ra biển. Đó là di sản của người cha mà bây giờ có vẻ là trung tâm đối với số phận của Việt Nam, sau hàng thập niên cai trị của người mẹ.

Ông Nguyễn Duy Chiến , Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia cho biết “so với vùng Biển Đông, vấn đề biên giới trên bộ không còn quan trọng đối với chúng tôi”. Ông Chiến cho tôi thấy một sự thể hiện mang đặc trưng Việt Nam làm gợi nhớ lại sự ấn tượng của Lý Quang Diệu những năm 1970 về tính rất nghiêm túc và “nho giáo” của giới lãnh đạo Việt Nam. Chúng tôi gặp nhau trong một văn phòng đơn sơ và vừa phải. Ông Chiến mặc bộ đồ màu xám. Cuộc gặp bắt đầu và kết thúc đúng giờ và ông lấp đầy khoảng thời gian đó với một bài thuyết trình liên tục đầy chi tiết kèm theo ứng dụng trên PowerPoint. Bài thuyết trình đã công kích lập trường của Trung Quốc từ mọi góc cạnh có thể tưởng tượng đến.

Ông Chiến bắt đầu với một bản tóm tắt về tình hình biên giới trên đất liền: hai trăm khu vực tranh chấp với Trung Quốc đã được giải quyết trong suốt tám năm đàm phán những năm 1990 và công việc phân giới cắm mốc đã hoàn thành vào năm 2008. “So với 314 cột mốc biên giới trên tuyến biên giới với nhà Thanh Trung Quốc [vào đầu thế kỷ XX], thì hiện nay có 1.971 cột mốc. Vấn đề không phải ở trên bộ mà là trên biển”. Ông ấy nói với tôi rằng một phần ba dân số Việt Nam sống dọc theo bờ biển và lĩnh vực hàng hải chiếm tới 50 phần trăm GDP của Việt Nam. Việt Nam tuyên bố yêu sách một đường hai trăm dặm thẳng ra cả thềm lục địa của nước này đến vùng biển Nam Trung Hoa (Việt Nam gọi là “Biển Đông”, vì họ tranh cãi về từ “Trung Hoa” trong tên vùng biển này). Điều này phù hợp với vùng đặc quyền kinh tế được quy định trong Công ước về Luật Biển . Tuy nhiên, như ông Chiến thừa nhận, vùng đặc quyền kinh tế đó “chồng lấn” với các khu vực hàng hải do Trung Quốc và Ma-lai-xia tuyên bố yêu sách và với các khu vực yêu sách của Campuchia và Thái Lan ở Vịnh Thái Lan liền kề. Mặc dù Vịnh Bắc Bộ là một khu vực gai góc về mặt địa lý, trong đó đường bờ biển ở miền bắc Việt Nam bị đảo Hải Nam của Trung Quốc khóa chặn với vùng biển khơi, nhưng ông Chiến giải thích rằng Việt Nam và Trung Quốc đã giải quyết vấn đề này bằng cách chia đôi vùng vịnh giàu năng lượng này, dù khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ vẫn còn phải được phân định.

“Nhưng chúng tôi không thể chấp nhận đường lưỡi bò – đường đứt đoạn của Trung Quốc trên Biển Đông. Trung Quốc nói rằng khu vực đó đang có tranh chấp. Chúng tôi nói không. Đường lưỡi bò vi phạm các yêu sách của năm quốc gia”.

Nhân dân Việt Nam biểu tình chống đường "Lưỡi Bò"

Ông Chiến sau đó cho tôi xem một loạt các bản đồ trên máy tính của ông và kể lại một lịch sử lâu đời. “Khi các hoàng đế nhà Minh chiếm đóng Việt Nam khoảng thời gian vào thế kỷ thứ XV, họ đã không chiếm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa . Nếu các nhóm đảo này thuộc về Trung Quốc, thì tại sao các hoàng đế nhà Minh không đưa chúng vào bản đồ của họ?” Ông tiếp tục, “vào đầu thế kỷ XX, tại sao bản đồ của các hoàng đế nhà Thanh lại bỏ qua các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nếu chúng thuộc về Trung Quốc?” Ông nói với tôi, năm 1933, Pháp đã gửi quân tới quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, ngụ ý rằng các quần đảo này bây giờ thuộc về Việt Nam, bởi vì chúng là một phần của Đông Dương thuộc Pháp. Ông nói thêm rằng vào năm 1956 và một lần nữa vào năm 1988, Trung Quốc sử dụng “lực lượng quân sự” để chiếm đóng các đá trong quần đảo Hoàng Sa. Cuối cùng, ông đã trình chiếu một slide về nhà thờ Santa Maria del Monte ở Ý, nơi cất giữ một bản viết tay về địa lý từ năm 1850, với một trang rưỡi giấy giải thích về việc quần đảo Hoàng Sa thuộc về Việt Nam như thế nào. Sự quá chú tâm của ông đến các chi tiết như vậy là có chủ ý, vì một bản đồ khác trong bài trình chiếu của ông cho thấy phần lớn Biển Đông, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, được chia thành các khối vuông nhỏ biểu thị cho những khu nhượng quyền khai thác dầu mà Việt Nam có thể trao cho các công ty quốc tế trong tương lai.

Còn 1 kì nữa.

No comments:

Post a Comment