Vài lời phi lộ: Nhằm thiết thực tổ chức kỉ
niệm lần thứ 110 ngày sinh của George Orwell (25 tháng 6 năm 2003 – 25 tháng 6
2013), từ ngày hôm nay bắt đầu khởi đăng tác phầm Homage to Catalonia (Tưởng
niệm Catalonia)
Homage
to Catalonia là
một trong những cuốn sách du ký hay nhất của mọi thời đại của George Orwell
(1903-1950) - một nhà văn, một nhà phê
bình văn học nổi tiếng người Anh đã
viết như thế.
Còn nhà bình luận Arthur Herman thì nói: Nghiên cứu thế kỉ XX mà không đọc cuốn sách này
là một thiếu sót lớn. Tác phẩm Homage
to Catalonia kể về giai đoạn nội
chiến ở Tây Ban Nha (1936-1939) mà tác giả từng tham gia, trong đó có những
trang rất xúc động nói về tình đồng chí, đồng đội giữa những người dân
quân đang phải sống trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, thiếu thốn về vật chất.
Họ xem nhau như những người bạn, những người anh em cùng chung lý tưởng, mà
trên hết là tinh thần cách mạng quân bình giữa những sỹ quan và binh sỹ, không
có sự phân biệt đẳng cấp, đối xử bất bình đẳng.
Chính nó đã tạo cho George Orwell suy nghĩ về một xã hội tốt đẹp, một xã
hội phi giai cấp mà trước đây ông chưa từng biết đến.
Cũng thông qua tác phẩm này, Orwell muốn gửi
gắm đến đọc giả phần nào tính cách của con người và của thiên nhiên Tây Ban
Nha, với những đoạn văn làm cho người đọc xúc động, chan chứa tình yêu đối với
miền đất đầy đau thương này.
Homage
to Catalonia là
tác phẩm này đứng thứ 3 trong bảng tổng sắp 100 tác phẩm non-fiction hay nhất
thế kỉ XX do tờ National Review bình chọn, còn nhà xuất bản Random House thì
xếp nó ở thứ 42. Nó cũng cho ta thấy một hình ảnh George Orwell khác với
Orwell, tác giả của Trại súc vật và 1984.
George Orwell
Tưởng niệm Catalonia
Phạm Nguyên Trường dịch
Chớ đáp lời kẻ ngu
tuỳ sự ngu dại của nó,
E con giống như nó
chăng.
Hãy đáp lời kẻ ngu
tuỳ sự ngu dại của nó,
Kẻo nó khôn ngoan
theo mắt nó chăng.
Châm-Ngôn
26, 5-6
1.
Một ngày trước khi gia nhập lực lượng dân
quân, tôi đã trông thấy một dân quân người Ý đứng trước bàn sỹ quan tham mưu
trong trại lính mang tên Lenin ở Barcelona.
Đấy
là một chàng trai chừng hai lăm, hai sáu tuổi, vai rộng, tóc nâu, trông rất rắn
rỏi. Chiếc mũ chào mào bằng da đội trễ hẳn sang một bên. Anh đứng, cạnh sườn
quay về phía tôi, cằm thu vào sát ngực, dán cặp mắt đầy ưu tư lên tấm bản đồ
được một sỹ quan trải trên mặt bàn. Có một cái gì đó trên nét mặt anh làm tôi
vô cùng xúc động. Đấy là nét mặt của một người sẵn sàng giết hoặc hi sinh mạng
sống của mình vì bạn bè – ta vẫn mường tượng đấy là một người vô chính phủ,
nhưng anh này có lẽ là một người cộng sản thì đúng hơn. Nét mặt của anh ta thể
hiện cả tính bộc trực lẫn thói hung ác, và sự xun xoe của một kẻ ít học đối với
những người mà anh ta cho là cao quí hơn mình. Rõ ràng là anh ta chẳng biết bản
đồ đầu đuôi ra sao, cũng thấy rõ là anh cho rằng phải thông minh tài trí lắm
thì mới đọc được tấm bản đồ trước mặt. Không biết tại sao, nhưng hiếm khi tôi
gặp người nào – ý tôi nói là đàn ông – mà tôi lại có cảm tình ngay như vậy.
Trong khi họ ngồi nói chuyện thì một người nào đó đã buột miệng nói rằng tôi là
người ngọai quốc. Anh chàng người Ý quay sang và nói rất nhanh:
- Italiano[1]’
- No, Inglés. Y tú?[2],
tôi ấp úng đáp lại bằng tiếng Tây Ban Nha
- Italiano[3].
Khi
chúng tôi đi ra, anh bước lại phía tôi và bắt tay tôi thật chặt. Có cảm tình
ngay với một người ngọai quốc, chuyện lạ đấy chứ! Có cảm giác như tâm hồn anh
và tôi đã bắc được chiếc cầu vượt qua đại dương mênh mông của ngôn ngữ và
truyền thống để hòa quyện với nhau trong niềm thương mến thương vô bờ bến. Tôi
tin rằng anh cũng có cảm tình với tôi như tôi có cảm tình với anh vậy. Nhưng
tôi cũng biết rằng muốn giữ được tình cảm ban đầu thì tôi không bao giờ được
gặp lại anh ta nữa. Dĩ nhiên là chúng tôi chẳng bao giờ còn gặp lại nhau. Ở Tây
Ban Nha những cuộc gặp gỡ bất ngờ như thế là chuyện bình thường.
Tôi
nhắc đến anh chàng dân quân người Ý này vì hình ảnh của anh vẫn còn sống động
trong tâm trí tôi. Với bộ quân phục đã sờn và khuôn mặt dữ tợn nhưng cũng dễ
làm người ta mủi lòng; đối với tôi, anh chính là nhân vật điển hình của thời
đó. Anh luôn gắn bó với những kỉ niệm của tôi về một thời chiến tranh: những là
cờ đỏ trên đường phố Barcelona, những đoàn tầu dài lê thê chở đầy những người
lính nhếch nhác, rách rưới bò ra mặt trận, những phố thị xám ngoét bị chiến
tranh tàn phá, những giao thông hào đầy bùn với cái lạnh thấu xương trên sườn
núi.
Chuyện
đó xảy ra vào cuối tháng 12 năm 1937, tức là mới cách đây bảy tháng, thế mà
thấy như đã lâu lắm rồi. Những sự kiện sau đó đã làm chúng trở nên nhạt nhòa
còn hơn cả những chuyện xảy ra vào năm 1935, thậm chí 1905. Tôi đến Tây Ban Nha
với ý định viết báo, nhưng tôi đã tham gia vào lực lượng dân quân gần như ngay
lập tức, vì vào lúc đó và trong khung cảnh đó thì đây có vẻ là quyết định duy
nhất có thể chấp nhận được.
Trên
thực tế, những người vô chính phủ vẫn kiểm soát được Catalonia, còn cách mạng
thì đang ở cao trào. Đối với những người từng có mặt ở đây từ những ngày đầu
tiên thì có vẻ như cách mạng đã rơi vào thoái trào vào tháng mười hai hoặc
tháng một; nhưng đối với một người mới từ Anh tới thì khung cảnh Barcelona vừa
làm người ta ngạc nhiên vừa làm người ta choáng váng. Đây là lần đầu tiên tôi
có mặt trong một thành phố, nơi giai cấp công nhân đã nắm được quyền lực. Hầu
như tất cả các tòa nhà lớn đều đã bị công nhân tịch thu và có treo cờ đỏ hoặc
cờ nửa đỏ nửa đen của lực lượng vô chính phủ; tất cả các bức tường đều có hình
búa liềm và tên của các đảng cách mạng; hầu hết các nhà thờ đều bị cướp phá
sạch, tranh ảnh bị đốt hết.
Cứ
một quãng lại thấy có đám công nhân đang đập phá nhà thờ. Tất cả các cửa hàng
và quán café đều có bảng hiệu nói rằng đã được tập thể hóa; ngay cả hiệu đánh
giày cũng được tập thể hóa, mấy chiệc hộp đựng đồ nghề cũ được sơn hai màu đỏ
và đen. Những người hầu bàn và nhân viên bán hàng nhìn thẳng vào mặt khách và
coi khách như bạn bè. Cảnh quị lụy và ngay cả những từ thưa gửi, xã giao, cũng
tạm thời biến mất. Không thấy ai nói “Señior” hay “Don”, thậm chí
“ông” cũng không thấy ai nói; mọi
người đều gọi nhau là “đồng chí” và “anh”, và nói “Chào!” chứ không “Chào ông
ạ!” khi gặp nhau như xưa nữa.
Tiền
lót tay bị pháp luật cấm hoàn toàn, tôi đã được người quản lí khách sạn dạy cho
bài học đầu tiên khi vừa định đưa cho người coi thang máy vài xu. Không ai có ô
tô riêng, tất cả đều bị quân đội trưng dụng; tàu điện, taxi cũng như phần lớn
các phương tiện vận tải khác cũng đều được sơn hai màu đỏ và đen. Khẩu hiệu
cách mạng hiện diện khắp nơi, tất cả các bức tường đều rực lên một màu đỏ hoặc
xanh da trời, một vài biển hiệu quảng cáo còn sót lại trông giống như những vết
bùn nhem nhuốc. Trên phố Ramblas, con phố chính của thị trấn, người đi lại như
mắc cửi; suốt ngày, thậm chí đến tận đêm khuya, những bài ca cách mạng còn tiếp
tục gầm réo trên loa phóng thanh. Nhưng khó hiểu nhất chính là diện mạo của đám
đông. Nhìn cách ăn mặc, người ta có thể nghĩ rằng ở đây đã không còn người giàu
nữa. Trừ mấy người phụ nữ và một ít người ngoại quốc, chẳng còn người nào có
thể được gọi là “ăn vận lịch sự”. Hầu như tất cả mọi người đều mặc quần áo lao
động hoặc những bộ đồng phục màu xanh hay những kiểu đồng phục của các đơn vị
dân quân. Tất cả đều có vẻ bất bình thường và làm cho người ta cảm thấy lo lo
thế nào đó. Có nhiều việc tôi không hiểu, thậm chí có những việc tôi không
thích, nhưng tôi lập tức nhận ra rằng đây chính là sự nghiệp mà mình phải chiến
đấu để bảo vệ. Tôi còn tin rằng mọi việc được thể hiện đúng như chúng đang là,
rằng đây chính là đất nước của giai cấp công nhân, toàn bộ giai cấp tư sản đã
bỏ trốn hay bị giết hoặc đã chạy sang phía giai cấp công nhân rồi; tôi không
ngờ rằng nhiều nhà tư bản giàu có đã nằm im thở khẽ và chỉ đóng giả vô sản
trong một thời gian mà thôi.
Hoà
quyện với tất cả những chuyện đó là cái âm hưởng quái gở của chiến tranh. Thành
phố trông có vẻ hoang vắng và bẩn thỉu; phố xá, nhà cửa thì rách nát; ban đêm
cũng chỉ có vài ngọn đèn đường mờ đục vì sợ máy bay tấn công; hầu hết các nhà
hàng đều xuống cấp và gần như trống rỗng. Thịt là của hiếm, sữa thì gần như đã
biến mất hẳn, thiếu cả than, đường, dầu hoả, bánh mì cũng thiếu một cách nghiêm
trọng. Muốn mua bánh mì cũng phải xếp hàng dài cả trăm mét. Nhưng theo tôi nhận
xét thì dân chúng có vẻ hài lòng và tràn đầy hi vọng. Không có người thất
nghiệp, giá cả sinh hoạt thấp; ít thấy những người nghèo đến mức cơ cực, không
còn người ăn xin, trừ dân Di-Gan. Vượt lên trên tất cả là niềm tin vào cách
mạng, vào tương lai; là cảm giác như vừa thực hiện xong một cú nhảy đột ngột
vào thời đại của bình đẳng và tự do. Mọi người đều cố gắng cư xử như những con
người thực thụ chứ không còn như những chiếc ốc vít trong cỗ máy của chủ nghĩa
tư bản nữa. Trong tất cả các hiệu cắt tóc đều có treo các khẩu hiệu của đảng vô
chính phủ (đa số thợ cắt tóc đều theo phe vô chính phủ) long trọng giải thích
rằng thợ cắt tóc không còn là những người nô lệ nữa. Trên đường phố còn có cả
những khẩu hiệu đủ màu sắc kêu gọi các cô gái điếm bỏ nghề. Những người thuộc
nền văn minh mang tính diễu cợt và khô khan như dân chúng các nước nói tiếng
Anh sẽ coi việc những người Tây Ban Nha đầy lí tưởng thực sự tin vào những khẩu
hiệu sáo rỗng của cách mạng có cái gì đó mang tính cải lương. Lúc đó, trên
đường phố người ta còn bán những bản ballad, chỉ có vài xu một bản, đấy là
những bài ca cách mạng chất phác, nói về lòng hữu ái giai cấp của giai cấp vô
sản và sự độc ác của Mussolini. Tôi thường thấy những người dân quân gần như
chưa thoát nạn mù chữ mua những bản ballad đó rồi kiên nhẫn đánh vần từng từ
một cho đến khi thuộc lòng rồi cất tiếng hát theo giai điệu phù hợp.
Tôi
ở doanh trại mang tên Lenin trong suốt thời gian được coi là giai đoạn huấn
luyện trước khi ra mặt trận. Khi ghi danh, tôi được người ta bảo là sẽ lên
đường ngay ngày hôm sau, nhưng trên thực tế, tôi phải đợi cho đến khi thành lập
xong một centuria mới. Các đơn vị vũ trang công nhân, do các tổ chức
công đoàn vội vã lập nên trong thời kì đầu cuộc chiến, không được tổ chức như
các đơn vị quân đội chính qui. Các đơn vị được gọi là “phân đội”, khoảng ba
mươi người; trên nữa gọi là centuria, có khoảng một trăm người; còn “đơn
vị” thì bao nhiêu người cũng được. Doanh trại mang tên Lenin là một dãy nhà xây
bằng đá rất đẹp, có khu quần ngựa và một cái sân lát đá rất rộng; cái doanh trại
kị binh này đã bị quân cách mạng chiếm trong những trận đánh diễn ra vào tháng
bảy. Centuria của tôi ngủ trong một cái chuồng ngựa, ngay bên dưới
máng ăn bằng đá còn ghi đầy đủ tên từng chú ngựa chiến được nuôi ở đây. Tất cả
ngựa đều bị trưng dụng và đưa ra mặt trận rồi, nhưng mùi nước đái ngựa và mùi
lúa mạch thối thì vẫn còn. Tôi sống trong doanh trại khoảng một tuần. Tôi nhớ
nhất là mùi ngựa và tiếng kèn xung trận ngập ngừng (tất cả lính kèn của chúng
tôi đều là dân nghiệp dư – mãi khi ra trận tôi mới được nghe nghe tiếng kèn
hiệu của quân đội Tây Ban Nha, đấy là tiếng kèn của quân phát xít phía bên kia
chiến hào), tiếng giày đinh lạo xạo trên sân, những buổi duyệt binh buổi sáng
dưới ánh nắng mùa đông, những trận đá bóng cuồng nhiệt - mỗi bên năm mươi người
– trên sân quần ngựa lát sỏi. Lúc đó, trong doanh trại có khoảng một ngàn đàn
ông và vài chục phụ nữ; ngoài ra, còn có vợ của các dân quân nữa, họ làm luôn
vai trò chị nuôi. Lúc đó, phụ nữ cũng tòng quân, tuy số lượng không nhiều.
Trong những trận đánh đầu tiên, phụ nữ chiến đấu bên cạnh nam giới, mọi người
cũng coi đấy là chuyện bình thường. Đấy được coi là đương nhiên trong thời buổi
cách mạng. Sau này, người ta nghĩ khác. Bây giờ, khi phụ nữ tập thì đàn ông
phải đứng thật xa vì họ hay chế diễu, làm phụ nữ mất tập trung. Thế mà mới cách
đây vài tháng, chẳng ai lấy làm ngạc nhiên khi thấy một người phụ nữ đeo súng.
Doanh
trại lúc nào cũng bẩn thỉu và lộn xộn. Tòa nhà nào bị dân quân chiếm đóng cũng
như thế cả, có vẻ như đấy chính là sản phẩm phụ của cách mạng. Góc nhà nào cũng
đầy bàn ghế gẫy, yên ngựa hỏng, mũ sắt kị binh bẹp, bao kiếm rỗng và thức ăn
thiu. Sự lãng phí thức ăn, đặc biệt là bánh mì, thật là khủng khiếp. Chỉ riêng
trại của tôi bữa nào cũng vứt đi cả sọt bánh mì, một việc thật đáng xấu hổ,
nhất là lúc đó dân chúng lại đang bị đói. Chúng tôi ngồi ăn quanh những cái bàn
dài, thực ra là những tấm ván kê trên hai cái ghế ngựa, bát ăn làm bằng sắt
tây, lúc nào cũng nhớp mỡ, còn đồ uống thì đựng trong một cái bình quái gở gọi
là porron. Porron là một cái chai bằng thủy
tinh có vòi, chỉ cần lật nghiêng là rượu vang sẽ phun thành tia, có thể uống mà
không cần ghé môi vào vòi, mọi người cứ thề xoay vòng. Tôi đã đứng lên phản đối
khi trông thấy cách uống như thế và đòi bằng được một cái ly. Tôi thấy mấy cái poron này trông chẳng khác gì chai nước
chườm, nhất là khi đựng đầy vang trắng.
Dần
dần những người mới nhập ngũ đều được phát đồng phục, và vì đây là Tây Ban Nha
cho nên chỉ được phát từng thứ một, chẳng thể nào biết được ai đã được nhận cái
gì; có những thứ chúng tôi rất cần như thắt lưng hay băng đạn thì lại chỉ được
nhận vào phút chót, khi tầu hỏa đã chuẩn bị đưa chúng tôi ra mặt trận. Tôi vừa
nói từ “đồng phục”, nhưng từ này có thể làm bạn đọc hiểu lầm. Đấy không phải là
những bộ đồng phục như ta vẫn thấy. Có thể phải gọi là “đa sắc phục” thì mới
đúng. Nói chung, mọi người đều mặc tương đối giống nhau, nhưng không bao giờ có
hai bộ hòan tòan như nhau. Tất cả quân nhân đều mặc quần nhung dài đến đầu gối,
đấy là sự giống nhau duy nhất. Một số người quấn xà cạp, một số người đi ghệt
bằng nhung, một số thì đi ủng. Tất cả đều mặc áo blu-dông có phecmơtuya, nhưng
cái thì bằng da, cái thì bằng vải len đủ màu sắc khác nhau. Mũ cũng thế, có bao
nhiêu người thì có bấy nhiêu kiểu mũ. Phía trước mũ thường được trang trí bằng
phù hiệu đảng, ngoài ra gần như ai cũng thắt quanh cổ một chiếc khăn tay màu đỏ
hay nửa đỏ, nửa đen. Đúng là một lũ hỗn
quân hỗn quan. Nhưng quần áo là do nhiều nhà máy khác nhau sản xuất và phải
phát ngay, nếu xét đến hoàn cảnh lúc đó thì phải nói cũng không đến nỗi tồi. Áo và tất bằng vải bông chất lượng rất kém,
chẳng giúp được gì khi trời lạnh. Tôi thật không muốn nhắc lại những điều mà
các dân quân đã trải qua trong những tháng đầu tiên, khi mọi việc vẫn còn rất
lộn xộn. Tôi còn nhớ hai tháng trước đã đọc một bài báo, trong đó một lãnh tụ
của P.O.U.M[4]., sau khi đi thị sát mặt trận về, đã tuyên bố rằng sẽ cố gắng
“phát cho mỗi chiến sỹ một cái chăn”. Câu này khiến những người từng ngủ trong
chiến hào phải rùng mình vì lạnh.
Tôi đến hôm trước thì hôm sau bắt đầu cái có
thể gọi một cách khôi hài là “huấn luyện”. Lúc đầu, mọi sự bắt đầu một cách lộn
xộn không thể tưởng tượng nổi. Phần lớn tân binh mới mười sáu, mười bảy tuổi,
xuất thân từ các khu phố nghèo của Barcelona, đầy nhiệt tình cách mạng, nhưng
hoàn toàn không biết chiến tranh có nghĩa là gì. Xếp hàng đã là việc cực kì khó.
Không có tí kỉ luật nào, ai không thích có thể nhảy ra cãi nhau tay đôi với chỉ
huy. Huấn luyện chúng tôi là một trung uý trẻ, khoẻ mạnh, nét mặt tươi tỉnh và
dễ thương. Anh ta vốn là sỹ quan trong quân đội thường trực, có thể thấy rõ
điều đó qua dáng điệu và bộ quân phục còn mới toanh của anh. Tôi vô cùng ngạc
nhiên khi biết rằng anh ta là một người ủng hộ chủ nghĩa xã hội nhiệt tình và
rất chân thành. Anh đòi mọi người đều phải được bình đẳng, không phân biệt cấp
bậc, còn hơn cả các chiến sỹ. Tôi còn nhớ nét mặt đau khổ của anh khi một tân
binh ngốc nghếch gọi anh là “Ngài”. “Cái gì? Ngài à? Ai vừa gọi tôi là Ngài?
Chả lẽ tất cả chúng ta không phải là đồng chí hay sao?”. Tôi nghĩ rằng chuyện
này cũng chẳng làm cho công việc huấn luyện của anh được dễ dàng hơn. Trong khi
đó, các tân binh được huấn luyện toàn những chuyện vô bổ cả. Người ta bảo tôi
rằng người nước ngoài không cần tham gia “huấn luyện” (dân Tây Ban Nha, như tôi
thấy, tin rằng tất cả người ngoại quốc đều biết các vấn đề quân sự giỏi hơn họ),
nhưng dĩ nhiên là tôi vẫn ra bãi tập cùng với mọi người. Tôi rất muốn học bắn
súng máy, chưa bao giờ tôi có dịp làm quen với loại vũ khí này. Tôi thực sự
hoảng hốt khi thấy người ta không dạy chúng tôi sử dụng vũ khí. Cái gọi là huấn
luyện chỉ đơn giản là những kĩ năng cũ rích và cực kì ngu xuẩn: quay phải, quay
trái, quay đằng sau, đi đều bước và những thứ nhảm nhí khác mà tôi đã học từ
lúc mười lăm tuổi. Thật không thể tưởng tượng nổi là người ta lại huấn luyện
cho dân quân những chuyện như thế. Rõ ràng là nếu người lính chỉ được huấn
luyện trong vòng có mấy ngày thì phải dạy cho anh ta những điều cần thiết nhất:
ẩn nấp, di chuyển trên đồng vắng, đứng gác, đào công sự và trên hết là sử dụng
vũ khí. Nhưng những chàng trai trẻ đầy nhiệt huyết, những người sẽ được ném ra
mặt trận trong vài ngày tới, lại không được dạy ngay cả cách sử dụng một khẩu
súng trường hay rút chốt lựu đạn. Lúc đó tôi đâu có biết là họ không có súng để
dạy. Lực lượng vũ trang của P.O.U.M. thiếu súng một cách
tuyệt vọng đến mức các đơn vị mới phải dùng súng của các đơn vị đang rời trận
địa. Trong doanh trại mang tên Lenin, tôi tin là cũng chỉ có mấy khẩu đặt ở
trạm gác mà thôi.
Sau vài ngày, mặc dù xét theo tiêu chuẩn nào
thì chúng tôi vẫn còn là một lũ hỗn quân hỗn quan, nhưng người ta cho là có thể
đem ra cho quần chúng chiêm ngưỡng được rồi và buổi sáng hôm đó chúng tôi được
xếp hàng rồi đi thẳng ra công viên ở phía sau quảng trường Espana. Đây là nơi
duyệt binh của các lực lượng vũ trang của tất cả các đảng phái. Ngoài ra, còn
có công an vũ trang và những đơn vị đầu tiên của Quân đội nhân dân vừa được
thành lập nữa. Quang cảnh công viên thật là lạ và vui. Trên tất cả các con
đường và các lối đi, giữa những luống hoa được cắt tỉa cẩn thận là các trung
đội, đại đội nặng nề cất bước, ngực ưỡn ra đằng trước, cố gắng làm ra vẻ như
những người lính thực thụ. Tất cả đều không có súng, không người nào có một bộ
đồng phục thực sự, thậm chí nhiều người còn mặc những bộ quân phục đã bị vá.
Thủ tục luôn luôn giống nhau. Chúng tôi đi đều bước, đi qua rồi đi lại suốt ba
tiếng đồng hồ (bước duyệt binh của người Tây Ban Nha ngắn và nhanh), sau đó
được nghỉ, giải tán và chạy vội xuống cái cửa hàng nhỏ có bán loại rượu vang rẻ
tiền ở lưng chừng đồi. Mọi người đều tỏ ra thân mật với tôi. Ai cũng ngạc nhiên
khi biết tôi là người Anh, mấy ông sỹ quan cảnh sát vũ trang hỏi đủ thứ chuyện
rồi mời tôi mấy ly. Trong lúc đó, tôi đã kéo tay trung uý của của chúng tôi vào
một góc và tìm cách thuyết phục anh ta dạy bắn súng máy. Tôi phải lôi cuốn từ
điển Hugo ra khỏi túi áo và bắt đầu nói với anh ta bằng thứ tiếng Tây Ban Nha
khủng bố của mình: “Yo sé manejar fusil. No sé manejar ametralladora. Quiero
apprender ametralladora. Quándo vamos apprender ametralladora?[5]”
Anh
mỉm cười một cách ngượng nghịu và hứa mañana[6]
sẽ dạy. Nói rằng mañana sẽ chẳng bao giờ tới là thừa. Lại thêm mấy ngày
nữa, các tân binh đã học đi đều bước và tuân thủ hiệu lệnh gần như hoàn hảo
rồi, họ còn biết đạn sẽ bay ra từ đầu nào của khẩu súng nữa, nhưng đấy là tất
cả kiến thức quân sự mà họ có lúc đó. Một hôm, trong khi chúng tôi đang giải
lao thì có một người cảnh sát vũ trang mang khẩu súng trường tới cho chúng tôi
xem. Hoá ra cả trung đội, trừ tôi ra, không người nào biết lắp đạn, ngắm bắn
thì càng không cần nói tới rồi.
Suốt
thời gian đó, tôi vẫn tiếp tục chiến đấu với tiếng Tây Ban Nha. Trong doanh
trại, ngoài tôi ra chỉ có một người Anh nữa, ngay các sỹ quan cũng không có ai
nói được một từ tiếng Pháp nào. Tôi còn gặp khó khăn hơn vì các bạn đồng ngũ
thường nói chuyện với nhau bằng tiếng Catalonia. Tôi chỉ còn mỗi một cách là đi
đâu cũng mang theo một cuốn từ điển và rút ra đúng lúc nguy kịch nhất. Nhưng
nếu phải ở nước ngoài thì tôi nghĩ không đâu tốt hơn là Tây Ban Nha. Người Tây
Ban Nha dễ làm thân lắm. Chỉ mới một hai ngày mà đã có khoảng hai chục người
gọi tôi bằng tên tục, họ giúp tôi nắm rõ tình hình và hiếu khách vô cùng. Đây
không phải là tác phẩm tuyên truyền và tôi cũng không muốn lý tưởng hoá lực
lượng dân quân của P.O.U.M. Hệ thống quân sự có những
khiếm khuyết nghiêm trọng, quân nhân gồm đủ các hạng người khác nhau vì lúc đó
số quân tình nguyện đã giảm nhiều, đa số những người xứng đáng nhất đã ở mặt
trận hoặc hy sinh rồi. Trong các đơn vị của chúng tôi lúc nào cũng có một số
người hoàn toàn vô dụng. Những đứa trẻ mới mười lăm tuổi được cha mẹ dẫn đến
ghi danh, họ công khai nói rằng để nhận mỗi ngày mười đồng, tức là lương của
các dân quân lúc đó, ngoài ra còn bánh mì thừa nữa vì dân quân được phát nhiểu,
có thể tuồn về cho gia đình một ít. Nhưng tôi tin rằng bất cứ ai có điều kiện
sống cùng giai cấp công nhân Tây Ban Nha, đúng ra phải nói rằng giai cấp công
nhân Catalonia vì ngoài mấy người Aragon và Anadaluse ra, xung quanh tôi chủ
yếu với người Catalonia, đều sẽ phải kinh ngạc trước sự cao thượng, mà trước
hết là thái độ thẳng thắn và sự hào phóng của họ. Sự hào phóng của người Tây
Ban Nha, theo đúng nghĩa của từ này, đôi khi làm người ta lúng túng. Nếu bạn
hỏi xin một điếu thuốc, người Tây Ban Nha có thể dúi vào tay bạn cả một bao.
Ngoài ra, sự hào phóng của họ còn có ý nghĩa sâu sắc hơn, đây đúng là những tâm
hồn rộng lượng mà tôi đã gặp không biết bao nhiêu lần trong những hoàn cảnh khó
khăn nhất. Một số phóng viên và những người ngoại quốc khác từng đến Tây Ban
Nha trong thời gian diễn ra cuộc chiến đã tuyên bố rằng ở chỗ riêng tư, người
Tây Ban Nha tỏ thái độ bất mãn với sự giúp đỡ của ngoại quốc. Tôi chỉ có thể
nói rằng chưa bao giờ thấy những chuyện tương tự như thế. Tôi còn nhớ, trước
khi rời doanh trại vài ngày có một nhóm chiến sỹ đi phép từ mặt trận về. Họ kể
chuyện chiến đấu rất sôi nổi và rất phấn khởi khi nói đến một đơn vị quân Pháp
chiến đấu bên cạnh họ ở Huesca. Người Pháp dũng cảm lắm, họ bảo thế và nói
thêm: “Más valientes que nosotros” — “dũng cảm hơn chúng ta!”. Dĩ nhiên
là tôi phản đối, nhưng họ giải thích rằng người Pháp chiến đấu giỏi hơn, ném
lựu đạn chính xác hơn, bắn chính xác hơn, vân vân. Tôi cho đấy là một thái độ
rất đặc biệt. Người Anh thà để người ta chặt tay chứ không bao giờ nói như thế.
Chỉ
cần sống vài tuần ở đây là sẽ thấy người Tây Ban Nha rất đáng yêu, nhưng một
vài tính cách của họ cũng có thể làm ta tức đến không chịu nổi. Ngoài mặt trận,
đôi khi họ làm tôi đến phát điên lên được. Người Tây Ban Nha giỏi nhiều việc,
nhưng đánh nhau thì rất kém. Sự vụng về và trên hết là sự tùy tiện của họ đã
làm tất cả người ngọai quốc phải kinh ngạc. Có một từ mà người ngọai quốc nào
cũng biết, đấy là từ mañana — “ngày mai” (đúng ra là “buổi sáng”). Hễ có
thể hoãn được là y như rằng bao giờ họ cũng để đến mañana. Chính người
Tây Ban Nha cũng cảm thấy khó chịu vì sự lề mề của mình và mang ra chế giễu. Ở
Tây Ban Nha, không có việc gì, từ bữa ăn cho đến trận đánh, có thể diễn ra đúng
thời gian qui định. Nói chung, mọi việc đều diễn ra muộn hơn qui định, nhưng
đôi khi, để cho người ta không dựa dẫm vào sự chậm chễ, công việc lại được tiến
hành sớm hơn rất nhiều. Nếu tầu hỏa phải khởi hành vào lúc tám giờ thì bao giờ
cũng khởi hành vào khoảng từ chín đến mười giờ, nhưng mỗi tuần một lần, người
lái tầu có thể đột nhiên muốn cho tầu chạy sớm, thế là nó có thể xuất phát vào
lúc bảy giờ rưỡi cũng nên. Những chuyện như thế gây ra khá nhiều phiền phức. Về
lí thuyết, tôi thán phục người Tây Ban Nha vì họ không bị mắc cái bệnh cứng
nhắc về thời gian biểu như chúng ta. Chỉ tiếc là chính tôi cũng mắc căn bệnh
đó.
Sau
rất nhiều đồn đoán, nhiều mañana và
trì hoãn, chúng tôi bất ngờ nhận được lệnh lên đường sau hai giờ nữa, trong khi
phần lớn quân trang quân dụng vẫn chưa được cấp. Khu vực kho ồn ào như chợ vỡ,
nhưng vào phút chót một số chiến sỹ vẫn không nhận được đầy đủ quân trang quân
dụng. Một đám phụ nữ, không biết từ đâu, bất ngờ xuất hiện trong doanh trại, họ
giúp người thân gập chăn màn và sắp xếp ba lô. Thật là xấu hổ khi tôi được một
người phụ nữ Tây Ban Nha, vợ của Williams - một dân quân người Anh khác - hướng
dẫn cách đeo băng đạn bằng da mới tinh. Đấy là một người phụ nữ dịu dàng, có
đôi mắt đen, trông rất hiền thục, tưởng như công việc của cô chỉ là ru nôi,
nhưng sự thật là cô đã chiến đấu rất dũng cảm khi diễn ra các trận đánh ngay
trên đường phố vào tháng bảy vừa qua. Cô đem theo cả đứa con mới sinh sau khi
chiến tranh bùng nổ mười tháng vào doanh trại, đứa bé này có thể đã được thụ
thai ngay đằng sau chiến lũy.
Tầu
phải khởi hàng vào lúc tám giờ, nhưng mãi đến tám giờ mười các sỹ quan mệt phờ,
mặt lấm tấm mồ hôi mới sắp xếp được chúng tôi thành hàng ngũ trong sân trại.
Tôi vẫn còn nhớ rõ chiếc sân được chiếu sáng bằng đèn pha, tiếng hò hét và cảnh
ồn ào nhộn nhịp, những lá cờ đỏ tung bay dưới ánh đèn, những hàng dài các binh
sỹ ba lô trên lưng và những tấm chăn cuộn tròn quấn qua vai giống như những
băng đạn, tiếng quát tháo, tiếng giầy đinh và tiếng lenh keng của những chiếc
bi đông, rồi có tiếng hô rất to yêu cầu giữ trật tự; sau đó là một chính trị
viên đứng bên dưới một tấm biểu ngữ màu đỏ úy lạo bằng tiếng Catalonia. Cuối
cùng, họ đưa chúng tôi ra ga, theo con đường xa nhất, chừng năm sáu cây số để
cho cả thành phố đều thấy. Đoàn quân dừng lại một lúc ở Ramblas để nghe mấy bản
nhạc cách mạng do đội kèn trình diễn. Rồi lại duyệt binh, những tiếng reo hò và
những vẻ mặt thán phục, những lá cờ đỏ rồi cờ nửa đỏ nửa đen tung bay khắp nơi,
đám đông chen lấn trên vỉa hè để chào đón chúng tôi, còn trên cửa sổ các ngôi
nhà là những người phụ nữ đang vẫy tay chào. Lúc đó sao cảm thấy tất cả đều tự
nhiên đến thế, còn nay sao lại thấy xa vời và khó tin đến như thế! Tàu chật đến
nỗi ngay trên sàn cũng không còn chỗ chứ đừng nói đến ghế. Vợ Williams xuất
hiện trên sân ga ngay trước khi tầu xuất phát, cô đem đến cho chúng tôi một
chai rượu vang và một khúc lạp xưởng dài đến vài gang, màu đỏ, có mùi xà phòng,
ai ăn vào cũng bị tiêu chảy cả. Tầu chậm chạm bò ra khỏi Catalonia và đi về
hướng cao nguyên Aragon với tốc độ trung bình của thời chiến, tức là khỏang hai
mươi cây số một giờ.
2
Thành phố Barbastro, tuy nằm xa mặt trận
nhưng trông khá tiêu điều và đổ nát. Từng toán lính áo quần xơ xác, tránh rét
bằng cách đi qua đi lại hết phố này đến phố khác. Tôi bắt gặp trên một bức
tường đổ một tờ áp phích từ năm ngóai viết rằng ngày này, tháng này, sẽ có “sáu
con bò tót đẹp” bị giết trên đấu trường. Tờ giấy bạc màu gợi lại biết bao hoài
niệm! Những con bò đẹp và những đấu sỹ đẹp trai đã trôi dạt về đâu? Tôi nghe
nói rằng ngay cả ở Barcelona cũng không còn tổ chức đấu bò nữa, không hiểu sao
tất cả các đấu sỹ dũng cảm nhất đều chạy theo phe phát xít hết.
Đại
đội của chúng tôi được đưa bằng ô tô tải đến Sietamo, rồi đi sang hướng tây,
tới ngôi làng gọi là Alcubierre, nằm ngay phía sau chiến tuyến Zaragoza.
Sietamo bị giành đi giật lại đến ba lần trước khi quân vô chính phủ chiếm được
vào tháng mười, một số ngôi nhà đã bị súng đại bác phá sập, còn phần lớn cũng
đều bị vết đạn lỗ chỗ. Chúng tôi ở trên độ cao 500 mét so với mặt biển. Gió rét
căm căm; sương mù dày đặc, không biết từ đâu ra, vần vũ đầy trời. Đi đến khoảng
giữa Sietamo và Alcubierre thì lái xe bị lạc đường (đây cũng là một trong những
đặc điểm thường trực của cuộc chiến tranh này) và chúng tôi đi loanh quanh suốt
mấy tiếng đồng hồ liền. Mãi đến nửa đêm chúng tôi mới đến được Alcubierre. Một
người đưa chúng tôi qua đi qua một bãi bùn để đến chuồng la, chúng tôi chui vào
đống rơm và ngủ thiếp đi ngay lập tức. Rơm sạch thì ngủ cũng tốt, dĩ nhiên là
không bằng cỏ khô, nhưng tốt hơn rạ. Chỉ đến khi trời sáng tôi mới phát hiện ra
rằng rơm lẫn đầy vỏ bánh mì, giấy báo vụn, xương, chuột chết và ống bơ bẹp.
Lúc
này chúng tôi đã ở gần chiến tuyến, gần đến nỗi có thể ngửi thấy mùi của chiến
tranh, theo kinh nghiệm của tôi thì đấy là mùi cứt và mùi thức ăn thiu.
Alcubierre chưa bao giờ bị pháo kích và trông có vẻ thanh bình hơn hầu hết
những ngôi làng nằm ngay sau chiến tuyến. Nhưng tôi tin rằng ngay cả trong thời
bình, những ai từng đi ngang qua đây cũng đều nhận ra ngay sự nghèo khổ và bẩn
thỉu của làng quê vùng Aragon. Làng giống như một pháo đài với những ngôi nhà
tồi tàn, được xây bằng đá và đất sét, đứng lộn xộn xung quanh một nhà thờ. Ngay
cả mùa xuân cũng khó thấy một cánh hoa; không nhà nào có vườn, chỉ có sân sau
với mấy con gà gày, suốt ngày bới những đống phân la. Thời tiết thật kinh
khủng: không mây mù thì lại mưa. Những con đường đất hẹp biến thành những bể
bùn, đôi chỗ sâu đến nửa thước. Ô tô tải không thể đi được, bánh xe cứ quay
tròn trong bùn; nông dân phải đóng có khi đến sáu con la, con trước con sau,
mới kéo được một chiếc xe còm của họ. Những đội quân thường xuyên đi qua đã biến
ngôi làng thành một bãi rác, bẩn không thể tưởng tượng nổi. Làng không có, thực
ra là chưa bao giờ có cái gọi là hố xí hay cống thoát nước và bây giờ thì ở đâu
cũng phải quan sát thật kĩ trước khi muốn bước. Nhà thờ đã được sử dụng làm nhà
xí từ lâu, khu vực xung quanh rộng cả trăm mét cũng được dùng vào việc tương
tự. Mỗi khi nhớ lại hai tháng đầu tiên của cuộc chiến, bao giờ trong đầu tôi
cũng hiện lên hình ảnh những mảnh ruộng hiu hắt mùa đông, lởm chởm gốc rạ, bờ
đầy phân người.
Đã
hai ngày trôi qua mà chúng tôi vẫn chưa được phát súng. Nếu có dịp ghé qua Ủy
ban quân sự bạn sẽ thấy những vết đạn lỗ chỗ trên tường, đấy là dấu vết còn lại
của những vụ hành quyết bọn phát xít, và toàn bộ khung cảnh vùng Alcubierre.
Mặt trận có vẻ yên ắng, chỉ có vài người bị thương đang đi vào. Náo nhiệt nhất
là cảnh giải mấy tên phát xít đào ngũ từ mặt trận về. Nhiều binh sỹ thuộc các
đơn vị đang đánh nhau với chúng tôi vốn không phải là phát xít, chiến tranh
bùng nổ đúng vào lúc những người lính bất hạnh này đang thi hành nghĩa vụ quân
sự và chỉ muốn tìm cách chuồn chứ có thiết đánh đấm gì đâu. Thỉnh thỏang lại có
một nhóm nhỏ liều mạng lẻn qua bên phía chúng tôi. Chắc chắn là sẽ có nhiều
người làm thế hơn nếu thân nhân của họ không sống trong vùng phát xít kiểm soát.
Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy những tên phát xít “thật”. Tôi lấy làm kinh
ngạc khi thấy ngòai bộ quần áo kaki, trông họ cũng chẳng khác gì chúng tôi. Khi
mới đến người nào cũng lả đi vì đói, chắc chắn đấy là do họ phải lẩn tránh từ
một đến hai ngày trong những khu vực không một bóng người, nhưng người ta lại
hân hoan khẳng định rằng điều đó chứng tỏ bọn phát xít đang bị đói. Tôi đã xem
tù binh ăn trong nhà một người nông dân. Cảnh tượng thật đáng thương. Đấy là
một chàng trai chừng hai mươi tuổi, cao, mặt sạm đi vì nắng gió, quần áo rách
bươm, ngồi xổm ngay bên bếp lửa, nín thở xúc thịt hầm đưa vào miệng, trong khi
mắt vẫn láo liên nhìn mấy người lính đứng quan sát xung quanh. Tôi tin là anh
ta vẫn còn bán tín bán nghi việc chúng tôi là “cộng sản” khát máu và sẽ bắn
ngay khi anh ta ăn xong; người lính áp giải có đeo súng vỗ nhẹ vào vai và nói
vài câu an ủi anh ta. Tôi còn nhớ có ngày có đến mười lăm người đào ngũ cùng
tới một lần. Họ được dẫn qua làng trong niềm hân hoan phấn khởi của mọi người,
thậm chí còn có một người cưỡi ngựa trắng dẫn đầu nữa. Tôi đã chụp được một
kiểu ảnh, tuy không đẹp lắm, nhưng sau này đã bị người ta ăn cắp mất.
Sáng
ngày thứ ba súng mới được chuyển tới. Một viên trung sỹ mặt xương xẩu, rám
nắng, phát cho mỗi người một khẩu ngay trong chuồng nhốt la cũ. Tôi cảm thấy
choáng váng khi cầm khẩu súng vừa được phát. Đấy là một khẩu môze do Đức sản
xuất từ năm 1896, nghĩa là đã 40 năm rồi. Bên ngoài đã han gỉ cả, quy-lát thì
rít, báng gỗ thì nứt, chỉ nhìn qua cũng thấy bên trong nòng súng đã rỗ gần hết.
Đa số những khẩu khác cũng ở trong tình trạng tương tự, có khẩu còn cũ hơn của
tôi nữa kia, không ai nghĩ rằng nên đưa những khẩu tốt hơn cho những người đã
biết bắn. Khẩu mới nhất, được sản xuất cách đây mười năm, rơi vào tay một cậu
nhóc, miệng còn hôi sữa, vẫn bị mọi người gọi là maricón (tức là Gái).
Viên trung sỹ bỏ ra chừng năm phút để hướng dẫn chúng tôi cách sử dụng, bao gồm
lắp đạn và tháo quy-lát. Nhiều người chưa bao giờ được cầm khẩu súng trong tay
và tôi cho rằng rất ít người biết đầu ruồi dùng để làm gì. Mỗi người được phát
năm mươi viên đạn. Sau đó chúng tôi xếp thành hàng ngũ, khoác ba lô lên vai và
tiến ra mặt trận, cách đó chừng năm cây số.
Centuria, gồm tám mươi người và mấy con chó, thất
thểu lên đường. Mỗi đơn vị đều mang theo ít nhất là một con chó, đấy là bùa hộ
mệnh của họ. Con chó khốn khổ đi cùng chúng tôi bị đóng dấu trên lưng mấy chữ
cái: P.O.U.M. to tướng bằng sắt nung đỏ, dường như nó
cũng thấy ngượng vì diện mạo của mình. Phía trước đoàn quân, đi bên cạnh lá cờ đỏ
là Georges Kopp, vị chỉ huy dũng cảm người Bỉ, cưỡi một con ngựa ô; xa hơn một
chút là tay kị binh còn rất trẻ, trông chẳng khác gì một tên du thủ du thực,
thường thúc cho ngựa chạy nước đại lên những chỗ cao rồi dừng lại một cách rất
điệu nghệ trên đỉnh đồi. Trong thời cách mạng người ta đã tịch thu được rất
nhiều ngựa của kị binh Tây Ban Nha, số ngựa này sau đó được giao cho dân quân,
những người không hề biết chăm sóc mà chỉ nghĩ cách cưỡi chúng cho đến chết mới
thôi.
Con
đường uốn lượn giữa những cánh đồng đất màu vàng, cằn cỗi, đã bị bỏ hoang từ
năm ngoái. Phía trước là dặng núi đá thấp vốn là biên giới giữa Alcubierre và
Zaragoza. Chúng tôi đã đến rất gần mặt trận, gần bom đạn, súng máy và bùn lầy.
Trong thâm tâm tôi thấy sợ. Tôi biết rằng mặt trận lúc này đang yên ắng, nhưng
khác với đa số người đang có mặt bên cạnh, tôi đã đủ lớn để nhớ cuộc Chiến
tranh Thế giới Thứ nhất, mặc dù lúc đó chưa đến tuổi nhập ngũ. Đối với tôi,
chiến tranh là đạn réo, bom gầm, là hàng đống mảnh bom, nhưng trước hết là bùn
lầy, chấy rận, đói và rét. Điều lạ là tôi sợ lạnh còn hơn sợ kẻ thù. Ý nghĩ về
cái lạnh cứ bám lấy tôi trong suốt thời gian tôi ở Barcelona, có những đêm tôi
hòan tòan không ngủ, chỉ nghĩ đến cái lạnh trong chiến hào, trong những lần báo
động trước khi trời sáng, trong những buổi tuần tra ban đêm với khẩu súng lạnh
như băng, nghĩ về lớp bùn buốt giá bám vào ủng. Xin thú nhận là tôi phát hoảng
khi nhìn vào những người đang đi bên cạnh. Độc giả không thể nào tưởng tượng
nổi cảnh khốn khổ khốn nạn của chúng tôi lúc đó. Chúng tôi lê bước, còn rời rạc
hơn cả một đàn cừu, mới đi chưa được ba cây số mà đầu đuôi đã không nhìn thấy
nhau. Một nửa binh sỹ của chúng tôi là trẻ con, trẻ con theo đúng nghĩa của từ
này, tức là chỉ mới mười sáu tuổi là cùng. Nhưng tất cả đều tỏ ra phấn chấn và
mừng rỡ ra mặt vì cuối cùng thì họ cũng sắp đến mặt trận rồi. Khi đến gần chiến
tuyến, mấy anh chàng đi gần lá cờ đỏ bắt đầu hô «Visca P.O.U.M.!
Fascistas-maricones![7]» và những khẩu hiệu
tương tự, ngôn từ có vẻ quyết liệt và đầy đe dọa, nhưng phát ra từ miệng những
đứa trẻ còn hôi mùi sữa nghe thảm hại như tiếng mèo gào. Thật là kinh khủng khi
nghĩ rằng bảo vệ nền cộng hoà lại chính là lũ trẻ rách rưới, tay cầm những khẩu
súng trường han gỉ mà phần lớn còn chưa biết bắn ra làm sao. Tôi còn nhớ lúc đó
đã tự hỏi: Nếu máy bay phát xít bay ngang qua và lao xuống bắn cho một loạt thì
sao? Chắc chắn là ngay ở trên không viên phi công cũng nhận thấy chúng tôi
không phải là những người lính thực thụ.
Vừa
đến chân dãy núi đá thì chúng tôi rẽ sang bên phải và trèo dần lên theo con
đường mòn uốn lượn xung quanh sườn núi vốn chỉ dùng cho la đi. Đồi núi ở vùng
này có hình thù rất kì lạ, y như móng ngựa, đỉnh thì phẳng nhưng sườn lại rất
dốc, đổ thẳng vào những khe núi sâu hoắm. Trên sườn dốc, chỉ có những bụi cây
còi cọc và mấy cây thạch nham, không che hết được đất, chỗ nào cũng có đầu mẩu
đá vôi trơ ra như những mảnh xương. Chiến tuyến ở đây không phải là một giao
thông hào liên tục, không thể đào được một đường như thế trên dãy núi này; đấy
chỉ là một loạt hỏa điểm, được gọi là “chốt”, nằm ở trên các đỉnh đồi. Từ xa đã
có thể nhìn thấy “chốt” của chúng tôi ở trên đỉnh một cái móng ngựa, gồm có mấy
bao cát rách, một lá cờ đỏ tung bay trước gió và khói bốc lên từ đống lửa sưởi.
Đi đến gần người ta có thể thấy một mùi hôi thối, ngầy ngậy phát buồn nôn, vẫn
như sộc vào mũi tôi suốt nhiều tuần sau. Đã mấy tháng trời, tất cả rác rưởi, từ
bánh mì thiu đến vỏ đồ hộp han gỉ và cứt người đều được tuồn thẳng xuống cái
khe ở ngay phía sau vị trí đóng quân.
Đại
đội mà chúng tôi đến thay thế đang sắp xếp ba lô. Họ đã ở trên chiến tuyến ba
tháng rồi, người nào cũng râu ria tua tủa, áo quần đầy bùn đất, giầy rách tứ
tung. Người chỉ huy tên là Levinski, nhưng ai cũng gọi là Benjamin, vốn là dân
Do Thái sinh ở Ba Lan, nói tiếng Pháp như tiếng mẹ đẻ, chui ra khỏi hầm trú ẩn
để chào chúng tôi. Anh ta mới khoảng hai lươi lăm tuổi, thấp bé, tóc rễ tre màu
đen, khuôn mặt tái mét nhưng đầy nhiệt huyết và cũng giống như những người
khác, tức là rất bẩn. Vài loạt đạn rít đâu đó rất cao phía trên đỉnh đầu. Chốt
là một vòng cung đường kính chừng bốn mươi lăm mét được quây lại bằng mấy bao
cát và những tảng đá vôi. Ở đây có từ ba mươi đến bốn mươi hầm trú ẩn khoét sâu
vào lòng đất trông như những cái hang chuột. Williams, tôi và một tay người Tây
Ban Nha, em trai vợ của Williams, chui ngay vào cái công sự không người, nhưng
có vẻ sạch sẽ đầu tiên mà chúng tôi trông thấy. Ở đằng trước, thỉnh thoảng lại
vang lên một lọat đạn súng trường, tiếng vọng kéo dài mãi trong vách núi đá nghe
réo rắt, rất lạ. Chúng tôi vừa bỏ ba lô xuống và đang chui ra ngoài công sự thì
lại có một tiếng nổ nữa và tôi thấy một cậu nhóc trong nhóm chúng tôi nhảy từ
trên công sự xuống, máu me đầy mặt. Hóa ra là chính anh ta bắn và không hiểu
làm thế nào mà để văng quy-lát ra, vỏ đạn vỡ làm sước một ít da đầu. Đây là
thương binh đầu tiên của chúng tôi, chính anh ta làm mình bị thương.
Buổi
chiều chúng tôi thực hiện ca gác đầu tiên, Benjamin chỉ cho chúng tôi toàn bộ
vị trí. Đằng trước công sự là hệ thống giao thông hào hẹp được đục vào vách đá,
với những lỗ châu mai được xếp bằng mấy miếng đá vôi trông rất sơ sài. Trên các
giao thông hào và đằng trước công sự có hai mươi lính gác. Bên ngoài giao thông
hào còn có hàng rào kẽm gai, xa thêm một chút nữa là sườn dốc như lao thẳng
xuống khe núi sâu thăm thẳm. Phía bên kia là những ngọn đồi trọc, xám nghoét và
lạnh lẽo, đôi chỗ chỉ có những tảng đá trơ trọi, không thấy một biểu hiện gì
của cuộc sống, không thấy ngay cả một chú chim nào. Tôi thận trọng ghé mắt vào
lỗ châu mai, có ý tìm chiến hào của quân phát xít.
“Kẻ
thù ở đâu?”
“Nhưng
ở đâu?”
Theo
tôi hiểu về trận địa chiến thì bọn phát xít chỉ có thể ở cách chúng tôi từ năm
mươi đến một trăm mét là cùng. Tôi chẳng nhìn
thấy gì hết, hay là chiến hào của chúng được ngụy trang quá kĩ. Rồi tôi
thất vọng nhận ra rằng Benjamin đang chỉ lên đỉnh ngọn đồi trước mặt, tức là
phía bên kia khe núi, cách chỗ chúng tôi ít nhất cũng phải bảy trăm mét, chỉ
thấy lá cờ nửa đỏ nửa vàng và một vệt nhỏ mờ, đấy là công sự của bọn phát xít.
Tôi cảm thấy vô cùng thất vọng. Chúng tôi ở xa quân địch quá! Xa thế thì súng
trường còn có tác dụng gì.
Nhưng đúng lúc đó thì tôi nghe thấy tiếng thét của
ai đó. Hai tên phát xít, từ khoảng cách như thế trông chỉ như hai cái bóng màu
xám, đang bò trên sườn đồi trọc trước mặt. Benjamin giằng lấy khẩu súng của
người đứng ngay bên cạnh, anh ta nhằm thẳng vào mục tiêu và bóp cò. Tách! Không
có đạn, tôi chợt nghĩ: điềm gở rồi.
Toán
lính gác mới vừa chiếm lĩnh vị trí là lập tức bắn như vãi đạn vào không trung.
Tôi nhìn thấy mấy tên phát xít, bé chỉ như những con kiến, đi qua đi lại đằng
sau công sự, thỉnh thoảng lại có tên cố tình thò đầu ra ngoài. Rõ ràng là bắn
chẳng có tác dụng gì. Thế mà tay lính gác ở bên trái tôi đã bỏ vị trí của mình,
đúng theo phong cách Tây Ban Nha, lò dò đi đến bên cạnh tôi và giục tôi bắn
ngay. Tôi cố gắng giải thích cho anh ta rằng với khoảng cách xa như thế và với
khẩu súng cũ như thế này thì bắn trúng là việc cực kì hãn hữu. Nhưng đấy chỉ là
một đứa trẻ con, hắn tiếp tục hướng nòng súng vào một trong những chấm đen di
động, răng nhe ra y như một con chó đang chờ lao theo viên sỏi được người ta
ném ra vậy. Cuối cùng tôi cũng đưa nòng súng lên và bóp cò. Chấm đen biến mất.
Đây là lần đầu tiên tôi bắn vào một người thật sự bằng da bằng thịt.
Bây
giờ, khi đã nhìn thấy mặt trận, tôi bỗng cảm thấy chán nản vô cùng. Đây mà là
chiến tranh à! Chúng tôi gần như hoàn toàn không chạm trán với quân địch, tôi
có thể đứng thẳng người ngay trong chiến hào. Nhưng ngay lúc đó một viên đạn
réo sát mang tai tôi và cắm vào thành công sự phía sau. Lạy chúa tôi! Tôi vội
cúi đầu xuống. Tôi đã thề suốt đời rằng sẽ không bao giờ cúi xuống khi viên đạn
đầu tiên bay ngang, nhưng đây là hành động mang tính bản năng và hầu như ai
cũng làm thế, ít nhất là một lần.
3
Sống trong chiến hào có năm thứ quan trọng:
củi đun, thức ăn, thuốc lá, nến và quân thù. Trên mặt trận mùa đông ở Zaragoza
thì mức độ quan trọng được xếp theo đúng thứ tự như thế, quân thù được xếp cuối
cùng. Trừ ban đêm, khi kẻ thù có thể tấn công bất cứ lúc nào, không ai thèm để
ý đến quân địch. Quân địch trên thực tế chỉ là những con côn trùng màu đen ở
rất xa, thỉnh thoảng người ta mới thấy chúng nhảy ra nhảy vào. Cả hai bên chỉ
quan tâm đến mỗi một việc là làm sao không bị chết cóng.
Nhân tiện xin nói thêm rằng trong suốt thời
gian ở Tây Ban Nha tôi chỉ chứng kiến có vài trận đánh. Tôi ở mặt trận Aragon
từ tháng giêng đến tháng năm; từ tháng giêng đến cuối tháng ba, ngoài trận đánh
ở Teruel ra thì không có gì hoặc gần như không có gì xảy ra cả. Tháng ba có
những trận đánh lớn ở Huesca, nhưng chính tôi lại tham gia rất ít. Sau này,
nghĩa là trong tháng sáu, đã xảy ra một trận tấn công đẫm máu vào Huesca, mấy
ngàn người bị giết trong một ngày, nhưng lúc đó tôi đã bị thương và bị loại
khỏi vòng chiến rồi. Nỗi khủng khiếp của chiến tranh, điều mọi người thường hay
nghĩ tới, lại ít khi đụng chạm đến người tôi. Máy bay không bỏ một quả bom nào
gần những chỗ tôi ở; đại bác, theo tôi nhớ, bao giờ cũng nổ cách chỗ tôi năm
mươi mét trở lên. Tôi chỉ tham gia đánh giáp la cà có một lần (một lần cũng đã
là quá nhiều, có thể nói như thế). Dĩ nhiên là tôi đã nhiều lần nằm dưới làn
đạn súng máy, nhưng thường là bắn từ rất xa. Ngay cả ở Huesca, nếu thận trọng,
vẫn có thể an toàn như thường.
Ở
đây, trên những ngọn đồi xung quanh Zaragoza người ta chỉ mệt mỏi vì buồn và sự
thiếu thốn mà thôi. Đơn điệu, chẳng khác gì cuộc sống của một viên thư kí quèn,
ngày nào cũng lặp đi lặp lại những việc y như cũ. Tuần tra, canh gác, đào hào;
rồi lại đào hào, canh gác, tuần tra. Trên mỗi đỉnh đồi, một nhúm người rách
rưới, bẩn thỉu, run rẩy xung quanh những lá cờ và tìm mọi cách để khỏi chết
cóng. Phát xít hay cộng hoà thì cũng thế. Đạn bắn qua cái thung lũng vắng suốt
ngày đêm, nhưng ít khi trúng được người nào.
Tôi thường nhìn khung cảnh mùa đông xung
quanh và nghĩ đến sự phù phiếm của tất cả những việc đang diễn ra ở đây. Chiến
tranh kiểu này chẳng bao giờ đi đến đâu. Trước đây, khoảng tháng mười, đã từng
diễn ra những trận chiến đấu kinh hoàng để giành giật mỗi ngọn đồi ở đây; sau
đó, vì không có đủ người và vũ khí, nhất là pháo binh, không thể tiến hành được
các chiến dịch lớn, quân đội hai bên phải đào công sự và đóng lại trên những
đỉnh đồi mà họ chiếm được. Bên phải chúng tôi có một toán P.O.U.M.
nữa, còn bên trái, chỗ quả đồi nhô ra là toán quân của P.S.U.C[8]., vị trí này nằm đối diện với một quả núi cao hơn với vô số tiền đồn
của quân phát xít. Tiền tuyến là một đường chữ chi, thò ra thụt vào, không thể
nào phân biệt được nếu trên mỗi vị trí không có một lá cờ. Quân P.O.U.M.
và P.S.U.C. treo cờ đỏ, vô chính phủ treo cờ nửa đỏ nửa đen, còn quân phát xít
thì treo cờ bảo hoàng (đỏ-vàng-đỏ), nhưng đôi khi chúng cũng treo cờ tam tài
của quân cộng hoà (đỏ-vàng-tía). Khung cảnh thật là hoành tráng, đấy là nói nếu
có thể quên được sự kiện là trên mỗi ngọn đồi đều có một toán quân và xung
quanh là hàng đống vỏ đồ hộp và phân người. Phía bên phải chúng tôi, dãy núi đá
đi theo hướng đông nam, tạo ra một bình nguyên rộng, có nhiều con suối nhỏ, kéo
dài đến tận Huesca. Ở giữa cánh đồng nổi lên mấy khối nhà bé tí, trông như
những con súc sắc, đấy là thành phố Robres, hiện đang nằm trong tay quân phát
xít. Buổi sáng, bình nguyên thường bị che phủ bởi một biển sương mù, bên trên
nhô lên những ngọn đồi phẳng màu xanh, phong cảnh lúc đó trông chẳng khác gì
một bức ảnh âm bản. Bên kia Huesca còn có nhiều đồi hơn, hình thù cũng như ở
đây, nhưng những vệt tuyết phủ trên đó thì thay đổi hàng ngày. Xa hơn nữa là
những ngọn núi cao ngất như đang bơi vào thinh không của dãy Pyrenees, tuyết ở
trên đó quanh năm không bao giờ tan. Nhưng bên dưới, thung lũng trông trơ trụi
và hoang vắng đến rợn người. Mấy ngọn đồi trước mặt chúng tôi chỉ có một màu
xám xịt và đầy những đường rãnh trông như da voi. Gần như chẳng có chú chim nào
bay qua. Tôi chưa từng thấy nơi nào có ít chim đến như thế. Đôi khi tôi có thấy
mấy con trông như ác là và có lần một đàn gà gô vỗ cánh ban đêm làm mấy anh
lính gác giật mình, hiếm lắm mới thấy vài chú chim ưng lượn lờ bên trên, mặc
cho những loạt đạn cố tình nhắm vào chúng.
Ban
đêm và vào những ngày có nhiều sương mù, các đơn vị tuần tra phải đi xuống
thung lũng giữa hai cao điểm. Chẳng ai thích công việc này vì vừa rét vừa rất
dễ bị lạc và tôi nhanh chóng nhận ra rằng tôi có thể đi tuần bất cứ khi nào tôi
muốn. Trong những cái hẻm núi lởm chởm này không hề có lấy một con đường mòn
nào, muốn tìm được lối về thì phải đi thường xuyên và mỗi lần lại phải tìm cách
ghi nhớ các dấu hiệu trên đường. Theo đường chim bay, bọn phát xít chỉ cách
chúng tôi khoảng bảy trăm mét, nhưng muốn tới đó thì phải đi ít nhất là hai cây
số. Đi trong đêm tối, trên đầu thỉnh thoảng lại có một loạt đạn réo rắt như
tiếng chim, nghĩ cũng vui. Còn thú hơn nếu đấy là những ngày có nhiều sương mù.
Sương mù kéo dài suốt ngày và thường chỉ phủ trên đỉnh đồi còn bên dưới thung
lũng thì lại quang đãng. Đến gần phòng tuyến của quân phát xít thì phải bò thật
chậm, nhưng trong những sườn đồi như thế này giữ yên lặng là việc khó, không đè
vào cành khô thì cũng làm lăn một cục đá nào đó. Chỉ đến lần thứ ba hay thứ tư
tôi mới đến gần được vị trí của quân phát xít. Sương mù dầy đặc, tôi bò sát đến
hàng rào kẽm gai và dỏng tai lên nghe. Đứa thì nói chuyện, đứa thì hát. Sau đó
tôi hốt hoảng nhận ra rằng có mấy tên đang đi xuống đồi, về hướng tôi. Tôi nấp
sau một bụi cây, lúc đó không hiểu sao tôi thấy bụi cây lại nhỏ như thế và cố
gắng lên đạn một cách nhẹ nhàng nhất. Nhưng bọn phát xít đã rẽ ngang trước khi
lọt vào tầm ngắm của tôi. Tôi đã phát hiện được ở đằng sau bụi cây đó khá nhiều
dấu tích của những trận đánh trước đây, đấy là mấy băng đạn rỗng, một cái mũ da
bị đạn bắn thủng và một lá cớ đỏ, rõ ràng là cờ của chúng tôi. Tôi mang lá cờ
về chốt, nhưng người ta xé ra làm giẻ lau ngay lập tức.
Tôi
được phong hàm hạ sỹ hay cabo, theo
cách gọi của người Tây Ban Nha, ngay khi vừa đặt chân đến mặt trận và được chỉ
huy mười hai binh sỹ. Đây không phải là địa vị ngồi mát ăn bát vàng, nhất là
thời gian đầu. Centuria này gồm toàn những thanh thiếu niên tuổi từ mười ba
đến mười chín, lại chưa được huấn luyện gì. Đôi khi còn có cả những đứa trẻ mới
mười một, mười hai, đấy thường là những người tị nạn từ vùng chiếm đóng của
quân phát xít, tham gia dân quân là cách kiếm cơm đơn giản nhất. Thường thì trẻ
con được làm những công việc nhẹ ở hậu phương, nhưng đôi khi chúng cũng tìm
cách ra được mặt trận và trở thành mối đe doạ cho chính các đơn vị của mình.
Tôi còn nhớ cảnh một thằng nhóc đã ném lựu đạn vào hầm trú ẩn “cho vui”. Theo
tôi nhớ thì ở Monte Pocero không có người nào dưới mười lăm tuổi, thế mà tuổi
trung bình vẫn chưa đến hai mươi. Đáng lẽ không được đưa những thiếu niên như
thế này ra mặt trận bởi vì họ không chịu nổi cảnh mất ngủ mà đấy lại là phần
không thể thiều của trận địa chiến. Thời gian đầu gần như không thể tổ chức
được việc canh gác một cách nghiêm túc vào ban đêm. Phải nắm chân lôi ra khỏi
hầm trú ẩn thì mới đánh thức được những đứa trẻ ở đơn vị tôi, nhưng vừa quay
lưng đi là chúng đã bỏ vị trí và trở về hầm trú ẩn hoặc dựa lưng vào tường
chiến hào mà ngủ ngay lập tức, mặc kệ rét. May là quân địch cũng rất thụ động.
Có những đêm tôi có cảm tưởng rằng chỉ cần hai mươi chàng trai hoặc hai mươi cô
gái hướng đạo sinh trang bị súng hơi hay vợt cũng có thể chiếm được chốt của
chúng tôi.
Lúc
đó, cũng như mãi về sau các đơn vị ở Catalonia vẫn được tổ chức hệt như hồi đầu
cuộc chiến. Ngay khi Franco nổi loạn, tất cả các đảng phái và tổ chức công đoàn
đều đứng ra thành lập các đơn vị tự vệ; đấy thực chất là các tổ chức chính trị
phải trung thành với đảng của mình cũng như phải trung thành với chính phủ
trung ương. Đầu năm 1937, khi Quân đội Nhân dân, một đội quân “phi chính trị”,
được thành lập một cách tương đối chính qui thì về mặt lí thuyết tất cả các lực
lượng vũ tranh của các đảng phái đều hợp nhất vào đó. Nhưng trong một thời gian
dài tất cả các thay đổi mới chỉ diễn ra trên giấy, mãi đến tháng sáu các đơn vị
Quân đội Nhân dân mới tiến đến mặt trận Aragon, trước đó hệ thống dân quân vẫn
giữ nguyên như cũ. Mấu chốt của hệ thống này là sự bình đẳng giữa sỹ quan và
binh sỹ. Tất cả mọi người, từ tướng tới lính, đều nhận cùng một mức lương, ăn
cùng một mâm, mặc cùng một loại quân phục, hoàn toàn bình đẳng trong mọi lĩnh
vực. Nếu muốn hút thuốc, bạn có thể vỗ vào vai viên tướng chỉ huy sư đoàn để
xin một điếu, không ai coi đó là chuyện lạ. Về lí thuyết, tất cả các đơn vị dân
quân đều là tổ chức dân chủ chứ không phải là đơn vị có cấp bậc hẳn hoi, cấp
dưới phải phục tùng cấp trên. Mọi người đều hiểu rằng mệnh lệnh thì phải thi
hành, nhưng đây là đồng chí ra lệnh cho nhau chứ không phải là cấp trên hạ lệnh
cho cấp dưới. Vẫn có các sỹ quan và hạ sỹ quan, nhưng không phải theo nghĩa
thông thường; không có danh hiệu, không có cầu vai, không có dậm chân và giơ
tay chào như ở những nơi khác. Người ta có ý định tạo ra trong các đơn vị dân
quân hình mẫu của một xã hội phi giai cấp. Dĩ nhiên là không thể có bình đẳng
tuyệt đối rồi, nhưng tôi chưa thấy ở đâu có một cái gì tương tự như thế hoặc
tôi không bao giờ nghĩ rằng điều đó lại có thể xảy ra trong thời chiến được.
Phải
công nhận rằng lúc đầu cảnh tượng mặt trận như vậy đã làm tôi phát hoảng. Làm
sao mà một đội quân kiểu này có thể thắng được? Lúc đó ai cũng nói như thế cả,
kể cũng đúng, nhưng không hợp thời. Trong hoàn cảnh đó, khó mà có một lực lượng
tốt hơn. Một đội quân cơ giới hoá hiện đại không thể sinh ra từ con số không,
nếu chính phủ đợi cho đến khi huấn luyên xong thì Franco có thể tiến mà không
gặp bất cứ sự kháng cự nào. Sau này, người ta thường chỉ trích lưc lượng dân
quân và cho rằng khiếm khuyết của nó là do sự bình đẳng quá trớn chứ không phải
là do thiếu huấn luyện và không đủ khí giới. Thực ra, tất cả các đơn vị dân
quân vừa được thành lập đều là một đám hỗn quân hỗn quan không phải là do sỹ
quan gọi chiến sỹ là “đổng chí” mà vì các đơn vị mới bao giờ cũng là một đám người vô kỉ luật cả. Trên thực tế, kỉ luật
cách mạng mang tính dân chủ hoá ra lại đáng tin cậy hơn người ta tưởng rất
nhiều. Kỉ luật trong các đội quân công nhân, về lí thuyết, là kỉ luật tự giác,
dựa vào ý thức giai cấp, trong khi kỉ luật trong quân đội tư sản hoàn toàn dựa
vào sợ hãi (Quân đội Nhân dân, thay thế cho dân quân, nằm giữa hai lực lượng
này). Ức hiếp và chửi rủa, vốn là hiện tượng bình thường trong quân đội chính
qui, không bao giờ xảy ra ở đây. Các biện pháp trừng phạt chỉ được áp dụng cho
những trường hợp nghiêm trọng. Một người bất tuân thượng lệnh thường sẽ không
bị trừng phạt ngay, bao giờ người ta cũng khuyến khích tình đồng chí của anh
ta. Những người yếm thế, không có kinh nghiệm sẽ nói rằng “không ăn thua”,
nhưng trên thực tế làm thế lại “ăn”. Sau một thời gian, kỉ luật của ngay cả
những đơn vị ngổ ngáo nhất cũng được cải thiện trông thấy. Trong tháng giêng,
việc huấn luyện khoảng một tá chiến sỹ mới làm tôi lo đến bạc cả tóc. Tháng
năm, có lúc tôi được thay một viên trung uý chỉ huy ba mươi chiến sỹ, có cả
người Tây Ban Nha lẫn người Anh. Chúng tôi đã sống dưới làn đạn suốt mấy tháng
liền, nhưng tôi không gặp bất kì khó khăn nào khi giao việc cho các chiến sỹ
hoặc tìm người tình nguyện làm những việc nguy hiểm. Giác ngộ chính trị, tức là
hiểu vì sao phải thi hành mệnh lệnh
là cơ sở của kỉ luật cách mạng, muốn thế phải có thời gian, nhưng muốn biến một
con người thành cỗ máy tự động trên sa trường cũng cần thời gian cơ mà. Các
phóng viên từng đưa ra những nhận xét có tính chế nhạo lực lượng dân quân đã
quên mất một điều rằng chính họ đã giữ vững trận địa trong khi Quân đội Nhân
dân đang huấn luyện tại hậu phương. Chỉ nhờ có kỉ luật “cách mạng” mà lực lượng
dân quân mới ở lại mặt trận vì mãi đến tháng 6 năm 1937 ngoài ý thức giai cấp
thì chẳng có gì có thể níu kéo được họ. Những kẻ đào ngũ đơn độc có thể bị bắn
- đã có những trường hợp như thế - nhưng nếu cả ngàn người cùng quyết định rời
bỏ mặt trận thì chẳng sức mạnh nào có thể giữ được họ. Trong hoàn cảnh như thế,
nếu không có các đơn vị quân cảnh, lính quân dịch sẽ tan rã ngay lập tức. Dân
quân đã giữ vững được trận địa, nhưng có Chúa chứng giám, họ chỉ thắng được có
vài trận, tuy nhiên hiện tượng đào ngũ cũng ít xảy ra. Trong bốn, năm tháng ở
trong lực lương vũ trang của P.O.U.M., tôi chỉ nghe nói có bốn
người đào ngũ, trong đó có hai tên chắc chắn gián điệp. Trong thời gian
đầu, do binh lính chưa được huấn luyện, thường phải mất năm phút mới thuyết
phục được một người nào đó thi hành mệnh lệnh đã làm tôi phát hoảng và có lúc
tức muốn điên lên được. Tôi có quan niệm theo kiểu quân đội Anh, chắc chắn là
lực lượng dân quân Tây Ban Nha hoàn toàn khác quân đội Anh rồi. Nhưng nếu xét
đến hoàn cảnh lúc đó thì phải công nhận rằng dân quân đã chiến đấu tốt hơn là
người ta có quyền hi vọng.
Nhưng
lúc này vấn đề là củi, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến củi thôi. Cuốn nhật kí tôi
viết trong giai đọan này gần như không ngày nào không nói đến củi, đúng hơn là
nói đến việc không có củi. Chúng tôi đóng quân ở độ cao từ 700 đến 1.000 mét
trên mực nước biển, lại giữa mùa đông, lạnh không bút nào tả xiết. Thực ra,
nhiệt độ cũng không thấp lắm, nhiều đêm còn cao hơn không độ, giữa trưa thường
có nắng khoảng một tiếng đồng hồ; nhưng dù ngay cả những lúc không lạnh lắm
chúng tôi vẫn cảm thấy buốt thấu xương. Đôi khi có những cơn gió rú rít, hất
văng mũ ra và làm tung tóc lên, đôi khi sương mù phủ kín chiến hào; lại thường
có mưa, chỉ mưa mười lăm phút đã khủng khiếp lắm rồi. Lớp đất mỏng phủ trên bề
mặt đá vôi ngay lập tức trở thành trơn như đổ mỡ, thật khó mà không trượt chân
khi đi trên sườn dốc. Những đêm tối trời, có khi tôi ngã đến năm sáu lần trên
đọan đường chỉ dài có hai mươi mét; rất nguy hiểm bởi vì quy-lát có thể bị dính
bùn và hóc. Sau nhiều ngày, cả quần áo, giầy, chăn, súng đều bẩn hết. Tôi mang
theo rất nhiều quần áo ấm, nhưng nhiều người ăn mặc rất phong phanh. Cả đơn vị
khoảng một trăm người mà chỉ có hai mươi chiếc áo bông, chỉ lính gác mới được
thay phiên nhau mặc, đa số chỉ có một chiếc chăn đơn. Trong một đêm lạnh giá
tôi đã liệt kê vào nhật kí tất cả quần áo đang mang trên người. Khá thú vị, bởi
vì nó cho thấy một người có thể mang trên mình bao nhiêu quần áo. Tôi mặc một
áo lót, một quần xà lỏn dày, một áo sơ mi, hai áo len, một áo vét len, một áo
khoác da, quần nhung, xà cạp, tất, ủng, áo đi mưa, khăn quàng cổ, tất tay da và
mũ len. Thế mà lúc nào cũng run như cầy sấy. Nhưng nói cho ngay, tôi là người
chịu lạnh rất kém.
Củi
đun là vấn đề quan trọng nhất. Phải nói đến củi là vì ở đây hầu như không có
một cây khô nào. Dãy núi này, ngay cả những lúc mưa thuận gió hòa nhất cũng
chẳng có mấy cây cối, dân quân lại đóng ở đây đúng vào những tháng rét mướt
nhất, thành thử cành cây bằng ngón tay trở lên đã bị đốt sạch. Mọi người, trừ
lúc ăn, lúc ngủ hay đi tuần, thời gian còn lại tất cả đều phải đi xuống thung
lũng ở phía sau chốt để kiếm củi đun. Cứ mỗi lần nghĩ đến giai đọan này là tôi
lại nhớ cảnh trèo lên trèo xuống những bờ dốc đứng, đầy những tảng đá vôi sắc
nhọn, cứa nát ủng, chỉ cốt túm được một bụi cây nhỏ nào đó. Ba người lượm suốt vài
tiếng đồng hồ cũng chỉ đủ đốt trong vòng một giờ. Việc săn lùng củi đã biến tất
cả chúng tôi thành những nhà thực vật học. Tất cả cây cối mọc trên sườn núi đều
được phân lọai, tùy vào khả năng giữ lửa của chúng; cỏ và các lọai thạch nham
dễ bén lửa nhưng cháy rất nhanh, cây hương thảo dại và kim tước lại chỉ cháy
khi bếp đã hồng, những cây sồi tí hon, nhỏ hơn cả bụi lí gai, thì gần như không
cháy được. Có một lọai sậy, rất dễ bén lửa, mọc trên đỉnh đồi, bên trái chốt
của chúng tôi, lên đấy dễ bị ăn đạn lắm. Nếu mấy tên giữ súng máy của bọn phát
xít mà nhìn thấy thì thế nào chúng cũng xả hết cả một băng mới thôi. Đạn thường
bay rất cao, nghe như tiếng chim kêu trên đỉnh đầu, nhưng đôi khi chúng cũng
bắn vào những hòn đá vôi ngay bên cạnh, lúc đó phải nắm úp mặt xuống ngay lập
tức. Hết loạt đạn chúng tôi lại đứng lên tiếp tục tìm kiếm, chẳng có gì quan
trọng bằng củi đun.
So
với rét thì mọi sự bất tiện khác chỉ là chuyện vặt. Dĩ nhiên là lúc nào chúng
tôi cũng bẩn suốt từ đầu đến chân. Nước, cũng giống như thức ăn, được la chở từ
Alcubierre tới, một người mỗi ngày được hơn một lít. Một thứ nước kinh khủng,
đục nhờ nhờ như sữa. Chính thức thì nước chỉ được dùng để uống, nhưng bao giờ
tôi cũng lấy trộm được một bát sắt đầy để rửa mặt vào buổi sáng. Tôi thường rửa
mặt hôm trước, hôm sau cạo râu, không đủ nước làm hai việc cùng một lúc. Hôi
thối kinh khủng, ngay bên ngòai hàng rào chướng ngại vật là hàng đống phân
người. Một số dân quân còn có thói quen ỉa ngay trong chiến hào, thật là khủng
khiếp nếu phải đi lại vào ban đêm. Nhưng tôi không ngại bẩn. Nhưng bẩn là đề
tài được nói đến thường xuyên. Điều ngạc nhiên là người ta làm quen rất nhanh
với việc không có khăn tay và dùng cùng một cái bát để vừa ăn vừa rửa mặt. Chỉ
một hai ngày là việc mặc cả quần áo đi ngủ sẽ chẳng gây ra bất cứ sự khó chịu
nào. Lúc nào cũng phải sẵn sàng chiến đấu, quần áo, đặc biệt là giầy, lúc nào
cũng phải sẵn sàng trên người, kể cả lúc ngủ. Trong tám mươi ngày trên chốt,
tôi chỉ cởi áo có ba lần, lại thường cởi vào ban ngày. Lạnh quá nên không có
rận, nhưng chuột cống và chuột chù thì rất nhiều. Người ta bảo chỗ nào có chuột
cống thì không có chuột chù, nhưng hóa ra chúng có thể sống cùng một chỗ, miễn
là đủ thức ăn.
Các
mặt khác không đến nỗi nào. Thức ăn khá ngon, rượu vang đủ uống. Mỗi người, mỗi
ngày được một bao thuốc lá, hai ngày một bao diêm, chúng tôi còn được phát cả
nến nữa. Những cây nến rất nhỏ, giống như những cây dùng để trang trí trên
những chiếc bánh trong ngày lễ Nô-en, mọi người đều nói là đồ ăn cắp của nhà
thờ. Mỗi hầm, mỗi ngày được phát ba cây, mỗi cây dài chừng 7cm, cháy trong
khoảng hai mươi lăm phút. Lúc đó còn bán nến, tôi có mua được một ít. Sau này,
chúng tôi đã lâm vào tình trạng khốn khổ, khốn nạn vì không có diêm và nến
trong một thời gian dài. Người ta chỉ có thể thấy được sự quan trọng của những
thứ này khi thiếu chúng. Thí dụ, khi có báo động vào ban đêm, mọi người trong
hầm đều lao vào chỗ để súng, dẫm đạp lên cả mặt nhau, có que diêm mà bật lên sẽ
thấy cuộc đời khác hẳn. Mỗi người đều được phát một nắm bùi nhùi và đọan bấc
màu vàng dài chừng nửa mét. Đối với mỗi người lính, nếu không kể đến súng thì
đây là tài sản quí giá nhất. Bùi nhùi có cái hay là có thể bén lửa ngay trước
ngọn gió, nhưng lại không đủ sức đốt cháy được đống lửa. Khi không còn tìm đâu
ra được diêm, để có thể đốt được lửa, chúng tôi chỉ còn cách là tháo đầu đạn ra
lấy thuốc làm mồi cho bùi nhùi.
Chúng
tôi sống một cách bất bình thường, bất bình thường trong chiến tranh, nếu có
thể gọi đấy là chiến tranh. Tất cả chiến sỹ đều bất bình vì cảnh ăn không ngồi
rồi và lúc nào cũng đòi giải thích vì sao không được phép tấn công. Nhưng rõ
ràng là nếu quân địch không khởi sự trước thì còn lâu mới đánh nhau. Georges
Kopp, trong những chuyến kinh lý định kì của ông, đã nói thẳng với chúng tôi:
“Đây đâu phải là chiến tranh. Đây chỉ là một vở hài kịch, thỉnh thoảng mới có
một vài người chết mà thôi”. Mặt trận Aragon giẫm chân tại chỗ là do những
nguyên nhân chính trị mà lúc đó tôi không biết; nhưng khó khăn về quân sự, chưa
kể việc thiếu lực lượng trù bị, thì ai cũng biết cả.
Trước
hết là vấn đề địa hình. Chiến tuyến, cả chúng tôi lẫn phát xít, nằm ở những vị
trí rất thuận lợi về mặt địa hình, về nguyên tắc chỉ có thể tiếp cận từ một
phía. Chỉ cần đào được vài hầm trú ẩn là bộ binh địch đã bó tay, trừ phi có một
lực lượng vượt trội hẳn về quân số. Chỉ cần một tiểu đội với hai khẩu súng máy
là chúng tôi có thể cầm cự được cả tiểu đoàn rồi. Các vị trí khác cũng như vậy.
Đóng trên đỉnh đồi như thế này, chúng tôi có thể là mục tiêu tốt cho pháo binh,
nhưng quân địch không có pháo binh. Đôi khi tôi lại ngồi nhìn ra xung quanh và
ao ước, ao ước đến cồn cào, một vài khẩu đội pháo binh. Có thể bắn nát hết vị
trí này đến vị trí khác của quân thù như dùng búa đập hạt dẻ vậy. Nhưng chúng
tôi không có khẩu nào. Bọn phát xít thỉnh thoảng cũng lôi được một vài khẩu từ
Zaragoza tới và bắn mấy viên, bắn ít đến nỗi không kịp chỉnh mục tiêu, chẳng
gây ra bất kì thiệt hại nào. Không có pháo binh, trước họng súng máy chỉ có thể
làm ba việc: đào hầm ở khoảng cách an toàn, tức là cách quân địch chừng bốn
trăm mét; lao lên tấn công giữa đồng trống và bị giết hàng loạt hoặc thực hiện
các cuộc đột kích nhỏ vào ban đêm, mà kết quả cũng chẳng thay đổi được gì.
Nghĩa là chỉ có hai lựa chọn: giữ vững vị trí hoặc tự sát.
Ngoài
ra, phương tiện chiến đấu cũng hoàn toàn không có. Cần phải huy động trí tưởng
tượng thì mới hiểu được lực lượng dân quân được trang bị kém đến mức nào. Các
phòng huấn luyện quân sự trong các trường phổ thông ở Anh còn có nhiều vũ khí
hiện đại hơn chúng tôi lúc đó. Thật khó tin, xin được mô tả một cách kĩ lưỡng
hơn.
Trên
toàn bộ khu vực này có tất cả bốn khẩu súng cối tầm ngắn, mỗi khẩu lại chỉ có
đúng mười lăm quả đạn. Quí đến nỗi
không thể nào mang ra bắn được và tất cả bốn khẩu đều được giữ ở Alcubierre.
Khoảng năm mươi người thì có một khẩu súng máy; nhưng đây là những mẫu cũ, chỉ
có thể bắn chính xác trong khoảng từ ba trăm đến bốn trăm mét là cùng. Ngoài ra
toàn là súng trường, mà đa số đều đáng bán ve chai từ lâu. Có ba kiểu súng
trường. Thứ nhất là loại Môze nòng dài. Ít khẩu được sản xuất cách đây dưới hai
mươi năm, đa phần đã han gỉ hết, mười khẩu may mới có một khẩu dùng được. Rồi
đến loại Môze nòng ngắn hay còn gọi là mousqueton, thực chất là súng của
kị binh. Đây là loại súng được nhiều người thích vì nhẹ và dễ sử dụng trong
chiến hào, lại tương đối mới và có vẻ tốt. Nhưng trên thực tế hầu như chẳng có
tác dụng gì. Chúng được lắp từ những cơ phận cũ, không khẩu nào có bộ phận
qui-lát phù hợp, chỉ bắn độ năm phát là phần lớn đã bị hóc rồi. Còn có mấy khẩu
súng trường Winchester nữa. Loại này bắn dễ, nhưng độ chính xác thì lại rất
kém; ngoài ra, vì không có băng đạn nên mỗi lần chỉ bắn được một phát. Đạn cũng
thiếu, khi lên chiến tuyến mỗi người chỉ được phát năm mươi viên, đa số cũng
đều han gỉ cả. Đạn do Tây Ban Nha Sản xuất là loại tái chế cho nên ngay cả súng
tốt cũng rất dễ hóc. Đạn do Mexico sản xuất thì khá hơn cho nên chỉ được dùng
cho súng máy. Đạn của Đức là tốt nhất, nhưng không nhiều, chỉ khi bắt được tù
binh hay lính đào ngũ thì mới có. Bao giờ tôi cũng cất trong túi một băng đạn
Mexico hay Đức để dùng trong những trường hợp khẩn cấp. Nhưng khi có trường hợp
khẩn cấp thì tôi lại ít khi bắn bằng súng của mình vì sợ nó sẽ bị hóc hoặc sẽ
chẳng còn viên đạn nào.
Chúng
tôi không được trang bị mũ sắt, cũng chẳng có lưỡi lê, rất ít người có súng lục
hay súng ngắn, năm hay mười người mới có một quả lựu đạn. Đấy là loại lựu đạn
F.A.I[9].
rất đáng sợ, do những người vô chính phủ sản xuất ngay từ những ngày đầu chiến
tranh. Nó được kích nổ theo nguyên lí Mills, nhưng chốt an toàn lại được giữ
bằng một đoạn giây. Phải giật giây và ném thật nhanh. Người ta gọi đây là loại
lựu đạn “vô tư” vì chúng giết cả người bị ném lẫn người ném. Có cả những loại
lựu đạn khác nữa, có thể thô sơ hơn, nhưng ít nguy hiểm hơn, đối với người ném,
tôi muốn nói như thế. Mãi đến cuối tháng ba tôi mới trông thấy một quả lựu đạn
với đúng nghĩa của nó.
Ngoài
vũ khí, chúng tôi còn thiếu cả những vật dụng cần thiết khác. Thí dụ như sơ đồ
hay bản đồ địa hình cũng không có. Đất nước Tây Ban Nha chưa được khảo sát một
cách toàn diện. Những tấm bản đồ quân sự cũ, tất cả đều nằm trong tay quân phát
xít, lại chính là những tấm bản đồ chi tiết nhất về khu vực này. Chúng tôi
không có máy đo xa, không có kính viễn vọng, không có cả ống nhòm, trừ một vài
cái của cá nhân, không có pháo hiệu, không có kéo cắt dây thép gai, không có cả
dụng cụ sửa súng, ngay cả giẻ lau cũng hiếm nốt. Có vẻ như người Tây Ban Nha
chưa nghe nói đến cái dây thông nòng súng bao giờ, họ rất ngạc nhiên khi thấy
tôi làm được một cái giây như thế. Khi muốn lau súng họ phải đến gặp viên hạ
sỹ, chỉ người này mới có cái que thông nòng dài, bằng đồng và bao giờ cũng cong
cho nên thường làm xước rãnh trong nòng súng. Không có cả mỡ bò. Người ta dùng
cả dầu ô liu để lau súng, đấy là nói khi kiếm được; thỉnh thoảng tôi còn lau
súng bằng dầu vazơlin, bằng kem chống rét, bằng mỡ lợn xông khói nữa. Không có
đèn, cũng chẳng có đèn pin. Chắc là lúc đó trên toàn khu vực mặt trận của chúng
tôi chẳng có chiếc đèn pin nào, phải đến Barcelona thì may ra mới mua được.
Thời
gian tiếp tục trôi dưới những loạt đạn súng trường rời rạc giữa những sườn đồi
hoang vắng và tôi bắt đầu tự hỏi liệu có thể xảy ra một chuyện gì đó đủ sức làm
thay đổi cuộc chiến tranh chán ngắt này hay không. Chúng tôi đang phải chiến
đấu với bệnh viêm phổi chứ không với quân thù. Khi mà chiến hào hai bên nằm
cách nhau cả nửa cây số thì khó mà bắn trúng lắm. Tất nhiên là có thương vong,
nhưng đa phần là tự thương. Nếu tôi nhớ không lầm thì cả năm trường hợp bị
thương ở Tây Ban Nha mà tôi thấy đều là do vũ khí của chúng tôi gây ra. Tôi
không nói rằng đó là do cố ý, không, tất cả đều là vô tình hoặc cẩu thả mà ra.
Những khẩu súng cũ của chúng tôi là mối nguy chính. Một số khẩu có thể nổ khi
chống báng súng xuống đất, tôi đã thấy một người bị bắn vào tay theo cách đó.
Ban đêm các tân binh rất dễ bắn vào nhau. Một lần, mới nhá nhem tối mà tay lính
gác đã bắn vào tôi, hai người cách nhau chỉ khoảng vài chục mét, viên đạn đi
cách tôi chừng một mét. Chỉ có trời mới biết tài thiện xạ của người Tây Ban Nha
đã cứu tôi mấy lần. Một lần, hôm ấy có nhiều sương mù, tôi đi trinh sát, trước
đó đã báo cáo cho chỉ huy toán lính gác rồi. Nhưng khi quay về tôi lại đâm sầm
vào một bụi rậm, tay lính gác giật mình kêu ầm lên là phát xít tấn công và tôi
nghe thấy tay chỉ huy hạ lệnh bắn về hướng tôi. Tôi lập tức nằm xuống, đạn bay
vèo vèo ngay trên lưng. Không ai có thể thuyết phục được người Tây Ban Nha,
nhất là những người còn trẻ, rằng súng là vật nguy hiểm. Một lần, sau câu
chuyện vừa nói ở trên, tôi đứng chụp ảnh cho mấy anh chàng xạ thủ súng máy ngồi
sau khẩu súng hướng thẳng vào tôi.
“Đừng
bắn nhé”, tôi vừa nói đùa vừa chỉnh tiêu cự.
“Không,
không bắn đâu”
Tiếng
súng kinh hoàng vang lên ngay lúc đó, một loạt đạn bay sát mặt tôi, đến nỗi má
tôi bị thuốc đạn làm cháy xém. Dĩ nhiên là một hành động bất cẩn, nhưng các xạ
thủ lại coi là một trò đùa tuyệt vời. Thế mà mới cách đây mấy hôm, họ đã trực
tiếp nhìn thấy tay chính trị viên chỉ vì đùa mà đã bắn một lúc năm phát đạn vào
ngực một dân công làm nhiệm vụ dắt la rồi đấy.
“Eroica
nghĩa là gì?”
Tôi
bảo anh ta rằng Eroica cũng có nghĩa
như từ valiente. Chỉ vài phút sau, khi anh ta đang dò dẫm trong chiến
hào thì nghe có tiếng lính gác hỏi:
‘Alto!
Cataluña![11]’
‘Valiente!’,
Jaime thét lên, tin rằng mình đã trả lời đúng.
Đoàng!
May
mà tay lính gác bắn trượt. Trong cuộc chiến tranh này mọi người đều tìm mọi cách để
tránh bắn vào nhau.
4
Tôi đến mặt trận được khoảng ba tuần thì có
một nhóm từ hai mươi đến ba mươi người Anh do Đảng lao động độc lập gửi sang
cũng tới Alcubierre. Tôi và Williams được thuyên chuyển sang với họ để thành
một đơn vị toàn người Anh. Chúng tôi đóng chốt ở Monte Oscuro, cách chỗ cũ mấy
dặm về phía Tây, có thể nhìn thấy Zaragoza.
Chốt
của chúng tôi nằm trên một mỏm đá sắc như lưỡi dao cạo, hầm trú ẩn được khoét
sâu vào bên trong tảng đá như hang của loài chim én. Hầm trú ẩn được đào rất
sâu, bên trong vừa tối vừa thấp, quỳ cũng không được chứ không nói là đứng.
Trên những mỏm núi phía bên trái chúng tôi còn có hai chốt của lực lượng P.O.U.M. nữa, trong đó có một chốt được tất cả mọi người trên
chiến tuyến quan tâm vì có ba cô chị nuôi. Các cô này thực ra là không đẹp, nhưng
ban chỉ huy cho rằng cần phải cấm người các đơn vị khác lai vãng đến đó. Ở bên
phải, cách chúng tôi chừng năm trăm mét, cạnh chỗ rẽ của con đường đi
Alcubierre có một chốt nữa, đấy là lực lượng của P.S.U.C.
Từ đấy trở đi con đường nằm trong tay đối phương. Ban đêm có thể nhìn thấy đèn
xe vận tải của quân ta từ Alcubierre tới và cùng lúc đó là đèn xe của phát xít
từ Zaragoza lại. Zaragoza nằm ở phía tây-nam, cách đây khoảng hai mươi cây số,
có thể trông thấy vào ban đêm, đấy là một vệt sáng mỏng, trông như ánh sáng
phát ra từ cửa sổ của những con tầu thuỷ vậy. Các đơn vị quân đội của chính phủ
đã phải đứng ở đây để dõi mắt về thành phố từ tháng tám năm 1936 và bây giờ họ
còn tiếp tục dõi theo như thế.
Đơn
vị của chúng tôi có khoảng ba mươi người, trong đó có một người Tây Ban Nha
(Ramón, em vợ của Williams) và hơn một chục xạ thủ súng máy người Tây Ban Nha
nữa. Ngoài một vài trường hợp ngoại lệ, chiến tranh, như mọi người đều biết,
luôn luôn hấp dẫn các phần tử bất hảo – nhóm người Anh ở đây thật là tuyệt vời,
cả về thể chất lẫn tinh thần. Đáng yêu nhất là anh chàng Bob Smillie. Anh vốn
là cháu nội của một trong những lãnh tụ nổi tiếng của công nhân mỏ, sau này anh
đã chết, một cái chết cực kì vô nghĩa ở Valencia. Dù có những khó khăn trong
giao tiếp, nhưng các chiến sĩ người Anh và người Tây Ban Nha luôn giữ được thái
độ hữu hảo, đấy phần lớn là do tính cách của người Tây Ban Nha. Tất cả các
chiến sỹ Tây Ban Nha chỉ biết có hai câu tiếng Anh. Một câu là “O.K., baby”,
còn câu thứ hai là ngôn ngữ mà các cô gái điếm ở Barcelona thường dùng trong
giao tiếp với các thuỷ thủ người Anh, tôi nghĩ là có viết ra đây thì thợ sắp
chữ cũng sẽ bỏ đi thôi.
Trên
khắp chiến tuyến vẫn chẳng có chuyện gì cả: thỉnh thoảng mới có một viên đạn
lạc hay một quả đạn súng cối, mọi người cùng chạy vội lên giao thông hào cao
nhất để xem viên đạn nổ ở đâu. Chỗ này hai bên ở gần nhau hơn, khoảng ba bốn
trăm mét. Chốt gần nhất nằm đối diện với chúng tôi, có một khẩu súng máy, các
chiến sỹ của chúng tôi cứ nhằm vào lỗ châu mai mà bắn, nhưng chỉ phí đạn. Bọn
phát xít không thèm dùng súng trường, nhưng hễ ai ló ra là chúng dùng súng máy
nã ngay. Thế mà phải mười ngày sau hoặc hơn mới có người bị thương đầu tiên.
Đối diện với chúng tôi là đơn vị người Tây Ban Nha, nhưng theo lời những kẻ đào
ngũ thì có cả mấy người Đức thuộc lực lượng N.C.O.S.
nữa. Trước đây, phía phát xít còn có cả người Marocco - đấy là những người rất
nghèo, chắc là rét lắm – vì trên vùng đất trung gian có một xác người Marocco,
hắn đã trở thành danh lam thắng cảnh của khu vực. Chiến tuyến bị đứt đoạn ở
cách chỗ chúng tôi khoảng ba cây số về bên trái, đấy là vùng đất thấp hơn, có
những cánh rừng rậm, không bên nào kiểm soát được. Ban ngày, cả hai bên đều có
thể đi tuần trong vùng này. Một trò ú tim không đến nỗi tồi theo kiểu hướng đạo
sinh, nhưng bao giờ bọn phát xít cũng đi cách chúng tôi đến mấy trăm mét. Chúng
tôi đã từng bò qua chiến tuyến của quân phát xít và nhìn thấy một ngôi nhà có
treo lá cờ bảo hoàng, đấy là sở chỉ huy tại chỗ của quân địch. Chúng tôi nã một
loạt đạn rồi tìm chỗ nấp ngay. Tôi hi vọng bắn vỡ một vài cửa sổ, nhưng với
khoảng cách tám trăm mét như thế, đến bắn trúng ngôi nhà cũng còn khó.
Trời
quang và lạnh, đôi khi có nắng vào giữa trưa nhưng vẫn lạnh. Trên sườn đồi, đôi
khi đã thấy xuất hiện những chồi nghệ dại hay cây irit, thế là mùa xuân đang
đến, nhưng đến rất chậm. Đêm còn lạnh. Những hôm đi gác về vào lúc bình minh
chúng tôi thường cùng nhau vét sạch những gì còn sót lại từ bữa ăn tối hôm
trước rồi nhảy vào đám than hồng. Đế giầy bị nướng chín, nhưng chân thì đỡ lạnh
rất nhanh. Nhưng có những hôm phong cảnh bình minh trên những đỉnh đồi ở đây
đẹp đến nỗi không ai cảm thấy hối tiếc khi phải chui khỏi chăn vào lúc sáng
sớm. Tôi không thích cảnh đồi núi, nhưng đôi khi, nhìn ánh bình minh đang lên
trên những ngọn núi phía sau trận địa, ngắm những tia sáng màu vàng óng như
những lưỡi kiếm xé toạc màn đêm và khoảng sáng rộng dần ra, biển mây màu đỏ
chót biến mất trong khoảng không vô cùng vô tận, tôi thực sự không thấy hối
tiếc vì đã phải thức suốt đêm, chân tay tê cóng và phải ba tiếng đồng hồ nữa
mới được ăn sáng. Trong những ngày sống ở đây, tôi đã thấy nhiều buổi bình minh
hơn tất cả thời gian trước đây cộng lại, và mong sao sau này cũng không còn
phải dậy sớm thường xuyên như thế nữa.
Chúng tôi không có đủ người, thế có nghĩa là
phải đứng gác lâu hơn và mệt mỏi hơn. Tôi bắt đầu cảm thấy thiếu ngủ, một hiện
tượng không thể tránh được, ngay cả trên những mặt trận yên tĩnh nhất. Ngoài
việc đứng gác và đi tuần, ban đêm còn thường xuyên có báo động, không có những
chuyện đó cũng chẳng ai có thể ngủ đẫy giấc trong những cái hố chật ních, chân
tay thì tê buốt vì lạnh. Trong ba bốn tháng đầu tiên ở trên chiến tuyến có đến
chục ngày tôi hoàn toàn không ngủ, nhưng mặt khác, cũng không được ngủ trọn
giấc quá mười đêm. Ngủ hai mươi đến ba mươi giờ mỗi tuần là chuyện bình thường.
Thiếu ngủ cũng không tai hại như ta có thể tưởng; đầu óc có thể mụ mị đi, leo
lên leo xuống đồi có thể chậm chạp hơn, nhưng tâm trạng thì vẫn bình thường,
chỉ có đói, đói khủng khiếp! Món ăn nào cũng ngon cả, ngay cả món đậu mà ngày
nào chúng tôi cũng phải ăn, đến nỗi cuối cùng tất cả những ai từng đến Tây Ban
Nha chỉ nhìn thấy đã phát khiếp. Nước, hay cái gọi là nước, được chở từ cách
đấy mấy cây số, trên lưng những con la hay những con lừa gầy nhom. Không hiểu
vì sao người nông dân Aragon đối xử với la tử tế nhưng lại hay hành hạ lũ lừa.
Lừa không chịu đi sẽ bị đá ngay vào dái.
Không
được phát nến nữa, diêm cũng chẳng còn bao nhiêu. Người Tây Ban Nha dạy chúng
tôi cách làm đèn đốt bằng dầu ôliu từ hộp sữa, vỏ đạn và một ít giẻ. Thỉnh
thoảng chúng tôi mới được phát dầu ôliu, ánh sáng vừa nhỏ vừa khói, chỉ sáng
bằng một phần tư ngọn nến, nhưng cũng giúp tìm súng một cách dễ dàng hơn nhiều.
Có
vẻ như sẽ chẳng bao giờ có đánh nhau. Khi rời Monte Pocero, tôi mang đạn ra đếm
và phát hiện ra rằng trong suốt gần ba tuần tôi chỉ bắn có ba phát. Người ta
bảo rằng phải một ngàn viên mới giết được một người, cứ đà này thì phải hai
mươi năm may ra tôi mới giết được một tên phát xít. Tại Monte Oscuro, chiến hào
ở gần nhau hơn, bắn nhiều hơn, nhưng tôi có đủ lí do để tin rằng mình chưa bắn
trúng người nào. Sự thật là, tại mặt trận này và trong giai đoạn này, vũ khí
không phải là súng đạn mà là loa phóng thanh. Không thể giết được kẻ thù, chúng
tôi đành quát tháo chúng vậy. Đây là một cách tiến hành chiến tranh độc đáo,
cần phải giải thích một chút.
Khi
chiến luỹ hai bên gần nhau, hò hét cũng là một cách tốt. Chúng tôi thường hô: “Fascistas
— maricones![12]”.
Phát xít trả lời: “Viva
España! Viva Franco![13]”,
còn khi biết có người Anh ở đây thì chúng hô: “Người Anh cút đi! Chúng tôi
không muốn người ngoại quốc ở đây!” Quân đội chính phủ cũng như lực lượng dân
quân của các đảng phái có hẳn kĩ thuật tuyên truyền bằng cách hò hét nhằm phân
hoá hàng ngũ của kẻ thù. Khi có điều kiện, bao giờ người ta cũng giao cho các
chiến sỹ, thường là các xạ thủ pháo binh loa và bảo hô cho thật to. Họ thường
hô các khẩu hiệu đầy tinh thần cách mạng, nhằm giải thích cho binh lính phía
phát xít rằng chúng chỉ là tay sai của chủ nghĩa phát xít quốc tế, rằng chúng
đang chiến đấu chống lại chính giai cấp của mình .v.v.. và thúc giục họ chạy
sang phía chúng tôi. Việc hô khẩu hiệu có khi kéo dài suốt đêm, toán này mệt
thì có toán khác đến thay. Chắc chắn là có hiệu quả, mọi người đều tin rằng
quân phát xít đào ngũ một phần là do kết quả của việc tuyên truyền như thế. Quả
thật, một người lính gác, nếu lại đã từng là đảng viên xã hội hay đoàn viên
công đoàn vô chính phủ bị bắt nhập ngũ, đang chết cóng trên vọng gác thì khẩu
hiệu “Đừng chống lại chính giai cấp của mình” được nhắc đi nhắc lại trong đêm tối sẽ buộc anh ta phải
suy nghĩ. Đấy có thể là giọt nước làm lệch cán cân “đào ngũ – không đào ngũ”.
Dĩ nhiên chuyện này không phù hợp với quan niệm của người Anh về chiến tranh.
Phải công nhận rằng tôi đã ngạc nhiên, thậm chí khó chịu khi chứng kiến cảnh
tượng đó lần đầu tiên. Thuyết phục kẻ thù trong khi đáng ra phải cho nó một
phát! Bây giờ, tôi công nhận rằng dù đứng trên quan điểm nào thì đấy cũng là
cách làm chấp nhận được. Trong cuộc trận địa chiến bình thường, lại thiếu pháo
binh, thật khó tiêu hao được lực lượng địch nếu không muốn có số người bị
thương vong tương tự bên phía mình. Nếu có thể làm cho chỉ một số người đào ngũ
thôi thì cũng tốt rồi, bọn đào ngũ có ích hơn là mấy cái xác chết vì chúng có
thể cho biết thông tin. Nhưng thời gian đầu chúng tôi rất chán nản, chúng tôi
nghĩ rằng người Tây Ban Nha thiếu nghiêm túc đối với cuộc chiến này. Người làm
nhiệm vụ hô khẩu hiệu trên chốt của lực lượng P.S.U.C., nằm ở
bên phải chúng tôi, là một chuyên gia trong lĩnh vực này. Đôi khi, thay vì hô
khẩu hiệu cách mạng, anh ta lại bảo bọn phát xít rằng chúng tôi được ăn uống
tốt hơn chúng. Dĩ nhiên là khẩu phần có tưởng tượng thêm. “Bánh mì chiên bơ!”,
giọng anh ta vang xa khắp thung lũng. “Chúng tớ đang ngồi cạnh đĩa bánh mì
chiên bơ! Thơm ơi là thơm!” Không nghi ngờ gì rằng, giống như tất cả chúng tôi,
cả tuần nay, thậm chỉ cả tháng nay anh ta không nhìn thấy miếng bánh mì chiên
bơ nào, nhưng trong cái đêm lạnh lẽo này câu chuyện bánh mì chiên bơ chắc chắn
đã làm nhiều tên phát xít phải rỏ dãi. Tôi cũng rỏ dãi, tuy biết rằng anh ta
xạo.
Một
lần, vào tháng hai, chúng tôi trông thấy một chiếc phi cơ phát xít bay lại gần.
Như mọi khi, chúng tôi lôi súng máy ra chỗ đất trống, hướng nòng lên cao và nằm
ngửa để ngắm cho dễ. Vị trí đơn độc của chúng tôi không đáng ném bom, trước đây
máy bay phát xít thường bay vòng qua để tránh đạn súng máy. Lần này phi cơ bay
thẳng qua đầu, nhưng rất cao, không thể bắn tới; từ trong bụng nó tung ra một
cái gì đó màu trắng giống như những tờ giấy, vừa rơi vừa lật qua lật lại mãi
trên đầu. Có mấy tờ rơi đúng vào chốt của chúng tôi. Hoá ra là tờ báo Heraldo
de Aragón, đưa tin chúng đã chiếm được Malaga.
Đêm
đó bọn phát xít tung ra một trận tấn công, nhưng không thành. Tôi vừa đi nằm,
mệt muốn chết được, thì bỗng nghe một loạt đạn nổ ngay trên đầu, rồi có người
thò đầu vào công sự, hét: “Chúng tấn công rồi!” Tôi vồ lấy khẩu súng và lao lên
vị trí của mình ở trên đỉnh đồi, ngay cạnh khẩu súng máy. Tối như hũ nút, ồn ào
như vỡ chợ. Chúng bắn như vãi đạn, tôi nghĩ phải đến năm khẩu súng máy đang bắn
chứ không ít, một loạt lựu đạn nổ, bọn phát xít ném ngay vào bờ công sự của
chúng. Tối quá. Bên dưới thung lũng, về phía bên trái, tôi nhìn thấy những
luồng đạn súng trường màu xanh. Chắc là một nhóm tuần tra phát xít đã tham
chiến. Đạn bay vèo vèo xung quanh chúng tôi. Có những quả đạn cối bay ngang qua
đầu và rơi ở đâu đó khá xa, phần lớn (chuyện thường ngày ở đây) không nổ. Tôi
bỗng phát hoảng khi nghe thấy tiếng súng máy nổ trên đỉnh đồi phía sau, hoá ra
đấy là lực lượng tăng viện, nhưng lúc đó lại ngỡ là chúng tôi đã bị bao vây.
Lúc đó súng máy của chúng tôi đang bị hóc, nó thường bị hóc vì đạn quá kém, tối
quá, không thấy cái thông nòng đâu. Không thể làm được gì, chỉ mỗi việc đứng
đây và đợi một phát đạn vào đầu. Các xạ thủ súng máy người Tây Ban Nha không
chịu nấp, họ còn cố tình phơi mình ra trước làn đạn, tôi phải làm theo họ. Hành
động này, dù chẳng có ý nghĩa gì, đã để lại cho tôi cảm giác rất thú vị. Nói
cho ngay, đây là lần đầu tiên tôi đứng dưới làn đạn. Thật xấu hổ vì tôi thấy
mình sợ run lên. Dưới làn đạn, ai cũng cảm thấy như thế cả, không phải là sợ bị
bắn mà là không biết sẽ bị bắn vào đâu. Người ta luôn tự hỏi không biết sẽ
trúng vào đâu và mọi chỗ trên người đều trở nên nhạy cảm hơn rất nhiều.
Khoảng
một hai giờ sau, tiếng súng bắt đầu vãn dần rồi ngừng hẳn. Bên chúng tôi chỉ có
một người bị thương. Bọn phát xít đã đưa mấy khẩu súng máy ra vùng đất tranh
chấp, nhưng vẫn giữ khoảng cách và không có ý định tràn vào chốt của chúng tôi.
Thực ra, chúng không tấn công, chỉ bắn phí đạn, cốt yếu là gây ồn ào để chào
mừng việc chiếm được Malaga. Sau chuyện này tôi rút ra được bài học là phải cẩn
thận với tin tức chiến sự trên các báo. Một hai ngày sau báo chí và đài phát thanh
đều đưa tin là quân tình nguyện anh hùng người Anh đã đẩy lui được cuộc tấn
công của kị binh và xe tăng phát xít (trên sườn đồi gần như thẳng đứng!)
Ban
đầu chúng tôi cho rằng tin bọn phát xít chiếm được Malaga là xạo, nhưng ngày
hôm sau thì có nhiều tin đồn và vài ngày sau nữa thì có thông báo chính thức.
Phải một thời gian sau toàn bộ câu chuyện nhục nhã này mới loang ra hết, nào là
thành phố đã di tản mà không hề kháng cự, nào là sự điên rồ của quân đội Ý
không đổ lên đầu quân đội cộng hoà mà lại đổ lên đầu dân chúng, có người bị săn
đuổi và bị bắn chết bằng súng cối khi đã đi cách xa thành phố hàng trăm cây số.
Tin tức như một gáo nước lạnh dội lên toàn bộ mặt trận; dù sao mặc lòng, tất cả
dân quân đều tin rằng Malaga thất thủ là do có kẻ nào đó đã phản bội. Đây là
lần đầu tiên tôi nghe nói tới chuyện phản bội hay là sự thiếu nhất trí về mục
tiêu. Lần đầu tiên trong đầu tôi xuất hiện một mối nghi ngờ, tuy không rõ rệt,
về cuộc chiến tranh này, một cuộc chiến tranh mà trước đó chính tà đã được xác
định một cách cực kì đơn giản.
Chúng
tôi rời Monte Oscuro vào giữa tháng hai và được đưa, cùng với lực lượng P.O.U.M. đóng trong khu vực này, vào đơn vị tham gia bao vây Huesca.
Xe ô tô tải đưa chúng tôi đi qua một bình nguyên dài tám mươi kilomet giữa mùa
đông lạnh giá, nơi những giàn nho chưa kịp đâm chồi, vài nhánh lúa mạch mới kịp
nhú ra trên những thửa ruộng lổn nhổn. Huesa, nhỏ tí và quang đãng, nằm cách
chiến hào mới của chúng tôi chừng bốn kilomet, trông như thành phố của những
ngôi nhà búp bê vậy. Mấy tháng trước đây, sau khi chiếm được Sietamo, viên
tướng chỉ huy các đơn vị của chính phủ đã vui vẻ nói: “Ngày mai chúng ta sẽ
uống cà phê ở Huesca.” Nhưng ông đã lầm. Đã diễn ra những cuộc tấn công đẫm
máu, nhưng vẫn không chiếm được thành phố và “Ngày mai chúng ta sẽ uống cà phê
ở Huesca” trở thành trò cười cho toàn thể bộ đội. Nếu có dịp trở lại Tây Ban
Nha, nhất định tôi phải đến Huesca để uống một li cà phê.
5
Đến mãi cuối tháng ba, ở mặt trận phía đông
Huesca vẫn không có sự cố nào, nói chính xác thì gần như không có sự cố nào.
Chúng tôi đóng cách quân địch hai trăm mét. Khi bọn phát xít bị đánh bật trở
lại Huesa, quân đội cộng hòa đã không hăng hái tiến công cho nên chiến tuyến ở
khu vực này có hình một cái móng ngựa. Sau này, khi quân ta chuyển sang tấn
công, sẽ phải nắn thẳng chiến tuyến – dưới hỏa lực của địch, đấy không phải là
việc dễ - nhưng hiện giờ có thể coi là quân địch không hề tồn tại; chúng tôi
chỉ phải lo mỗi một việc là giữ cho ấm và tìm cho đủ thức ăn. Nhưng trên thực
tế, giai đọan này có nhiều chuyện khá hay, tôi sẽ kể sau. Hiện thời tôi sẽ cố
gắng bám sát các sự kiện nhằm trình bày cho được phần nào nội tình chính trị
bên phía chính phủ.
Thời
gian đầu tôi không để ý đến khía cạnh chính trị của cuộc chiến, chỉ đến mãi
giai đọan này chính trị mới bắt đầu thu hút sự chú ý của tôi. Độc giả nào không
quan tâm tới những sự thật ghê tởm đằng sau chính sách của các đảng phái có thể
bỏ qua chương này; tôi cố gắng tách lĩnh vực chính trị thành một chương riêng
là có ý như thế. Nhưng đồng thời, chỉ đứng trên giác độ quân sự thì không thể
nào mô tả được cuộc chiến tranh ở Tây Ban Nha. Đây trước hết là cuộc chiến
tranh chính trị. Nếu không biết những cuộc đấu đá giữa các đảng phái phía sau
chiến tuyến của quân đội chính phủ thì ta sẽ không thể hiểu được bất cứ sự kiện
nào, nhất là năm đầu tiên.
Khi mới tới Tây Ban Nha và cả một thời gian
sau đó, tôi không những không quan tâm mà còn mù tịt về tình hình chính trị ở
đây nữa. Tôi biết là đang có chiến tranh, nhưng không biết người ta đánh nhau
vì chuyện gì. Nếu ai hỏi tôi tại sao lại tham gia dân quân thì chắc chắn tôi sẽ
nói: “Để chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít”, còn nếu hỏi tôi chiến đấu vì cái gì thì tôi sẽ nói: “Vì sự tử tế
nói chung”. Tôi đồng ý với định nghĩa về cuộc chiến của tờ News
Chronicle-New Statesman rằng đây là sự tự vệ của nền văn minh nhằm chống
lại cuộc bạo động điên rồ của lực lượng quân sự
dưới quyền đại tá Blimp[14]
được Hitler trả lương. Không khí cách mạng ở Barcelona có sức hấp dẫn to lớn
đối với tôi, nhưng tôi lại không chịu bỏ công tìm hiểu xem thực chất của cuộc
cách mạng ấy là gì. Đủ thứ đảng phái và tổ chức công đoàn, với những cái tên
chán ngắt - P.S.U.C., P.O.U.M., F.A.I., C.N.T[15]., U.G.T[16]., J.C.I[17]., J.S.U[18]., A.I.T. - chỉ làm tôi bực mình thêm.
Mới nhìn người ta có thể nghĩ rằng Tây Ban Nha đang mắc căn bệnh viết tắt. Tôi
biết rằng mình đang phục vụ trong đơn vị mang tên P.O.U.M.
(Tôi tham gia vào lực lượng dân quân P.O.U.M. chứ không
phải lực lượng khác đơn giản vì tôi đến Barcelona theo giấy giới thiệu của I.L.P[19].), nhưng tôi đâu có biết rằng có sự khác biệt rất lớn giữa
các đảng phái ở đây. Tại Monte Pocero,
khi người ta chỉ vào chốt bên trái chúng tôi và bảo: “Đấy là những người xã hội
chủ nghĩa” (ý nói P.S.U.C.), tôi đã ngạc nhiên và hỏi:
“Thế chúng ta không phải là xã hội chủ nghĩa à?”. Tôi cho rằng chỉ những người
ngu mới phân biệt đảng nọ đảng kia trong khi đang chiến đấu giữa sống và chết.
Quan điểm của tôi luôn luôn là: “Vứt hết những thứ đảng phái nhảm nhí ấy đi để
tập trung sức lực cho cuộc chiến”. Tất nhiên đấy là thái độ “chống phát xít”
đúng đắn mà báo chí Anh cố tình gieo rắc nhằm đánh lạc hướng, cản trở quần
chúng hiểu bản chất của cuộc đấu tranh này. Nhưng ở Tây Ban Nha, đặc biệt là ở
Catalonia, không ai có thể giữ vững được quan điểm như thế. Dù muốn dù không,
trước sau gì người ta cũng phải ngả về một bên nào đó. Ngay cả một người không
quan tâm đến các đảng phái và “đường lối” của chúng thì người đó cũng phải biết
rằng đây là vấn đề vận mệnh của chính anh ta. Mỗi chiến sỹ dân quân là một
người lính trên mặt trận chống Franco, nhưng anh ta còn là một con tốt trong
cuộc quyết đấu giữa hai học thuyết chính trị nữa. Khi bò đi tìm củi bên sườn đồi,
tôi thường tự hỏi đây có phải là cuộc chiến tranh hay chỉ là trò hề như tờ News
Chronicle nói, khi tôi lẩn tránh làn đạn súng máy của những người cộng sản
trong cuộc nổi loạn ở Barcelona; khi, cuối cùng, tôi trốn khỏi Tây Ban Nha dưới
sự săn lùng sát gót của cảnh sát - tất cả những chuyện đó đã xảy ra với tôi là
vì tôi phục vụ trong lực lượng dân quân P.O.U.M. chứ
không phải trong lực lượng P.S.U.C. Sự khác nhau giữa
những chữ viết tắt này thật là to lớn vậy!
Muốn
hiểu được phân bố lực lượng bên phía chính phủ, cần phải biết cuộc chiến tranh
đã bắt đầu như thế nào. Khi cuộc chiến bùng nổ vào ngày 18 tháng 7 chắc hẳn tất
cả những người chống phát xít ở châu Âu đều tràn trề hi vọng. Vì cuối cùng cũng
đã có một chính phủ dân chủ đứng lên chống lại chủ nghĩa phát xít. Đã nhiều năm
qua, cái gọi là các nước dân chủ luôn luôn nhượng bộ chủ nghĩa phát xít. Họ đã
để cho người Nhật làm mọi điều họ muốn ở Mãn Châu. Hitler đã giành được quyền
lực và tiến hành việc thủ tiêu tất cả những người đối lập đủ mọi màu sắc. Mussolini
ném bom Abyssinia ngay cả khi năm mươi ba (hi vọng là tôi không lầm) quốc gia
cùng đồng thanh nói “không!” Nhưng khi Franco định lật đổ chính phủ trung tả
thì nhân dân Tây Ban Nha đã gây bất ngờ cho tất cả mọi người, họ đã đứng lên
chống lại hắn. Có vẻ như đấy chính là một bước ngoặt, hoàn toàn có thể như thế.
Nhưng
mọi người đã bỏ qua một vài sự kiện. Thứ nhất, không thể đánh đồng Franco với
Hitler và Mussolini được. Vụ nổi loạn chỉ là một cuộc binh biến được giới quí
tộc và nhà thờ ủng hộ mà thôi. Mục đích của cuộc nổi dậy, nhất là thời gian
đầu, là khôi phục chế độ phong kiến chứ không hẳn là thiết lập chế độ phát xít.
Kết quả là không chỉ giai cấp công nhân mà cả giai cấp tư sản tự do, tức là
những người ủng hộ chủ nghĩa phát xít, nếu như nó xuất hiện dưới hình thức hiện
đại hơn, cũng đứng lên chống lại Franco. Quan trọng hơn là giai cấp công nhân
Tây Ban Nha đứng lên chống lại Franco không phải vì dân chủ hay nhằm bảo tồn
tình trạng hiện tại, như giai cấp công nhân Anh có thể làm chẳng hạn; cuộc kháng
chiến của giai cấp công nhân Tây Ban Nha đi liền với - thực ra có thể nói – là
một cuộc bùng nổ cách mạng. Nông dân chiếm ruộng đất, công đoàn chiếm giữ các
nhà máy và hầu hết phương tiện vận tải, nhà thờ bị đập phá, tu sỹ thì bị đuổi
đi hoặc bị giết hại. Tờ Daily Mail, được giới tăng lữ của nhà thờ Thiên
chúa giáo ủng hộ, đã viết về Franco như một người yêu nước, đang cứu đất nước
khỏi bọn “đỏ” mọi rợ.
Trong
mấy tháng đầu, kẻ thù của Franco không hẳn là lực lượng chính phủ mà chính là
các công đoàn. Ngay khi nổ ra bạo loạn, giai cấp công nhân có tổ chức ở đô thị
đã đáp lại bằng những cuộc tổng đình công, sau đó thì đòi và qua đấu trang đã
nhận được vũ khí từ kho của chính phủ. Nếu công nhân không tự động đứng lên và
không hành động một cách tương đối độc lập thì có thể Franco sẽ không gặp phải
bất kì sự kháng cự nào. Không thể khẳng định như thế, nhưng có cơ sở để nghĩ
như thế. Chính phủ không làm hoặc gần như không làm gì để ngăn chặn cuộc bạo
loạn, một cuộc bạo loạn đã được dự đoán từ lâu. Còn khi cuộc bạo loạn bùng nổ thì chính phủ lại lúng túng và phản ứng một cách yếu ớt đến nỗi
trong có mấy ngày Tây Ban Nha đã thay đến ba thủ tướng[20]. Mặc dù muốn cứu được tình hình thì chỉ có
một cách: phát súng cho công nhân, nhưng người ta đã lưỡng lự và chỉ làm như
thế do áp lực của quần chúng quá mạnh. Cuối cùng, súng đã được phân phát và tại
các thành phố lớn ở phía Đông, nhờ những cố gắng vượt bậc của giai cấp công
nhân và lực lượng còn trung thành với chính phủ (cảnh sát vũ trang…) quân phát
xít đã bị đánh tan. Những cố gắng như thế, tôi nghĩ, chỉ có thể xảy ra khi nhân
dân chiến đấu với tinh thần cách mạng, nghĩa là khi họ tin rằng đang chiến đấu
vì một cái gì đó cao quí hơn tình trạng hiện tại. Đôi khi chỉ trong một ngày đã
có đến ba ngàn người hi sinh trong những trận chiến đấu trên đường phố. Những
người đàn ông và đàn bà, chỉ được trang bị mấy quả mìn, đã lao qua những khoảng
sân trống trải và tấn công những ngôi nhà do binh lính được huấn luyện kĩ càng,
được trang bị súng máy chiếm giữ. Những chiếc xe taxi chạy với tốc độ một trăm
cây số một giờ lao thẳng vào các ổ súng máy nằm trên các vị trí chiến lược.
Ngay cả khi người ta không có tin tức gì về việc nông dân chiếm đất hay việc
thành lập các Xô Viết địa phương thì người ta cũng khó mà tin rằng những người
vô chính phủ và những người xã hội chủ nghĩa, tức là thành phần cốt cán của
phong trào kháng chiến, lại làm những việc như thế để bảo vệ nền dân chủ tư
sản, đặc biệt là những người vô chính phủ, vốn coi chế độ dân chủ tư sản chỉ là
bộ máy tập trung nhằm lừa bịp quần chúng mà thôi.
Trong
khi đó, công nhân đã nắm được vũ khí và lúc này họ không có ý định giao nộp
lại. (Một năm sau người ta tính được rằng các đoàn viên công đoàn vô chính phủ
ở Catalonia còn giữ tổng cộng 30.000 khẩu súng trường). Tại nhiều địa phương,
tài sản của các đại điền chủ ủng hộ Franco đã bị nông dân tịch thu. Cùng với
việc tập thể hóa trong lĩnh vực công nghiệp và giao thông vận tải; mầm mống
chính quyền của giai cấp công nhân, đấy là các ủy ban, cũng đã được thành lập;
lực lượng cảnh sát tư sản cũ được thay bằng các đội tuần tra của công nhân;
công đoàn đứng ra thành lập các đội dân quân tự vệ..v.v.. Dĩ nhiên là phong
trào không diễn ra một cách đồng đều, mạnh nhất là ở Catalonia. Có những nơi
chính quyền địa phương vẫn còn nguyên như cũ, có nơi thì song song tồn tại bên
cạnh các ủy ban cách mạng. Tại một vài địa phương, người ta còn thành lập được
cả các công xã vô chính phủ nữa, sau gần một năm các công xã này mới bị chính
phủ đàn áp. Trong những tháng đầu tiên, chính quyền ở Catalonia gần như nằm
hoàn toàn trong tay các công đoàn vô chính phủ vì họ kiểm soát được hầu như
toàn bộ các ngành công nghiệp chủ lực của thành phố. Trên thực tế, những sự
kiện ở Tây Ban Nha chứng tỏ rằng đấy không đơn thuần là một cuộc nội chiến mà
là khởi đầu của một cuộc cách mạng. Báo chí chống phát xít ở bên ngoài Tây Ban
Nha đã tìm mọi cách che dấu sự kiện này. Vấn đề đã bị thu hẹp lại thành cuộc
đấu tranh “của chủ nghĩa phát xít chống lại nền dân chủ” còn khía cạnh cách
mạng của các sự kiện thì bị người ta tìm mọi cách dấu nhẹm đi. Ở Anh, nơi báo
chí bị chính quyền trung ương kiểm soát kĩ và dân chúng dễ bị lừa bịp hơn các
nước khác, chỉ có hai cách giải thích về cuộc chiến tranh Tây Ban Nha được phép
công bố: Cánh hữu nói rằng đấy là cuộc chiến đấu của những người Thiên chúa
giáo yêu nước chống lại bọn Bolsevik khát máu, còn phái tả thì lại nói rằng đấy
là những người cộng hòa hào hoa phong nhã đang dẹp loạn. Bản chất của các sự
kiện đã được che dấu một cách thành công.
Có
mấy lí do. Đấy trước hết là sự dối trá về những hành động dã man của những
người cộng hòa mà báo chí thân phát xít bịa đặt ra và những người làm công tác
tuyên truyền hảo tâm nghĩ rằng phủ nhận việc Tây Ba Nha “đỏ hóa” là họ đang
giúp đỡ chính phủ nước này. Nhưng lí do chính lại là: trừ một vài nhóm cách
mạng nhỏ mà nước nào cũng có, toàn thế giới lúc đó quyết tâm dập tắt ngọn lửa
cách mạng ở Tây Ban Nha. Đặc biệt là Đảng cộng sản, được nước Nga Xô Viết hậu
thuẫn, đã tìm mọi cách để ngăn chặn cuộc cách mạng. Cộng sản khẳng định rằng cách
mạng lúc này là tự sát và mục tiêu của họ không phải là chính quyền của giai
cấp công nhân mà là chế độ dân chủ tư sản. Có lẽ chẳng cần phải nói rõ vì sao
những nhà tư sản “tự do” lại có cùng quan điểm như thế. Đầu tư nước ngoài đóng
vai trò quan trọng trong nền kinh tế Tây Ban Nha. Thí dụ, Anh đã đầu tư vào
Công ty Vận Tải Barcelona mười triệu bảng, trong khi đó công đoàn lại tịch thu
toàn bộ phương tiện vận tải ở Catalonia. Nếu cách mạng tiến triển thêm thì sẽ
không có đền bù hoặc sẽ được đền bù rất ít; còn nếu chế độ cộng hòa tư sản
thắng lợi thì vốn đầu tư nước ngòai sẽ được bảo toàn. Người ta đã quyết tâm bóp
chết cuộc cách mạng, cho nên tốt nhất là lờ nó đi. Bằng cách đó, người ta có
thể che dấu được bản chất của bất cứ sự kiện nào, những vụ chuyển giao quyền
lực từ công đoàn sang cho chính phủ đều chỉ được coi là một bước cần thiết
trong việc tái cơ cấu lực lượng võ trang. Tình hình lúc đó quả thật là rất lạ
lùng. Ở bên ngòai, ít người biết rằng đang diễn ra một cuộc cách mạng; còn ở
bên trong thì đấy lại không phải là chuyện phải bàn. Ngay cả những tờ báo của P.S.U.C., do cộng sản kiểm soát, dù ít dù nhiều đều thực thi đường
lối phản cách mạng, cũng nói đến “cuộc cách mạng vinh quang của chúng ta”. Cùng
lúc, báo chí cộng sản ngoại quốc lại đồng thanh hò hét rằng không hề có dấu
hiệu cách mạng, không có chuyện chiếm nhà máy hay thành lập các ủy ban công
nhân .v..v. mà nếu có thì cũng “chẳng có ý nghĩa chính trị nào”. Tờ Daily
Worker (ngày 6 tháng 8 năm 1936) còn tuyên bố rằng chỉ có những kẻ vô lại
dối trá trắng trợn mới có thể nói rằng nhân dân Tây Ban Nha không phải đang
chiến đấu cho nền dân chủ tư sản mà là chiến đấu cho cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa hay bất cứ cái gì khác. Nhưng mặt khác, tháng 2 năm 1937, Juan López, một
thành viên của chính quyền Valencia, lại tuyên bố rằng “nhân dân Tây Ban Nha
đang đổ máu không phải cho nước Cộng hòa dân chủ và bản Hiến pháp trên giấy của
nó mà đang chiến đấu cho cách mạng”. Hóa ra “những kẻ vô lại dối trá trắng
trợn” đã len lỏi được vào cả cái chính phủ mà chúng tôi đang bảo vệ. Một số tờ
báo chống phát xít ở nước ngoài còn hạ mình đến mức dối trá khi viết rằng chỉ
những nhà thờ bị quân phát xít chiếm đóng và biến thành các pháo đài mới bị tấn
công cướp phá. Trên thực tế, nhà thờ ở khắp nơi đều bị cướp bóc và là hiện
tượng đương nhiên vì người ta cho rằng nhà thờ Tây Ban Nha là tay sai của bọn
tư sản. Trong suốt sáu tháng ở Tây Ban Nha, tôi chỉ trông thấy có hai nhà thờ
không bị cướp bóc và cho đến tháng 7 năm 1937, trừ một vài nhà thờ của đạo Tin
Lành ở Madrid, tất cả những nhà thờ khác đều chưa được mở cửa và chưa được làm
lễ trở lại.
Nhưng
đây chỉ là sự khởi đầu, chưa phải là sự kết thúc của cách mạng. Ngay cả khi
công nhân có đủ điều kiện (Catalonia rõ ràng là như thế, những chỗ khác có thể
cũng như vậy) họ vẫn không lật đổ chính quyền hay nắm lấy toàn bộ quyền lực. Rõ
ràng là họ không thể làm như thế khi quân của Franco đang đóng ngay tại cửa ngõ
thành phố và một bộ phận giai cấp trung lưu còn đứng về phía chúng. Đất nước
đang đứng trước ngã ba đường, có thể phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa, mà
cũng có thể quay trở lại thành nước cộng hòa tư sản bình thường. Nông dân đã
nắm được phần lớn ruộng đất và muốn giữ lại, đấy là nói nếu Franco thất bại;
tất cả các ngành công nghiệp chính đều đã được tập thể hóa, nhưng có còn tập
thể hóa nữa hay sẽ trở lại chế độ tư bản, nhóm giành được quyền kiểm soát sẽ có
tiếng nói quyết định chung cuộc. Thời gian đầu, có thể nói một cách chắn chắn
rằng cả chính phủ trung ương lẫn chính quyền nửa tự trị ở Catalonia đều là đại
diện của giai cấp công nhân. Trong chính phủ do Caballero, một đảng viên xã hội
cánh tả, đứng đầu, có các bộ trưởng đại diện cho U.G.T. (Công đòan xã hội chủ nghĩa) và C.N.T.
(Liên hiệp công đòan nắm dưới sự lãnh đạo của những người vô chính phủ). Chính
quyền Catalonia được thay thế bằng Ủy ban quân sự chống phát xít, đa số thành
viên Ủy ban này là người của các tổ chức công đoàn. Sau này, Ủy ban quân sự bị
giải tán, chính quyền Catalonia được tổ chức lại, bao gồm đại diện các công
đoàn và đảng phái cánh tả khác nhau. Nhưng mỗi lần cải tổ là chính phủ lại ngả
sang hữu một chút. Tại Catalonia, đầu tiên là P.O.U.M.
bị đẩy ra, sáu tháng sau đến lượt Caballero bị Negrín, một đảng viên xã hội
cánh hữu thay thế; ngay sau đó C.N.T. bị lọai khỏi chính
phủ trung ương, rồi U.G.T.và C.N.T. cũng bị bật ra khỏi
chính quyền Catalonia. Cuối cùng, một năm sau khi chiến tranh nổ ra, chính phủ
gồm toàn những đảng viên xã hội cánh hữu, các đảng theo đường lối tự do và
những người cộng sản mà thôi.
Việc
ngả sang phái hữu một cách toàn diện bắt đầu diễn ra từ tháng 10, tháng 11 năm
1936, đúng vào lúc Liên Xô bắt đầu cung cấp vũ khí cho chính phủ và quyền lực
chuyển từ tay những người vô chính phủ sang những người cộng sản. Ngoài Liên Xô
và Mexico, chẳng có nước nào chịu cứu chính phủ Tây Ban Nha; mà Mexico, vì
những lí do dễ hiểu, cũng chẳng cung cấp được bao nhiêu. Kết quả là người Nga
có quyền ra điều kiện. Chắc chắn các điều kiện đó phải là: “Các vị hãy chấm dứt
những hành động cách mạng đi, nếu không chúng tôi sẽ không cung cấp vũ khí
nữa”. Không nghi ngờ gì rằng biện pháp đầu tiên là nhằm chống lại các thành
phần cách mang, tức là đẩy P.O.U.M. ra khỏi chính quyền Catalonia,
cũng được thực hiện theo lệnh của Liên Xô. Những lời phủ nhận việc Liên Xô can
thiệp trực tiếp đều chẳng có mấy giá trị vì ai cũng biết rằng đảng cộng sản tất
cả các nước đều thực thi đường lối chính trị của nước Nga, đồng thời không ai
phủ nhận việc Đảng cộng sản Tây Ban Nha là lực lượng chủ chốt trong cuộc đấu
tranh, trước hết là chống lại P.O.U.M., và sau đó là
chống lại những người vô chính phủ và cánh xã hội chủ nghĩa do Caballero cầm
đầu, nghĩa là chống lại đường lối cách mạng nói chung. Một khi Liên Xô đã can
thiệp thì đảng cộng sản nhất định sẽ thắng lợi. Trước hết, lòng biết ơn Liên Xô
và sự kiện là đảng cộng sản, sau khi các binh đòan quốc tế kéo tới, có vẻ sẽ là
người chiến thắng đã làm cho uy tín của cộng sản dâng cao trông thấy. Thứ hai,
vũ khí của Nga được cấp qua đảng cộng sản và những đảng nằm trong liên minh với
họ. Cộng sản còn tìm mọi cách để vũ khí không lọt vào tay các lực lượng đối lập
nữa[21].
Thứ ba, bằng cách tuyên bố cương lĩnh phi cách mạng, cộng sản đã lôi kéo được
tất cả những người vốn sợ các lực lượng cực đoan. Thí dụ, người ta có thể dễ
dàng động viên được những người nông dân khá giả đứng lên chống lại chính sách
tập thể hóa của những người vô chính phủ. Số lượng đảng viên tăng lên nhanh
chóng, phần lớn xuất thân từ giai cấp trung lưu, như những người buôn bán nhỏ,
viên chức, sỹ quan quân đội, trung nông lớp trên… Vẫn phải tiếp tục cuộc chiến
đấu chống Franco, nhưng đồng thời chính phủ lại đặt ra mục tiêu giành bằng được
quyền lực từ tay các tổ chức công đoàn, việc này được thực hiện bằng hàng loạt
các hành động nhỏ lẻ, mà có người gọi là chính sách đâm bằng kim, nhưng nói
chung là rất khôn khéo. Những biện pháp phản cách mạng một cách rõ rệt đã không
được thực hiện và đến tận tháng 5 năm 1937 vẫn chưa cần sử dụng lực lượng quân
sự. Chỉ cần dùng những lí lẽ rất rõ ràng như thế này cũng có thể buộc được công
nhân vâng lời: “Nếu các anh không làm việc này hay việc này thì chúng ta sẽ
thua trận mất thôi”. Chẳng cần phải nói rằng nhân danh các mục tiêu quân sự bao
giờ người ta cũng đòi hỏi giai cấp công nhân phải từ bỏ những thành quả mà họ
đã giành được vào năm 1936. Nhưng lí lẽ này ít khi thất bại bởi vì các đảng
cách mạng chẳng bao giờ muốn thua trận; thua trận có nghĩa là dân chủ, cách
mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa vô chính phủ sẽ trở thành những từ sáo
rỗng. Vô chính phủ là đảng cách mạng lớn, mà người ta không thể bỏ qua, cũng
buộc phải lùi từng bước một. Quá trình tập thể hóa đã bị chặn đứng, các ủy ban
địa phương bị giải tán, các đội tuần tra của công nhân bị giải thể, còn lực
lượng cảnh sát trước chiến tranh thì được tăng cường và được trang bị nhiều
lọai vũ khí tốt. Các xí nghiệp công nghiệp chủ lực do công đòan kiểm soát được
chuyển giao cho chính phủ (việc chiếm Trung tâm viễn thông Barcelona đã dẫn đến
những trận đánh vào tháng 5 là một trong những vụ rắc rối của quá trình này);
cuối cùng, điều quan trọng nhất đã xảy ra, đó là các đơn vị dân quân do công
đoàn tổ chức bị giải tán dần và phiên chế vào Quân đội Nhân dân vừa được thành
lập, đây là một đội quân “phi chính trị” theo đường lối nửa tư sản, nghĩa là
cũng trả lương theo chức vụ, cũng có tầng lớp sỹ quan có nhiều đặc quyền, đặc
lợi..v.v.. Trong tình hình đặc thù lúc đó, đây là bước đi có tính chất quyết
định. Ở Catalonia, việc giải thể các đơn vị dân quân diễn ra sau cùng vì các
đảng cách mạng ở đây mạnh hơn các nơi khác. Rõ ràng là công nhân chỉ có thể giữ
được thành quả nếu họ kiểm soát được một số đơn vị vũ trang nào đó. Người ta
thường viện cớ tăng cường hiệu quả chiến đấu để giải thể lực lượng dân quân, dĩ
nhiên là không ai phủ nhận sự cần thiết của việc tái tổ chức lực lượng vũ trang
rồi. Hoàn toàn có thể sắp xếp lại lực dân quân, tăng cường hiệu quả cho nó
trong khi vẫn để nó nằm dưới quyền kiểm soát của công đoàn, nhưng mục đích
chính ở đây lại là không để cho những người vô chính phủ có quân đội riêng nữa.
Hơn nữa, tinh thần dân chủ của dân quân lại là mảnh đất màu mỡ cho các tư tưởng
cách mạng. Cộng sản hiểu rõ chuyện đó và kịch liệt công kích nguyên tắc trả
lương như nhau cho cả lính lẫn quan của P.O.U.M. và
những người vô chính phủ. Việc “tư sản hóa” và thủ tiêu một cách có chủ đích
tinh thần bình đẳng từng tồn tại trong những tháng đầu tiên của cách mạng đã
được thực hiện trên cả nước. Sự việc diễn ra nhanh đến nỗi những khách thăm
quan trở lại sau vài tháng đã nói rằng dường như đây đã là một nước khác. Cái
đất nước mới nhìn thì tưởng như của công nhân đã nhanh chóng biến thành nhà
nước cộng hòa tư sản bình thường, cũng chia ra kẻ giàu, người nghèo. Mùa thu
năm 1937, “đảng viên xã hội” Negrín đã công khai tuyên bố rằng “chúng tôi tôn
trọng sở hữu tư nhân”, còn các đại biểu
Cortes[22],
những người hồi đầu chiến tranh bị nghi là có cảm tình với phát xít, đã trở lại
Tây Ban Nha.
Có
thể dễ dàng hiểu được toàn bộ quá trình này nếu ta nhớ lại rằng đấy là kết quả
của cái liên minh tạm thời giữa công nhân và tư sản mà chủ nghĩa phát xít, trong
những biểu hiện của nó, đã buộc họ phải kí với nhau. Liên minh này, được người
ta biết đến với tên là Mặt trận Nhân dân, thực chất là liên minh của những phe
đối kháng, chắc chắn sẽ phải cáo chung bằng việc một bên nuốt sống bên kia. Ở
Tây Ban Nha, điều làm người ta bất ngờ nhất – còn ở bên ngoài thì nó lại tạo ra
nhiều lầm lẫn nhất - đấy là bên phía chính phủ, những người cộng sản không đứng
về phía các lực lượng cực tả mà lại đứng về phía các lực lượng cực hữu. Trên
thực tế, đấy là điều không đáng ngạc nhiên, bởi vì chiến thuật của cộng sản lúc
đó, đặc biệt là ở Pháp, đã cho người ta thấy rõ rằng chủ nghĩa cộng sản phải
được coi, ít nhất là trong giai đoạn đó, là lực lượng phản cách mạng. Toàn bộ
đường lối của Comintern (Quốc tế cộng sản – ND) trong giai đoạn này đều nhằm
phục vụ (trong tình hình lúc đó, có thể tha thứ được) cho chính sách quốc phòng
của Liên Xô, mà chính sách này lại phụ thuộc vào các liên minh quân sự. Cụ thể
là, Liên Xô đã kí hiệp ước liên minh với một nước tư bản-đế quốc chủ nghĩa, đấy
là nước Pháp. Liên minh này chỉ có ý nghĩa khi nước Pháp mạnh, vì thế chính
sách của cộng sản ở Pháp phải là chống cách mạng. Điều đó không chỉ có nghĩa là
từ nay những người cộng sản Pháp phải đi sau lá cớ Tam tài và hát Marseillaise,
mà, quan trọng hơn, họ phải từ bỏ công tác tuyên truyền khá hiệu qủa ở các nước
thuộc địa nữa. Chưa đầy ba năm trước đây, Thorez, Bí thư thứ
nhất Đảng Cộng sản Pháp còn tuyên bố rằng công nhân Pháp sẽ không bao giờ bị
lôi kéo vào cuộc chiến chống lại những người đồng chí Đức của mình, thì nay ông
ta trở thành một trong những người yêu nước to mồm nhất của Pháp. Đường lối
của cộng sản ở bất kì nước nào cũng phụ thuộc vào quan hệ quân sự, hiện tại
hoặc tiềm năng, của nước đó với Liên Xô. Thí dụ, quan điểm của nước Anh vẫn
chưa rõ ràng cho nên Đảng cộng sản Anh tiếp tục giữ thái độ thù đích đối với
chính phủ và công khai chống lại việc tái vũ trang. Nhưng nếu Anh quốc tham gia
gia liên minh hay kí hiệp định quân sự với Liên Xô thì cộng sản Anh, cũng như
cộng sản Pháp, sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc trở thành những người
yêu nước và những người ủng hộ chủ nghĩa đế quốc; những dấu hiệu như thế đã
xuất hiện rồi. “Đường lối” của cộng sản Tây Ban Nha chắc chắn là phụ thuộc vào
sự kiện là Pháp, một đồng minh của Nga, hoàn toàn không muốn thấy một nhà nước
cách mạng ở ngay sát nách và sẽ tìm mọi cách chống lại việc giải phóng nước
Marocco thuộc Tây Ban Nha lúc đó. Tờ Daily Mail, một tờ báo chuyên đơm
đặt về cuộc cách mạng “đỏ” do Moskva tài trợ, còn tiếp tục dối trá hơn cả trước
đây. Trên thực tế, cộng sản là những người tích cực nhất trong việc ngăn chặn
cuộc cách mạng ở Tây Ban Nha. Sau này, khi lực lượng cánh hữu
đã nắm được quyền kiểm soát toàn bộ tình hình thì chính cộng sản đã chứng tỏ
rằng họ sẵn sàng đi xa hơn cả những người theo trường phái tự do trong việc săn
đuổi các lãnh tụ cách mạng[23].
Tôi
đã cố gắng phác họa chiều hướng chung của cuộc cách mạng Tây Ban Nha trong năm
đầu tiên, vì nó giúp ta dễ dàng hiểu được tình hình trong mỗi giai đoạn sau
này. Nhưng như thế không có nghĩa là tháng hai năm đó tôi đã có quan điểm được
thể trong những câu chuyện được nói đến bên trên. Trước hết, lúc đó chưa xảy ra
những sự kiện có tính chất khai minh đối với tôi, và hơn nữa, tình cảm của tôi
lúc đó, trong một vài lĩnh vực, cũng khác với hiện nay. Một phần là vì khía
cạnh chính trị của cuộc chiến đã làm tôi chán ngấy và dĩ nhiên là tôi chống lại
quan điểm được nghe nói đến nhiều hơn cả, tức là quan điểm của P.O.U.M.—I.L.P. Đa phần người Anh trong đơn vị tôi là thành viên của I.L.P., ngoài ra, còn có một vài đảng viên cộng sản nữa; nói
chung họ, đều có nhận thức chính trị cao hơn tôi. Suốt nhiều tuần liền, đấy là
nói thời kì không có chuyện gì xảy ra xung quanh Huesca, tôi đã trực tiếp tham
gia vào những cuộc tranh luận chính trị gần như không bao giờ dứt. Những đường
lối mâu thuẫn nhau được đem ra thảo luận hết lần này đến lần khác, chúng được
thảo luận trong những chuồng ngựa lộng gió và hôi hám, trong những hầm trú ẩn
tối tăm và ngột ngạt, chúng được thảo luận cả sau những bờ công sự trong những
đêm lạnh buốt thấu xương nữa. Người Tây Ban Nha cũng thế, nhiều tờ báo còn đưa
cuộc đấu tranh nội bộ đảng thành tin quan trọng nhất nữa kia. Chỉ có điếc
hay ngu thì mới không có được một vài
khái niệm nào đó về tư tưởng của các đảng khác nhau mà thôi.
Về
lí thuyết, chỉ có ba đảng đáng quan tâm, đấy là P.S.U.C.,
P.O.U.M. và C.N.T.—F.A.I., thường
được gọi một cách đơn giản là Vô chính phủ. Xin bắt đầu bằng P.S.U.C.
vì đây là đảng quan trọng nhất, cũng là đảng giành được chiến thắng cuối cùng
và ngay lúc đó cũng đang tỏ ra có ưu thế.
Cần
phải giải thích rõ rằng khi nói đường lối của P.S.U.C.
là người ta nghĩ đến đường lối của của Đảng cộng sản. P.S.U.C.
(Partido Socialista Unificado de Cataluña) nghĩa là Đảng xã hội chủ nghĩa
Catalonia, được thành lập ngay khi chiến tranh nổ ra; đấy là sự kết hợp của
nhiều đảng mác-xít khác nhau, trong đó có cả Đảng cộng sản Catalonia, nhưng
hiện đã bị cộng sản kiểm sóat hoàn toàn và là một phân bộ của Quốc tế III. Đây
là liên minh chính thức duy nhất giữa những người xã hội và những người cộng
sản Tây Ban Nha, nhưng quan điểm của những người cộng sản và những người xã hội
cánh hữu thì ở đâu cũng có thể được coi là một cả. Về đại thể, có thể nói P.S.U.C. là cánh chính trị của U.G.T.
(Unión General de Trabajadores), tức là công đoàn xã hội chủ nghĩa. Công đoàn
này có khoảng một triệu rưỡi thành viên trên khắp Tây Ban Nha. Nó bao gồm rất
nhiều nhóm những người lao động chân tay, nhưng sau khi chiến tranh nổ ra nó đã
phình lên rất nhanh vì có nhiều người thuộc tầng lớp trung lưu tham gia, đấy là
do trong những ngày đầu cách mạng nhiều người cho rằng ra nhập U.G.T.
hay C.N.T. thì sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn. Hai tổ chức công
đoàn này có nhiều mặt tương đối giống nhau, nhưng C.N.T. có nhiều tính
công nhân hơn. Như vậy nghĩa là P.S.U.C. vừa là đảng của
giai cấp công nhân vừa là đảng của giai cấp tiểu tư sản, nghĩa là của những
người buôn bán nhỏ, của các viên chức nhà nước và trung nông.
Đường
lối của P.S.U.C. mà báo chí cộng sản cũng như thân cộng
tuyên truyền trên khắp thế giới về đại thể là như sau: “Trong thời điểm hiện
tại, quan trọng nhất là giành chiến thắng; không chiến thắng thì mọi thứ đều vô
nghĩa hết. Vì vậy, bây giờ không phải lúc nói đến việc tiến hành cách mạng.
Chúng ta không được ép buộc nông dân tập thể hoá vì như thế là làm cho họ xa
lánh chúng ta; chúng ta cũng không được làm cho giai cấp trung lưu, những người
đang chiến đấu bên phía chúng ta, hốt hoảng. Trước hết, muốn có hiệu quả, chúng
ta phải chấm dứt tình trạng lộn xộn do cách mạng gây ra. Chúng ta cần một chính
phủ trung ương mạnh, chứ không phải là các hội đồng địa phương, chúng ta cần
một lực lượng quân sự chính qui với một bộ chỉ huy thống nhất. Bám vào một vài
tàn dư của các tổ chức kiểm tra của công nhân và nhai đi nhai lại một cách
thiếu suy nghĩ những khẩu hiệu cách mạng không những là việc làm vô ích mà còn
có hại, thậm chí là phản cách mạng nữa vì nó gây ra chia rẽ và có thể bị bọn
phát xít lợi dụng. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta không chiến đấu vì chính
quyền chuyên chính của giai cấp vô sản mà đang chiến đấu cho nền dân chủ đại
nghị. Bất cứ người nào muốn biến nội chiến thành cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa cũng đều là những người tiếp tay cho bọn phát xít, nếu đấy không phải là
những kẻ cố ý thì trên thực tế họ cũng đều là những kẻ phản bội”
Đường
lối của P.O.U.M. khác hẳn, dĩ nhiên là trừ khoản phải
giành bằng được chiến thắng. P.O.U.M. (Partido Obrero de
Unificación Marxista) là một trong những đảng cộng sản đối lập, những đảng xuất
hiện tại một loạt nước trong mấy năm gần đây nhằm chống lại “chủ nghĩa Stalin”,
tức là chống lại sự thay đổi, thực chất hay chỉ mang vẻ hình thức, trong chính
sách của cộng sản. P.O.U.M. bao gồm những người cựu cộng
sản cũng như thành viên của khối công-nông trước đây. Đây là một đảng có ít
đảng viên[24], không
có nhiều ảnh hưởng bên ngoài Catalonia, nó quan trọng bởi vì có nhiều đảng viên
có nhận thức chính trị vững vàng. Thành trì của đảng này
nằm ở Lerida, thuộc Catalonia. Nó không đại diện cho bất cứ tổ chức công đoàn
nào. Lực lượng dân quân của P.O.U.M. đa số là thành viên
C.N.T., nhưng nói chung dân quân-đảng viên lại thuộc U.G.T. Nhưng P.O.U.M. lại chỉ có ảnh hưởng đối với C.N.T. mà thôi. Về đại thể, đường lối của P.O.U.M.
có thể tóm tắt như sau:
“Nói
đến dùng “dân chủ” tư sản để chống phát xít là vô nghĩa. “Dân chủ” tư sản chỉ
là một tên gọi khác của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa phát xít thì cũng thế; nhân
danh “dân chủ” để chống phát xít thì cũng có nghĩa là nhân danh một hình thức
tư bản này để chống lại một hình thức tư bản khác, mà bất kì lúc nào cái sau
cũng có thể biến thành cái trước. Chính quyền của công nhân hay là chủ nghĩa
phát xít, ta chỉ có thể chọn một trong hai. Đặt mục tiêu thấp hơn nghĩa là trao
chiến thắng vào tay Franco hoặc trong trường hợp tốt nhất cũng là để chủ nghĩa
phát xít chui vào bằng cửa sau. Lúc này, công nhân phải nắm chặt tất cả những
gì họ đã giành được, chỉ cần nhượng bộ chính phủ nửa-tư sản một lần thôi là
chắc chắn họ sẽ bị lừa bịp. Dân quân và lực lượng cảnh sát phải được giữ nguyên
trạng, phải chống lại mọi mưu toan nhằm “tư sản hoá” hai lực lượng này. Nếu
công nhân không kiểm soát được lực lượng vũ trang thì lực lượng vũ trang sẽ
kiểm soát công nhân. Chiến tranh và cách mạng gắn bó mật thiết với nhau.”
Quan
điểm của những người vô chính phủ thì khó xác định hơn. Dù sao mặc lòng, từ vô
chính phủ được dùng để chỉ rất nhiều người có những quan điểm vô cùng khác
nhau. Cánh chính trị của liên hiệp công đoàn C.N.T.
(Confederación Nacional de Trabajadores), với khoảng hai triệu đoàn viên, có
tên gọi là F.A.I. (Federación Anarquista Ibérica), là
một tổ chức vô chính phủ thực sự. Nhưng ngay cả các thành viên của F.A.I., những người luôn luôn, mà có thể hầu hết người Tây Ban
Nha đều như thế, ngả theo triết lí vô chính phủ thì cũng không hẳn đã là vô
chính phủ theo đúng nghĩa của từ này. Sau khi chiến tranh nổ ra, họ đã có một
bước tiến về phía chủ nghĩa xã hội vì hoàn cảnh buộc họ phải tham gia vào các
cơ quan hành chính trung ương và thậm chí phá bỏ mọi nguyên tắc để tham gia vào
thành phần chính phủ. Nhưng họ vẫn khác xa những người cộng sản; tương tự như P.O.U.M., mục tiêu của họ là chính quyền của công nhân chứ
không phải là chế độ dân chủ đại nghị. Vô chính phủ sử dụng khẩu hiệu: “Chiến
tranh và cách mạng gắn bó mật thiết với nhau!” của P.O.U.M., nhưng ít giáo điều hơn. Đại khái C.N.T.—F.A.I. đấu tranh cho: 1. Công
nhân trong từng ngành công nghiệp như vận tải, dệt may… trực tiếp kiểm soát các
ngành đó; 2. Quyền lực nằm trong tay các uỷ ban địa phương và chống lại mọi
hình thức của chế độ độc đoán tập quyền; 3. Mối thù không khoan nhượng đối với
giai cấp tư sản và nhà thờ. Điểm cuối cùng, tuy không được trình bày thật rõ
ràng, nhưng lại là quan trọng nhất. Vô chính phủ đối lập với hầu như tất cả
những người gọi là cách mạng ở chỗ mặc dù các nguyên tắc của họ tương đối mù mờ
nhưng họ thực sự căm thù đặc quyền đặc lợi và bất công. Cộng sản và vô chính phủ
là hai cực đồi lập nhau về mặt triết học. Trên thực tế, đấy là sự khác nhau về
hình thức xã hội mà họ hướng tới, đấy là điều mà họ coi trọng, nhưng đây là
những hình thức không thể dung hoà. Cộng sản luôn luôn coi trọng chủ nghĩa tập
trung và tính hiệu qủa, còn vô chính phủ thì lại coi trọng tự do và công bằng.
Chủ nghĩa vô chính phủ đã ăn sâu bén rễ ở Tây Ban Nha và có vẻ như sẽ tiếp tục
sống sót trong khi chủ nghĩa cộng sản sẽ cáo chung ngay khi ảnh hưởng của Liên
Xô chấm dứt. Trong hai tháng đầu tiên của cuộc chiến, những người vô chính phủ,
hơn ai hết, đã cứu vãn được tình hình và mãi về sau này, lực lượng dân quân vô
chính phủ, dù rất thiếu kỉ luật, lại là lực lượng chiến đấu tốt nhất, đấy là
nói nếu chỉ kể các đơn vị gồm toàn người Tây Ban Nha với nhau. Từ khoảng tháng
2 năm 1937 trở đi, lực lượng vô chính phủ và P.O.U.M. đã hợp
tác với nhau ở một mức độ nào đó. Nếu ngay từ đầu những người vô chính phủ,
P.O.U.M., và phong trào xã hội chủ nghĩa cánh tả đã nghĩ
đến việc hợp tác và thực thi chính sách mang tính thực tế hơn thì kết quả cuộc
chiến tranh có thể đã khác. Nhưng trong giai đoạn đầu, khi tất cả các đảng cách
mạng đều tưởng rằng át chủ bài đang nằm trong tay mình thì đấy là việc bất khả
thi. Sự ghen tức cố hữu là nguyên nhân mối bất hoà giữa phe vô chính phủ và phe
xã hội, còn P.O.U.M., vốn là một đảng mác-xít, lại có
thái độ nghi ngờ đối với phe vô chính phủ, trong khi theo quan điểm của vô
chính phủ thì “chủ nghĩa Trotskyist” của P.O.U.M. cũng
chẳng khác gì chủ nghĩa “Stalin” của những người cộng sản. Trong khi đó, cộng
sản lại tìm cách li gián hai đảng này. Khi P.O.U.M. tham
gia vào những trận đánh gây nhiều thương vong vào tháng 5 ở Barcelona thì chính
bản năng đã buộc nó phải đứng về phía C.N.T., và sau
này, khi P.O.U.M. bị đàn áp thì chỉ có những người vô
chính phủ là dám lên tiếng bảo vệ mà thôi.
Như
vậy là, về đại thể, lực lượng được phân bố như sau. Một bên là C.N.T.—F.A.I., P.O.U.M., và những người xã hội
chủ nghĩa ủng hộ quyền kiểm soát của công nhân, còn bên kia là những người xã
hội chủ nghĩa cánh hữu, những người theo đường lối tự do và cộng sản ủng hộ
chính phủ tập quyền và quân đội chính qui.
Dễ
hiểu là vì sao lúc đó tôi lại thích quan điểm của cộng sản hơn là quan điểm của
P.O.U.M. Cộng sản có một chính sách thực tế rõ ràng, phù hợp với lương tri, đấy
là nói nếu chỉ nhìn tương lai trong vài tháng trước mắt. Còn chính sách hàng
ngày cũng như công tác tuyên truyền và mọi việc khác của P.O.U.M. đều kém đến
mức không thể tả được, nếu làm tốt hơn thì P.O.U.M. có thể còn thu hút được
nhiều thành viên hơn. Nhưng vấn đề chính là những người cộng sản, như tôi thấy,
đang chiến đấu, còn chúng tôi cũng như những người vô chính phủ thì dẫm chân
tại chỗ. Đấy là tâm trạng chung lúc đó. Cộng sản giành được quyền lực và thu
hút được số lượng đảng viên rất lớn một phần vì các tầng lớp trung lưu ủng hộ
đường lối phản cách mạng của họ, một phần vì họ là lực lượng duy nhất có thể
giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh này. Vũ khí của Liên Xô cũng như cuộc
chiến đấu ngoan cường nhằm bảo vệ Madrid của những lực lượng do cộng sản chỉ
huy đã biến họ thành những người anh hùng. Có người còn nói rằng ngay một máy
bay Liên Xô bay qua đầu chúng tôi cũng đã là tuyên truyền rồi. Mặc dù công nhận
rằng P.O.U.M. có lí, nhưng tôi vẫn có cảm tưởng là các khẩu hiệu cách mạng của
họ chẳng có giá trị gì. Nói cho cùng, vấn đề vẫn là phải chiến thắng.
Trong
khi đó, các đảng phái tiếp tục cắn xé nhau trên mặt báo, trên những tờ rơi,
trên các biểu ngữ, trong các cuốn sách, tóm lại, diễn ra khắp nơi. Tôi thường
đọc La Batalla và Adenlante của P.O.U.M.,
nhưng tôi cho rằng đây là hai tờ báo hợm hĩnh và chán ngắt vì lúc nào họ cũng
soi mói “những kẻ phản cách mạng” ở P.S.U.C. Sau này, khi đã nghiên cứu
kĩ báo chí của P.S.U.C. và cộng sản, tôi mới thấy rằng P.O.U.M. chẳng là gì so với các đối thủ của họ, đấy là chưa
nói điều kiện của họ cũng kém hơn rất nhiều. Khác với cộng sản, P.O.U.M. không
có cơ sở trong bất kì cơ quan báo chí nào ở nước ngoài, trong nước họ cũng bị
thiệt thòi vì cơ quan kiểm duyệt chủ yếu nằm trong tay cộng sản, nghĩa là báo
chí của P.O.U.M. dễ bị cấm đoán hay bị phạt nếu đăng các
tài liệu có hại cho cộng sản. Công bằng mà nói, mặc dù P.O.U.M.
suốt ngày rao giảng về cách mạng và trích dẫn Lenin đến phát chán, nhưng họ
thường không hạ mình đến mức bôi bác cá nhân người nào. Hơn nữa, họ chỉ tranh
luận trên báo. Những tờ biểu ngữ lớn nhiều màu sắc dành cho công chúng của họ
(biểu ngữ đóng vai trò quan trọng vì có nhiều người mù chữ) không công kích các
đảng đối lập mà thường là kêu gọi đấu tranh chống phát xít hay cách mạng chung
chung, các bài ca mà dân quân thường hát cũng như vậy. Cộng sản khác hẳn. Tôi
sẽ trở lại vấn đề này sau. Ở đây tôi chỉ có thể mô tả một cách ngắn gọn phương
pháp công kích của cộng sản mà thôi.
Mới
nhìn thì cộng sản và P.O.U.M. chỉ tranh cãi với nhau về
mặt chiến thuật. P.O.U.M. muốn làm cách mạng ngay lập
tức, còn cộng sản thì không. Về mặt này thì mọi sự đều rõ ràng: mỗi bên đều đưa
ra đủ lí lẽ ủng hộ cho quan điểm của mình. Nhưng cộng sản còn khẳng định rằng
chính sách tuyên truyền của P.O.U.M. đã gây chia rẽ và
làm suy yếu lực lượng chính phủ, nghĩa là bên ta sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Một
lần nữa, mặc dù cuối cùng ý kiến này đã không thuyết phục được tôi, nhưng nó
cũng chứa đựng một phần sự thật. Nhưng đây chính là đặc thù của cộng sản. Đầu tiên
họ còn thăm dò, sau đó càng ngày càng công khai khẳng định rằng P.O.U.M., không phải do lầm lẫn mà là cố tình gây chia rẽ lực
lượng chính phủ. Người ta còn tuyên bố rằng P.O.U.M. chỉ
là một băng đảng phát xít cải trang, tay sai của Franco và Hitler, to mồm hô
hào các khẩu hiệu giả cách mạng chỉ có lợi cho bọn phát xít. P.O.U.M.
là tổ chức “Trotskyist” và là “đội quân thứ năm” của Franco. Điều đó có nghĩa
là hàng chục ngàn công nhân, trong đó có từ tám đến mười ngàn binh sỹ đang chết
cóng trong các chiến hào và hàng trăm người ngoại quốc, những người đã đến Tây
Ban Nha để chiến đấu chống phát xít, những người phải hi sinh cả đời sống đầy
đủ tiện nghi lẫn quốc tịch của mình khi làm như thế, hoá ra lại là những kẻ
phản bội, tay sai của kẻ thù. Câu chuyện như thế được phổ biến trên các băng
rôn và các phương tiện tuyên truyền khác khắp cả nước Tây Ban Nha và được nhắc
đi nhắc lại trên báo chí cộng sản và thân cộng sản toàn thế giới. Tôi có thể
viết được dăm cuốn sách nếu chịu khó bỏ công thu thập những câu người ta đã
nói, đã viết về vấn đề này.
Như
vậy là cộng sản đã gọi chúng tôi là Trotskyists, là phát xít, là kẻ phản bội,
là bọn giết người, là lũ hèn nhát, là gián điệp ..v.v... Phải công nhận rằng
đấy là điều không hay, nhất là khi nghĩ đến những người chịu trách nhiệm về
những việc như thế. Thật chẳng thú vị gì khi chứng kiến cảnh một cậu bé Tây Ban
Nha mười lăm tuổi được khiêng khỏi chiến hào trên một cái cáng, mặt trắng bệch,
và nghĩ đến những người đầu tóc bóng láng ở London hay Paris đang viết những bài
báo chứng minh rằng cậu bé kia chỉ là một tên phát xít cải trang. Một trong
những đặc trưng khủng khiếp của chiến tranh là tất cả các tài liệu tuyên
truyền, tất cả những tiếng gào thét và dối trá, tất cả lòng hận thù đều do
những kẻ ngồi tít ở hậu phương bịa đặt ra. Những người dân quân của P.S.U.C. mà tôi biết trên chiến tuyến, những đảng viên cộng
sản trong các binh đoàn quốc tế mà thỉnh thoảng tôi gặp không bao giờ gọi tôi
là Trotskyist hay phản bội, họ dành việc đó cho các nhà báo ở hậu phương. Những
kẻ viết các tờ rơi chống lại chúng tôi, bôi bác chúng tôi trên mặt báo đang
sống một cách an toàn ở nhà họ hay trong trường hợp xấu nhất thì cũng đang sống
trong các văn phòng ở Valencia, cách những chỗ bom rơi đạn lạc và bùn lầy hàng
trăm cây số. Ngoài những lời lăng mạ mà các đảng phái tung vào mặt nhau, tất cả
những điều nhảm nhí khác về chiến tranh, tất cả những lời huyênh hoang, những
lời ca ngợi quân ta và phỉ báng kẻ thù thường là đều do những kẻ ngồi ở hậu
phương, những kẻ sẽ vắt chân lên cổ mà chạy khi chiến tranh đến gần, sáng tác
ra. Một trong những bài học bi thảm nhất mà cuộc chiến tranh này đã dạy cho tôi
là: báo chí cánh tả cũng đầy những chuyện dối trá và bất lương chẳng khác gì
cánh hữu.
Tôi
thực sự tin rằng chúng tôi, nghĩa là phía chính phủ, đang tiến hành một cuộc
chiến tranh khác hẳn với những cuộc chiến tranh đế quốc bình thường khác, nhưng
bộ máy tuyên truyền lại làm cho ta không thể nghĩ như thế. Chiến dịch vừa bùng
nổ là báo chí, cả cánh tả lẫn cánh hữu, lập tức xông vào chửi bới. Hẳn mọi
người còn nhớ đầu đề bài báo trân tờ Daily Mail's: “CỘNG SẢN ĐÓNG ĐINH
CÂU RÚT CÁC NỮ TU!”, trong khi tờ Daily Worker thì viết rằng các binh
đoàn lê dương của Franco “gồm toàn những tên sát nhân, những kẻ buôn bán phụ
nữ, những kẻ nghiện hút và cặn bã từ tất cả các nước châu Âu”. Tháng 10 năm
1937, tờ New Statesman còn thết chúng tôi câu chuyện cổ tích rằng bọn
phát xít bắt các trẻ em còn sống nắm đè lên nhau thành chiến luỹ (khó làm chiến
luỹ với loại vật liệu như thế lắm), còn ngài Arthur Bryant thì tuyên bố rằng
“cưa chân một nhà buôn bảo thủ” là việc thường ngày bên phía quân đội cộng hoà.
Sáng tác ra những chuyện nhảm nhí như thế là những người chưa từng chiến đấu
bao giờ, có thể họ nghĩ rằng viết như thế cũng là chiến đấu rồi. Cuộc chiến
tranh nào cũng thế cả, trong khi lính tráng đánh nhau thì các nhà báo hò hét và
chẳng có một người yêu nước chân chính nào chịu đến gần chiến hào, trừ khi đấy
là một chuyến đi mang tính tuyên truyền. Đôi khi tôi còn lấy làm khoái chí khi
nghĩ rằng máy bay đang làm thay đổi điều kiện của chiến tranh. Có thể, khi cuộc
chiến tranh lớn sắp tới xảy ra, chúng ta sẽ nhìn thấy một hiện tượng chưa từng
có trong lịch sử: một người yêu nước to mồm bị bắn vỡ sọ.
Đối
với các nhà báo, cuộc chiến tranh này, cũng như mọi cuộc chiến tranh khác, chỉ
là một phi vụ làm ăn mà thôi. Nhưng ở đây có một sự khác biệt, đấy là các nhà
báo thường dành cho kẻ thù những lời công kích mãnh liệt nhất, song lần này,
cộng sản và P.O.U.M. lại viết về nhau với những lời lẽ
càng ngày càng độc địa hơn, độc địa hơn cả những lời họ dành cho bọn phát xít
nữa. Tuy nhiên, tôi đã không còn coi đấy là điều quan trọng nữa. Việc các đảng
phái cắn xé nhau làm cho tôi bực mình, thậm chí kinh tởm, nhưng tôi cho rằng
đấy việc anh em trong nhà cãi nhau. Tôi không tin là nó có thể thay đổi được
điều gì hay ở đây có sự bất đồng không thể nào dung hoà được. Tôi nhận thức
được rằng cộng sản và những người theo đường lối tự do quyết tâm cản trở cuộc
cách mạng, tôi không nhận thức được rằng họ có đủ sức đẩy lùi được nó.
Có đầy đủ cơ sở để nghĩ như thế. Tôi nằm
ngoài mặt trận trong suốt thời gian này, mà ở mặt trận thì tình hình xã hội và
chính trị không có gì thay đổi cả. Tôi rời Barcelona vào đầu
tháng giêng và mãi đến cuối tháng tư mới được nghỉ phép, suốt thời gian đó và cả
sau này, trên khu vực mặt trận Aragon, do lực lượng vô chính phủ và P.O.U.M. kiểm soát, tình hình vẫn không có gì thay đổi. Không
khí cách mạng vẫn giữ nguyên như hồi tôi mới đến. Tướng lĩnh và binh nhì, người
nông dân và binh sỹ vẫn giao tiếp với nhau như những người bằng vai phải lứa;
mọi người đều nhận một mức lương như nhau, mặc một lọai quần áo như nhau, ăn
thức ăn như nhau và cùng gọi nhau là “anh” hay “đồng chí”; không còn chủ tớ,
không còn người ăn mày, không còn gái điếm, không có luật sư, không còn cha cố,
không còn cảnh nịnh bợ, cũng không còn cảnh giơ tay lên ngang vành mũ nữa. Tôi
đắm mình trong không khí bình đẳng và thật ngây thơ khi nghĩ rằng khắp nước Tây
Ban Nha đều như thế cả. Tôi không thể nào biết được rằng do may mắn mà tôi đã
lọt được vào khu vực cách mạng nhất của giai cấp công nhân Tây Ban Nha.
Cho
nên khi các đồng chí có nhận thức chính trị sâu sắc hơn nói rằng không được
dùng quan điểm thuần túy quân sự để xem xét cuộc chiến này và cần phải lựa chọn
giữa cách mạng và chủ nghĩa phát xít thì tôi đã muốn cười vào mặt họ. Nói
chung, tôi đồng ý quan điểm của cộng sản, tóm tắt là: “Chúng ta không thể nói
đến cách mạng trước khi giành được thắng lợi” chứ không đồng ý với quan điểm
của P.O.U.M., theo đó “Chúng ta phải tiến lên, nếu không thì
chúng ta phải rút lui.” Sau này tôi mới nghĩ rằng P.O.U.M. có lí, hay ít
nhất thì cũng có lí hơn cộng sản, nhưng đây không phải là lí thuyết suông. Cứ
theo giấy tờ thì quan điểm của cộng sản có vè thuyết phục hơn, nhưng vấn đề là
hành động thực tế lại làm cho người ta không tin rằng đấy là những người trung
thực. Cái khẩu hiệu thường được nhắc đi nhắc lại: “Chiến tranh trước, cách mạng
sau” chỉ là một câu nói sáo rỗng, nhưng đã tạo được lòng tin trong các chiến sỹ
trong lực lượng dân quân P.S.U.C., họ thực sự nghĩ rằng người ta sẽ tiếp tục
làm cách mạng ngay sau chiến thắng. Thực ra, không phải là cộng sản đang níu
kéo cuộc cách mạng cho đến một thời điểm thích hợp hơn mà là đang tìm mọi cách
làm cho nó không bao giờ xảy ra. Chuyện này càng ngày càng trở nên rõ ràng,
càng ngày giai cấp công nhân càng mất dần quyền lực, càng ngày càng có nhiều
người cách mạng thuộc đủ mọi khuynh hướng bị tống vào tù. Tất cả đều nhân danh
nhu cầu quân sự, nhưng đấy chỉ là cái cớ; có thể nói đã được bịa ra từ trước,
còn thực chất lại là đẩy giai cấp công nhân khỏi những vị trí thuận lợi và dồn
họ vào vị thế mà sau này, tức là sau khi chiến tranh chấm dứt họ sẽ không thể
kháng cự được sự phục hồi của chủ nghĩa tư bản. Xin nhớ rằng tôi không chống
lại những đảng viên cộng sản bình thường và dĩ nhiên là không chống lại hàng
ngàn đảng viên cộng sản đã anh dũng hi sinh trong những trận đánh ở ngoại ô
thành phố Madrid. Nhưng họ lại không phải là những người quyết định chính sách
của đảng. Trong khi đó, không thể tin được rằng những người lãnh đạo của họ đã
nhắm mắt làm liều.
Nhưng
cuối cùng thì vẫn cần phải thắng cuộc chiến tranh này, dù rằng cách mạng có thể
thất bại. Và tôi bắt đầu nghi ngờ, không hiểu cộng sản có muốn chiến thắng hay
không. Rất ít người nhận thức được rằng mỗi giai đoạn của cuộc chiến lại cần
những chính sách khác nhau. Quân vô chính phủ đã cứu được tình hình trong hai
tháng đầu, nhưng họ không thể tổ chức được cuộc kháng chiến trong giai đoạn
sau; cộng sản có lẽ đã cứu được tình hình trong giai đoạn từ tháng mười đến
tháng mười hai nhưng giành chiến thắng toàn triệt là việc hoàn toàn khác. Hầu
như tất cả mọi người ở Anh đều chấp nhận chính sách của cộng sản vì rất ít chỉ
trích được phép xuất hiện trên mặt báo và vì đường lối chung của nó là chấm dứt
sự rối loạn do cách mạng gây ra, là tăng cường sản xuất và thành lập quân đội
chính qui, tất cả đều có vẻ thực tế và hiệu quả. Cần phải nói đến điểm yếu nội
tại của chính sách này.
Nhằm
ngăn chặn từ trong trứng nước bất cứ xu hướng cách mạng nào và làm cho cuộc
chiến càng ngày càng gần với cuộc chiến tranh thông thường thì cần phải tránh
xa các cơ hội mang tính chiến lược có thể xuất hiện trên thực tế. Tôi đã mô tả
quân trang của chúng tôi trên mặt trận Aragon. Không nghi ngờ gì rằng người ta
đã cố tình cản trở việc cấp phát vũ khí, để chúng không rơi vào tay lực lượng
vô chính phủ vì sợ rằng sau này họ sẽ sử dụng để làm cách mạng; kết quả là cuộc
phản công trên mặt trận Aragon, một cuộc phản công có thể buộc lực lượng của
Franco phải rút khỏi Bilbao, thậm chí rút khỏi Madrid đã không thể nào xảy ra
được. Nhưng đấy chỉ là chuyện nhỏ. Quan trọng hơn là khi cuộc chiến bị thu hẹp
lại thành “chiến đấu vì dân chủ” thì không thể nào kêu gọi sự giúp đỡ của giai
cấp công nhân thế giới được nữa. Nhìn thẳng vào sự thật, chúng ta phải công
nhận rằng giai cấp công nhân thế giới có thái độ bàng quan đối với cuộc chiến
tranh Tây Ban Nha. Hàng chục ngàn người đã tham gia chiến đấu, nhưng hàng chục
triệu người ở phía sau đã tỏ ra lãnh đạm. Trong năm đầu tiên, các quỹ “trợ giúp
Tây Ban Nha” khác nhau của nước Anh chỉ quyên góp được đâu khoảng hai trăm năm
mươi ngàn Bảng, có lẽ còn ít hơn một nửa số tiền mua vé xem phim trong một tuần
lễ. Giai cấp công nhân các nước dân chủ có thể giúp đỡ các đồng chí Tây Ban Nha
bằng cách bãi công hay tẩy chay hàng hoá. Nhưng chuyện đó chưa bao giờ xảy ra.
Lãnh tụ các đảng cộng sản và đảng lao động khắp nơi đều tuyên bố rằng không thể
làm thế được; chắc chắn là họ có lí, đấy là nói khi họ vẫn tiếp tục gào đến
khản họng rằng “đỏ” ở Tây Ban Nha không phải là “đỏ” thật. Kể từ Thế chiến I
trở đi, câu “chiến đấu vì dân chủ” đã mang ý nghĩa xấu. Suốt nhiều năm, chính
những người cộng sản đã dạy giai cấp công nhân toàn thế giới rằng “dân chủ” chỉ
là một tên gọi khác của chủ nghĩa tư bản. Ban đầu thì nói “dân chủ là giả hiệu”
rồi sau lại nói “chiến đấu vì dân chủ!” rõ ràng không phải là một chiến thuật
hay. Những người cộng sản, được Liên Xô, lúc đó đang có uy tín rất lớn, ủng hộ.
Nếu họ nhân danh nước “Tây Ban Nha cánh mạng” chứ không phải nhân danh “nước
Tây Ban Nha dân chủ” thì chắc chắn lời kêu gọi của họ sẽ được đáp ứng.
Nhưng
quan trọng nhất, nếu không thực hiện cải cách mang tính cách mạng thì sẽ khó,
nếu không nói là không thể, tấn công được vào hậu phương của Franco. Cho đến
tận mùa hè năm 1937, Franco kiểm soát được nhiều dân hơn chính phủ cộng hòa,
phải nói là hơn rất nhiều, nếu tính cả các thuộc địa. Trong khi đó, lực lượng
quân sự hai bên tương đương nhau. Ai cũng biết rằng nếu dân chúng ở hậu phương
có thái độ thù địch thì lực lượng bảo vệ các tuyến giao thông, ngăn chặn bạo
lọan ..v..v.. cũng phải ngang bằng với lực lượng ngòai mặt trận. Dễ hiểu là vì
sao quần chúng ở hậu phương phát xít không nổi dậy. Không thể tin được rằng
quần chúng trong vùng phát xít chiếm đóng, nhất là công nhân thành thị và nông
dân nghèo, thích hay ủng hộ Franco; nhưng việc ngả sang phía hữu đã làm cho ưu
thế của chính phủ cộng hòa giảm đi. Rõ nhất là trường hợp Morocco. Tại sao nhân
dân Morocco không nổi dậy? Franco đang tìm cách thiết lập một nền độc tài khét
tiếng nhất, thế mà người dân ở đấy lại ủng hộ nó chứ không ủng hộ chính phủ của
Mặt trận Dân tộc! Sự thật là người ta đã không kích động cuộc khởi nghĩa ở
Morocco vì làm như thế cũng có nghĩa là thổi tinh thần cách mạng vào cuộc chiến
tranh. Muốn cho dân chúng tin tưởng vào sự trung thực của chính phủ cộng hòa
thì việc đầu tiên là phải tuyên bố giải phóng cho Morocco. Chắc chắn là chính
phủ Pháp sẽ phản đối. Một cơ hội mang tính chiến lược tuyệt vời nhất đã bị bỏ
qua chỉ vì người ta vẫn nuôi hi vọng hão huyền rằng có thể xoa dịu được các nhà
tư sản ở Anh và Pháp. Chính sách của cộng sản là biến cuộc chiến thành một cuộc
nội chiến thông thường, mà không phải là chiến tranh cách mạng, nghĩa là chính
phủ cộng hòa bị trói chân trói tay rất chặt. Muốn thắng cuộc chiến tranh kiểu
đó thì phải có phương tiện kĩ thuật vượt trội, nghĩa là phải có nguồn cung cấp
vũ khí vô giới hạn, nhưng Liên Xô là nước cung cấp vũ khí chủ yếu lại có hạn
chế là ở xa quá trong khi Ý và Đức lại ở rất gần. Có thể khẩu hiệu của P.O.U.M. và lực lượng vô chính phủ: “Chiến tranh không tách
rời với cách mạng” không đến nỗi thiếu thực tế như ban đầu người ta nghĩ.
Tôi
đã giải thích vì sao tôi lại nghĩ chính sách phản cách mạng của cộng sản là
sai, nhưng cũng hi vọng rằng tôi đã đánh giá không đúng về ảnh hưởng của nó đối
với cuộc chiến. Tôi đã tự nhủ hàng ngàn lần như thế. Tôi chỉ mong chiến thắng,
dù phải dùng bất cứ phương tiện nào. Nhưng dĩ nhiên là chúng ta không thể nói
trước được bất cứ việc gì. Chính phủ có thể chuyển sang phía tả, người Morocco
có thể tự nổi dậy, chính phủ Anh có thể quyết định mua chuộc để nước Ý rút khỏi
cuộc chiến, mà cũng có thể chúng ta sẽ chiến thắng bằng các biện pháp quân sự -
không ai có thể biết được. Tôi xin ghi lại các ý kiến bên trên, chỉ có thời
gian mới trả lời được là tôi đúng hay sai mà thôi.
Nhưng
tháng 2 năm 1937, tôi đã nhìn mọi việc với con mắt khác. Tôi phát chán vì cảnh
ăn không ngồi rồi trên mặt trận Aragon và cái chính là tôi cho rằng mình không
đóng góp đúng mức sức lực vào cuộc đấu tranh. Tôi thường nghĩ đến cái biểu ngữ
ở Barcelona với những lời đòi hỏi gay gắt người qua đường “Bạn đã làm gì cho nền dân chủ” và tự nghĩ mình chỉ có thể trả lời:
“Nhận khẩu phần ăn hàng ngày”. Khi tham gia lực lượng dân quân tôi đã tự hứa
rằng phải giết cho bằng được một tên phát xít, nói cho cùng, nếu mỗi người
chúng tôi đều giết được một tên thì chẳng mấy mà chúng sẽ tuyệt chủng. Cho đến
nay, tôi vẫn chưa giết được tên nào và chắc là cũng khó có điều kiện giết trong
tương lai. Tôi muốn đến Madrid, dĩ nhiên là như thế. Tất cả các binh sỹ, dù
theo quan điểm chính trị nào, cũng đều muốn đến Madrid cả. Đấy có thể là do
người ta muốn tham gia vào các lữ đòan quốc tế vì P.O.U.M.
có rất ít quân ở Madrid, vô chính phủ cũng ít hơn trước đây.
Còn
hiện nay thì phải ở lại trên chiến tuyến, nhưng tôi thường nói với mọi người
rằng có thể sau khi đi phép tôi sẽ chuyển sang các lữ đoàn quốc tế, nghĩa là
chịu sự chỉ huy của cộng sản. Nhiều người cố gắng thuyết phục tôi, nhưng không
ai can thiệp. Phải công nhận rằng P.O.U.M. không đàn áp những
người bất đồng chính kiến, thậm chí còn tỏ ra độ lượng nếu xét đến hoàn cảnh
lúc đó; trừ bọn thân phát xít, không ai bị đàn áp vì quan điểm chính trị. Trong
thời gian ở trong dân quân, tôi đã nhiều lần chỉ trích và chỉ trích một cách
quyết liệt “đường lối” của P.O.U.M., nhưng không hề bị rắc rối gì. Không
ai ép tôi phải ra nhập đảng, mặc dù theo tôi nghĩ đa số dân quân đều là đảng
viên. Tôi không bao giờ vào đảng, sau này, khi P.O.U.M.
bị đàn áp tôi vẫn lấy làm ân hận mãi vì chuyện đó.
6
Trong khi đó, hàng ngày, đúng hơn là hàng đêm
vẫn phải làm nhiệm vụ một cách bình thường. Tuần tra, canh gác, đào hào; bùn,
mưa, gió rít và đôi khi có tuyết. Mãi đến trung tuần tháng 4, ban đêm mới thực
sự đỡ rét. Thời tiết tháng ba trên cao nguyên ở đây khá giống ở Anh, cũng bầu
trời xanh nhạt và những trận gió giật từng hồi. Những ruộng lúa mạch cao khoảng
một gang tay, trên cành anh đào những nụ non màu hồng cũng bắt đầu lấp ló
(chiến hào ở đây đi ngang qua những vườn anh đào và vườn trồng rau bỏ hoang) và
nếu chịu khó tìm, ta sẽ thấy những nhánh hoa vi-ô-lét và một lọai cây dạ lan
hương dại trông như hoa chuông tròn. Ngay đằng sau chiến hào của chúng tôi có
một dòng suối nhỏ, nước trong xanh, đây là dòng nước trong duy nhất mà tôi thấy
kể từ ngày ra mặt trận. Một hôm tôi phải nghiến răng lại để lội xuống nước, đã
sáu tuần nay tôi không được tắm. Có thể gọi là tắm vội vì nhiệt độ chỉ cao hơn
không độ một chút, lạnh không khác gì nước đá.
Mọi
việc vẫn như cũ, tuyệt đối không có gì xảy ra cả. Mấy người Anh ở đây bắt đầu
nói với nhau rằng đây không phải là chiến tranh mà chỉ là một vở kịch câm đẫm
máu mà thôi. Bọn phát xít khó mà bắn thẳng đến chỗ chúng tôi. Chỉ có mấy viên
đạn lạc là nguy hiểm, nhất là ở những chỗ chiến hào ăn sâu vào phía bên địch,
đạn có thể đến từ tất cả các hướng. Tất cả các trường hợp thương vong trong
giai đoạn này đều là do đạn lạc cả. Arthur Clinton bị trúng một viên không biết
từ đâu tới, làm vỡ bả vai phải và liệt cánh tay, tôi sợ là tay anh ta sẽ bị
hỏng vĩnh viễn. Pháo binh ít khi khai hoả, mà có bắn cũng chẳng tác dụng gì.
Chúng tôi coi tiếng réo và tiếng nổ của đạn đại bác như một trò giải trí. Chưa
bao giờ bọn phát xít bắn trúng được bờ công sự của chúng tôi. Cách chiến hào
của chúng tôi chừng vài trăm mét về phía sau có một trang trại gọi là La Garja
với những ngôi nhà rộng rãi vừa được dùng làm kho, vừa được dùng làm chỗ đóng
quân của ban chỉ huy và nhà bếp. Đấy là mục tiêu của bọn phát xít, nhưng chúng
ở cách xa từ năm đến sáu cây số, thành ra chỉ có thể làm vỡ kính cửa sổ hay gây
ra một vài vết lõm trên tường mà thôi. Chỉ nguy hiểm nếu bị bắn lúc đang đi,
đạn sẽ nổ ở cả hai bên đường. Chúng tôi đã nắm được gần như ngay lập tức nghệ
thuật chỉ nghe tiếng đạn réo đã biết nó sẽ rơi xa hay gần. Đạn của bọn phát xít
thời kì này rất dở. Pháo 150mm mà chỉ khoét được một cái hố đường kính chừng
một mét tám và sâu chừng một mét hai; rồi cứ bốn quả đã có ít nhất một quả
không nổ. Người ta thường kể những câu chuyện về công tác phá hoại trong nhà
máy của bọn phát xít và nói rằng những quả đạn không nổ là vì công nhân không
nạp thuốc súng mà lại nhét vào đó mảnh giấy có chữ: “Hồng quân”, nhưng tôi chưa
bao giờ thấy quả nào như thế. Sự thật là đạn đã quá cũ, có người đã tháo nắp
đậy và nhìn thấy hàng chữ đóng bên trên: 1917. Súng của bọn phát xít cũng cùng
loại và cùng cỡ với súng của chúng tôi, cho nên những quả không nổ thường được
tái chế và bắn trở lại. Người ta còn nói rằng có một viên đạn, được đặt tên
đàng hoàng, ngày nào cũng được bắn qua bắn lại suốt mà không nổ.
Ban
đêm người ta thường đưa những đội tuần tra nhỏ tiến sát chiến hào của bọn phát
xít để nghe ngóng động tĩnh (kèn hiệu, còi ô tô…) để dự đoán hoạt động ở Huesa.
Các đơn vị phát xít di chuyển thường xuyên, những vụ nghe lén như thế có thể
giúp tính toán được quân số của chúng. Chúng tôi được lệnh phải đặc biệt chú ý
nghe tiếng chuông nhà thờ. Trước khi ra trận, bao giờ bọn phát xít cũng đi lễ
nhà thờ. Ở giữa cánh đồng và các vườn cây thường có những túp lều hoang, tường
đắp bằng đất. Che kín cửa sổ và dùng một que diêm để soi, đôi khi ta có thể tìm
được những thứ có giá trị, thí dụ như một con dao phay hay bi đông đựng nước
của bọn phát xít (tốt hơn của chúng tôi và rất có giá). Chúng tôi đi tuần cả
vào ban ngày, nhưng phải bò. Một cảm giác thật kì lạ dâng lên trong lòng khi
tôi bò qua những cánh đồng màu mỡ, bỏ hoang, nơi mọi vật dường như đã đông cứng
lại ngay giữa mùa thu hoạch. Vụ mùa năm ngoái không được ai đoái hoài tới.
Những cành nho không được cắt tỉa bò lều ngều trên mặt đất, lõi ngô trên thân
cây cứng như đá, củ cải và củ cải đường đầy sơ bên ngoài, cứng chẳng khác gì
gỗ. Chắc chắn là nhân dân oán trách quân đội cả hai bên. Thỉnh thoảng chúng tôi
lại cử mấy chiến sỹ đi đào khai tây. Cách chỗ chúng tôi chừng hai cây số về bên
phải, nơi chiến hào hai bên tưong đối gần nhau, có một cánh đồng khoai tây.
Chúng tôi thường ra đó đào vào ban ngày còn bọn phát xít thì đào ban đêm vì
súng máy của chúng tôi giữ thế thượng phong ở đây. Một đêm, bọn phát xít đi cả
đoàn và đào sạch, làm chúng tôi rất bực bội. Chúng tôi tìm được một cánh đồng
khác, xa hơn, nhưng chỗ đó không có gì che chắn cả, muốn đào phải nằm sát bụng
xuống đất, rất mỏi. Nếu bọn phát xít phát hiện được thì phải nằm thẳng ra, y
như con chuột chui qua khe cửa vậy. Đạn sẽ cày tung đám đất cách đó vài mét.
Nhưng đấy là việc đáng làm. Khoai tây rất hiếm. Trong nhà bếp, một bao khoai
tây có thể đổi được một bi đông cà phê đầy.
Vẫn
chẳng có gì xảy ra cả, thậm chí có vẻ như chẳng thể nào xảy ra bất cứ chuyện gì.
“Bao giờ thì chúng ta sẽ tấn công?”. “Tại sao chúng ta không tấn công?”, đấy là
những câu hỏi được nghe thường xuyên, đêm cũng như ngày, cả người Tây Ban Nha
lẫn người Anh ở đây đều nói. Người ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy binh lính
muốn đánh nhau, mà chắc chắn là họ muốn thế thật. Trong chiến hào, người lính
chỉ mong có ba thứ: đánh nhau, thuốc lá và một tuần nghỉ phép. Chúng tôi đã
được trang bị tốt hơn trước. Mỗi người đã được phát một trăm năm mươi chứ không
phải năm mươi viên đạn nữa, dần dà rồi ai cũng được phát lưỡi lê, mũ sắt và vài
quả lựu đạn. Ngày nào cũng có tin đồn về trận đánh sắp tới. Nhưng tôi lại nghĩ
rằng người ta cố tình tung tin như thế để giữ vững tin thần binh sỹ. Không cần
có nhiều hiểu biết về quân sự cũng có thể nhận thức được rằng không thể có
những trận đánh lớn ở mặt trận này của Huesa, ít nhất là trong thời gian trước
mắt. Con đường đi Jaca, ở phía bên kia thành phố, mới là mục tiêu chiến lược.
Một thời gian sau, khi các lực lượng vô chính phủ tấn công vào quốc lộ đi Jaca thì
chúng tôi được giao nhiệm vụ “cầm chân” và kéo lực lượng phát xít về phía mình.
Trong
suốt gần sáu tuần lễ, trên khu vực chúng tôi chỉ có mỗi một cuộc tấn công duy
nhất. Đấy là tiểu đoàn xung kích của chúng tôi tấn công Manicomio, một nhà
thương điên bỏ hoang được quân phát xít biến thành pháo đài. Trong lực lượng
của P.O.U.M. có mấy trăm người tị nạn người Đức. Họ được phiên chế thành một
tiểu đoàn đặc biệt, gọi là tiểu đoàn xung kích. Xét từ quan điểm quân sự thì họ
khác hẳn các đơn vị dân quân còn lại và có dáng dấp nhà binh hơn tất cả các đơn
vị khác ở Tây Ban Nha, nếu không kể lực lượng cảnh sát vũ trang và một vài đơn
vị của các binh đoàn quốc tế. Cuộc tấn công đã thất bại, như thường lệ. Có bao
nhiêu cuộc tấn công của quân chính phủ không
thất bại, tôi tự hỏi. Tiểu đoàn xung kích đã chiếm được Manicomio bằng một cuộc
xung phong, nhưng đơn vị, tôi không nhớ thuộc lực lượng nào, yểm trợ cho họ đã
không chiếm được cao điểm có thể khống chế được Manicomio. Viên đại uý chỉ huy
trận đánh vốn là một sỹ quân đội cũ, khó mà tin được lòng trung thành của những
người đó, nhưng chính phủ vẫn sử dụng họ. Không hiểu là do hoảng loạn hay phản
bội mà anh ta đã báo động cho bọn phát xít bằng cách ném một quả lựu đạn khi
còn cách vị trí của chúng những hai trăm mét. Tôi cảm thấy thích thú khi biết
rằng anh ta đã bị binh lính dưới quyền bắn chết ngay tại trận. Nhưng trận tấn
công đã mất tính bất ngờ, dân quân đã bị hoả lực mạnh bắn gục hàng loạt và buộc
phải rút lui; tối hôm đó tiểu đoàn xung kích cũng buộc phải bỏ Manicomio. Xe
cứu thương nối đuôi nhau trên con đường đầy ổ gà đi Sietamo, một số thương binh
nặng đã bị chết vì những ổ gà, ổ voi trên con đường này.
Tất
cả chúng tôi đều bắt đầu có rận, mặc dù đối với người thì vẫn còn rét, nhưng
rận đã có thể sống được rồi. Tôi đã gặp đủ thứ sâu bọ, nhưng chưa từng thấy
loài nào kinh tởm như là rận. Những loài khác, thí dụ như muỗi, cắn đau hơn
nhưng chúng không sống ngay trên cơ
thể. Rận trông giống như con tôm nhỏ và thường chui vào quần áo. Trừ phi đốt
hết quần áo, còn thì không có cách nào thoát được bọn chúng. Những cái trứng
màu trắng, trông như những hạt gạo bé xíu, bám vào các đường chỉ và chỉ mấy
ngày là đã sinh ra một đàn một lũ mới. Tôi nghĩ những người phản chiến nên
phóng to hình một chú rận và in thêm vào các tờ rơi của họ. Chiến tranh là như
thế đấy! Trong chiến tranh, tất cả
binh lính đều có rận hết, chí ít là khi trời ấm. Dù chiến đấu ở đâu, bên cạnh
pháo đài Verdun, hay trên cánh đồng Waterloo, ở Flodden, hay ở Senlac, hoặc ở
Thermopylae, ở đâu thì trong háng mỗi người lính cũng có vài chú rận đang bò.
Chúng tôi giết chúng bằng cách hơ quần áo trên bếp và tắm mỗi khi có điều kiện.
Nếu không có rận thì chẳng ai có thể bắt được tôi lội xuống sông giữa mùa băng
giá như thế này.
Mọi
thứ: giầy, quần áo, thuốc lá, xà phòng, diêm, dầu ăn đều sắp hết. Quần áo đồng
phục rách tả tơi, nhiều người không còn giày, đành phải mang dép đế tết bằng
dây thừng. Giày rách xếp thành đống khắp nơi. Có lần chúng tôi đồt hai ngày
liền mới hết số giày cũ, hoá ra đấy là một loại nhiên liệu không tồi. Lúc này
vợ tôi đang ở Barcelona, cô thường gửi cho tôi trà, kẹo sôcôla và cả thuốc lá
nữa, đấy là nói nếu mua được. Ngay cả ở Barcelona cũng có tình trạng khan hiếm,
nhất là thuốc lá. Trà là của quí, sữa thì đừng có mong, đường đôi khi mới được
phát. Ở Anh người ta vẫn thường xuyên gửi quà sang, nhưng chúng tôi không bao
giờ được nhận; thức ăn, quần áo, thuốc lá, nếu không bị bưu điện trả về thì
cũng bị tịch thu ở Pháp. Xin kể một câu chuyện vui: Kho quân nhu của Hải quân
là nơi duy nhất đã gửi được cho vợ tôi mấy gói chè và một lần còn gửi được cả
một hộp bánh quy. Tội nghiệp quá! Họ đã thực hiện nhiệm vụ một cách trung thực,
nhưng có lẽ họ sẽ mừng hơn nếu mấy món đó rơi vào tay binh lính của Franco bên
kia chiến tuyến. Thiếu thuốc lá là khó chịu nhất. Thời kì đầu chúng tôi được
phát một bao, sau đó là tám điếu, rồi năm điếu mỗi ngày. Mười ngày cuối cùng
không có điếu nào. Đấy là lần đầu tiên tôi thấy, là nói Tây Ban Nha chứ ở
London thì ngày nào cũng có, cảnh người ta phải kiếm đầu mẩu vứt đi để hút.
Cuối
tháng ba tôi bị một cái nhọt ở tay, phải mổ, cánh tay treo ngang vai. Tôi phải
đi viện, nhưng Sietamo thì xa quá cho nên người ta đưa tôi đến “binh trạm”
Monflorite, mà thực chất chỉ là một trạm băng bó tạm thời. Tôi ở lại đây mười ngày,
có nhiều lúc nằm bẹp trên giường. Các thực tập sinh (y tá của trạm) đã ăn cắp
gần hết các thứ có giá trị, kể cả ảnh và máy ảnh của tôi. Ngoài mặt trận thì ai
cũng ăn cắp cả, đấy là do thiếu thốn quá mà ra, nhưng nhân viên bệnh viện ăn
cắp dã man nhất. Sau này, khi nằm trong bệnh viện ở Barcelona tôi có gặp một
người Mỹ đến Tây Ban Nha trên một con tầu để tham gia vào binh đoàn quốc tế.
Tầu của anh ta bị tầu ngầm Ý đánh chìm, thế mà theo lời anh ta, sau khi lên bờ,
các nhân viên ý tế còn kịp tháo chiếc đồng hồ đeo tay trong khi khiêng cáng của
anh ta vào xe cứu thương.
Tay
vẫn còn đau, vẫn phải treo ngang người mà tôi đã đi lang thang mấy ngày liền
xung quanh Monflorite. Thật là tuyệt vời! Monflorite là một làng bình thường
với những ngôi nhà tường làm bằng đất hoặc xây bằng đá, những con đường hẹp
ngoằn ngoèo, đầy xe tải trông như những miệng núi lửa trên mặt trăng vậy. Ngôi
nhà thờ cũ nát được dùng làm kho quân dụng. Cả khu vực chỉ có hai trang trại
tương đối lớn, gọi là Torre Lorenzo và Torre Fabián, và hai toà nhà khá to,
chắc là nhà của mấy gia đình địa chủ. Cảnh giàu sang của họ thật là tương phản
với những túp lều tồi tàn của nông dân xung quanh. Ngay cạnh dòng sông, không
xa phòng tuyến, có một chiếc cối xay gió lớn, bên cạnh cũng có một ngôi nhà.
Thật là xấu hổ khi thấy những cỗ máy đắt tiền bị để cho thành han gỉ còn những
tấm ván lát nền thì bị bóc ra làm củi đun. Sau này, để có củi đun, các đơn vị ở
hậu phương đã cho xe đến rỡ sạch cả khu vực này. Người ta thường phá nền bằng
cách cho nổ một trái lựu đạn. La Granja, nhà kho và bếp ăn của chúng tôi, có lẽ
một thời từng là nữ tu viện. Trên một khu đất khoảng một ngàn mét vuông có một
cái sân và mấy ngôi nhà, có cả chuồng ngựa nhốt được từ ba mươi đến bốn mươi
con. Nhà dân ở khu vực này không có gì đặc biệt về mặt kiến trúc; nhưng nhà
trong các trang trại, được xây bằng đá và đất sét với những mái vòm hình tròn
và những cái rầm cực lớn trông khá đẹp. Có lẽ những ngôi nhà này được xây theo
mẫu có từ hàng trăm năm trước. Thấy cách dân quân sử dụng những căn nhà này,
đôi khi trong lòng ta cũng nảy sinh tình cảm, dù bất giác, với những tên phát
xít chủ nhân của chúng. Ở La Granja, phòng nào không có người ở đều trở thành
nhà xí hết, đồ gỗ gãy và cứt đái trông đến rợn người. Tường ngôi nhà thờ nhỏ
bên cạnh thì đầy vết đạn, còn nền thì cứt đóng dày cả gang tay. Cái sân lớn,
nơi các anh nuôi thường chia cơm, cũng đầy vỏ đồ hộp, bùn, cứt ngựa, thức ăn
thiu. Tự nhiên tôi nhớ một bài mà binh lính trước đây thường hát:
Chuột
cống, chuột cống,
To
như con mèo,
Trong kho quân nhu!
Trong kho quân nhu!
Ở
La Granja, chuột đúng là to chẳng khác gì mèo, béo múp míp, suốt ngày lượn lờ
trên những đống rác, dạn đến nỗi phải nổ súng thì may mới xua được chúng đi.
Mùa
xuân thực sự đã về. Màu xanh da trời dường như dịu hơn, không khí như bỗng có mùi
hương vậy. Ếch kêu inh ỏi. Tôi bắt được mấy con ếch màu xanh, to chỉ bằng đồng
xu ở gần hồ nước vẫn dùng cho la uống. Da của nó xanh biếc và óng ánh còn hơn
cả lá cây. Mấy chú nhóc, con những người nông dân còn ở lại đây mang xô đi bắt
ốc sên rồi nướng ngay trên tấm sắt tây. Trời vừa ấm là nông dân đã ra đồng cày
rồi. Cuộc cải cách nông nghiệp ở Tây Ban Nha khó hiểu đến nỗi tôi cũng chẳng
biết là ruộng đất đã được tập thể hoá hay là nông dân tự chia ruộng với nhau.
Tôi nghĩ rằng vì đây là vùng do P.O.U.M. và quân vô chính phủ kiểm soát cho nên
về mặt lí thuyết ruộng đất đã được tập thể hoá. Dù sao thì cũng không còn địa
chủ nữa, ruộng đất vẫn được cày cấy, còn nông dân thì tỏ ra phấn khởi. Tôi
không khỏi ngạc nhiên trước tình cảm của người nông dân đối với chúng tôi. Đối
với những người lớn tuổi, chiến tranh chỉ là một việc nhảm nhí, là thiếu thốn
đủ thứ, cuộc sống chẳng có gì vui nữa; đấy là chưa nói, ngay cả những lúc thuận
lợi nhất người nhà quê cũng không muốn có binh lính đóng trong làng. Thế nhưng
họ luôn tỏ ra hữu hảo, tôi nghĩ rằng về mặt nào đó họ không ưa chúng tôi, nhưng
chúng tôi là người bảo vệ họ khỏi những tên địa chủ cũ. Nội chiến bao giờ cũng
đầy chuyện lạ. Huesa chỉ cách đây chừng mười cây số, người nông dân ở đây vẫn
vào đấy mua bán, thân nhân của họ sống trong đó, tuần nào họ cũng vào đó bán gà
và rau tươi. Thế mà đã tám tháng nay một hàng rào dây kẽm gai và súng máy đã
chia vùng này thành hai nửa, không ai ra vào được thành phố nữa. Thế mà đôi khi
họ cũng quên. Có lần, khi nói chuyện với một bà lão đang cầm một cái đèn sắt
tây dùng để thắp bằng dầu ôliu, tôi buột miệng hỏi: “Mua cái này ở đâu?”. Bà
lão đáp, không cần suy nghĩ: “Ở Huesa”, rồi cả hai cùng phá lên cười. Những cô
thôn nữ xinh đẹp, tóc đen huyền, bước nhún nhảy, cư xử tự nhiên, thẳng thắn, có
lẽ đấy là sản phẩm của cách mạng.
Mấy
anh nông dân quần áo cũ nát; thường là áo sơ mi xanh, quần nhung đen, đội mũ
rơm rộng vành, cầm cày đi sau mấy con la liên tục vẫy tai. Cày của họ đã quá
cũ, chỉ đủ làm xước đất chứ không thể tạo được cái mà ta quen gọi là luống cày.
Tất cả công cụ sản xuất của họ đều đã quá cũ, đấy là do giá sắt thép quá đắt mà
ra. Thí dụ, khi lưỡi cày bị gãy thì người ta phải đem đắp lại, lần sau gãy lại
đắp, cho đến khi chỉ còn là những miếng vá mới thôi. Cào và cò leo toàn làm
bằng gỗ. Nông dân ít khi có giày, họ không biết xẻng là gì; họ đào đất bằng
những cái cuốc chẳng khác gì người Ấn Độ. Ở đây có những cái bừa trông như có
từ thời đồ đá vậy. Đấy là những tấm ván ghép vào nhau, to bằng cái bàn ăn, mỗi
tấm được khoét hàng trăm lỗ, mỗi lỗ nhét một viên đá được mài như người ta đã
từng mài cách đây cả chục ngàn năm trước. Tôi vẫn nhớ cảm giác hốt hoảng khi
nhìn thấy mấy thứ này trong một ngôi nhà bỏ hoang giữa vùng đất tranh chấp. Tôi
đã xem xét nó rât lâu trước khi hiểu rằng đấy là một cái bừa. Tôi cảm thấy
choáng váng khi nghĩ đến khối lượng công việc mà người ta đã bỏ ra và cái nghèo
đã buộc người ta phải dùng đá chứ không thể dùng sắt để làm lưỡi bừa. Tôi có
thiện cảm hơn với quá trình công nghiệp hoá kể từ đấy. Thế mà trong làng lại có
đến hai cái máy kéo hiện đại, chắc chắn là do người ta tịch thu được của mấy
tay địa chủ giàu có ở đâu đó.
Tôi
có đến khu nghĩa trang nhỏ, có hàng rào, cách làng chừng hai cây số, một đôi
lần. Những người chết trận thường được đưa về Sietamo, đây là nghĩa địa của
làng. Trông khác hẳn nghĩa địa ở Anh. Không có một sự kính trọng nào đối với
người quá cố! Mồ mả đầy bụi cây và cỏ dại, xương người nổi lên khắp nơi. Nhưng
điều làm tôi ngạc nhiên nhất là không thấy có một dấu hiệu tôn giáo nào trên
bia mộ, mặc dù đây là những ngôi mộ có từ trước cách mạng. Tôi nhớ chỉ một lần
nhìn thấy câu: “Hãy cầu nguyện cho hương hồn…”, tức là câu thường gặp trên các
bia mộ của người Công giáo. Đa số bia mộ đều viết những câu thuộc về thế tục,
phần lớn là những bài vè ca ngợi đức hạnh của người quá cố. Bốn, năm ngôi mộ
mới có một ngôi có dấu chữ thập hay một kí hiệu gì đó nhắc đến Thượng Đế; nhưng
tất cả đều đã bị một kẻ vô thần nào đó dùng đục bóc hết đi rồi.
Điều
làm tôi kinh ngạc nhất là dân chúng ở đây hoàn toàn không có tình cảm tôn giáo,
tôi muốn nói cái tình cảm chính thống, như những ngày xa xưa. Đáng chú ý là
suốt thời gian ở Tây Ban Nha, tôi không thấy ai làm dấu thánh giá, những động
tác như thế tưởng chừng đã thành bản năng, cách mạng hay không thì cũng vậy mà
thôi. Chắc chắn là nhà thờ Tây Ban Nha sẽ quay trở lại (như câu ngạn ngữ: Ban
đêm người dòng Tên sẽ quay trở về), nhưng không nghi ngờ gì rằng nhà thờ đã sụp
đổ ngay khi cách mạng vừa bùng lên. Tôi nghĩ rằng nếu xảy ra những hoàn cảnh tương
tự thì nhà thờ Anh, tuy đã suy tàn lắm rồi, cũng sẽ không thể suy sụp đến như
thế được. Đối với người Tây Ban Nha, ít nhất là đối với vùng Catalonia và
Aragon, nhà thờ chỉ còn là biểu tượng của sự lừa gạt. Ở một mức độ nào đó, niềm
tin Thiên chúa giáo đã được thay thế bằng chủ nghĩa vô chính phủ, ảnh hưởng của
nó cũng khá rộng và cũng mang màu sắc tôn giáo từ lâu.
Đúng
hôm tôi ra viện thì chúng tôi đưa chiến hào tiến lên được chừng một ngàn mét,
dọc theo một dòng suối nhỏ, cách chiến hào quân phát xít chừng vài trăm mét.
Việc này đáng lẽ phải làm cách đây cả mấy tháng. Hiện nay mới làm là vì quân vô
chính phủ đang tấn công vào quốc lộ đi Jaca, chúng tôi tiến lên nhằm thu hút
bớt lực lượng địch về phía mình.
Chúng
tôi đã thức suốt sáu mươi hay bảy mươi tiếng đồng hồ liền, kí ức trở nên mờ
mịt, nói chính xác hơn là trở thành những hình ảnh rời rạc. Tôi nhớ đã cùng
tham gia nghe trộm trên vùng đất tranh chấp, cách nông trại có tên là Casa
Francesa khoảng một trăm mét. Trang trại này đã biến thành một cứ điểm trên
phòng tuyến của bọn phát xít. Chúng tôi nằm suốt bảy tiếng đồng hồ trong đám
bùn nhão nhoét, sặc mùi lau sậy thối. Tôi vẫn còn nhớ mùi lau sậy thối rữa, nhớ
cái rét thấu xương, nhớ những ngôi sao bất động giữa đêm đen, nhớ tiếng ếch kêu
inh ỏi. Mặc dù đã sang tháng tư, nhưng tôi cho là đấy là một đêm lạnh nhất ở
Tây Ban Nha. Phía sau, cách đây chỉ một trăm mét, mọi người đang hối hả đào
hào, nhưng vẫn không nghe thấy gì ngoài tiếng ếch kêu. Suốt đêm tôi chỉ nghe
thấy một tiếng động duy nhất, đấy là tiếng xẻng đập lên bao tải cát. Thật thú
vị, đôi khi người Tây Ban Nha cũng có ý thức tổ chức ra phết! Toàn bộ công việc
đã được tổ chức rất khéo. Trong vòng bảy tiếng đồng hồ, sáu trăm con người đã
đào được hai trăm mét giao thông hào với đầy đủ bờ công sự, mà lại chỉ cách
phòng tuyến quân thù từ 150 mét đến 300 mét. Bọn phát xít không nghe thấy gì,
suốt đêm chỉ có một người bị thương. Hôm sau, dĩ nhiên là có nhiều thương vong
hơn. Mỗi người đều có nhiệm vụ rõ ràng, thậm chí anh nuôi đã kịp mang đến mấy
thùng ruợu vang có pha brandy ngay khi công việc vừa kết thúc.
Trời
sáng, bọn phát xít bất ngờ phát hiện được rằng chúng tôi đã ở ngay trước mũi
chúng. Chúng tôi còn cách Casa Francesa khoảng hai trăm mét, nhưng mấy ngôi nhà
màu trắng trông như treo ngay trên đầu, những khẩu súng máy sau mấy bao cát từ
cửa sổ tầng hai như nhắm thẳng vào giao thông hào của chúng tôi. Chúng tôi đứng
nhìn, miệng há hốc, tự hỏi vì sao bọn phát xít không thấy chúng tôi, thì bất
thình lình đạn bắn như vãi trấu. Mọi người vội vàng qùy xuống, đào lấy đào để,
vừa đào sâu thêm giao thông hào vừa đào những công sự nhỏ sang hai bên. Tay vẫn
còn đeo băng, không đào được, tôi đọc sách suốt ngày hôm đó, đấy là cuốn tiểu
thuyết trinh thám Người cho vay lãi mất
tích. Tôi không còn nhớ nội dung, nhưng tôi nhớ rõ cảm giác lúc ngồi đọc:
đất sét nền chiến hào ẩm ướt, thỉnh thoàng lại phải co chân vào để tránh đường
cho người ta đi và tiếng đạn réo ngay trên đầu. Thomas Parker bị một viên đạn
xuyên qua phía trên bắp đùi, anh ta bảo chuyện đó vượt ra ngoài mọi tính toán.
Có thương vong trên toàn tuyến, nhưng nếu bọn phát xít phát hiện được từ ban
đêm thì thương vong sẽ lớn hơn nhiều. Sau này, mấy tên đão ngũ khai rằng năm
lính gác phát xít đã bị bắn vì tội lơ là nhiệm vụ. Nhưng ngay cả lúc này, nếu
biết kéo đến đây mấy khẩu súng cối thì chúng vẫn có thể làm thịt hết chúng tôi.
Khiêng thương binh trong chiến hào vừa chật vừa đông người là việc khá khó
khăn. Tôi đã nhìn thấy một thương binh, quần đẫm máu, đau quá, lăn lộn đến nỗi
rơi khỏi cáng. Thương binh phải cáng khá xa, khoảng một cây số rưỡi hay hơn vì
ngay cả nếu có đường, xe cứu thương cũng không bao giờ dám đến quá gần chiến
tuyến. Bọn phát xít sẽ bắn ngay nếu thấy xe cứu thương đến gần, chúng làm thế
cũng có lí vì trong cuộc chiến tranh hiện đại chẳng có ai áy náy khi đem xe cứu
thương đi tải đạn.
Đêm
hôm sau chúng tôi ngồi chờ lệnh tấn công ở Torre Fabián. Nhưng rồi quyết định
bãi bỏ cuộc tấn công được truyền qua máy bộ đàm vào phút chót. Cái kho, nơi
chúng tôi ngồi đợi lệnh được trải một lớp rơm mỏng, bên dưới đầy các thứ xương,
cả xương người lẫn xương bò. Chuột cống chạy loạn xạ, chúng lao vào trong nhà
từ khắp các hướng. Tôi ghét nhất là trong bóng tối mà bị mấy con chuột chạy lên
người. Tôi rất khoái khi đá trúng một con thật mạnh làm nó bay tít ra xa.
Chúng
tôi ngồi đợi, cách bờ công sự của bọn phát xít khoảng năm mươi đến sáu mươi
mét. Một dãy dài các chiến sỹ lom khom dưới chiến hào xâm xấp nước, trong màn
đêm chỉ nhìn thấy mũi lưỡi lê và con ngươi lấp lánh mà thôi. Sau lưng chúng tôi
là Kopp và Benjamin và một liên lạc viên đeo máy bộ đàm trên lưng. Phía Tây,
thỉnh thoảng lại thấy những ánh chớp màu hồng và sau đó mấy giây là tiếng nổ
đinh tai nhức óc của đạn đại bác. Có tiếng loẹt xoẹt của máy bộ đàm và tiếng
thì thầm ra lệnh rút lui trong khi còn kịp. Chúng tôi rút, nhưng không được
nhanh lắm. Mười hai chú nhóc tội nghiệp của J.C.I. (Liên
đoàn Thanh niên của P.O.U.M., trong lực lượng dân quân
của P.S.U.C. được gọi là J.C.I.) nằm chỉ cách chiến hào
phát xít chừng bốn chục mét, không biết là trời sắp sáng, không kịp rút lui. Họ
phải nằm ở đấy suốt một ngày, chỉ có mấy nắm cỏ làm lá nguỵ trang, trong khi
chỉ cần động đậy một chút là bọn phát xít đã bắn như vãi đạn rồi. Đến chiều có
bảy người hi sinh, năm người bò được về khi đêm xuống.
Nhiều
ngày sau chúng tôi còn nghe thấy âm thanh của những cuộc tấn công của quân vô
chính phủ ở mặt trận phía bên kia Huesa. Lúc nào cũng là những âm thanh đó: bất
thình lình, trước khi trời rạng sáng, là một loạt tiếng nổ của hàng chục quả
đại bác – dù ở rất xa nhưng tiếng nổ nghe như muốn xé màng nhĩ - rồi đến tiếng
nổ không ngừng nghỉ của súng trường và súng máy, những âm thanh rền vang, nặng
nề nghe như tiếng trống ngũ liên. Dần dần cả mặt trận xung quanh Huesa đều vang
lên tiếng súng, chúng tôi đứng, lưng dựa vào thành công sự, gật gà ngủ, mặc kệ
tiếng đạn nổ phía trên đầu.
Ban
ngày, đạn đại bác thường nổ dền từng chập. Torre Fabián, bây giờ là nhà ăn của
chúng tôi, đầy vết đạn và đã bị sập vài chỗ. Thật lạ là nếu đứng ở xa mà nhìn
thì bao giờ ta cũng muốn đạn rơi trúng mục tiêu, ngay cả ở đấy có những người
đồng đội và bữa ăn trưa của ta. Sáng nay bọn phát xít bắn khá chính xác, cũng
có thể đấy là mấy xạ thủ người Đức. Chúng bắn hai phát, một phát xa hơn, một
phát gần hơn để chính cự li và phát thứ ba thì bắn trúng mục tiêu. Xà gồ, tấm
lợp bị bắn tung lên không trung như những quân bài. Phát thứ tư cắt gọn hẳn một
góc nhà, trông chẳng khác gì có một người khổng lồ cầm dao xén vậy. Thế mà các
anh nuôi vẫn cho ăn đúng giờ, thật là một kì công.
Chỉ
sau mấy ngày, dù không nhìn thấy, nhưng chỉ nghe tiếng nổ là chúng tôi đã có
thể phân biệt được từng khẩu súng. Có hai khẩu đội 75-mm do Nga sản xuất, bắn
từ khoảng cách khá gần, không hiểu sao mỗi lần nghe thấy tiếng nổ là trong đầu
tôi lại xuất hiện hình ảnh một anh chàng béo đang chơi golf. Đây là lần đầu
tiên tôi thấy, đúng hơn là nghe thấy, đại bác của Nga. Đạn bay thấp với tốc độ
rất cao, tiếng đầu nòng, tiếng rít và tiếng nổ của quả đạn xảy ra gần như cùng
một lúc. Phía bên kia Monflorite có hai khẩu pháo hạng nặng, mỗi ngày chỉ bắn
mấy phát, tiếng nổ trầm và nghẹn như tiếng rống của một con quái vật bị xích.
Trên ngọn núi Aragon có một pháo đài xây từ hồi Trung cổ, quân đội chính phủ đã
chiếm được bằng một cuộc tấn công vào năm ngoái (người ta nói rằng đấy là lần
đầu tiên nó bị thất thủ), pháo đài này bảo vệ một trong những con đường đi
Huesa, có một khẩu pháo hạng nặng chắc chắn là được sản xuất từ thế kỉ XIX.
Những viên đạn nặng nề của nó bay chậm đến nỗi có cảm tưởng như chẳng nhanh hơn
người ta chạy là mấy. Tiếng rít của nó nghe như có người vừa đi xe đạp vừa huýt
gió. Súng cối tầm ngắn, tuy nhỏ, nhưng nổ khủng khiếp nhất. Đạn súng cối trông
như những quả thuỷ lôi có cánh, to bằng cái chai một lít, đầu nhọn như phi
tiêu. Tiếng gầm rít chát chúa của nó nghe như một quả cầu gang giòn rơi lên đe
và vỡ tan thành hàng trăm mảnh. Đôi khi máy bay của chúng tôi cũng thả xuống
vài quả bom, cách vài cây số tiếng nổ còn làm cho mặt đất rung lên bần bật. Đạn
phòng không của bọn phát xít bắn lên nhiều đến nỗi khói cuộn lại thành những
đám mây nhỏ trên nền trời, nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy chúng cách máy bay
dưới một cây số. Khi máy bay bổ nhào để bắn thì tiếng súng máy bên dưới nghe
dồn dập chẳng khác gì tiếng vỗ cánh của một đàn chim cực lớn.
Khu vực của chúng tôi vẫn gần như chẳng có
động tĩnh gì. Cách chúng tôi chừng hai trăm mét về bên phải có một cao điểm của
bọn phát xít, lính bắn tỉa của chúng đã làm mấy người của chúng tôi bị thương.
Cách chúng tôi cũng chừng hai trăm mét về bên trái có một cái cầu, ở đây đã
diễn ra trận đấu súng giữa súng cối của bọn phát xít và toán chiến sỹ đang dùng
xi măng để xây chiến luỹ ngay trên cầu. Những viên đạn nhỏ rú rít trên không,
bùm! bùm! tiếng nổ trên đường nhựa nghe càng khủng khiếp gấp bội. Cách khoảng
một trăm mét, tức là trong vùng an toàn, có thể thấy khói và đất đá tung lên
như những chiếc nấm khổng lồ. Mấy anh chàng khốn khổ trên cầu gần như phải ngồi
cả ngày trong hầm trú ẩn đào vội cạnh bờ chiến hào. Nhưng số thương vong không
lớn như người ta có thể nghĩ, chiến luỹ vẫn được xây cao thêm từng ngày. Cuối
cùng, họ đã xây được một bức tường dày khoảng nửa mét, có lỗ châu mai cho hai
khẩu súng cối và một khẩu súng máy. Cốt thép là những thanh sắt lấy từ mấy
chiếc giường cũ.
7
Buổi
chiều Benjamin bảo anh ta cần mười lăm người tình nguyện. Cuộc tấn công vào vị
trí của bọn phát xít, đã bị huỷ bỏ lần trước, sẽ được khởi động lại vào đêm
nay. Tôi lau dầu lại mười viên đạn do Mexico sản xuất, bôi đen nòng súng đi
(khi có ánh sáng nó có thể phản quang làm lộ vị trí) rồi cho vào ba lô một cái
bánh mì, một khoanh xúc xích đỏ, một điếu xì gà, do bà xã gửi từ Bacelona tới
từ khá lâu rồi. Mỗi người được phát ba quả lựu đạn. Cuối cùng, chính phủ Tây
Ban Nha cũng tổ chức sản xuất được những quả lựu đạn tử tế. Vẫn hoạt động theo
nguyên tắc Mills, nhưng có hai chốt an toàn chứ không phải một như trước đây.
Lựu đạn sẽ nổ sau khi rút cả hai chốt an toàn được bảy giây. Khiếm khuyết lớn
nhất của nó là một chốt thì quá chặt, còn chốt kia lại quá lỏng. Nếu để nguyên
thì khi hữu sự có thể không rút kịp cái chốt quá chặt, còn rút một cái trước
thì lúc nào cũng lo nó sẽ nổ ngay trong túi. Nhưng dù sao đây cũng là loại lựu
đạn nhỏ, dễ ném.
Gần
nửa đêm, Benjamin dẫn mười lăm người chúng tôi đi xuống Torre Fabián. Mưa nặng
hạt ngay từ chiều. Nước tràn bờ mấy con kênh, trượt chân xuống kênh là ướt đến
ngang thắt lưng ngay. Mưa và tối như hũ nút, thế mà một đám đông vẫn đang ngồi
đợi ngay trong sân trang trại. Kopp đăng đàn, giải thích kế hoạch tấn công, lúc
đầu nói bằng tiếng Tây Ban Nha, sau đó bằng tiếng Anh. Chiến hào của bọn phát
xít ở khu vực này có hình chữ L, chúng tôi phải tấn công công sự nằm trên một
khu đất cao ngay góc chữ L. Khoảng ba mươi người, một nửa là người Tây Ban Nha,
một nửa là người Anh, do Jorge Roca, lữ đoàn trưởng của chúng tôi (lữ đoàn dân
quân có khoảng bốn trăm người) và Benjamin chì huy, có nhiệm vụ bò lên cắt hàng
rào kẽm gai. Sau đó Jorge sẽ ném quả lựu đạn đầu tiên làm hiệu lệnh, rồi tất cả
mọi người đồng loạt ném, đẩy bọn phát xít khỏi công sự và tiến lên trước khi
bọn chúng kịp trấn tĩnh lại. Đồng thời bảy mươi chiến sỹ thuộc lực lượng xung
kích sẽ tấn công “chốt” bên cạnh, cách chúng tôi chừng hai trăm mét về bên
phải. Hai “chốt” được nối với nhau bằng một giao thông hào. Để không bắn vào
nhau, mỗi người đều sẽ được phát một dải băng màu trắng để đeo vào cánh tay.
Nhưng đúng lúc đó thì liên lạc viên tới thông báo rằng không chuẩn bị được dải
băng. Trong bóng tối vang lên tiếng làu bàu của ai đó: “Bảo bọn phát xít đeo
băng trắng vào có được không?”
Phải
đợi thêm một đến hai tiếng nữa. Kho chứa cỏ đã bị pháo kích tan hoang đến nỗi
không thể đi được nếu không có đèn. Một nửa sàn tầng trên đã bị phá hỏng và rơi
từ trên cao khoảng sáu mét xuống nền đá bên dưới. Người ta tìm được một cái xà
beng và nậy ra mấy thanh gỗ, chỉ mấy phút sau chúng tôi đã mang quần áo ướt ra
hong trên ngọn lửa. Một người lấy ra bộ bài. Người ta bắt đầu kháo nhau – đây
là một trong những tin đồn bí hiểm đặc thù của cuộc chiến tranh này - rằng mỗi
người sẽ được phát một li cà phê có pha brandy ngay bây giờ. Mọi người cùng lao
theo cái cầu thang sắp sập và đi tìm xung quanh xem cà phê để ở đâu. Lạy chúa
tôi! Làm gì có cà phê. Người ta gọi chúng tôi lại, hạ lệnh cho chúng tôi xếp
hàng rồi tất cả vội vã theo Jorge và Benjamin bước vào màn đêm.
Vẫn
còn mưa và rất tối, nhưng gió đã lặng. Bẩn không thể tả xiết. Đường đi xuyên
qua những cánh đồng trồng củ cải đã biến thành đám bùn nhão nhoẹt, trơn như đổ
mỡ, thỉnh thoảng lại còn gặp những ổ gà, ổ voi đầy nước nữa. Trước khi đến xuất
phát điểm, ai cũng bị ngã vài lần, súng thì bẩn hết. Có mấy người trong đơn vị
dự bị và một bác sỹ với những cái cáng thương đợi sẵn ở đây. Từng người một
chui qua khoảng trống trên bờ công sự và lội ngang qua một kênh đào nữa. Nước
ngập đến thắt lưng, bùn chui vào trong ủng. Jorge ngồi đợi chúng tôi trên bãi
cỏ. Sau đó anh bắt đầu gập người xuống và rón rén bước. Công sự của bọn phát
xít còn cách khoảng một trăm năm mươi mét. Phải giữ thật yên lặng thì mới mong
bò được đến đó.
Tôi
đi bên cạnh Jorge và Benjamin. Người vẫn cúi gập như cũ, nhưng mặt phải ngẩng
lên, chúng tôi rón rén bước trong màn đêm, càng đến gần càng đi chậm hơn. Mưa
lả tả rơi vào mặt. Quay đầu nhìn lại, tôi chỉ thấy mấy người đi ngay đằng sau,
ai cũng cong cong như những chiếc nấm lớn màu đen đang di chuyển. Nhưng mỗi khi
tôi ngẩng đầu lên thì Benjamin, tức là người đi ngay bên cạnh, lại thì thầm sát
vào tai: “Cúi đầu xuống! Cúi đấu xuống!” Tôi có thể nói với anh ta rằng không
cần phải lo. Tôi biết là trong đêm tối thì cách hai chục bước là đã không trông
thấy nhau rồi. Quan trọng nhất là giữ yên lặng. Chỉ cần chúng nghe thấy là
xong. Chúng chỉ việc bấm cò súng máy là chúng tôi chỉ còn có nước tháo lui hay
là bị giết sạch.
Nhưng
đi trong bùn lầy thì thật khó mà giữ được yên lặng. Kiều gì thì chân cũng dính
đầy bùn và mỗi lần bước là một lần phát ra tiếng kêu ì oạp. Tai hại hơn nữa là
không có gió, tuy có mưa nhưng đêm xem ra có vẻ cực kì yên tĩnh. Tiếng động sẽ
truyền đi rất xa. Sợ nhất là lúc tôi chạm phải cái vỏ đồ hộp, tưởng như bọn
phát xít cách vài cây số cũng nghe thấy. Nhưng không, không có tiếng súng,
không thấy có động tĩnh nào bên phía phát xít. Chúng tôi tiếp tục trườn lên,
càng lúc càng chậm hơn. Ước muốn đến ngay được chỗ đó cứ cuồn cuộn dâng lên
trong lòng, không thể nào mô tả được. Ước gì có thể lao ngay đến gần để ném một
quả lựu đạn trước khi chúng nhận ra! Không còn sợ gì hết, trong đầu chỉ còn một
ước muốn tuyệt vọng, đấy là làm sao tiến ngay được đến chỗ quân thù. Tôi từng
có cảm giác như thế, đấy là lúc đi săn trong rừng. Cũng cái ước muốn tiến được
đến gần con mồi đến xé lòng như thế, cùng với niềm tin chắc chắn rằng đấy là
việc bất khả thi như thế nào. Mà khoảng cách thì như cứ dài thêm ra! Tôi biết
khu vực này, chỉ khoảng một trăm rưởi mét, thế mà tưởng như dài cả vài cây số.
Bò một cách chậm chạp như thế, có cảm tưởng như mình là một con kiến trước
phong cảnh đổi thay của vùng đất: chỗ này có một đám cỏ mượt, chỗ này là đám
bùn lầy chó chết, chỗ này là đám sậy cao phải vượt qua càng nhanh càng tốt, chỗ
này là một đống đá, tưởng như không thể nào bò qua mà không gây ra tiếng động.
Chúng
tôi bò lâu đến nỗi tôi bắt đầu nghĩ rằng chúng tôi đã lạc đường. Thế rồi trong
màn đêm bỗng hiện lên mờ mờ những vệt đen. Đấy là hàng rào dây thép gai bên
ngoài (bọn phát xít thường rào hai hàng). Jorge quì lên đầu gối, rồi cho tay vào
túi. Chiếc kéo cắt dây thép gai duy nhất được giao cho anh ta giữ. Tách, tách.
Những đoạn dây đứt được kéo sang bên cạnh. Phải đợi những người đi đằng sau đến
cho đủ. Họ bò ồn ào phát sợ lên được. Còn cách công sự của bọn phát xít chừng
năm mươi mét nữa thôi. Cúi xuống, bước tiếp. Nhấc chân thật rón rén, rồi hạ
xuống thật nhẹ nhàng, y như mèo đến gần hang chuột vậy, dừng lại nghe ngóng rồi
sau mới bước tiếp. Tôi vừa ngẩng đầu lên thì bị Benjamin nắm cổ ấn thật mạnh
xuống đất. Tôi biết là hàng rào bên trong chỉ cách công sự có hai mươi mét. Tôi
có cảm tưởng là ba mươi con người này không thể nào đi được đến đó mà không bị
phát hiện. Ngay tiếng thở cũng đủ làm lộ rồi. Thế mà chúng tôi vẫn tới được.
Công sự của bọn phát xít đã hiện rõ, đấy là một ụ đất đen, nhô cao phía trên
chúng tôi. Jorge lại quì xuống đầu gối
và ra tay. Tách, tách. Không thể nào cắt khẽ hơn được.
Thế
là xong hàng rào kẽm gai bên trong. Chúng tôi bò qua bằng cả bốn vó, còn nhanh
hơn trước. Nếu có thì giờ triển khai thì mọi sự đã hoàn toàn tốt đẹp rồi. Jorge
và Benjamin bò sang bên phải. Những người khác sẽ phải lần lượt bò qua cửa mở
trên hàng rào. Đúng lúc đó thì có một tia chớp và tiếng nổ vang lên trong công
sự của bọn phát xít. Lính gác đã phát hiện được chúng tôi. Jorge quì một gối xuống
và vung tay ném một quả lựu đạn. Đoàng! Lựu đạn nổ bên trên công sự. Ngay lập
tức, nhanh hơn người ta tưởng rất nhiều, phải đến mười hay hai mươi khẩu súng
cùng nổ một lúc. Như vậy là bọn chúng đã chờ sẵn rồi. Trong khoảng sáng nhợt
nhạt có thể nhìn rõ từng bao cát. Những người ở xa phía sau vội vã ném ngay lựu
đạn, nhiều quả không bay tới công sự. Có vẻ như lỗ châu mai nào cũng có tia lửa
phun ra vậy. Nằm dưới làn đạn trong bóng đêm là việc cực kì khó chịu. Cứ thấy
tia lửa loé lên là lại tưởng như nó đang nhắm thẳng vào mình. Nhưng lựu đạn mới
thật đáng sợ. Phải chứng kiến một quả lựa đạn nổ ngay bên cạnh, mà phải vào ban
đêm thì mới thấy hết được sự khủng khiếp của nó. Ban ngày, đấy chỉ là một tiếng
nổ; ban đêm, ngoài tiếng nổ còn có một quầng lửa chói loà màu đỏ nữa. Tôi bổ
nhào xuống đất ngay sau loạt đạn đầu tiên. Tôi nằm nghiêng trên đám bùn nhão
nhoẹt và tìm mọi cách để tháo ngồi nổ quả lựu đạn. Cái que chết tiệt này mãi
không chịu ra. Cuối cùng tôi phát hiện ra là mình quay ngược. Tôi rút chốt an
toàn, rồi quì trên hai đầu gối và vung tay ném. Quả lựa đạn không bay tới đích,
mà lại rơi về phía bên phải, sợ quá cho nên tôi đã ném trệch mục tiêu. Đúng lúc
đó có một quả nổ ngay trước mặt tôi, gần đến nỗi tôi cảm thấy cả hơi nóng của
nó. Tôi vội nằm sấp xuống đất, mặt đập xuống bùn mạnh đến nỗi cổ bị đau, tôi cứ
tưởng là đã bị thương. Dù rất ồn ào, nhưng tôi vẫn nghe thấy tiếng một người
Anh thì thầm ngay phía sau: “Tôi bị thương rồi”. Quả lựu đạn này đã làm mấy
người xung quanh tôi bị thương, may mà tôi không việc gì. Tôi ngồi dậy và vung
tay ném quả thứ hai, không nhớ quả này rơi vào đâu.
Phát
xít bắn từ đằng trước, quân ta bắn từ đằng sau, rõ ràng là tôi đang nằm giữa
hai làn đạn. Tiếng súng nổ sát bên tai, tôi biết rằng người bắn đang nằm ngay
đằng sau mình. Tôi đứng dậy và hét lớn: “Đừng bắn vào tôi, đồ ngu!”. Đúng lúc
đó tôi nhìn thấy Benjamin, anh ta nằm cách tôi chừng mười đến mười lăm mét và
đang giơ tay vẫy. Tôi chạy lại phía anh. Nghĩa là phải chạy qua một loạt lỗ
châu mai đang bắn như vãi đạn, thế mà tôi vẫn chạy, tay trái đưa lên che mặt;
thật là một hành động ngu xuẩn, tay thì làm sao che được đạn, nhưng tôi rất sợ
bị thương vào mặt. Benjamin quì, khuôn mặt anh trông mãn nguyện một cách đầy ác
ý, và đang nhắm khẩu súng lục vào những chỗ vừa phát ánh chớp để bắn. Jorge đã
bị thương ngay từ loạt đạn đầu và đang nằm ở đâu đó, tôi không trông thấy. Tôi
quì xuống bên cạnh Benjamin, rồi rút chốt quả lựu đạn thứ ba và ném. Tuyệt vời!
Lần này thì trúng là cái chắc. Quả lựa đạn nổ bên trong công sự, ngay bên cạnh
chỗ chúng đặt khẩu súng máy.
Tiếng
súng của bọn phát xít bất ngờ yếu hẳn đi. Benjamin đứng thẳng dậy và hô lớn:
“Xông lên! Tấn công!”. Chúng tôi lao lên theo bờ dốc đứng, công sự của bọn phát
xít nắm trên đỉnh đồi. Tôi nói “lao lên”, nhưng “bò lên” mới đúng. Người ướt
như chuột lột, bùn lấm từ chân lên đầu, lại mang cả súng lẫn lưỡi lê và một
trăm năm mươi viên đạn thì chẳng thể nào đi nhanh được. Tôi tin là có một tên
phát xít đang đợi mình trên đỉnh dốc. Với khoảng cách như thế này, hắn mà bắn
thì chắc chắn phải trúng, nhưng không hiểu sao tôi lại nghĩ là hắn sẽ không bắn
mà sẽ đâm bằng lưỡi lê. Tôi tưởng tượng ra cảnh chúng tôi đang đấu với nhau và
tự hỏi không biết tay ai khoẻ hơn. Nhưng hoá ra chẳng có tên phát xít nào ở đây
cả. Cảm giác có phần nhẹ nhõm khi tôi phát hiện ra rằng bờ công sự không cao,
mấy bao cát còn giúp cho người ta trèo lên nhanh hơn. Thường thì đấy phải là
những chỗ khó trèo. Mọi thứ bên trong đều tan nát hết, xà gồ, mái che vung vãi
khắp nơi. Lựu đạn của chúng tôi đã phá sập hết mái che và công sự. Nhưng xung
quanh không một bóng người. Tôi nghĩ chắc chúng nấp ở đâu đó, nên hô lớn bằng
tiếng Anh (lúc đó tôi chẳng nghĩ ra một từ Tây Ban Nha nào): “Ra đi! Đầu hàng
đi!” Không ai trả lời. Rồi có một người, trong ánh sáng lờ mờ trông chỉ như một
cái bóng, nhảy qua mái mấy túp lều đã sập và phóng về phía bên trái. Tôi lao
ra, vừa chạy vừa đâm lưỡi lê theo nhưng không trúng. Khi vượt qua góc một cái
lều tôi lại thấy một người - không biết có phải là người tôi đã nhìn thấy không
– đang chạy trong giao thông hào dẫn sang cái chốt khác của bọn phát xít. Tôi
nhìn rõ anh ta, chắc chắn là tôi đuổi gần kịp rồi. Anh ta không đội mũ, mà có
vẻ như cũng chẳng có quần áo gì hết, chỉ thấy khoác một cái chăn. Nếu tôi bắn
thì chắc chắn anh ta sẽ tan ra từng mảnh. Để không bắn phải nhau chúng tôi được
lệnh là khi đã vào được công sự rồi thì chỉ dùng lưỡi lê thôi. Nhưng quả thật
lúc đó tôi cũng không hề nghĩ đến bắn. Trong đầu tôi lúc đó bỗng hiện lên câu
chuyện của hai mươi năm về trước: đấy là ông thày dạy đấm bốc diễn lại cảnh ông
đã dùng lưỡi lê đâm chết môt anh lính người Thổ ở Dardanelles. Tôi nắm chặt
báng súng và đâm mạnh vào lưng người kia. Không tới. Một cú nữa, cũng không
tới. Chúng tôi tiếp tục như thế, anh ta chạy dưới giao thông hào, còn tôi thì ở
trên, thỉnh thoảng lại đâm vào bả vai anh ta, nhưng không tới. Nghĩ lại thật là
tức cười, nhưng lúc đó anh ta chẳng thể buồn cười được đâu.
Chắc
chắn là anh ta nắm vững địa hình hơn tôi và chẳng mấy chốc đã chạy thoát. Khi
tôi quay lại thì vị trí đã đầy người đang hò hét rồi. Bọn phát xít bắn như vãi
đạn từ cả ba hướng, nhưng hai bên cách nhau rất xa.
Hiện
chúng tôi đã đẩy lui được chúng. Tôi nhớ đã nói một cách đầy bí hiểm: “Chúng ta
chỉ giữ được vị trí này nửa tiếng là cùng”. Tôi cũng không hiểu vì sao mình lại
nói nửa tiếng. Chỉ cần nhìn sang bên phải là có thể sẽ thấy hàng loạt chớp đạn
súng trường màu xanh xuyên qua màn đêm. Nhưng vẫn còn xa, khoảng từ một trăm
đến hai trăm mét. Công việc của chúng tôi bây giờ là lục lọi thật kĩ vị trí và lấy
đi tất cả những gì đáng giá. Benjamin và một vài người nữa đang cào bới đống xà
bần của một cái chòi hay tăng sê ở giữa vị trí. Benjamin chui ra khỏi cái mái
sập, mặt mũi vô cùng hớn hở, vừa đi vừa kéo theo hòm đạn buộc trên một sợi dây
thừng.
“Không
cần đạn!”, có người trả lời, “Cần súng cơ!”
Đúng
như thế. Một nửa súng của chúng tôi đã bị kẹt vì bùn, không dùng được nữa. Có
thể chữa, nhưng tháo ra trong lúc tối thế này thì thật nguy hiểm, chẳng thể nào
nhớ được là đã đặt ở đâu. Tôi có một chiếc đèn pin nhỏ, bà xã nhà tôi đã tìm
cách mua được ở Barcelona, nếu không chúng tôi sẽ chẳng có một ngọn đèn nào.
Mấy người có súng còn tốt bắt đầu đáp trả một cách rời rạc. Nhưng không ai dám
bắn liên tục vì ngay cả những khẩu súng tốt nhất cũng có thể hóc, nếu nóng quá.
Có khoảng mười sáu người trong công sự, kể cả một hay hai người bị thương. Còn
mấy người bị thương nữa, cả người Tây Ban Nha lẫn người Anh, nằm bên ngoài công
sự. Patrick O'Hara, một người Ái-Nhĩ-Lan xuất thân từ Belfast đã học qua lớp sơ
cứu, tay cầm mấy cuộn băng chạy qua chạy lại để băng bó cho những người bị
thương và lần nào quay về công sự cũng bị quân ta nhắm bắn mặc dù anh ta đã hét
thật to: “P.O.U.M!”
Chúng
tôi bắt đầu xem xét vị trí. Có mấy người chết nằm rải rác, nhưng tôi không dừng
lại để xem. Cái tôi tìm là súng máy cơ. Khi còn nằm bên ngoài, lúc nào tôi cũng
tự hỏi tại sao súng máy lại không bắn. Tôi lấy đèn pin soi ụ súng máy. Thật là
chán! Không có súng. Có giá súng, có cả vài hộp đạn nữa và phụ thùng thay thế,
nhưng súng thì không. Chắc là chúng đã tháo và mang đi ngay khi có báo động.
Chắc chắn là chúng làm theo lệnh, nhưng đây là hành động vừa ngu vừa hèn. Nếu
có súng thì chúng đã thịt hết chúng tôi rồi. Chúng tôi phát điên lên. Chúng tôi
đã hạ quyết tâm bắt cho bằng được khẩu súng máy.
Chúng
tôi lục khắp nhưng chẳng tìm được cái gì có giá trị cả. Lựu đạn nằm rải rác
khắp nơi, cơ chế hoạt động khá đơn giản, chỉ cần rút sợi dây là phải ném liền.
Tôi đút vào túi vài quả làm kỉ niệm. Không thể không phát hoảng trước cảnh
nghèo nàn của hầm trú ẩn của quân phát xít. Không có những đống quần áo, sách
vở, thức ăn và các vật dụng cá nhân như trong hầm của chúng tôi, có vẻ như
những tên lính khốn khổ này chẳng có gì ngoài chăn và vài mẩu bánh mì sũng
nước. Cuối giao thông hào có một cái hầm nhô cao khỏi mắt đất và có cả cửa sổ
nữa. Chúng tôi rọi đèn pin qua cửa sổ, mọi người cùng kinh ngạc reo lên. Đấy là
một vật hình trụ, trong bao da, cao khoảng mét hai, đường kính chừng mười lăm
phân nằm dựa vào tường. Chắc chắn là nòng súng máy rồi. Chúng tôi chui qua cửa
và lôi nó ra khỏi vỏ, hoá ra không phải nòng súng máy, nhưng trong hoàn cảnh
được trang bị nghèo nàn như chúng tôi, nó còn giá trị hơn nhiều. Đấy là một cái
kính viễn vọng, độ khuyếch đại ít nhất cũng phải sáu bảy mươi lần, lại có cả
chân gấp nữa. Phía mặt trận chúng tôi không có loại kính viễn vọng như thế này,
mà nhu cầu thì khỏi phải nói. Chúng tôi vui mừng kéo nó ra và dựa nó vào bờ
hào, đợi khi rút sẽ mang theo.
Đúng
lúc đó thì có người hét lên là bọn phát xít đang đến gần. Qủa thật là tiếng
súng đã nghe to hơn rất nhiều. Nhưng rõ ràng là bọn phát xít sẽ không phản công
từ bên phải vì chúng sẽ phải đi qua vùng đất tranh chấp và tấn công ngay vào bờ
công sự của chính mình. Chỉ cần có một chút suy nghĩ thì chúng sẽ tấn công từ
phía sau. Tôi đi vòng ra phía sau công sự. Vị trí này giống như một cái móng
ngựa, công sự nằm ở giữa, thành ra chúng tôi còn có một bức tường che cả phía
bên trái nữa. Súng bắn mạnh từ phía đó, nhưng không gây ra thiệt hại nào. Mối
nguy nằm ngay phía trước, ở đây hoàn toàn không có gì bảo vệ cả. Đạn bắn như
vãi trấu ngay trên đầu. Chắc chắn là chúng được bắn từ vị trí bên cạnh, rõ ràng
là lực lượng xung kích đã không chiếm được vị trí này. Tiếng nổ đinh tai nhức
óc. Tiếng súng trường bắn cấp tập, như tiếng trống đập liên hồi kì trận, tôi
vẫn thường nghe thấy như thế ở khoảng cách gần, nhưng đây là lần đầu tiên tôi
lọt vào giữa trận địa. Bây giờ thì tiếng súng đã vang lên trên khắp các hướng.
Douglas Thompson, với một cánh tay bị thương treo lủng lẳng bên sườn, đứng tựa
lưng vào thành công sự và tiếp tục bắn bằng một tay vào những khu vực vừa loé
sáng. Một người, súng của tay này bị hóc, nạp đạn cho anh ta.
Ở
đây chúng tôi chỉ có bốn hay năm người. Chúng tôi biết phải làm gì: kéo những
bao cát từ bức tường phía trước để tạo ra chướng ngại vật trên đoạn không có gì
che chắn. Và phải làm thật nhanh. Đạn vẫn bắn xối xả, nhưng có thể giảm bất cứ
lúc nào. Chỉ nhìn vào những điểm loé sáng xung quanh cũng có thể thấy là chúng
tôi đang phải chống chọi với khoảng từ một trăm đến hai trăm tên phát xít.
Chúng tôi bắt đầu lôi các bao cát ra rồi kéo chúng đi khoảng hai mươi mét và
xếp thành một đống. Vất vả lắm. Đấy là những bao cát lớn, nặng khoảng một tạ,
phải lấy hết sức mới lôi được chúng ra; bao đã cũ nát, rách tứ tung, đất ướt
trút thẳng lên đầu, chui cả vào cổ và ống tay áo. Tôi vẫn nhớ cảm giác hoảng
hốt lúc đó, cái gì cũng đáng sợ cả: cảnh hỗn loạn, bóng đêm, tiếng nổ, bùn lầy
rồi còn phải chiến đấu với những bao cát rách nữa. Mà lúc nào cũng đeo khẩu
súng kè kè bên hông, tôi không dám đặt xuống vì sợ mất. Tôi thậm chí còn hét
lên với người cùng kéo bao cát: “Chiến tranh đấy! Khốn nạn quá!” Bất thình lình
có bóng người cao lớn hiện lên bên trên bờ công sự trước mặt. Chúng tôi nhận ra
những bộ quân phục của lính xung kích khi họ tới gần hơn, mọi người reo lên vì
cho rằng lực lượng tăng viện đã tới. Nhưng hoá ra chỉ có năm người, bốn Đức và
một Tây Ban Nha.
Mãi
sau này chúng tôi mới biết tình hình của đơn vị xung kích. Họ không nắm được
địa hình và đã đi lạc. Quân xung kích vướng vào hàng rào kẽm gai của bọn phát
xít, nhiều người hi sinh ngay tại trận. Bốn người này bị lạc đường, thật là may
cho họ. Mấy người Đức không biết tiếng Anh, cũng chẳng biết tiếng Pháp hay
tiếng Tây Ban Nha gì cả. Phải “nói” mỏi tay chúng tôi mới giải thích được cho
họ hiểu việc mình đang làm và nhờ họ giúp xây chiến luỹ.
Bọn
phát xít đã kéo súng máy tới. Có thể nhìn thấy nó đang khạc lửa từ khoảng cách
một trăm đến hai trăm mét; tiếng đạn réo sắc lạnh ở ngay trên đầu. Chẳng bao
lâu sau chúng tôi đã kéo được số cát đủ để làm một công sự nổi, mấy người chúng
tôi có thể vừa nằm vừa bắn được rồi. Tôi quì xuống. Quả đạn cối vừa bay qua và
nổ trên vùng đất tranh chấp. Thêm một mối nguy nữa, nhưng chỉnh được cự li cũng
phải mất mấy phút. Bây giờ, khi chúng tôi đã đánh vật xong với mấy bao tải cát
khốn kiếp, mọi thứ dường như đều là trò đùa, cả tiếng nổ, cả bóng đêm, cả những
tia chớp đang tiến lại gần và mấy chiến sĩ của chúng tôi đang bắn trả nữa. Còn
có cả thì giờ để suy nghĩ. Tôi nhớ đã tự hỏi có sợ không và quyết định là
không. Ngoài kia, nơi có thể không nguy hiểm như ở đây, tôi đã từng run lên vì
sợ. Đột nhiên lại có tiếng người kêu lên rằng bọn phát xít đang đến gần. Lần
này thì không còn ngờ vực gì nữa, đạn đã loé lên ở khoảng cách rất gần rồi. Tôi
nhìn thấy có những ánh chớp chỉ cách chừng hai mươi mét. Chắc chắn là chúng
đang đi theo giao thông hào. Hai mươi mét là khoảng cách ném lựu đạn, dễ trúng
lắm; tám chín người chúng tôi tụ tập vào một chỗ thế này thì chỉ cần một quả là
tan xác hết. Bob Smillie, máu từ vết thương chảy đầy mặt anh, quì xuống và ném
một quả lựu đạn. Tất cả chúng tôi đều thu mình lại để đợi tiếng nổ. Quả lựu đạn
vẽ thành một đường màu đỏ, nhưng không nổ (Ít nhất một phần tư lựu đạn bị
thối). Tôi không còn quả nào, ngoài vài quả chiến lợi phẩm của bọn phát xít,
nhưng tôi không tin tưởng lắm. Tôi hét lên để hỏi xem có ai còn quả nào không.
Douglas Moyle lục túi và đưa cho tôi một quả. Tôi ném rồi nằm úp mặt xuống đất.
Thật may, chuyện này chỉ xảy ra một lần trong năm, tôi đã ném trúng vào chỗ
khẩu súng trường vừa bắn ra. Một tiếng nổ lớn và ngay lập tức là tiếng rên la.
Dù thế nào thì cũng có một tên bị thương vong rồi; không biết là hắn đã chết
chưa, nhưng chắc chắn là bị thương nặng. Tội nghiệp quá! Tôi bỗng cảm thấy
thương hại khi nghe thấy hắn rên la. Nhưng ngay lúc đó tôi lại nhìn thấy, hay
tưởng là nhìn thấy trong ánh sáng lờ mờ từ những tia chớp đạn súng trường một
người đứng gần chỗ khẩu súng trường vừa nhả đạn. Tôi nâng nòng súng lên và bóp
cò. Một tiếng thét nữa, nhưng tôi nghĩ đấy vẫn là do quả lựu đạn mà ra. Chúng
tôi còn ném thêm mấy quả lựu đạn nữa. Ánh chớp của đạn súng trường đã ở xa,
phải từ một trăm mét trở lên. Chúng tôi đã đẩy được chúng đi rồi, tạm thời là
như thế.
Mọi
người bắt đầu chửi và nói tại sao bọn khốn kiếp không gửi tiếp viện tới. Chỉ
cần một khẩu tiểu liên hay hai mươi người với những khẩu súng trường tử tế là
chúng tôi có thể chống cự được cả tiểu đoàn. Đúng lúc đó thì Paddy Donovan, phó
của Benjamin, người được cử về tuyến sau để xin mệnh lệnh, trèo qua bờ hào.
“Cái gì?”
“Rút! Ra mau!”
“Tại sao?”
“Lệnh
như thế. Trở lại vị trí cũ, nhanh lên.”
Tất
cả đã trèo qua bờ hào phía trước. Có mấy người đang kéo một thùng đạn khá nặng.
Tôi sực nhớ đến cái kính viễn vọng nằm dựa trên bờ hào ở phía bên kia vị trí.
Nhưng đúng lúc đó tôi lại nhìn thấy bốn chiến sĩ thuộc lực lượng xung kích đang
thực hiện một nhiệm vụ bí mật mà chỉ mình họ biết, tức là họ đang cắm đầu chạy
xuống giao thông hào dẫn về phía quân phát xít. Bóng họ tan nhanh vào màn đêm.
Họ đang đi đến chỗ chết. Tôi chạy theo, vừa chạy vừa cố vắt óc tìm từ “rút lui”
bằng tiếng Tây Ban Nha; cuối cùng tôi kêu lên:
“Atrás! Atrás!”, chắc là đúng. Tay người Tây Ban Nha hiểu và
kéo mấy người kia quay lại. Paddy đợi bên bờ công sự.
“Mau lên,
mau lên”“Thế còn kính viễn vọng”
“Kính
cái con c.! Benjamin đang đợi bên ngoài kia kìa.”
Chúng
tôi trèo lên. Paddy giữ dây thép gai cho tôi trèo ra. Vừa ra khỏi bức tường
chắn là chúng tôi đã bước vào vùng lửa đạn rồi; đạn bắn xối xả, từ tất cả các
hướng. Chắc chắn là có cả đạn của quân ta nữa vì lúc đó toàn mặt trận đều bắn
như thế cả. Chúng tôi lần mò trong đêm tối chẳng khác gì một bầy cừu. Thế mà
chúng tôi còn kéo theo một thùng đạn chiến lợi phẩm gồm 1750 viên, nặng khoảng
năm mươi cân, một hòm lựu đạn và mấy khẩu súng nữa. Mặc dù chiến hào hai bên
chỉ cách nhau chừng hai trăm mét, đa số chúng tôi đều biết rõ địa hình, thế mà
chỉ mấy phút sau chúng tôi đã mất phương hướng. Chúng tôi trườn trên đồng lầy,
điều duy nhất chúng tôi biết là mình bị bắn từ cả hai phía. Không có trăng,
nhưng trời bắt đầu sáng hơn một chút. Vị trí của quân ta nằm ở phía đông
Huesca; tôi bảo nằm đợi trời hừng sáng để xem đông tây là hướng nào, nhưng đa
số không chịu nghe. Chúng tôi thay nhau kéo hòm chiến lợi phẩm và tiếp tục
trườn lên phía trước, nhưng vì không xác định được phương hướng nên phải quay
đi rồi lộn lại đến mấy lần. Cuối cùng chúng tôi cũng nhìn thấy một bờ đất lờ mờ
trước mặt. Không biết là công sự của ta hay của địch. Chẳng ai biết là hiện
mình đang ở đâu. Benjamin nằm sát xuống đất và bò vào giữa đám lau lách. Cách
công sự chừng hai mươi mét thì anh cất tiếng gọi. “P.O.U.M”, chúng tôi thấy họ
hô lên như thế. Tất cả cùng nhảy dựng lên và cùng tìm đường leo qua hàng rào,
nhưng lại rơi vào một kênh dẫn nước nữa; nhưng không sao, bì bõm một lúc là
chúng tôi đã vào được vị trí an toàn rồi.
Kopp
và mấy người Tây Ban Nha nữa đang đợi chúng tôi bên trong công sự. Tay bác sĩ
và mấy y tá đã rút về tuyến sau. Hoá ra tất cả thương binh đều được mang đi
rồi, chỉ có hai người là Jorge và Hiddlestone là bị mất tích thôi. Kopp, mặt
tái mét, ngay lớp da ở đằng sau gáy ông cũng tái mét, cứ đi đi lại suốt, ông
không thèm để ý ngay cả khi có những viên đạn bay sát sạt trên đầu. Chúng tôi
ngồi xổm trong chiến hào để tránh đạn. Kopp vừa đi vừa lẩm bẩm: “Jorge! Cogño!
Jorge!” và sau đó nói bằng tiếng Anh: “Jorge mà bị chết thì kinh khủng quá,
kinh khủng quá!” Jorge vừa là bạn thân vừa là sĩ quan đắc lực nhất của ông. Bất
ngờ ông quay lại và gọi năm người tình nguyện, hai người Anh và ba người Tây
Ban Nha, đi tìm các chiến sĩ mất tích. Tôi, Moyle và ba người Tây Ban Nha nữa
đứng lên.
Vừa
ra đến bên ngoài, mấy người Tây Ban Nha đã bảo rằng sáng quá, nguy hiểm lắm.
Đúng thế, trời đã lờ mờ xanh rồi. Có tiếng ồn ào dữ dội vọng lại từ vị trí quân
phát xít. Có lẽ quân số của chúng đã đông hơn rất nhiều. Chúng đã nhìn thấy hay
nghe thấy khi chúng tôi còn cách chiến hào chừng sáu bảy chục mét, một loạt đạn
nổ vang làm tất cả chúng tôi cùng phải nằm úp mặt xuống đất. Một quả lựu đạn
được quăng ra, rõ ràng là có dấu hiệu hoảng loạn rồi. Chúng tôi nằm trên cỏ,
chờ cơ hội để tiến lên. Thế rồi chúng tôi nghe thấy, hay nghĩ là nghe thấy –
tôi nghĩ rằng đấy là sản phẩm của trí tưởng tượng, nhưng lúc đó có vẻ rất thật
– là giọng nói của bọn phát xít đã ở rất gần. Chúng đã ra khỏi chiến hào và
đang tiến về phía chúng tôi. “Chạy”, tôi hét lên với Moyle rồi vùng ngay dậy.
Trời đất, tôi vắt chân lên cổ mà chạy! Trước đó tôi đã nghĩ rằng khi người bị
lấm từ đầu đến chân lại thêm súng đạn nặng thế này thì không thể nào chạy được.
Bây giờ thì tôi biết rằng nếu bị năm mươi hay một trăm người cầm súng săn đuổi
thì bao giờ người ta cũng chạy được cả. Nhưng nếu tôi đã chạy nhanh thì mấy
người kia còn chạy nhanh hơn. Có cảm giác như mấy ngôi sao băng vừa lướt qua
vậy. Đấy là ba người Tây Ban Nha vừa lao lên. Tôi chỉ đuổi kịp họ khi tất cả đã
dừng lại ngay sát bờ công sự. Chúng tôi đã mất tinh thần, có vậy thôi. Nhưng
tôi biết rằng khi trời lờ mờ thế này, có thể nhìn thấy năm người chứ một người
thì khó cho nên tôi quay lại một mình. Tôi đã tìm cách quay lại đến hàng rào
kẽm gai bên ngoài và hết sức tìm kiềm, tuy không thể hoàn toàn như ý vì tôi
phải nằm sát bụng xuống đất. Không thấy Jorge hay Hiddlestone đâu, tôi đành bò
quay lại. Sau này chúng tôi mới biết rằng cả Jorge lẫn Hiddlestone đều được đưa
đến trạm quân y từ trước rồi. Jorge chỉ bị thương nhẹ vào bả vai. Còn
Hiddlestone thì bị thương rất nặng, một viên đạn đi xuyên theo cánh tay trái,
xương cánh tay gãy làm mấy đoạn; thế rồi lúc anh đang còn nằm bất tỉnh nhân sự
thì lại có một quả lựu đạn nổ ngay bên cạnh làm bị thương mấy chỗ trên người
nữa. May là anh đã thoát chết. Sau này anh nói với tôi rằng đã bò bằng lưng
được một đoạn, sau đó thì bám được vào một chiến sĩ Tây Ban Nha, cũng bị thương
và hai người dìu nhau đi cho đến lúc gặp được quân ta.
Trời
sáng hẳn. Suốt mấy cây số dọc chiến tuyến tiếng súng vẫn nổ loạn xạ, giống như
những giọt mưa sau cơn bão vậy. Tôi vẫn nhớ cảnh tượng tiêu điều lúc đó: bùn
đọng thành từng đống, hàng thuỳ dương rên rỉ, nước trong giao thông hào có màu
vàng xỉn; và những khuôn mặt nhếch nhác, mệt mỏi, râu ria xồm xoàm, bùn lấm từ
đầu đến chân, xạm đen vì khói súng. Khi tôi về đến hầm trú ẩn thì ba người kia
đã ngủ say. Họ nằm vật ra đất với đầy đủ lệ bộ, khẩu súng trường đầy bùn còn
đeo trước ngực. Tất cả đều sũng nước. Mọi vật đều sũng nước. Sau một thời gian
tìm kiếm tôi đã thu thập được đủ mảnh dăm và bắt đầu nhóm lửa. Sau đó châm một
điếu thuốc vẫn mang theo bên mình, thật lạ lùng là sau một đêm như thế mà nó
vẫn chưa bị gãy.
Sau
này chúng tôi mới biết rằng trận đánh đã thành công. Đây chỉ là một cuộc đột
kích nhằm kéo quân phát xít khỏi khu vực Huesca, nơi quân vô chính phủ bắt đầu
tấn công. Tôi nghĩ rằng bọn phát xít đã tung từ một trăm đến hai trăm tên vào
trận phản công, nhưng có một tên đào ngũ nói rằng chúng đã tung ra đến sáu trăm
tên. Tôi cho là hắn nói dối. Bọn đào ngũ thường hay tìm cách lấy lòng lắm. Đáng
tiếc là phải bỏ lại cái kính viễn vọng. Cho đến tận hôm nay, cứ nghĩ đến việc
để mất một thứ chiến lợi phẩm tuyệt vời như thế là tôi vẫn áy náy không yên.
8
Trời trở nóng, ngay cả ban đêm cũng tương đối
ấm. Trên cái cây anh đào bị đạn bắn tơi tả trước bờ công sự của chúng tôi cũng
đã xuất hiện những chùm quả nhỏ. Tắm sông không còn là tra tấn mà đã trở thành
niềm vui. Những cây hồng dại, với những chùm hoa to bằng cái đĩa con mọc rải
rác trên cánh đồng bị đạn cày xới xung quanh Torre Fabian. Phía sau mặt trận
thỉnh thoảng lại thấy một người nông dân cài trên kẽ tai một bông hồng như thế.
Buổi tối họ thường mang những chiếc lưới màu xanh đi săn chim cút. Người ta
chăng lưới trên ngọn cỏ rồi nằm xuống và giả làm tiếng cút mái. Chim đực nghe
thấy là bay lại ngay. Khi chim đã chui vào lưới thì chỉ ném một hòn là nó sẽ
sợ, bay lên và mắc lưới liền. Chắc là người ta chỉ bẫy được chim đực, tôi nghĩ
thế là không công bằng.
Bên cạnh chúng tôi là đơn vị người vùng
Andaluse. Tôi không biết họ đến đây bằng cách nào. Người ta nói rằng họ chạy từ
Malaga tới, nhưng chạy nhanh quá đến nỗi vượt qua cả Valencia mà không biết.
Nhưng đây dĩ nhiên là do những người vùng Catalonia nói, họ vốn coi dân
Andaluse là những người bán khai. Mà quả thật, dân Andaluse dốt nát lắm. Rất ít
người biết đọc biết viết, có vẻ như họ không biết mình thuộc đảng phái nào, một
điều mà người Tây Ban Nha nào cũng biết. Lúc thì họ nghĩ thuộc phái vô chính
phủ, khi thì lại cho rằng thuộc phái cộng sản. Đấy là những người nông dân chất
phác, quê mùa, vốn là thợ chăn cừu hay nông dân làm thuê trên những cánh đồng
trồng ôliu, mặt đen sạm vì ánh nắng gay gắt của miền Nam. Họ quấn thuốc lá rất
khéo và thường giúp chúng tôi làm việc này. Thuốc điếu không còn được phát nữa,
nhưng ở Monflorite đôi khi vẫn có thể mua được những bịch thuốc rất rẻ, trông
chẳng khác gì rơm vụn. Mùi vị không đến nỗi nào, nhưng thuốc khô đến nỗi ngay
cả khi đã vấn xong nó vẫn có thể rơi hết ra ngoài, chỉ còn lại một cái ống
rỗng. Thế mà mấy người Andaluse vẫn có thể quấn thành những điếu thuốc rất đẹp
mắt, đầu điếu thuốc còn xoắn chặt lại nữa.
Hai chiến sĩ người Anh bị ốm vì say nắng. Tôi
nhớ nhất là cái nóng ban trưa, lưng trần với những bao cát nặng đè trên đôi vai
rám nắng; quần áo, giầy dép đều rách như xơ mướp cả. Chúng tôi còn phải đánh
vật với con la chuyển đồ ăn tới, nó không sợ tiếng súng trường nhưng lại bỏ
chạy ngay khi nghe thấy tiếng trái phá nổ trên không trung. Rồi muỗi (chúng bắt
đầu hoạt động mạnh) và chuột, chuột dạn đến nỗi chén cả thắt lưng lẫn bao đạn
bằng da. Không có gì xảy ra cả, nếu không tính những vụ thương vong do bọn bắn
tỉa hay những quả đạn pháo hoặc những vụ bỏ bom mà thỉnh thoảng mới xảy ra ở
Huesca. Cây đã mọc đầy lá, chúng tôi làm những cái sàn bắn tỉa, giống như những
cái chòi của thợ săn, ngay trên những cây dương mọc dọc chiến hào. Ở phía bên
kia của Huesca, sức tấn công của quân ta đang yếu dần. Quân vô chính phủ bị
thiệt hại rất nặng nề và không còn đủ sức phong toả con đường đi Jaca nữa. Họ
đã tiến đến gần con đường để giữ nó trong tầm ngắm của súng máy và khống chế,
không để cho xe chạy qua, nhưng hai bên vẫn còn đóng cách cách nhau cả cây số,
nhờ thế mà bọn phát xít có thể đào được cả một giao thông hào lớn cho xe tải
đi. Bọn đào ngũ nói rằng ở Huesca còn nhiều vũ khí, nhưng lương thực thực phẩm
thì đã sắp cạn. Nhưng rõ ràng là thành phố sẽ không đầu hàng. Với mười lăm ngàn
người được trang bị kém như thế này thì tấn công là việc bất khả thi. Sau này,
trong tháng sáu, chính phủ đã rút các đơn vị khỏi Madrid và tập trung ở Huesca
đến ba mươi ngàn người cùng với rất nhiều máy bay, thế mà thành phố vẫn không
thất thủ.
Tôi
đi phép sau khi đã ở mặt trận tất cả là 150 ngày, lúc đó tôi cho rằng đây là
một trong những giai đoạn vô ích nhất của cuộc đời. Tôi tham gia lực lượng dân
quân là để đánh nhau với chủ nghĩa phát xít, nhưng hầu như tôi chẳng phải đánh
nhau gì hết. Tôi chỉ sống qua ngày như một kẻ thờ ơ, nếu không tính đến cảnh
rét mướt và mất ngủ thì có thể nói tôi đã chẳng làm gì để đền đáp lại khẩu phần
ăn mà người ta vẫn phát cho tôi. Có thể đấy chính là số phận của tất cả những
người lính trong hầu hết các cuộc chiến tranh. Nhưng bây giờ nhìn lại, tôi
không còn lấy làm tiếc về giai đoạn đó nữa. Đúng là tôi muốn giúp đỡ chính phủ
Tây Ban Nha một cách hiệu quả hơn, nhưng nếu xét theo quan điểm cá nhân, xét
theo quan điểm từ sự tiến bộ của tôi thì ba bốn tháng ngoài mặt trận không đến
nỗi vô ích như tôi nghĩ lúc đó. Đấy là một giai đoạn khác hẳn, khác với quá khứ
mà có thể khác với cả tương lai, nó đã dạy tôi những điều mà chỉ có ở đấy tôi
mới có thể học được.
Cái
chính là tôi đã bị cách li trong suốt thời gian này – ngoài mặt trận người ta
gần như bị cách li hoàn toàn với thế giới bên ngoài: ngay cả những sự kiện ở
Barcelona chúng tôi cũng chỉ biết rất mù mờ - mặc dù tôi sống giữa những người
có thể gọi, tuy không thật chính xác lắm, là những nhà cách mạng. Đấy là do
cách làm việc của lực lượng dân quân, trên mặt trận Aragon, cho đến mãi tháng 6
năm 1937, cách làm việc của nó vẫn chẳng có thay đổi gì đáng kể. Các đơn vị dân
quân do các công đoàn đứng ra thành lập và bao gồm những người có cùng quan
điểm chính trị đã tập hợp vào một chỗ những thành phần cách mạng nhất của đất
nước. Do một sự tình cờ mà tôi đã rơi vào một cộng đồng, có thể nói là duy nhất
ở Tây Âu, nơi mà giác ngộ chính trị và lòng hoài nghi chủ nghĩa tư bản được coi
là hiện tượng bình thường. Trên mặt trận Aragon này tôi chỉ là một trong hàng
chục ngàn người, đa số, tuy không phải tất cả, đều là công nhân; mọi người đều
sống như nhau và hoà vào nhau theo lẽ công bằng. Về lí thuyết thì đấy là công
bằng tuyệt đối, trên thực tế thì cũng gần như thế. Theo nghĩa nào đó, có thể
nói tôi đã được nếm mùi chủ nghĩa xã hội, ý tôi là mình đã được sống trong
không khí của chủ nghĩa xã hội rồi. Rất nhiều hiện tượng bình thường của đời
sống như thói hợm hĩnh, lòng tham, sợ hãi cấp trên… đơn giản là đã biến mất.
Trong cái không khí bị đồng tiền làm cho băng hoại như ở nước Anh, người ta sẽ
không thể nào tưởng tượng được rằng sự phân chia giai cấp đã không còn. Ở đây
chỉ có chúng tôi cùng với những người nông dân, không còn ai là chủ ai là tớ
nữa. Dĩ nhiên là tình trạng đó không thể kéo dài được lâu. Đấy chỉ là một hoạt
cảnh ngắn và có tính khu vực của một trò chơi lớn đang được triển khai trên
toàn thế giới mà thôi. Nhưng nó đã kéo dài khá lâu, đủ sức để lại dấu ấn cho
tất cả những người đã từng tham gia vào cuộc chơi này. Mặc dù lúc đó chúng tôi
đã nguyền rủa tất cả mọi thứ, nhưng sau này chúng tôi mới hiểu rằng mình đã
được tiếp xúc với một hiện tượng kì lạ nhưng rất có ý nghĩa. Chúng tôi đã sống
trong một cộng đồng, nơi mà thái độ thờ ơ và yếm thế đã phải rút lui để nhường
chỗ cho niềm hi vọng, nơi mà từ “đồng chí” có nghĩa là những người đồng chí
hướng, chứ không phải như tại đa số các nước khác, là để bịp bợm. Chúng tôi đã
từng được thở hít cái không khí bình đẳng đó. Tôi biết rõ rằng bây giờ phải nói
chủ nghĩa xã hội chẳng có liên quan gì đến sự bình đẳng mới là đúng mốt. Nước
nào trên thế giới cũng có một lũ viết thuê mang tính đảng và các giáo sư ti
tiện bóng mượt đang cố “chứng minh” rằng chủ nghĩa xã hội chỉ là chủ nghĩa tư
bản nhà nước được kế hoạch hoá, còn động cơ chụp giựt thì vẫn y nguyên như cũ.
May mắn là đâu đó vẫn còn tồn tại một quan điểm khác hẳn về chủ nghĩa xã hội.
“Bí kíp” của chủ nghĩa xã hội chính là tư tưởng công bằng, chính nó đã lôi kéo
những người dân bình thường đến với chủ nghĩa xã hội, làm cho họ sẵn sàng hi sinh
mạng sống của mình. Đối với phần lớn người dân thì chủ nghĩa xã hội nghĩa là xã
hội phi giai cấp, không có nó thì chẳng thể nào gọi là chủ nghĩa xã hội được.
Mấy tháng phục vụ trong lực lượng dân quân có giá trị đối với tôi là vì như
thế. Lực lượng dân quân Tây Ban Nha, đấy là nói lúc nó còn tồn tại, là một mô
hình thu nhỏ của chủ nghĩa xã hội. Sống trong cộng đồng, nơi không còn những kẻ
bon chen, tuy thiếu thốn mọi thứ nhưng không còn đặc quyền đặc lợi và cảnh nịnh
hót, người ta có thể đã nhìn thấy bức tranh sơ lược về những giai đoạn ban đầu
của chủ nghĩa xã hội. Rốt cuộc, không những tôi đã không thất vọng mà còn bị nó
hớp hồn nữa. Bây giờ ước muốn chủ nghĩa xã hội được thiết lập còn mạnh hơn
trước. Một phần có thể là do may mắn mà tôi được sống với người Tây Ban Nha,
những người trung thực bẩm sinh và luôn luôn có xu hướng vô chính phủ; nếu có
điều kiện họ có thể làm cho ngay cả những giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội
thành ra chấp nhận được.
Dĩ
nhiên là lúc đó tôi chưa nhận thức được những thay đổi đang diễn ra trong tư
tưởng của mình. Giống như tất cả những người xung quanh, tôi chỉ thấy buồn
chán, nóng, lạnh, bùn bẩn, chấy rận, thiếu thốn và những hiểm nguy thỉnh thoảng
lại xảy ra mà thôi. Hiện nay thì hoàn toàn khác. Cái giai đoạn tưởng chừng như
vô ích và chán ngắt đó lại trở thành cực kì quan trọng đối với tôi. Nó khác hẳn
với cuộc sống trước đây của tôi và có ma lực giống như kỉ niệm về những tháng
ngày xưa cũ vậy. Lúc đó thấy thật là kinh khủng, nhưng hoá ra nó lại là mảnh
đất tốt cho sự phát triển trí óc của tôi. Tôi rất muốn chuyển đến độc giả không
khí của thời ấy. Hi vọng rằng tôi đã thành công phần nào trong những chương
trước của tác phẩm này. Trong tâm trí tôi chỉ còn lại cái lạnh mùa đông, những
người lính rách rưới, những khuôn mặt trái xoan của người Tây Ban Nha, tiếng
súng máy nghe như tiếng lạch cạch của máy điện báo, mùi nước đái và mùi bánh mì
thiu, và những món hầm đầy mùi sắt tây nuốt vội trong những chiếc bát sắt cáu
bẩn.
Tất
cả giai đoạn này vẫn còn sống động trong tâm trí tôi. Tôi vẫn còn tưởng tượng
được những sự kiện nhỏ nhặt tưởng chừng chẳng đáng nhớ làm gì. Tôi như thấy
mình đang nằm trên một phiến đá, dùng làm giường, trong hầm trú ẩn ở Monte
Pocero, còn anh chàng Ramon thì gí mũi vào bả vai tôi mà xỉ. Rồi tôi thấy mình
lang thang trong chiến hào đầy bùn, sương mù dày đặc chẳng khác gì làn hơi nước
lạnh vần vũ xung quanh. Và tôi thấy mình đang bò trên sườn đồi, vừa giữ thăng
bằng vừa nhổ cây hương thảo về làm củi. Mấy viên đạn vô tình réo rắt ở trên
đầu.
Tôi
đang nằm trong một bụi thông nhỏ ở giữa thung lũng phía tây Monte Oscuro, bên
cạnh là Kopp, Bob Edwards và ba người Tây Ban Nha nữa. Phía bên phải, trên sườn
đồi trọc mầu xám là một đám lính phát xít đang leo lên, trông như một đàn kiến.
Tiếng kèn hiệu của bọn phát xít vang lên ngay đằng trước. Kopp liếc nhìn tôi
rồi hếch mũi chỉ về phía tiếng kèn hiệu, y như một cậu học trò.
Tôi
đang đứng giữa sân ở La Granja. Đám đông đang cầm bát sắt chen nhau xung quanh
chảo thịt hầm. Người đầu bếp to béo và mệt mỏi đang dùng cái muôi để xua họ
tránh ra xa. Ở cái bàn bên cạnh có một người đàn ông râu ria xồm xoàm với một
khẩu súng lục to tướng ngang hông đang cắt những chiếc bánh mì ra làm năm phần.
Phía sau tôi là một giọng hát mang âm hưởng vùng ngoại ô London (đấy là Bill
Chambers, tôi đã cãi nhau một trận kịch liệt với anh ta, sau này anh đã hi sinh
ở ngoại ô Huesca):
Chuột,
chuột, chuột.
Chuột
to như mèo…
Một
quả đạn rú rít ngay trên đầu. Mấy cậu bé mới mười lăm tuổi vội nằm úp mặt xuống
đất. Người đầu bếp vội nấp sau cái chảo. Mọi người cùng ngượng ngập đứng lên
khi thấy viên đạn đã bay qua và nổ cách đó chừng một trăm mét.
Tôi
đang đi tuần dọc theo chiến hào, dưới những tán dương rậm rạp. Trong con mương
đầy nước bên cạnh, lũ chuột đang bơi bì bõm chẳng khác gì rái cá. Khi bình minh
màu vàng vừa ló rạng ở phía sau, tôi thấy anh lính gác người Andaluse kéo áo
choàng kín đầu và cất giọng hát. Phía bên kia vùng đất tranh chấp, cách chỗ
chúng tôi chừng một trăm đến hai trăm mét, mấy thằng lính gác phát xít cũng bắt
đầu hát.
Ngày
25 tháng tư, sau nhiều lần mañanas (ngày mai) một đơn vị khác đã đến thay thế cho chúng tôi. Chúng tôi bàn giao súng,
sắp xếp ba lô và hành quân trở về Monflorite. Tôi không cảm thấy buồn
khi phải rời mặt trận. Rận sinh sôi nảy nở nhanh hơn số bị giết rất nhiều. Đã
gần một tháng nay tôi không còn tất, giầy thì gần như đã mòn hết đế, thành ra
tôi hầu như phải đi chân không. Người đã từng có một cuộc sống văn minh không
thể khát khao mãnh liệt bất cứ cái gì bằng tôi khát khao được tắm nước nóng,
được mặc quần áo sạch sẽ và được ngủ giữa chăn êm nệm ấm. Chúng tôi ngủ vài
tiếng đồng hồ trong một nhà kho ở Monflorite, rồi nhảy lên một chiếc xe tải
ngay từ sáng sớm, kịp đón chuyến tàu năm giờ ở Barbastro, may mắn lên được
chuyến tầu tốc hành ở Lerida và vào lúc ba giờ chiều ngày 24 tháng tư thì đến
Barcelona. Rắc rối bắt đầu từ đấy.
9
Từ Mandalay, thượng du của Burma, bạn có thể
đi tầu tới Maymyo, nhà ga chính nằm trên đỉnh đồi của cái tỉnh ở ngay biên giới
của cao nguyên Shan. Cảm giác thật là lạ lùng. Bạn vừa ra khỏi một thành phố
đặc thù của phương Đông, với ánh mặt trời chói chang, với những cành cọ đầy
bụi, với mùi cá, mùi gia vị và mùi tỏi, với những loại quả mọng nước vùng nhiệt
đới và đám đông người da ngăm đen, và vì bạn đã quen với tất cả, bạn như đã
mang theo mình cái không khí ấy lên tầu. Về mặt tâm lí, bạn vẫn còn ở Mandalay
khi đoàn tàu dừng lại tại Maymyo, tức là trên độ cao 1200 met[25]
so với mặt nước biển. Nhưng vừa ra ngoài là bạn đã như đã bước một thế giới
khác hẳn. Bạn được thở một bầu không khí mát mẻ, trong lành, như ở Anh và xung
quanh là những thảm cỏ xanh mướt, những bụi dương xỉ, những rặng thông, những
người phụ nữ vùng sơn cước má hồng đứng bán những giỏ dâu mọng nước.
Tôi
nhớ lại cảnh đó khi trở vể Barcelona sau ba tháng rưỡi nằm ở mặt trận. Nhớ lại
là vì cũng xảy ra cảnh thay đổi bất ngờ và làm người ta sửng sốt như thế. Không
khí mặt trận vẫn còn bám mãi theo đoàn tầu trên suốt chặng đường tới Barcelona,
cũng vẫn cảnh tượng bẩn thỉu, ôn ào, lộn xộn, quần áo rách nát, thiếu thốn,
tình đồng đội và bình đẳng. Đoàn tầu đã đầy nhóc lính khi rời Barbastro rồi,
thế mà ga nào cũng có người lên, đấy là những người nông dân với những bó rau,
những con gà bị xách lộn đầu xuống dưới, với những bao tải buộc túm lại và vất
khắp sàn tàu, sau này mới biết là đựng những chú thỏ còn sống nguyên – và cuối
cùng là một bày cừu, được lùa vào mọi góc trống trên toa. Lính tráng gào lên
những bài hát cách mạng và thấy bóng cô nào bên đường là họ hôn gió hoặc đưa
khăn mùi xoa nửa đỏ nửa trắng vẫy theo. Những chai vang, chai anis, một loại
rượu rất khó uống của vùng Aragone, được truyền từ tay người nọ sang tay người
kia. Với những cái túi đựng rượu làm bằng da dê của người Tây Ban Nha, người
ngồi đầu toa có thể phun thẳng rượu vào mồm người ngồi cuối toa, đỡ được khối
chuyện phiền phức. Ngồi cạnh tôi là một chú nhóc, mắt đen láy, chỉ khoảng mười
lăm tuổi thao thao bất tuyệt suốt cả chặng đường, còn hai người đàn ông da rám
nắng thì ngồi, miệng há hốc như nuốt lấy từng lời câu chuyện giật gân, mà tôi
cho là bịa đặt một trăm phần trăm, của cậu ta. Sau đó mấy người nông dân này mở
túi và mời chúng tôi uống loại rượu màu đỏ thẫm của họ. Mọi người đều rất vui
vẻ, vui không bút nào tả xiết. Nhưng khi tầu rời Sabadell và đỗ lại ở
Barcelona, thì những người xung quanh bỗng có thái độ xa cách và thù nghịch với
chúng tôi và những người giống như chúng tôi chẳng khác gì tình cảm của những
người ở Paris và London.
Bất
kì ai từng tới Barcelona vài lần, cách nhau vài ba tháng, trong thời gian chiến
tranh, đều nhận ra ngay những thay đổi bất thường ở đấy. Và điều ngạc nhiên là
dù đến lần đầu vào tháng tám và trở lại vào tháng giêng năm sau hay đến vào
tháng mười hai và trở lại vào tháng tư, như trường hợp của tôi, thì mọi người
cũng đều nói có một chuyện như nhau: tinh thần cách mạng đã tiêu tan. Dĩ nhiên
là những người đến đây vào tháng tám, khi máu trên đường phố vẫn chưa kịp khô
và binh lính còn đóng trong các khách sạn sang trọng thì Barcelona vào tháng
mười hai đã là thành phố tư sản rồi, nhưng với tôi, một người mới từ Anh sang
thì thành phố vẫn là biểu tượng của giai cấp công nhân. Nhưng ngọn triều đã
rút. Barcelona lại là một thành phố bình thường, tuy có bị chiến tranh làm cho
sứt mẻ đôi chút, nhưng ưu thế của giai cấp công nhân thì đã biến mất từ lâu.
Diện
mạo của đám đông thay đổi đến bất ngờ. Quần áo bộ đội và những bộ bảo hộ lao
động màu xanh đã gần như biến mất hẳn, hầu như ai cũng mặc những bộ trang phục
mùa hè may rất khéo, thợ may Tây Ban Nha có biệt tài về khoản này. Những người
đàn ông béo tốt, thành đạt; những người đàn bà thanh lịch và những chiếc xe
bóng lộn có mặt khắp nơi. (Hình như vẫn chưa được có xe riêng, tuy nhiên, có vẻ
như tất cả những kẻ “ra hồn người” đều có thể sở hữu một chiếc). Sĩ quan Quân
đội Nhân dân nhan nhản khắp nơi, hồi rời Barcelona tôi hầu như chưa trông thấy
người nào. Cứ mười chiến sĩ thì có một sĩ quan. Một số người phục vụ trong các
đơn vị dân quân và được đưa về đây chỉnh huấn, nhưng đa số là những thanh niên
trẻ, vào các trường võ bị vì không muốn đi dân quân. Quan hệ của họ với chiến
sĩ dưới quyền không hoàn toàn giống như quan hệ trong quân đội tư sản, nhưng
phân biệt đẳng cấp thì rõ ràng là có, phụ cấp khác nhau, quân phục cũng khác
nhau. Chiến sĩ mặc áo liền quần, vải thô, màu nâu, còn sĩ quan thì mặc đồng
phục kaki, trang nhã, bó sát lấy người, giống như sĩ quan quân đội Anh, nhưng
đẹp hơn một chút. Tôi ngờ rằng trong hai mươi người thì mới có một người từng
ra mặt trận, nhưng anh nào cũng có một khẩu súng lục đeo kè kè bên hông, ngoài
mặt trận có bao nhiêu tiền cũng không thể mua được một khẩu như thế. Khi đi
trên đường, dân chúng cứ nhìn chằm chằm vào những bộ quần áo bẩn thỉu của chúng
tôi. Dĩ nhiên là, giống như tất cả những người lính đã từng ở mặt trận vài ba
tháng, bộ dạng của chúng tôi chắc là khủng khiếp lắm. Tôi biết mình trông chẳng
khác gì một thằng bù nhìn giữ dưa. Chiếc áo khoác bằng da đã rách tơi tả, cái
mũ len thì chẳng còn hình thù gì, đôi khi lại còn xệ xuống, che hết cả mắt, đôi
ủng thì gần như chỉ còn phần trên. Tất cả chúng tôi, ít nhiều đều giống như
thế, ngoài ra, tóc tai thì bù xù và cáu ghét nữa, trách gì dân chúng chẳng
nhìn. Nhưng chuyện đó chỉ hơi làm tôi thất vọng thôi, có cảm tưởng rằng những
chuyện lạ lùng nào đó đã xảy ra ở đây trong ba tháng qua.
Mấy
ngày sau tôi còn phát hiện ra nhiều chỉ dấu chứng tỏ cảm tưởng ban đầu của mình
là đúng. Thành phố đã biến đổi một cách sâu sắc. Có thể thấy ngay hai sự kiện
chính. Một là dân chúng, tức là những người dân thường, đã hầu như không còn
quan tâm đến chiến tranh nữa; thứ hai, xã hội đã lại chia thành kẻ giàu, người
nghèo, thành giai cấp thượng lưu và hạ lưu như cũ.
Thái
độ bàng quan đối với cuộc chiến làm người ta phải ngạc nhiên, thậm chí kinh
tởm. Nó làm cho những người đến từ Madrid, thậm chí từ Valencia phát hoảng. Một
phần là do Barcelona nằm quá xa mặt trận; một tháng sau, ở Tarragona, một thành
phố sang trọng ngay trên bờ biển, nơi cuộc sống thường ngày hầu như không bị
xoá trộn, tôi cũng thấy dân chúng có thái độ như thế. Quan trọng là, bắt đầu từ
tháng giêng, số người tình nguyện trên khắp Tây Ban Nha đã giảm hẳn. Tháng hai
ở Catalonia một không khí hào hứng diễn ra xung quanh cuộc tuyển quân lớn đầu
tiên, nhưng số người nhập ngũ gia tăng không đáng kể. Chiến tranh mới kéo dài
khoảng sáu tháng, thế mà chính phủ Tây Ban Nha đã phải dùng đến biện pháp bắt
lính, sẽ là bình thường nếu đấy là chiến tranh ở nước ngoài, nhưng nội chiến
thì lại là chuyện khác. Chắc chắn đấy là do người ta đã không còn hi vọng nhiều
vào cách mạng như hồi đầu nữa. Các đoàn viên công đoàn tự động tham gia lực
lượng dân quân và trong mấy tuần đầu đã đẩy quân phát xít đến tận Zaragoza vì
họ tin rằng đang chiến đấu cho chính quyền của giai cấp công nhân. Nhưng càng
ngày càng thấy rõ là chính quyền của giai cấp công nhân đã thất bại, và không
thể trách những người dân thường, nhất là giai cấp vô sản thành phố, trong bất
kì cuộc chiến tranh nào, nội chiến hay ở bên ngoài, thì đấy cũng là những người
phải đăng lính trước tiên. Không ai muốn thua, nhưng đa số chỉ muốn làm sao
chấm dứt cho nhanh. Có thể thấy điều đó ở khắp mọi nơi. Ở đâu cũng thấy người ta
nói một câu chiếu lệ: “Cuộc chiến này khủng khiếp quá. Bao giờ mới kết thúc
nhỉ?” Những người có ý thức chính trị hiểu rõ cuộc chiến tranh huynh đệ tương
tàn giữa phái vô chính phủ và phái cộng sản hơn là cuộc chiến chống lại Franco.
Còn đối với đa số dân chúng thì thiếu lương thực là vấn đề quan trọng nhất.
“Mặt trận” thì xa xôi huyền bí, đấy là nơi các chàng trai trẻ ra đi mà không
trở về hoặc là trở về sau ba bốn tháng, túi rủng rỉnh tiền. (Binh lính thường
được trả toàn bộ tiền lương khi đi phép). Những người bị thương, ngay cả khi họ
phải chống nạng, cũng chẳng được mấy người quan tâm. Lính tráng không còn được
hâm mộ nữa. Các cửa hàng, bao giờ cũng là hàn thử biểu của thị hiếu xã hội, cho
ta thấy rõ điều đó. Khi tôi đến Barcelona lần đầu, các cửa hàng - nghèo nàn và
tàn tạ - bán chủ yếu là đồ quân dụng. Quầy hàng nào cũng có mũ bộ đội, áo
khoác, thắt lưng to bản, dao đi rừng, bi đông đựng nước, bao súng lục. Bây giờ
các cửa hàng đều trông sang trọng hơn, nhưng chiến tranh đã lùi về dĩ vãng. Sau
này, trước ngày lên đường trở lại mặt trận, tôi có đi mua sắm và phát hiện ra
rằng một số thứ ngoài mặt trận không có không được nhưng lại rất khó mua.
Trong
khi đó người ta lại tiến hành chiến dịch tuyên truyền có hệ thống nhằm chống
lại lực lượng dân quân của các đảng phái và ủng hộ Quân đội Nhân dân. Tình hình
thật là lạ lùng. Về lí thuyết, ngay từ thàng hai tất cả các lực lượng vũ trang
đều đã hợp nhất vào Quân đội Nhân dân. Dân quân, đấy là nói theo giấy tờ, cũng
là một phần của Quân đội Nhân dân, với những mức lương và quân hàm quân hiệu
khác nhau..v.v.. và ..v.v.. Các sư đoàn được thành lập trên cơ sở “các trung
đoàn hỗn hợp”, bao gồm cả các đơn vị quân đội chính qui lẫn các đơn vị dân
quân. Nhưng trên thực tế, chỉ có tên gọi là thay đổi mà thôi. Thí dụ như các
đơn vị của P.O.U.M., trước đây là sư đoàn Lenin thì nay là sư
đoàn 29. Đến mãi tháng 6 vẫn chỉ có vài đơn vị Quân đội Nhân dân đến được mặt
trận Aragon, và kết quả là dân quân vẫn giữ được cơ cấu riêng và tính chất đặc
thù của mình. Nhưng trên bức tường nào người ta cũng thấy khẩu hiệu do nhân
viên chính phủ viết: “Chúng ta cần Quân đội Nhân dân!”, còn đài và báo chí cộng
sản thì không ngừng tấn công, thậm chí đôi khi với những lời lẽ độc địa, chống
lại lực lượng dân quân. Họ bảo là dân quân không được đào tạo bài bàn, thiếu
tinh thần kỉ luật ..v.v.. và ..v..v.. còn Quân đội Nhân dân thì được gọi là
“anh hùng”. Phần nhiều là do cách tuyên truyền như thế mà người ta có cảm giác
xấu hổ vì đã tình nguyện ra mặt trận, trong khi cứ ở nhà chờ nhập ngũ lại có vẻ
như được tán dương. Trong khi đó, chính lực lượng dân quân lại là người bảo vệ
chiến tuyến, còn Quân đội Nhân dân thì đang luyện tập ở hậu phương, nhưng người
ta đã cố tình bỏ qua chuyện này. Các đơn vị dân quân trở lại mặt trận đã không
còn diễu qua thành phố với tiếng trống trận và cờ hoa nữa. Họ được đưa đi một
cách lặng lẽ bằng tầu hoả hay xe tải ngay từ lúc năm giờ sáng. Lúc đó một vài
đơn vị của Quân đội Nhân dân cũng bắt đầu lên đường ra mặt trận; các đơn vị
này, cũng như trước đây, vẫn được đưa tiễn một cách trọng thể. Nhưng việc đưa
tiễn các đơn vị này, do mối quan tâm chung đối với cuộc chiến đã phai nhạt
nhiều, cũng chẳng được hào hứng như xưa. Sự kiện là về mặt giấy tờ thì dân quân
là thành phần của Quân đội Nhân dân đã được bộ máy tuyên truyền lợi dụng một
cách khéo léo. Tất cả thắng lợi đều được tự động gán cho Quân đội Nhân dân, còn
thất bại thì bao giờ cũng là do dân quân mà ra. Đôi khi có cả chuyện là một đơn
vị được ca ngợi, rồi lại bị phê bình, chỉ vì khi thì người ta bảo đấy là Quân đội
Nhân dân, lúc lại gọi họ là dân quân.
Ngoài
tất cả những chuyện đó ra, tình hình xã hội cũng đã có những thay đổi rất đáng
chú ý. Người không có kinh nghiệm thực tế thì thật khó mà hiểu được. Lần đầu
tiên tới Barcelona, tôi nghĩ rằng thành phố này hầu như không có sự phân biệt
giai cấp và không có cách biệt quá lớn về tài sản. Chắc chắn là tình hình đã
trông có vẻ như thế. Chẳng mấy khi thấy người mặc diện, không có hiện tượng xun
xoe hay đòi tiền trà thuốc, từ anh hầu bàn đến chị bán hoa hay gã đánh giày đều
nhìn thẳng và gọi người đối diện là “đồng chí”. Lúc đó tôi đã không nhận ra
rằng đấy chính là sự pha trộn giữa khát vọng và giả trá. Giai cấp công nhân tin vào cuộc các mạng đã
khởi đầu nhưng không bao giờ kết thúc này, còn bọn tư sản thì sợ và tạm thời
đóng giả làm công nhân. Trong những tháng đầu tiên, chắc chắn là phải có hàng
ngàn người sẵn sàng chui vào bộ quần áo bảo hộ lao động và gào lên những khẩu
hiệu cách mạng, muốn sống thì phải làm như thế. Bây giờ mọi sự đã trở lại bình
thường. Nhà hàng và khách sạn sang trọng lúc nào cũng chật cứng, đấy là những
người giàu có, được ăn đủ thứ sơn hào hải vị, trong khi giai cấp công nhân chạy
ăn từng bữa, giá cả leo thang khủng khiếp mà tiền lương thì tăng không đáng kể.
Ngoài chuyện mọi thứ đều đắt đỏ, còn không có cả hàng hoá nữa, mà cái này thì
dĩ nhiên là bao giờ cũng ảnh hưởng đến người nghèo nhiều hơn người giàu. Nhà
hàng, khách sạn có vẻ như chẳng gặp mấy khó khăn, muốn mua gì cũng được, nhưng
trong các khu lao động thì người mua bánh mì, mua dầu ôliu và những nhu yếu
phẩm khác phải xếp hàng dài cả mấy trăm mét[26].
Trước đây tôi đã lấy làm ngạc nhiên vì Barcelona không có người ăn mày, nhưng
bây giờ ở đây nhiều ăn mày lắm. Bên
ngoài của hàng đồ ăn chế biến sẵn ở đầu phố Ramblas bao giờ cũng có một đám trẻ
con chân trần đứng đợi, hễ có người ra là chúng bao vây và ngửa tay xin một ít
đầu thừa đuôi thẹo. Ngôn ngữ “cách mạng” đã không còn được sử dụng nữa. Bây
giờ, người ta ít khi gọi bạn là tú (anh) hay camarada (đồng chí),
người ta thường sử dụng cách xưng hô cũ señor (ngài) hay usted (ông) . Buenos días đã bắt đầu
thay thế cho salud. Hầu bàn đã quay về với những chiếc áo sơ mi là cứng,
còn người bán hàng thì lại có thái độ xun xoe như cũ. Hai vợ chồng tôi vào một cửa hàng dệt kim
trên phố Ramblas để mua mấy đôi tất. Anh nhân viên bán hàng cúi gập người và
liên tục xoa hai tay vào nhau, thái độ xun xoe còn hơn cả nhân viên bán hàng ở
Anh hiện nay, mặc dù cách đây hai ba mươi năm họ vẫn thường làm như thế. Tiền
lót tay đã ngấm ngầm quay trở lại. Các đội tuần tra của công nhân đã bị giải
tán, lực lượng cảnh sát thời trước chiến tranh đã xuất hiện trở lại trên đường
phố. Kết quả là hộp đêm và các nhà chứa sang trọng, mà một thời đã bị các đội
tuần tra công nhân cấm chỉ, đã vội vã mở cửa trở lại[27].
Mọi thứ đều nhằm thoả mãn nhu cầu của những người có của, thí dụ nhỏ nhưng khá
rõ là cảnh thiếu thuốc lá. Thiếu đến mức người ta bán cả những điếu thuốc vấn
từ rễ cây cam thảo. Tôi đã thử hút một lần. (Nhiều người đã thử hút một lần).
Franco chiếm giữ quần đảo Canary, khu vực trồng thuốc lá chính của Tây Ban Nha.
Chính phủ chỉ còn trong kho số thuốc được sản xuất từ trước chiến tranh. Dự trữ
còn ít đến mức cửa hàng bán thuốc chỉ mở mỗi tuần một lần. Phải xếp hàng vài
tiếng đồng hồ và may lắm thì mới mua được một bao bé tí. Về lí thuyết, chính
phủ không cho nhập thuốc lá vì sẽ làm hao hụt số vàng dự trữ dùng để mua vũ khí
và những thứ cần thiết khác. Nhưng trên thực tế, việc nhập lậu các loại thuốc
lá đắt tiền, như Lucky Strikes, vẫn diễn ra thường xuyên. Bọn buôn lậu tha hồ
hốt bạc. Có thể công khai mua thuốc lá nhập lậu trong các khách sạn sang trọng,
thậm chí ngay trên đường phố, tuy phải lén lút một chút, với giá là mười peseta
(tiền lương một ngày của dân quân) một bao. Buôn lậu có lợi cho người giàu vì
thế mà được lờ đi. Nếu có tiền, có thể mua đủ thứ, bao nhiêu cũng được, trừ mỗi
bánh mì là món được phân phối tương đối nghiêm chính. Cách đây mấy tháng, khi
công nhân còn kiểm soát hay có vẻ như còn kiểm soát tình hình, không thể nào
xảy ra cảnh cách biệt giàu nghèo như thế được. Nhưng sẽ là bất công nếu quy tất
cả cho sự thay đổi cho chính quyền. Một phần là do cuộc sống an toàn ở
Barcelona, nếu thỉnh thoảng không có vài vụ không kích thì chẳng có gì gọi là
chiến tranh hết. Ở Madrid tình hình khác hẳn, tất cả những người đã đến đấy đều
nói như thế. Mối nguy hiểm treo trên đầu đã buộc mọi người phải có tinh thần
đồng đội. Thật là kinh tởm khi thấy một người đàn ông béo tốt nhai chim cút
trước mặt mấy đứa trẻ ăn xin, nhưng bạn sẽ khó gặp cảnh tượng đó khi súng đại
bác gầm rú xung quanh.
Có
lần, một hay hai ngày sau những trận đánh diễn ra trên đường phố, tôi có đi
ngang qua một dãy phố sang trọng và nhìn thấy cửa hàng bánh kẹo bày đầy những
loại bánh nướng và kẹo sang trọng với giá cao đến chóng mặt. Bạn có thể thấy
những cửa hàng như thế trên phố Bond Street ở London hay Rue de la Paix ở
Paris. Tôi nhớ mình đã phát hoảng và ngạc nhiên khi nghĩ rằng người ta có thể
dùng tiền để mua những món hàng như thế ở cái đất nước bị chiến tranh tàn phá
và nghèo đói này. Nhưng xin Chúa tha tội cho tôi vì đã làm ra vẻ cao đạo như
thế. Sau mấy tháng thiếu thốn, tôi cảm thấy thèm đủ thứ món ngon, thèm rượu
vang, thèm cốctai, thèm thuốc lá Mỹ và nhiều thứ khác nữa; phải công nhận là
tôi đã chẳng từ bất cứ món hàng xa xỉ nào, miễn là có đủ tiền để mua. Trong
tuần đầu tiên, trước khi diễn ra những trận đánh trên đường phố, tôi đã làm
liền một lúc mấy việc liên quan với nhau. Thứ nhất, như đã nói, tôi lao vào
hưởng thụ để bù cho những ngày kham khổ. Thứ hai, vì ăn nhiều, uống lắm mà tôi
cảm thấy hơi mệt suốt cả tuần liền. Tôi cảm thấy khó chịu, thế là leo lên
giường nằm suốt nửa ngày, vừa dậy đã lại chén một bữa ra trò và lại cảm thấy
mệt. Cũng thời gian đó tôi đã bí mật đàm phán để mua một khẩu súng lục. Tôi rất
cần một khẩu súng lục, khi đánh giáp lá cà súng lục hiệu quả hơn súng trường,
nhưng khó kiếm lắm. Chính phủ chỉ phát súng lục cho cảnh sát và sĩ quan Quân
đội Nhân dân, không phát cho dân quân. Phải tự mua, dĩ nhiên là bất hợp pháp,
từ những kho hàng bí mật của bọn vô chính phủ. Rất nhiều rắc rối và phiền toái,
nhưng cuối cùng, một anh bạn trong đội quân vô chính phủ cũng tìm cách mua được
cho tôi khẩu súng lục tự động 26 li nhỏ tí, chẳng có mấy giá trị, chỉ có khả
năng sát thương trong vòng chưa đến năm mét[28],
nhưng có còn hơn không. Ngoài ra, tôi còn chuẩn bị rút khỏi lực lượng dân quân
của P.O.U.M. và chuyển sang đơn vị khác với mục đích là
được điều đến mặt trận Madrid.
Trước
đây tôi từng nói với mọi người rằng sẽ đi khỏi lực lượng P.O.U.M.
Nếu chỉ theo sở thích cá nhân thì tôi thích gia nhập đội quân vô chính phủ hơn.
Khi đã là thành viên C.N.T. thì có nhiều khả năng là sẽ được gia nhập lực lượng
dân quân F.A.I., nhưng có người bảo với tôi rằng F.A.I. muốn đưa tôi đến mặt trận Teruel chứ không phải Madrid.
Nếu tôi muốn đến mặt trật Madrid thì tôi phải ra nhập Binh đoàn Quốc tế, mà như
thế lại cần có lời giới thiệu của một đảng viên Cộng sản. Tôi tìm được một
người bạn là đảng viên, đang công tác trong lực lượng y tế Tây Ban Nha và kể
cho anh ta nghe trường hợp của mình. Anh ta có vẻ như rất muốn tuyển mộ tôi và
bảo tôi nếu có thể thì thuyết phục thêm vài người Anh nữa trong lực lượng I.L.P. cùng đi với tôi. Nếu sức khoẻ của tôi khá hơn thì tôi
đã đồng ý ngay lúc ấy rồi. Bây giờ thật khó mà nói nếu tôi đi thì sẽ như thế
nào. Có nhiều khả năng là tôi đã được đưa tới Albacete trước khi xảy ra những
trận đánh trên đường phố ở Barcelona. Trong trường hợp đó, vì không thấy những
trận đánh ở cự li gần, có thể tôi đã chấp nhận luận điệu tuyên truyền của chính
phủ. Mặt khác, nếu tôi chịu sự chỉ huy của quân cộng sản trong thời gian diễn
ra trận chiến ở Barcelona mà thâm tâm vẫn trung thành với đồng đội trong lực
lượng P.O.U.M., thì hoàn cảnh của tôi thật là tiến thoái
lưỡng nan. Nhưng tôi còn một tuần phép nữa, tôi rất muốn củng cố lại sức khoẻ
trước khi lên đường ra mặt trận. Ngoài ra — những chuyện vặt vãnh như thế lại
thường quyết định số phận người ta — tôi phải đợi người thợ giày khâu xong đôi
ủng mới. (Quân đội Tây Ban Nha không làm được những đôi giày to như của tôi).
Tôi bảo người bạn đảng viên là sẽ quyết định sau. Còn bây giờ tôi muốn nghỉ đã.
Thậm chí tôi còn nghĩ hay là chúng tôi, tức là tôi và bà xã đi tắm biển vài
ngày. Thật là một ý tưởng hay! Nhưng tình hình chính trị cho thấy đấy là những
việc không thể làm được vào lúc này.
Vì
bên dưới vẻ ngoài của một thành phố ở hậu phương, bên dưới cảnh xa hoa và nghèo
túng đang gia tăng của nó, bên dưới cảnh hào nhoáng của các đường phố với những
quán bán hoa, những lá cờ đầy màu sắc, những biểu ngữ tuyên truyền và đám đông
ồn ào của nó, ẩn chứa một cảm giác kinh hoàng và không thể nào lầm lẫn được về
lòng hận thù và cuộc đấu tranh chính trị đang diễn ra. Dân chúng, dù thuộc
trường phái nào, cũng đều tiên đoán: “Rắc rối đến nơi rồi”. Nguy cơ cũng đơn
giản và dễ hiểu. Đấy là sự đối đầu giữa những người muốn đưa cách mạng tiến lên
và những người muốn trì hoãn hoặc ngăn chặn – rút cục lại là sự đối đầu giữa
những người vô chính phủ và những người cộng sản. Toàn bộ quyền lực chính trị ở
Catalonia nằm trong tay các đơn vị P.S.U.C. và đồng minh
của họ là lực lượng của phái Tự do. Nhưng còn lực lượng C.N.T. nữa, không biết
là mạnh đến mức nào, trang bị kém hơn và mục tiêu cũng không rõ rệt bằng đối
thủ, song lại đông và nắm giữ được những ngành công nghiệp then chốt. Trong
tình hình phân bố lực lượng như thế, rắc rối là không thể tránh được. Chính
quyền Catalonia, do P.S.U.C. kiểm soát, cho rằng muốn bảo vệ
được địa vị của mình thì việc đầu tiên là phải tước vũ khí đang nằm trong tay
công nhân C.N.T. Như tôi đã nói trước đây, giải tán các đơn vị dân quân
là để nhằm mục đích đó. Đồng thời, người ta tiến hành khôi phục lại và tăng
cường cho các lực lượng cảnh sát và bảo vệ vũ trang, có từ trước chiến tranh.
Không có gì khó hiểu cả. Lực lượng bảo vệ vũ trang, tương tự như hiến binh ở
các nước khác, trong gần một trăm năm qua vẫn làm nhiệm vụ vệ sỹ cho những
người giàu có. Đồng thời, lại có lệnh thu hồi hết vũ khí do cá nhân nắm giữ.
Lệnh đó đương nhiên là không được thực hiện, rõ ràng là chỉ có dùng vũ lực thì
mới có thể tước được vũ khí của quân vô chính phủ. Suốt thời gian đó lại có tin
đồn, thường là mơ hồ và mâu thuẫn vì báo chí bị kiểm duyệt, về những vụ đụng độ
nhỏ xảy ra trên khắp vùng Catalonia. Ở một vài nơi cảnh sát vũ trang đã tấn
công các vị trí của quân vô chính phủ. Ở Puigcerda, trên biên giới với Pháp,
một đơn vị cảnh sát vũ trang được lệnh chiếm trụ sở Hải quan do quân vô chính
phủ giữ. Antonio Martin, một người vô chính phủ nổi tiếng bị giết chết trong
trận này. Những sự cố tương tự như thế từng xảy ra ở Figueras và theo tôi biết
thì ở cả Tarragona nữa. Một loạt những cuộc bãi công không chính thức cũng đã
xảy ra ở khu lao động ngoại ô. Có thời thành viên của C.N.T.
và U.G.T. còn giết lẫn nhau. Đôi khi, sau những vụ giết
chóc là những đám tang có tính khiêu khích với
rất nhiều người tham gia, rõ ràng là có ý kích động hận thù chính trị.
Một thời gian ngắn trước đây, có một thành viên C.N.T. bị hạ sát, và C.N.T. đã tổ chức một đám tang với hàng trăm ngàn người tham
gia. Cuối tháng tư, ngay sau khi tôi tới Barcelona thì ông Roldan, một nhân vật
xuất chúng của U.G.T. bị người của C.N.T. giết. Chính phủ hạ
lệnh tất cả các cửa hàng đều phải đóng cửa và tổ chức một đám tang vô cùng lớn,
chủ yếu là các đơn vị Quân đội Nhân dân tham gia. Đoàn đưa tang kéo dài đến hai
tiếng đồng hồ. Tôi đứng trong cửa sổ khách sạn nhìn theo đoàn đưa tang mà lòng
lạnh băng. Rõ ràng, đám tang chỉ là cách phô trương lực lượng, chỉ cần tiến
thêm một bước ngắn nữa là sẽ có cảnh đầu rơi máu chảy. Ngay đêm đó vợ chồng tôi
đã bị đánh thức bởi một tiếng nổ trên quảng trường de Cataluña, cách
khách sạn của chúng tôi từ một đến hai trăm mét[29].
Hôm sau chúng tôi nghe nói rằng một thành viên C.N.T. đã
bị hạ sát. Thủ phạm được cho là người của U.G.T. Rất có thể là
có bàn tay của những tên khiêu khích
trong những vụ giết chóc này. Có thể thấy thái độ của báo chí tư sản
ngoại quốc đối với mối thâm thù giữa cộng sản và vô chính phủ: họ nói rất nhiều
về cái chết của Roland, nhưng vụ trả đũa sau đó thì bị ỉm đi.
Ngày
1 tháng 5 đang tới gần và người ta nói tới một cuộc biểu tình cực lớn, cả C.N.T. và U.G.T. sẽ cùng tham gia.
Những người lãnh đạo của C.N.T., có thái độ ôn hoà hơn
nhiều thành viên của họ, từ lâu đã tìm cách hoà giải với U.G.T.;
mục tiêu của họ là hợp nhất hai tổ chức công đoàn thành một liên minh cực lớn.
Ý tưởng là C.N.T. và U.G.T. sẽ
cùng diễu hành và thể hiện tình đoàn kết của họ. Nhưng cuộc diễu hành đã bị huỷ
bỏ vào phút chót. Rõ ràng là cuộc diễu hành sẽ dẫn tới bạo động. Kết quả là
không có tổ chức kỉ niệm ngày 1 tháng 5. Thật là kì quặc. Barcelona, được gọi
là thành phố cách mạng, có thể là thành phố duy nhất trong vùng phi-phát xít ở
châu Âu không tổ chức kỉ niệm ngày này. Nhưng tôi công nhận là đã thở phào nhẹ
nhõm. Theo kế hoạch thì người của I.L.P. sẽ cùng diễu
hành với các đơn vị của P.O.U.M. và mọi người đều cho là
sẽ có rắc rối. Tôi chẳng muốn dính líu vào những vụ đánh nhau vô nghĩa trên
đường phố một tí nào. Bước đi trên đường phố, dưới những lá cờ đỏ với những câu
khẩu hiệu làm chấn động lòng người để rồi bị hạ sát bởi một phát súng tiểu liên
do một người hoàn toàn xa lạ bắn ra từ cửa sổ ngôi nhà bên cạnh – không, tôi
nghĩ rằng cái chết của mình phải hữu ích hơn.
10
Giữa trưa ngày 3 tháng 5, một người bạn ở
phòng chờ khách sạn tình cờ bảo: “Nghe nói có rắc rối ở tổng đài điện thoại.”
Lúc đó tôi đã không chú ý đến câu nói của anh ta.
Khoảng
ba bốn giờ chiều hôm đó, lúc đang đi trên phố Ramblas tôi bỗng nghe thấy mấy
tiếng súng nổ ở phía sau. Tôi quay lại và nhìn thấy mấy thanh niên tay cầm
súng, cổ quàng khăn của quân vô chính phủ nửa đỏ nửa đen, đang chạy vào con
đường dẫn lên hướng bắc, cắt ngang phố Ramblas. Có lẽ họ vừa bắn nhau với người
ngồi trên cái tháp bát giác – tôi nghĩ đấy là nhà thờ - nhìn xuống con đường
đó. Tôi nghĩ ngay: “Bắt đầu rồi!” Ý nghĩ ấy hoàn toàn không làm tôi ngạc nhiên.
Đã mấy ngày nay ai cũng tin rằng “nó” có thể bắt đầu bất cứ lúc nào. Tôi cho là
mình phải quay lại khách sạn ngay lập tức để xem bà xã có việc gì không. Nhưng
có mấy người thuộc đội quân vô chính phủ đứng ở ngã tư vẫy tay ra hiệu cho dân
chúng quay lại và quát tháo bảo họ không được đi ngang qua trận địa. Tiếng súng
lại vang lên. Đạn bắn từ trên tháp xuống, đám đông hốt hoảng chạy dọc theo phố
Ramblas, mọi người đều tìm cách tránh xa chỗ bắn nhau. Có thể nghe thấy tiếng
kim loại va vào nhau suốt dọc dãy phố, đấy là tiếng cửa kéo bằng sắt trước các
quầy hàng đang được đóng lại. Tôi nhìn thấy hai người sỹ quan Quân đội Nhân dân
tay đặt trên bao súng lục, đang thận trọng lùi lại sau hàng cây. Đám đông chạy
xuống ga tầu điện ngầm nằm giữa phố Ramblas. Tôi quyết định ngay lập tức là
không đi theo họ. Có thể bị kẹt ở dưới đó hàng tiếng đồng hồ.
Lúc
ấy có một viên bác sỹ người Mỹ, ông này đã từng ở mặt trận với chúng tôi, chạy
tới và nắm lấy tay tôi. Ông ta có vẻ rất
xúc động.
“Đi
thôi, chúng ta phải đến ngay khách sạn Falcón”. (Khách sạn Falcón là kiểu nhà
tập thể do lực lượng P.O.U.M. cai quản và chủ yếu là
dành cho dân quân đi phép sử dụng). “Quân P.O.U.M. sẽ
tập trung ở đấy. Rắc rối rồi! Chúng ta phải tập trung lại một chỗ”.
“Nhưng chuyện quỉ quái này là thế nào ấy
nhỉ?” – Tôi hỏi.
Ông
bác sỹ tiếp tục kéo tay tôi. Vì quá xúc động ông ta chẳng nói được chuyện gì rõ
ràng cả. Có vẻ như ông ta đã có mặt trên quảng trường de Cataluña khi có mấy
chiếc xe tải chở lực lượng bảo vệ vũ trang tiến về phía tổng đài điện thoại do
công nhân thuộc C.N.T.
vận hành, rồi bất ngờ tấn công tổng đài. Quân vô chính phủ đến và thế là xảy ra
đánh nhau. Tôi hiểu ra là “rắc rối” mà anh bạn nói sáng nay chính là yêu cầu
của chính phủ đòi nắm tổng đài nhưng dĩ nhiên là đã bị từ chối.
Có
một chiếc xe tải chở đầy quân vô chính phủ, súng trường lăm lăm trong tay chạy
ngược lại hướng với chúng tôi. Ở đằng trước xe có một thanh niên ăn mặc rách
rưới nằm trên đống nệm với một khẩu trung liên. Khi chúng tôi tới khách sạn
Falcón, nằm ở cuối phố Ramblas, thì đã có một đám đông tập trung tại tiền sảnh.
Khung cảnh cực kì hỗn loạn, không ai biết phải làm gì, và cũng chỉ có mấy chiến
sỹ xung kích làm nhiệm vụ bảo vệ toà nhà là có vũ khí mà thôi. Tôi đi sang khu
vực Uỷ ban P.O.U.M., nằm ở bên kia đường. Ở tầng trên,
trong căn phòng nơi dân quân thường đến lĩnh lương cũng có một đám đông đang hò
hét. Tôi thấy một người đàn ông, cao, gầy, xanh xao nhưng bảnh trai, mặc thường
phục vừa cố gắng vãn hồi trật tự vừa lấy thắt lưng cùng với những hộp đạn vứt thành
đống trong góc phòng ra phân phát cho mọi người. Hình như không có súng. Tay
bác sỹ đã biến đâu mất, chắc là có người bị thương, cần bác sỹ, nhưng lại thấy
một người Anh nữa đi tới. Sau đó, người đàn ông cao gầy ban nãy cùng với mấy
người nữa đem súng trường từ phòng bên trong ra phát cho mọi người. Vì là người
nước ngoài cho nên lúc đầu tôi và tay người Anh kia không được phát súng, họ có
vẻ nghi ngờ chúng tôi. Rồi có một tay dân quân mà tôi đã quen ở ngoài mặt trận
xuất hiện, anh ta cũng nhận ra tôi, lúc đó người ta mới miễn cưỡng phát súng
với vài băng đạn cho chúng tôi.
Có
tiếng súng từ đằng xa vọng lại, đường phố vắng ngắt. Mọi người đều nói rằng bây
giờ không thể đi trên phố Ramblas được nữa. Lực lượng bảo vệ vũ trang đã chiếm
tất cả các cao điểm và nã đạn xuống người đi đường. Tôi sẵn sàng liều mạng và
đã định quay lại khách sạn, nhưng lại có tin nói rằng Uỷ ban có thể bị tấn công
bất cứ lúc nào, tốt nhất là mọi người nên ở lại. Trong tất cả các phòng, trên
cầu thang, ngoài vỉa hè, chỗ nào cũng có một nhóm người tụ tập, bàn tán sôi
nổi. Nhưng dường như chẳng ai nắm được tình hình. Điều duy nhất tôi biết là lực
lượng bảo vệ vũ trang đã tấn công tổng đài điện thoại và đã chiếm được những vị
trí chiến lược, có thể khống chế những toà nhà do công nhân kiểm soát. Mọi
người đều có cảm tưởng là lực lượng bảo vệ vũ trang đang chống lại C.N.T. và chống lại toàn thể giai cấp công nhân. Có thể dễ
dàng nhận ra là lúc đó chưa có người nào lên tiếng phê phán chính phủ. Các giai
cấp cần lao ở Barcelona căm ghét lực lượng bảo vệ vũ trang và có vẻ như họ tin
chắc rằng lực lượng này đã tự ý tấn công. Sau khi nghe được tình hình như thế
tôi thấy đầu óc thanh thản hơn. Vấn đề thế là đã rõ. Một bên là lực lượng thuộc
C.N.T., còn bên kia là cảnh sát. Tôi không có tình cảm
đặc biệt nào đối với người “công nhân” đã được lí tưởng hoá, như những người
cộng sản trong các nước tư bản vẫn nghĩ, nhưng khi nhìn thấy người công nhân
thực sự bằng xương bằng thịt đang chiến đấu với bọn cảnh sát, tức là chiến đấu
với kẻ thù truyền kiếp của họ, thì tôi biết ngay mình cần phải đứng về phía
nào.
Đã
nhiều giờ trôi qua, nhưng dường như chẳng có gì xảy ra trong cái góc phố này
hết. Thế mà tôi lại không nghĩ đến chuyện gọi về khách sạn để hỏi xem bà xã có
làm sao không. Tôi tin rằng tổng đài điện thoại đã ngừng làm việc, nhưng hoá ra
trên thực tế nó chỉ ngưng có vài giờ. Có khoảng ba trăm người tụ tập trong hai
toà cao ốc. Phần lớn là những người rất nghèo, sống trong những khu phố cạnh bờ
biển. Khá nhiều phụ nữ, một số bế những đứa con còn ẵm ngửa và một lũ trẻ ăn
mặc rách rưới. Tôi nghĩ nhiều người trong số họ không có khái niệm gì về những
điều đang diễn ra, họ chạy vào toà nhà của P.O.U.M. đơn
giản là để tìm chỗ trú ẩn. Có khá nhiều dân quân đang nghỉ phép và mấy người
ngoại quốc nữa. Theo tính toán của tôi thì tuy có rất nhiều người nhưng chỉ có
chừng 60 khẩu súng trường. Căn phòng ở tầng trên liên tục bị đám đông vây hãm,
họ đòi được cấp súng, nhưng người ta bảo rằng chẳng còn khẩu nào. Có cả những
cậu dân quân còn rất trẻ, dường như chúng chỉ coi đây là một trò vui. Mấy cậu
này cứ đi lảng vảng hết chỗ này đến chỗ khác và tìm cách xin hoặc lấy trộm súng
của người khác. Chẳng bao lâu sau một cậu đã cuỗm được khẩu súng của tôi và
biến mất dạng. Thế là tôi lại trở thành trắng tay, chỉ còn mỗi khẩu súng lục
với một băng đạn.
Trời
tối dần. Tôi bắt đầu cảm thấy đói, nhưng khách sạn Falcón không bán thức ăn.
Tôi và một người bạn tìm cách chuồn sang khách sạn của anh ta, cũng ở gần đấy,
để kiếm bữa tối. Đường phố tối mịt và vắng ngắt, không một bóng người, tất cả
các cửa sổ đều đóng kín, nhưng chiến luỹ thì chưa có. Phải nói mãi người ta mới
cho chúng tôi vào, khách sạn đã khoá và chốt hết cửa từ trước rồi. Khi quay lại
khách sạn Falcón tôi mới biết là tổng đài vẫn làm việc, tôi đi lên tầng trên để
gọi cho bà xã. Nhưng hoá ra ở đây không có sổ danh bạ điện thoại, mà tôi thì
lại không nhớ số khách sạn Continental. Phải đi hết các phòng, mất gần một
tiếng đồ hồ tôi mới tìm thấy một cuốn cẩm nang du lịch có ghi số điện thoại
khách sạn. Không liên lạc được với bà xã, nhưng tôi đã tìm được John McNair,
đại diện của I.L.P. ở Barcelona. Anh ta bảo rằng mọi chuyện đều ổn, chưa ai bị
trúng đạn và hỏi tôi tình hình ở Uỷ ban. Tôi trả lời rằng mọi chuyện đều bình
thường, chỉ tội không có thuốc lá thôi. Tôi chỉ muốn nói đùa cho vui, ai ngờ
khoảng một tiếng rưỡi sau thì McNair xuất hiện cùng với hai bao Lucky Strikes.
Anh đã phải đi qua những đường phố tối đen như mực, các đơn vị tuần tra của
quân vô chính phủ đã hai lần bắt anh dừng lại để kiểm tra giấy tờ. Tôi sẽ không
bao giờ quên hành động anh hùng này của anh. Mọi người cùng vui vẻ hút thuốc.
Hầu
như cửa sổ nào cũng có người cầm súng đứng gác, bên dưới đường còn có một nhóm
thuộc lực lượng xung kích làm nhiệm vụ kiểm soát giấy tờ người qua đường. Một
chiếc ô tô chở đơn vị tuần tra của quân vô chính phủ tới, nòng súng lấp lánh
ánh thép. Bên cạnh người lái xe là một cô gái, tóc đen, chừng mười tám tuổi,
tay giữ khẩu súng máy đặt ngang trên hai đầu gối. Tôi giết thời gian bằng cách
lang thang khắp toà nhà, khó mà nắm được đường ngang ngõ dọc của nó. Đâu cũng
thấy có rác, bàn ghế gãy, giấy vụn vương vãi khắp nơi, có lẽ đấy cũng là thành
tố không thể tránh được của mọi cuộc cách mạng. Chỗ nào cũng có người ngủ, trên
cái tràng kỉ gãy kê ngoài hành lang có hai người đàn bà nghèo đang bình thản
ngáy. Trước khi bị quân P.O.U.M chiếm, toà nhà này vốn là một quán bar. Vài
phòng vẫn còn sân khấu, thậm chí có cả một chiếc dương cầm khổng lồ nữa. Cuối
cùng tôi đã phát hiện thấy cái mình định tìm: kho chứa vũ khí. Lúc đó tôi không
biết là chuyện này rồi sẽ dẫn đến đâu, tôi chỉ biết là mình rất cần một khẩu
súng. Tôi thường nghe người ta nói rằng tất cả các đảng đang cạnh tranh với
nhau, như P.S.U.C., P.O.U.M.,
cũng như C.N.T.—F.A.I., đều tích trữ vũ khí ở Barcelona,
cho nên tôi không tin là hai toà nhà quan trọng của P.O.U.M.
lại chỉ có vỏn vẹn 60 khẩu súng trường. Không có người bảo vệ kho, cánh cửa thì
mỏng. Tôi và một tay người Anh nữa đã phá được cửa một cách dễ dàng. Vào đến
bên trong chúng tôi mới nhận ra rằng người ta đã nói thật – không còn khẩu súng
nào. Chỉ có vài chục khẩu súng trường loại nhỏ, cũ rích và mấy khẩu súng săn,
nhưng không có đạn. Tôi quay lại văn phòng để hỏi xem họ có đạn súng lục không.
Không có. Chỉ có mấy thùng lựu đạn, một chiếc xe của quân vô chính phủ vừa chở
tới. Tôi nhét hai quả lựu đạn vào bao đựng đạn. Đây là loại lựu đạn tự chế, có
thể nổ khi lấy que diêm xát vào đầu, thậm chí có thể nổ bất cứ lúc nào.
Mọi
người ta đều nằm ngủ ngay trên nền nhà. Trong một căn phòng có tiếng trẻ khóc,
khóc đã lâu mà không thấy nín. Tuy là tháng năm, nhưng về đêm trời vẫn lạnh.
Tôi dùng dao cắt tấm màn che sân khấu rồi quấn vào người và nằm ngủ được mấy
tiếng đồng hồ. Tôi nhớ, đang ngủ thì bỗng giật mình vì chợt nghĩ rằng nếu quấn
chặt quá thì mấy quả lựu đạn trong túi kia có thể nổ và xé tung tôi ra thành
từng mảnh. Người đàn ông cao và đẹp trai hồi sáng, có lẽ là chi huy, đánh thức
tôi dậy vào lúc ba giờ; anh ta đưa cho tôi một khẩu súng trường và bảo đứng gác
bên cạnh cửa sổ. Anh ta bảo rằng Salas, giám đốc cảnh sát, kẻ chủ mưu vụ tấn
công tổng đài điện thoại đã bị bắt. (Sau này mới biết rằng ông ta mới chỉ bị
cách chức. Nhưng tin này đã phụ hoạ cho ý kiến chung là lực lượng bảo vệ vũ
trang đã tự tiện hành động). Trời vừa sáng là dân chúng bắt đầu dựng lên hai
chiến luỹ, một cái ở gần Uỷ ban, cái kia nằm bên cạnh khách sạn Falcón. Đường
phố Barcelona được lát bằng những viên đá hình vuông, dễ dàng dựng lên thành
những bức tường; bên dưới là sỏi, cũng dễ cho vào bao. Chiến luỹ có hình thù kì
quặc và lạ mắt lắm, tôi sẵn sàng đổi bất cứ thứ gì để lấy một tấm ảnh mấy chiến
luỹ này. Người Tây Ban Nha khi đã quyết làm một việc gì đó thì họ rất nhiệt
tình; một hàng dài, đàn ông, đàn bà và cả những đứa trẻ bé tí cùng tham gia lật
những phiến đá, đặt chúng lên những cái xe cút kít rồi kéo đi hay oằn lưng dưới
những bao cát nặng. Một cô gái Đức gốc Do Thái, mặc một cái quần lính quá dài
đứng bên cửa ra vào Uỷ ban nhìn người dân làm việc, miệng mỉm cười. Khoảng vài
giờ sau thì chiến luỹ đã cao lút đầu người, phía sau mỗi lỗ châu mai lại có một
người cầm súng đứng gác. Lửa đã được nhóm lên sau một chiến luỹ và mấy người
mang trứng ra rán.
Họ
lại mang súng của tôi đi, có vẻ như tôi chẳng có việc gì làm nữa. Tôi và tay
người Anh kia quyết định quay lại khách sạn Continental. Rất nhiều tiếng nổ
vọng lại từ phía xa, nhưng hình như trên phố Ramblas thì không. Chúng tôi rẽ
vào khu chợ bán thức ăn. Chỉ có vài quầy mở cửa, quầy nào cũng đầy người bu
quanh, họ là những người lao động sống ở khu vực phía nam Ramblas. Chúng tôi
vừa vào đến nơi thì nghe thấy tiếng súng trường nổ chát chúa ở bên ngoài, mảnh
kính vỡ từ trên mái nhà bay tứ tung. Dân chúng vội vã chạy tản ra ngoài. Nhưng
mấy quầy hàng kia vẫn mở, chúng tôi uống mỗi người một ly cà phê, rồi mua ít
phó mát làm từ sữa dê, tôi nhét phó mát vào bên cạnh hai quả lựu đạn. Mấy ngày
sau mới thấy quyết định mua phó mát là cực kì đúng đắn.
Ở
cái góc phố mà hôm trước tôi trông thấy mấy người vô chính phủ vừa đi vừa bắn
bây giờ cũng đã mọc lên một chiến luỹ. Người đàn ông đứng đằng sau chiến luỹ (lúc
đó tôi còn ở bên kia đường) kêu tôi phải thận trọng. Lực lượng bảo vệ vũ trang
chiếm giữ tháp chuông nhà thờ bắn vào bất cứ ai đi ngang qua đường. Tôi dừng
lại một chút rồi lấy đà chạy qua chỗ trống, chắc chắn là có một viên đạn đã
ghim xuống mặt đường ngay phía sau tôi. Khi đã đến gần trụ sở của P.O.U.M., nhưng vẫn ở bên kia đường, tôi còn nghe thấy mấy người
thuộc lực lượng xung kích gác cửa hò hét, lần này tôi không hiểu họ nói gì. Tôi
bị hàng cây và mấy quầy báo che (giữa phố ở Tây Ban Nha thường có những lối đi
bộ khá rộng), không nhìn thấy toà nhà cho nên không biết họ chỉ đi đâu. Tôi vào
khách sạn Continental, sau khi biết chắc là mọi thứ vẫn bình thường tôi
đi rửa mặt và quay lại trụ sở của P.O.U.M. (cách đấy
khoảng một trăm mét) để nhận nhiệm vụ. Lúc này thì tiếng súng trường và súng
máy đã nổ tứ phía, tưởng như đang ở giữa mặt trận vậy. Tôi tìm được Kopp và
đang hỏi xem phải làm gì thì lại nghe thấy một loạt tiếng nổ khủng khiếp ở bên
dưới. Tiếng nổ to đến nỗi tôi nghĩ rằng người ta đã bắn chúng tôi bằng đại bác.
Nhưng hoá ra đấy chỉ là lựu đạn, nghe to là vì nó nổ ngay ở trong nhà.
Kopp
nhìn ra cửa sổ và sau khi thắt dây lưng, anh bảo tôi: “Ta ra ngoài xem sao,
đi”. Rồi vẫn giữ nguyên vẻ bất cần đời như mọi khi, anh chậm rãi đi xuống cẩu
thang. Tôi cũng bước theo. Bên trong cửa ra vào có một nhóm chiến sĩ thuộc lực
lượng xung kích. Họ đang lăn những trái bom dọc theo vỉa hè, hệt như đang chơi
bowling vậy. Bom nổ cách đó chừng hai chục mét, tiếng bom cùng với tiếng súng
trường rền vang tưởng như muốn rách màng nhĩ. Một cái đầu thấp thoáng hiện ra
đằng sau quán báo xây trên giải phân cách giữa phố - đấy là đầu một tay dân
quân người Mĩ mà tôi biết khá rõ. Sau này tôi mới hiểu vì sao lại có chuyện như
thế. Bên cạnh toà nhà của P.O.U.M. là khách sạn với một
quán café ở tầng trệt, gọi là quán café Moka. Ngày hôm trước có khoảng hai mươi
đến ba mươi bảo vệ vũ trang vào quán và khi chiến sự nổ ra thì bất ngờ chiếm
lấy toà nhà rồi cố thủ ở bên trong. Có lẽ họ đã được lệnh chiếm quán café làm
điểm tựa để sau này tấn công văn phòng của P.O.U.M. Họ
đã thử đột kích ngay từ sáng sớm, hai bên bắn nhau, một chiến sĩ xung kích bị
thương nặng, bên kia cũng có một bảo vệ vũ trang bị giết. Lực lượng bảo vệ vũ
trang chạy trở lại quán café, nhưng khi tay người Mĩ kia đi ra thì bị họ bắn,
mặc dù anh ta không có vũ khí. Tay người Mĩ phải nấp vội vào sau quầy báo, còn
lính xung kích thì lăn bom để buộc lực lượng bảo vệ vũ trang phải rút vào trong
nhà.
Kopp
nhìn quanh một lượt rồi bước vội lên phía trước và dùng tay lôi, không cho một
anh “lính xung kích” người Đức ném quả lựu đạn mà anh ta vừa dùng răng rút chốt
ra. Kopp kêu gọi mọi người hãy tránh xa lối ra vào rồi nói bằng mấy thứ tiếng
rằng chúng tôi phải tìm cách tránh một cuộc tắm máu. Sau đó anh bước ra vỉa hè
và từ từ tháo khẩu súng lục và đặt nó xuống đất ngay trước mắt lực lượng bảo vệ
vũ trang. Hai sĩ quan dân quân người Tây Ban Nha cũng làm như thế. Rồi cả ba
người cùng chậm rãi bước vào quán café, nơi lực lượng bảo vệ vũ trang đang cố
thủ. Có cho tôi hai mươi bảng tôi cũng chả dám làm như thế. Họ bước đi, tay
không tấc sắt. Phía trước là những con người hoảng loạn, tay lăm lăm những
súng, đạn đã lên nòng. Một người lính bảo vệ, áo sắn tay, mặt bạc đi vì sợ, đi
ra đàm phán với Kopp. Anh ta run rẩy chỉ vào hai quả bom chưa nổ còn nằm trên
hè phố. Kopp quay lại và bảo rằng chúng tôi nên cho nổ hai quả bom. Để như thế
sẽ nguy hiểm cho khách qua đường. Một lính xung kích lấy súng bắn vào một trong
hai quả bom. Bom nổ, nhưng đến phát tứ hai thì trượt. Tôi mượn súng của anh ta
rồi quì gối và bắn vào quả thứ hai. Cũng trượt, tôi lấy làm tiếc mà nói như
thế. Đấy là phát súng duy nhất tôi bắn trong vụ lộn xộn này. Mảnh kính biển
hiệu quán café Moka vỡ nằm đầy vỉa hè. Hai chiếc ô tô đậu trước cửa, một chiếc
là của Kopp, cũng bị đạn bắn thủng lỗ chỗ, kính chắn gió bị bom làm vỡ tan
tành.
Kopp
kéo tôi lên tầng trên và giải thích cho tôi biết tình hình. Chúng tôi có nhiệm
vụ bảo vệ toà nhà của P.O.U.M., nếu nó bị tấn công. Nhưng lãnh
đạo P.O.U.M. đã chỉ thị rằng chỉ tự vệ và nếu có thể tránh được thì
không nổ súng. Ngay bên kia đường, trước mặt chúng tôi có một rạp chiếu phim,
gọi là Poliorama, bên trên là viện bảo tàng, trên đỉnh, cao hơn tất cả các mái
nhà ở đây là hai mái vòm của một đài thiên văn nhỏ. Mái vòm chính là cao điểm
án ngữ cả dãy phố, chỉ cần vài người trang bị súng trường nằm ở trên đó là có
thể ngăn chặn mọi cuộc tấn công vào toà nhà của P.O.U.M.
Bảo vệ rạp phim là người của C.N.T., họ đã đồng ý cho chúng tôi
vào. Lực lượng bảo vệ vũ trang trong quán café Moka không phải là vấn
đề. Họ không muốn đánh nhau và sẽ không ra tay nếu được để yên. Kopp nhắc đi
nhắc lại rằng chúng tôi được lệnh không nổ súng trừ khi chính mình hoặc toà nhà
bị tấn công. Tuy Kopp không nói, nhưng tôi đồ rằng lãnh đạo P.O.U.M.
cảm thấy lúng túng vì bị dính vào chuyện này, song họ lại không thể không ủng
hộ lực lượng C.N.T.
Đã
cử người gác trên đài thiên văn. Nếu không kể những lúc đi sang khách sạn để
ăn, có thể nói tôi ở trên nóc rạp phim Poliorama ba ngày ba đêm liền. Không có
gì nguy hiểm, tôi chỉ thấy khổ vì đói và buồn, đấy là một trong những giai đoạn
khó chịu nhất trong cuộc đời tôi. Tôi nghĩ thật khó mà có cảnh sống nào kinh
tởm hơn, chán nản hơn và điên đầu hơn là mấy ngày đánh nhau trên đường phố đó.
Những
lúc ngồi trên mái nhà tôi thường nghĩ về sự điên rồ đang diễn ra xung quanh.
Qua cái cửa sổ nhỏ trong đài thiên văn, có thể phóng tầm mắt ra rất xa - những
ngôi nhà cao tầng thanh mảnh, những mái vòm bằng kính, những mái nhà uốn lượn
với những viên ngói màu đồng đỏ hay màu xanh dương, xa hơn về phía đông là mặt
biển màu xanh lấp lánh dưới ánh mặt trời – kể từ ngày đặt chân tới Tây Ban Nha,
đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy biển. Cái thành phố với cả triệu người này đã
bị mắc kẹt trong một cái có thể gọi là quán tính bạo lực, trong cơn ác mộng của
sự ồn ào bất động. Những đường phố đầy nắng, vắng lặng như tờ. Không có gì xảy
ra cả. Chỉ có những loạt đạn bắn ra từ các chiến luỹ và những ô cửa sổ đã được
chèn bằng bao tải cát. Không thấy bóng dáng một chiếc xe nào trên đường phố.
Dọc Ramblas thỉnh thoảng lại thấy một chiếc tàu điện đứng im lìm, bất động, lái
tàu đã bỏ chạy ngay khi chiến sự bắt đầu. Chỉ có tiếng nổ là không bao giờ dứt,
tiếng nổ vọng lại từ hàng ngàn bức tường đá, ầm ầm như những trận mưa bão miền
nhiệt đới. Tạch-tạch, tạch-tà-rạch, bùm – đôi khi ngừng lại vài giây để rồi lại
bùng lên bằng hàng loạt tiếng nổ muốn điếc tai, cho đến tận tối và sáng hôm sau
lại bắt đầu y hệt như thế.
Thời
kì đầu thật khó mà biết được đang xảy ra chuyện gì, ai đánh nhau với ai, ai
đang thắng ai. Người dân Barcelona đã quen với cảnh đánh nhau trên đường phố và
thông thạo địa hình đến mức họ biết rõ bằng bản năng đảng nào đang giữ phố nào
hay toà nhà nào. Nhưng người ngoại quốc thì vô phương. Từ trên trên đài thiên
văn nhìn xuống, tôi chỉ có thể nói rằng Ramblas, một trong những đường phố
chính, đã trở thành đường phân giới. Bên
phải Ramblas là các khu phố lao động, căn cứ của quân vô chính phủ; bên trái,
không rõ ai đang đánh nhau với ai trong những khu phố ngoằn nghoèo đó, nhưng
nói chung P.S.U.C. và lực lượng bảo vệ vũ trang làm chủ phía
bên này. Cuối phố Ramblas của chúng tôi, xung quanh quảng trường Cataluña, tình
hình rối rắm đến mức không thể nào phân biệt được nếu trên mỗi toà nhà không có
một lá cờ. Điểm dễ nhận ra nhất ở đây là
khách sạn Colón, án ngữ quảng trường Cataluña, là tổng hành dinh của P.S.U.C. Trong cái cửa
sổ gần chữ O thứ hai trên biển quảng cáo Hotel
Colón, kéo dài suốt mặt tiền toà nhà, có một khẩu súng máy đủ sức bao quát
toàn bộ quảng trường. Bên phải, cách chúng tôi khoảng một trăm mét là một cửa
hàng bách hoá lớn, do lực lượng J.S.U., tức là liên đoàn
thanh niên của P.S.U.C. (tương tự như Liên đoàn Thanh
niên Cộng sản ở Anh) chiếm giữ, cửa sổ xếp đầy bao cát của toà nhà nằm đối diện
với đài thiên văn của chúng tôi. Họ đã hạ lá cờ đỏ xuống và thay bằng lá quốc
kì Catalonia. Ở tổng đài điện thoại, nơi phát sinh rắc rối, bên cạnh lá quốc kì
Catalonia là cờ của quân vô chính phủ. Đã đạt được thoả thuận tạm thời: tổng
đài làm việc bình thường và không được bắn từ trong nhà ra.
Vị
trí của chúng tôi yên tĩnh một cách đáng ngờ. Lực lượng bảo vệ vũ trang trong
quán café Moka đã kéo cửa sắt xuống và lấy bàn ghế dựng thành chiến luỹ. Sau
này còn có năm sáu người leo lên mái nhà, đối diện với chúng tôi, và dùng chăn
nệm dựng lên một chiến luỹ nữa, bên trên cũng có một lá quốc kì Catalonia.
Nhưng rõ ràng là họ không có ý định đánh nhau. Kopp thoả thuận với họ: nếu họ
không bắn chúng tôi thì chúng tôi cũng không bắn họ. Anh ta đã trở thành người
thân của lực lượng bảo vệ vũ trang và đã vào quán café Moka mấy lần. Đương nhiên
là họ đã cướp hết bia rượu của cửa hàng và còn tặng Kopp mười lăm chai bia nữa.
Đáp lại, Kopp cho họ một khẩu súng trường để bù vào khẩu mà họ đã đánh mất ngày
hôm trước. Nhưng ngồi trên mái nhà mãi cũng thấy khó chịu. Đôi khi chán quá,
tôi chẳng thèm để ý đến tiếng ồn ào hỗn loạn xung quanh nữa mà vùi đầu vào đọc
mấy cuốn sách, rất may là tôi đã mua được từ mấy hôm trước. Đôi khi tôi nhận
thức rất rõ rằng những người kia chỉ cách mình có mười lăm mét, họ có súng và
đang chằm chằm theo dõi nhất cử nhất động của mình. Hơi giống thời còn sống
trong chiến hào. Mấy lần tôi thấy mình gọi, theo thói quen, lực lượng bảo vệ vũ
trang là “quân phát xít”. Bình thường có sáu người trực ở trên mái. Mỗi đài
thiên văn có một người gác, số còn lại ngồi trên mái nhà làm bằng chì ở bên
dưới, ngoài hàng lan can bằng đá ra thì chẳng có gì che chắn hết. Tôi hiểu rõ
rằng lực lượng bảo vệ vũ trang có thể được lệnh khai hoả bất cứ lúc nào. Họ đã
hứa sẽ thông báo cho chúng tôi biết trước, nhưng chẳng có gì bảo đảm là họ họ
sẽ giữ lời hứa cả. Có một lần tưởng như rắc rối đã bắt đầu. Một tay bảo vệ
trước mặt tôi quì gối xuống và bắt đầu khai hoả. Lúc đó tôi đang trực trong đài
thiên văn. Hướng nòng súng vào anh ta, tôi hét lên:
“Này! Đừng bắn chúng tôi!”
“Sao?”
“Đứng bắn, chúng tôi bắn lại đấy!”
“Không, không! Tôi không bắn anh. Nhìn kìa!”
Anh ta lấy súng chỉ vào con phố nhỏ đi ngang
ngay dưới chân toà nhà của chúng tôi. Đúng là có một thanh niên mặc đồng phục
màu xanh, tay cầm khẩu súng trường đang lẻn vào góc phố. Chắc là anh ta vừa bắn
vào lực lượng bảo vệ vũ trang trên mái nhà.
“Tôi bắn thằng đó. Nó khai hoả trước” (Tôi
tin là như thế). “Chúng tôi không muốn bắn các anh. Chúng tôi chỉ là công nhân
như các anh thôi”
Anh ta giơ tay theo kiểu những người chống
phát xít vẫn chào nhau, tôi cũng làm như thể và hỏi lớn:
“Còn bia không?”
“Hết rồi”
Cũng
ngày hôm đó, không hiểu vì lí do gì mà một tay trong toà nhà do J.S.U. chiếm đóng bỗng rút súng ra và bắn vào tôi khi tôi đang
thò đầu ra ngoài cửa sổ. Có thể lúc đó tôi đã trở thành mục tiêu hấp dẫn quá.
Tôi không bắn trả. Mặc dù chỉ cách nhau chừng một trăm mét nhưng viên đạn đi
chệch đến nỗi không trúng vào mái đài thiên văn. Cũng như mọi khi, khả năng xạ
kích của người Tây Ban Nha đã cứu tôi. Sau này tôi còn bị người ta bắn mấy lần
từ toà nhà đó.
Việc
bắn nhau hãi hùng như thế cứ diễn ra hết ngày này đến ngày khác. Nhưng như tôi
thấy và nghe được thì cả hai bên đều chỉ tự vệ. Họ chỉ ở trong nhà hoặc ngồi
sau chiến luỹ và bắn như vãi đạn vào người của phía bên kia. Cách chỗ chúng tôi
chừng nửa cây số có một con phố mà văn phòng chính của lực lượng C.N.T. và U.G.T. nằm gần như quay hẳn
mặt vào nhau, tiếng súng đặc biệt dữ dội thường phát ra từ khu vực ấy. Một ngày
sau khi chiến sự kết thúc, tôi đi lang thang dọc phố và trông thấy cửa kính các
quầy hàng bị bắn lỗ chỗ chẳng khác gì những cái sàng. (Ngay khi chiến sự nổ ra
các chủ cửa hành ở Barcelona đã dán lên cửa kính những băng giấy bắt chéo lên
nhau cho nên đạn đã không làm cho chúng vỡ tung ra). Đôi khi một loạt tiểu liên
hay súng máy lại được điểm xuyết bằng tiếng nổ xé tai của một quả lựu đạn. Và
lâu lâu, có thể hơn chục lần cả thẩy, lại có một tiếng nổ khủng khiếp, lúc đó
tôi không biết là cái gì. Giống như tiếng bom ném từ máy bay xuống, nhưng không
phải vì lúc đó không có máy bay bay qua. Sau này tôi được nghe nói rằng những
tên khiêu khích đã cho nổ những khối thuốc nổ lớn nhằm tạo ra sự ồn ào và hỗn
loạn trong dân chúng, có thể là đúng như thế. Tuy vậy, không thấy tiếng nổ của
súng đại bác. Tôi có ý lắng nghe vì nếu đại bác khai hoả có nghĩa là tình hình
đã trở thành nghiêm trọng (đại bác có vai trò quyết định trong những trận đánh
trên đường phố). Sau này người ta đã đăng lên báo những câu chuyện vu vơ rằng
có những khẩu đại bác bắn trên đường phố, nhưng không ai chỉ được toà nhà nào
đã bị trúng đạn. Một người đã quen trận mạc thì không thể lầm lẫn khi nghe thấy
tiếng nổ của các loại vũ khí.
Lương
thực, thực phẩm đã bị thiếu gần như ngay từ đầu. Phải ban đêm và khó khăn lắm
mới mang được thức ăn từ khách sạn Falcón sang cho mười lăm đến hai mươi nguời
trong toà nhà hành chính của P.O.U.M. (vì quân bảo vệ vũ
trang thường dùng súng bắn tỉa trên phố Ramblas), nhưng quãng đường này trống
lắm thành ra chúng tôi thường đến khách sạn Continental để ăn. Ngay khi chiến
sự vừa nổ ra, khách sạn đã đầy ứ đủ mọi hạng người rồi. Ở đây có các nhà báo
ngoại quốc, có những người với quá khứ chính trị đáng ngờ, có một phi công
người Mĩ đang làm việc cho chính phủ, có phái viên của các đảng cộng sản khác
nhau, kể cả một tay người Nga to béo, mặt đằng đằng sát khí, nghe đâu là nhân
viên cơ quan OGPU[30],
lúc nào cũng đeo một khẩu súng lục và một quả lựu đạn xinh xắn bên hông, tên
lóng là Charlie Chan, một vài gia đình giàu có người Tây Ban Nha có vẻ như có
cảm tình với bọn phát xít, vài ba chiến sĩ từ Binh đoàn Quốc tế bị thương trở
về, mấy tay lái xe tải nặng chở cam về Pháp bị kẹt lại và khá nhiều sĩ quan
Quân đội Nhân dân. Quân đội Nhân dân vẫn giữ vai trò trung lập trong suốt cuộc
chiến, mặc dù có một số chiến sỹ đã bỏ đơn vị để đi đánh nhau với tư cách cá
nhân, sáng thứ ba vừa rồi tôi đã trông thấy vài người đứng sau chiến luỹ của
quân P.O.U.M. Lúc đầu, khi lương thực thực phẩm còn chưa thiếu
lắm và báo chí chưa kích động lòng hận thù, mọi người đều muốn coi tất cả
chuyện này chỉ là trò đùa. Năm nào ở Barcelona cũng xảy ra những chuyện như thế
này, người dân ở đây bảo như thế. George Tioli, một tay phóng viên người
Ý, bạn tốt của tôi, bỗng nhiên xuất hiện với một chiếc quần đầy máu. Hoá ra là
anh ta đi ra ngoài nghe ngóng tình hình và đang băng bó cho một người bị thương
trên hè phố thì bị một người ném lựu đạn vào, mục đích là mua vui. May là vết
thương không nặng. Tôi nhớ anh ta bảo rằng cần phải đánh số những viên đá lát
đường ở Barcelona, xây dựng đường và rỡ chiến luỹ cũng đỡ phức tạp hơn. Tôi còn
nhớ, có lần sau một đêm đứng gác, người mỏi nhừ, đói khát, tôi bắt gặp mấy
người thuộc các đơn vị quốc tế đang ngồi chơi trong phòng mình. Họ tỏ ra là
những người rất bàng quan. Nếu họ là những đảng viên tốt, đấy là tôi giả định
thế, thì họ đã thuyết phục tôi chạy sang phía họ hoặc ít nhất là tước những quả
lựu đạn trong túi tôi. Chẳng những không làm thế, họ còn tỏ vẻ thương hai tôi
vì phải đứng gác trên mái nhà trong thời gian nghỉ phép. Mọi người đều cho rằng
đây chỉ là vụ xung đột vớ vẫn giữa quân vô chính phủ và cảnh sát mà thôi. Mặc
cho qui mô của trận đánh và số người bị thương vong, tôi tin rằng điều này gần
với sự thật hơn là một vụ bạo loạn có tổ chức, theo giải thích của chính phủ.
Tình
hình bắt đầu thay đổi vào ngày thứ tư, mồng 5 tháng 5. Đường phố, hai bên cửa
đóng then cài, trông rất đáng sợ. Một vài khách bộ hành vội vã bước, tay vẫy
những chiếc khăn màu trắng, còn ở giữa phố Ramblas, nơi có những quầy hàng có
thể tránh được đạn, mấy người đang gào lên tên của những tờ báo vừa ra lò. Hôm
thứ ba tờ Solidaridad Obrera, một tờ báo của phe vô chính phủ đã gọi
cuộc tấn công tổng đài điện thoại là “một vụ khiêu khích trắng trợn” (hoặc
những từ ngữ có hiệu quả tương tự như thế), nhưng sang ngày thứ tư thì họ đổi
giọng và bắt đầu thuyết phục mọi người quay lại làm việc. Lãnh đạo phe vô chính
phủ cũng đưa ra những lời kêu gọi như thế trên đài phát thanh. Cơ quan của tờ La
Batalla, một tờ báo của phe P.O.U.M., không có phòng
vệ, đã bị lực lượng bảo vệ bố ráp và chiếm đóng cùng lúc với tổng đài điện
thoại, nhưng tờ báo vẫn được in và đem phân phát từ một địa điểm khác. Tờ báo
này kêu gọi mọi người giữ vững chiến luỹ. Dân chúng không biết nghe ai và cứ
đoán già đoán non xem chuyện này sẽ kết thúc như thế nào. Tôi ngờ rằng chưa có
ai rời bỏ chiến luỹ, nhưng mọi người cũng đã chán cuộc chiến vô nghĩa này rồi;
nó sẽ chẳng đi đến đâu vì không ai muốn đẩy nó thành một cuộc nội chiến thật
sự, thế thì sẽ thua Franko. Tất cả các bên đều nói rằng họ sợ. Theo người ta
nói thì ngay từ đầu của các thành viên C.N.T. chỉ muốn
có hai việc: chiếm lại tổng đài điện thoại và giải giáp lực lượng bảo vệ vũ
trang mà họ rất căm tức. Nếu chính phủ Catalonia hứa thực hiện hai việc ấy và
ngoài ra còn hứa chấm dứt nạn đầu cơ lương thực thực phẩm thì không nghi ngờ gì
rằng chiến luỹ sẽ được rỡ bỏ trong vòng hai giờ. Nhưng rõ ràng là chính phủ
không chịu nhượng bộ. Đang lan truyền những tin đồn xấu. Người ta đồn rằng
chính phủ Valencia đã cử sáu ngàn quân đến để chiếm đóng Barcelona, còn năm
ngàn quân vô chính phủ và P.O.U.M. cũng đã rời khỏi mặt
trận Aragon đề đến bảo vệ thành phố. Chỉ có tin đầu là đúng. Từ trên đài thiên
văn, chúng tôi trông thấy những chiếc tầu chiến đang cập cảng. Douglas Moyle,
có thời từng là thuỷ thủ, bảo rằng trông như tầu khu trục của Anh. Hoá ra đấy
đúng là tầu khu trục Anh, mặc dù mãi sau này chúng tôi mới biết như thế.
Chiều
hôm đó chúng tôi nghe nói rằng ở quảng trường Espana có bốn trăm lính thuộc lực
lượng bảo vệ vũ trang đầu hàng và giao nộp vũ khí cho quân vô chính phủ, cũng
có tin đồn rằng ở các khu ngoại ô (chủ yếu là các khu phố lao động) quân C.N.T. đã kiểm soát được tình hình. Có vẻ như chúng tôi đã
thắng. Nhưng cũng ngay chiều hôm đó, Kopp cho gọi tôi và bằng nét mặt nghiêm
trọng, anh bảo tôi rằng theo thông tin mà anh nhận được thì chính phủ sắp đưa P.O.U.M. ra ngoài vòng pháp luật và tuyên bố chiến tranh với
lực lượng này. Tôi cảm thấy choáng váng. Tôi đã hiểu ra ngay ý nghĩa của những
chuyện sẽ diễn ra sau này. Trước đó tôi đã lờ mờ nhận ra rằng sau khi chiến sự
chấm dứt, người ta sẽ đổ tất cả tội lỗi lên đầu P.O.U.M.,
đây là đảng yếu nhất và vì vậy cũng dễ trở thành vật tế thần nhất. Đấy cũng là
lúc địa vị trung lập của chúng tôi phải kết thúc. Nếu chính phủ tuyên bố chiến
tranh với chúng tôi thì chúng tôi buộc phải tự vệ. Chắc chắn là lực lượng bảo
vệ vũ trang trong toà nhà bên cạnh sẽ được lệnh tấn công chúng tôi. Chúng tôi
phải ra tay trước thì mới hi vọng. Kopp ngồi trực điện thoại. Nếu có tin chắc
chắn rằng P.O.U.M. đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật thì
chúng tôi phải sẵn sàng đánh chiếm ngay quán café Moka.
Tôi
nhớ rõ cái buổi tối dài dặc, kinh hoàng đó. Việc gia cố toà nhà được tiến hành
suốt đêm, chúng tôi đóng cửa chính lại rồi dựng
đằng sau nó một chiến luỹ bằng đá do những công nhân sửa chữa để lại. Chúng tôi
kiểm lại số vũ khí hiện có. Nếu kể cả sáu khẩu trên mái rạp phim Poliorama thì
chúng tôi có hai mươi mốt khẩu súng trường, trong đó có một khẩu hỏng, mỗi khẩu
có chừng năm mươi viên đạn, vài chục quả lựu đạn, mấy khẩu súng lục. Khoảng
mươi chiến sĩ, chủ yếu là người Đức, tình nguyện tấn công quán café Moka khi có
lệnh. Dĩ nhiên là chúng tôi phải tấn công từ trên mái nhà, ngay từ sáng sớm,
làm cho họ bị bất ngờ. Họ đông hơn, nhưng tinh thần chiến đấu của chúng tôi cao
hơn. Chắc chắn là chúng tôi sẽ chiếm được toà nhà, mặc dù sẽ có người bị giết.
Lương thực trong toà nhà đã cạn, đấy là nói nếu không kể mấy thỏi sôcôla còn
sót lại. Có tin nói rằng “chúng” sắp cắt cả nước nữa. (Không ai biết “chúng” là
ai. Có thể đấy là chính phủ, họ đang kiểm soát các nhà máy nước, mà cũng có thể
là lực lượng C.N.T. — không ai biết). Chúng tôi đổ đầy
nước vào tất cả các bồn rửa mặt, các loại xô chậu kiếm được và cuối cùng là đầy
mười lăm chai bia – dĩ nhiên là không còn bia nữa – mà cánh bảo vệ vũ trang đã
cho Kopp.
Tôi
cảm thấy chán nản vô vùng, mệt rã rời vì đã gần năm ngày đêm hầu như không được
ngủ. Đêm đã khuya. Dân chúng nằm rải rác khắp nền nhà tầng trệt, ngay sau chiến
luỹ. Tầng trên có một phòng nhỏ, có kê một bộ đi văng; chúng tôi định dùng
phòng này làm trạm cứu thương. Nhưng phải nói là trong toà nhà chẳng có một lọ
thuốc đỏ hay cuộn băng nào. Bà xã nhà tôi đã đi từ khách sạn tới đây, cô ấy sẽ
làm y tá, khi hữu sự. Tôi nằm trên đi
văng, tôi muốn ngủ chừng nửa giờ trước khi tấn công vào quán café Moka, tôi có
thể bị giết trong cuộc tấn công này. Tôi nhớ rõ cảm giác khó chịu vì khẩu súng
lục đeo ở thắt lưng cứ thúc vào mạng sườn. Tôi còn nhớ một chuyện nữa, đấy là
đột nhiên tôi thức giấc và thấy bà xã đứng ngay bên cạnh. Đã sáng rõ, nhưng
không có chuyện gì xảy ra cả, chính phủ không tuyên bố chiến tranh với P.O.U.M., nước không bị cắt và nếu không có những loạt súng nổ
hỗn loạn ngoài phố thì mọi chuyện có thể coi là bình thường. Bà xã bảo rằng
không dám gọi tôi, cô ấy ngủ trên một chiếc ghế bành trong phòng đối diện.
Chiếu
hôm đó giống như là đã ngừng bắn vậy. Tiếng súng đã lặng hẳn và đường phố đột
nhiên đầy người qua lại. Một vài cửa hàng đã kéo cửa sắt lên, ở chợ có một đám
đông người tụ tập đòi lương thực thực phẩm, mặc dù các quầy hàng hầu như trống
rỗng. Tầu điện vẫn chưa chạy. Lực lượng bảo vệ vũ trang vẫn nằm sau chiến luỹ
trong quán café Moka, chưa có bên nào dỡ bỏ chiến luỹ. Ai cũng hối hả tìm cách
mua bằng được lương thực, thực phẩm. Ở đâu cũng thấy người ta lo lắng hỏi nhau:
“Anh tin là nó chấm dứt rồi chứ? Anh có tin là nó sẽ lại bắt đầu không?”. “Nó”
- vụ bắn nhau vừa rồi - bây giờ được coi là thiên tai, giống như một trận bão
hay là trận động đất, ảnh hưởng đến tất cả mọi người nhưng không ai có đủ sức
ngăn chặn. Tôi cho rằng đã có thoả thuận ngừng bắn trong vài giờ, nhưng vài giờ
này sẽ trôi nhanh như vài phút. Và chắc chắn là tiếng súng sẽ lại bùng lên một
cách bất ngờ như những trận mưa rào mùa hạ. Mọi người sẽ lại chạy nháo nhào,
cửa sắt sẽ lại được kéo xuống, đường phố sẽ vắng ngắt giống như vừa có bàn tay
phù thuỷ ra lệnh vậy. Lính tráng sẽ lại trở về sau chiến luỹ và “nó” sẽ lại bắt
đầu một lấn nữa.
Tôi
quay lại vị trí của mình ở trên mái nhà, thâm tâm cảm thấy vô cùng phẫn nộ và
giận dữ. Khi tham gia vào những sự kiện như thế này, tôi cho rằng người ta có
quyền cảm thấy mình là một nhân vật lịch sử vì dù sao thì họ cũng đang là người
sáng tạo ra lịch sử. Nhưng chuyện đó không bao giờ xảy ra vì trong những giờ
phút như thế bao giờ những việc nhỏ nhen cũng che lấp hết mọi thứ khác. Suốt
trong thời gian đánh nhau, chưa bao giờ tôi “phân tích” được đúng tình hình,
thế mà những nhà báo ngồi cách đó cả trăm dặm lại làm một cách ngon ơ. Điều tôi
nghĩ đến nhiều nhất không phải là cái đúng và cái sai của vụ đụng độ huynh đệ
tương tàn đáng thương này mà là những điều bực dọc và chán nản do phải ngồi suốt
ngày đêm trên cái mái nhà khốn kiếp, và cái đói đang hành hạ càng ngày càng dữ
dội thêm - từ hôm thứ hai đến giờ chưa có ai được ăn lấy một bữa no. Suốt thời
gian đó tôi luôn nghĩ rằng mình phải trở lại mặt trận ngay sau khi việc này
chấm dứt. Nó làm tôi phát điên lên được. Tôi đã có mặt ở mặt trận đúng một trăm
mười lăm ngày và trở lại Barcelona với ước muốn duy nhất là thư giãn và hưởng
thụ một thời gian. Thế mà tôi lại phải ngồi ở trên một cái mái nhà, ngay trước
mặt lực lượng bảo vệ vũ trang, những kẻ cũng buồn chán như tôi, lại còn thỉnh
thoảng vẫy tay, cam đoan rằng họ là “công nhân” (hi vọng rằng tôi sẽ không
bắn), nhưng chắc chắn họ sẽ bắn khi có lệnh. Nếu đây là lịch sử thì rõ ràng là
chúng tôi không cảm nhận được nó. Chẳng khác gì giai đoạn tồi tệ trên mặt trận
khi thiếu người và chúng tôi phải đứng gác rất lâu. Đã không thành anh hùng lại
còn phải đứng gác, chán ngán, gục xuống vì buồn ngủ và mặc kệ mọi sự, muốn ra
sao thì ra.
Trong
khách sạn với đủ mọi hạng người mà đa số chẳng dám thò mặt ra khỏi cửa, không
khí ngờ vực khủng khiếp đang ngày càng gia tăng. Những kẻ bị mắc chứng hoang
tưởng thấy ai cũng là gián điệp, không gián điệp của cộng sản thì cũng của phái
Trotskyist hay của phe vô chính phủ, hay có trời mới biết là của phe phái nào.
Tay nhân viên to béo người Nga nắm áo tất cả những người tị nạn ngoại quốc và
giải thích một cách dẻo quẹo rằng tất cả mọi chuyện đều là do âm mưu của phe vô
chính phủ mà ra. Tôi cảm thấy vui khi quan sát anh ta vì nếu không kể cánh báo
chí thì đây là lần đầu tiên tôi trông thấy một người mà nghề nghiệp chính là
nói dối. Trong cái trò bắt chước đời sống của một khách sạn sang trọng đằng sau
những cánh cửa sắt đóng kín, trong khi những loạt đạn súng trường nổ ngay bên
cạnh, ẩn chứa một cái gì đó thật tởm lợm. Một viên đạn xuyên qua cửa sổ và làm
sứt một cái cột trong phòng ăn phía trước, thế là không còn ai vào phòng này
nữa. Tất cả khách tụ tập trong cái phòng âm u tối ở phía sau, bàn ghế lúc nào
cũng thiếu. Nhân viên cũng giảm - một số là thành viên C.N.T.
và đã tham gia vào cuộc tổng bãi công - tạm thời quyết định không mặc những
chiếc áo cổ cứng, nhưng thức ăn vẫn được phục vụ với vẻ long trọng như cũ.
Nhưng thức ăn thì chẳng có gì. Chiều thứ năm hôm đó món chính chỉ là một con cá mòi. Đã mấy ngày liền không
có bánh mì, rượu vang cũng cạn dần, càng ngày chúng tôi càng uống những loại
vang lâu đời hơn, mà giá cũng ngày càng cao hơn. Mấy ngày sau khi chiến sự kết
thúc cũng vẫn chưa có đủ lương thực thực phẩm. Tôi nhớ, suốt ba ngày liền, bữa
sáng hai vợ chồng tôi chỉ ăn một miếng phó mát nhỏ làm từ sữa dê, không bánh
mì, không đồ uống. Chỉ có cam là nhiều. Mấy tay lái xe tải người Pháp mang rất
nhiều cam vào khách sạn. Bọn này trông khá bặm trợn, có mấy cô gái Tây Ban Nha
ăn mặc sặc sỡ và một tay bốc vác to con mặc bộ đồng phục màu đen đi cùng. Lúc
khác thì tay quản lí khách sạn hống hách kia sẽ tìm mọi cách nhằm gây khó khăn
cho mấy tay lái xe nọ, thậm chí không cho họ vào khách sạn, nhưng hiện nay họ
được nhiều người biết, vì khác với chúng tôi, họ có khá nhiều bánh mì và chúng
tôi thường đến xin mỗi người một ít.
Đấy
là đêm cuối cùng tôi trực trên mái nhà, sáng hôm sau cuộc chiến tưởng chừng như
là đã chấm dứt. Tôi mường tượng là hôm đó, thứ sáu, không còn nhiều tiếng súng
nữa. Không ai biết là các đơn vị từ Valencia đã đến hay chưa. Thực ra là chiều
hôm đó họ mới tới. Loa phóng thanh truyền đi thông điệp của chính phủ, vừa vỗ
về vừa đe doạ, kêu gọi mọi người ai về
nhà nấy và nói rằng ai sau giờ đó, giờ đó.. mà còn mang theo vũ khí thì sẽ bị
bắt. Mặc dù chẳng ai để ý đến lời kêu gọi của chính phủ, nhưng dân chúng cũng
đã nhanh chóng rời bỏ chiến luỹ. Tôi tin rằng thiếu lương thực là nguyên nhân
chủ yếu. Khắp nơi người ta đều nói: “Hết
lương thực rồi, phải đi làm thôi.” Trong khi đó lực lượng bảo vệ vũ trang, tức
là những người biết rằng khi nào thành phố còn lương thực thì họ sẽ có suất,
vẫn không rời vị trí. Đến chiều thì đường phố đã trở lại gần như bình thường,
mặc dù các chiến luỹ vẫn còn y nguyên. Ramblas chật ních người, hầu như tất cả
các cửa hàng đều đã mở và điều làm người ta yên lòng nhất là mấy đoàn tàu điện,
sau bao nhiêu ngày đứng im như hoá đá, đã rùng mình mấy cái và bắt đầu chạy.
Lực lượng bảo vệ vũ trang vẫn đóng trong quán café Moka và chưa hạ chiến luỹ
xuống, nhưng một vài người đã mang ghế ra vỉa hè ngồi chơi, súng kẹp giữa hai
đầu gối. Khi đi ngang qua tôi đã nháy mắt với một tay bảo vệ, hắn cũng mỉm cười
đáp lại. Chắc chắn là hắn đã nhận ra tôi. Lá cờ của quân vô chính phủ bên trên
tổng đài điện thoại đã được kéo xuống, chỉ có lá cờ của Catalonia là còn treo ở
đấy. Nghĩa là công nhân đã hoàn toàn thất bại. Tôi biết - mặc dù do ngu dốt về
chính trị tôi không nhận thức được rõ lắm – là một khi chính phủ đã cảm thấy tự
tin thì sẽ có đàn áp. Nhưng lúc đó tôi không quan tâm đến vấn đề này. Tôi chỉ
cảm thấy nhẹ người: súng không còn nổ nữa, có thể đi mua thức ăn và nghỉ ngơi,
thư giãn vài ngày trước khi lên đường trở lại mặt trận.
Chắc
chắn là phải gần nửa đêm những đơn vị đầu tiên từ Valencia mới xuất hiện trên
đường phố. Đấy là lực lượng xung phong, tương tự như bảo vệ vũ trang và cảnh
sát vũ trang (tức là những đơn vị làm nhiệm vụ cảnh sát là chính) và các đơn vị
tinh nhuệ của Quân đội Cộng hoà. Họ đến một cách bất ngờ như vừa chui ở dưới
đất lên vậy, ở đâu cũng thấy những một nhóm tuần tra, chừng mười người, cao to,
mặc đồng phục màu xám hoặc xanh nhạt, súng trường nòng dài lủng lẳng trên vai,
mỗi nhóm lại có một khẩu súng máy. Còn chúng tôi thì phải làm một công việc
phải nói là tế nhị. Sáu khẩu súng mà chúng tôi sử dụng trong khi gác trên mái
đài thiên văn vẫn còn nằm nguyên trên đó, phải tìm mọi cách mang về trụ sở của P.O.U.M. Vấn đề chỉ là mang mấy khẩu súng đó qua một con phố
mà thôi. Đấy là một phần trang bị của trụ sở, nhưng mang ra phố là vi phạm lệnh
của chính phủ. Nếu họ trông thấy đang mang vũ khí thì nhất định sẽ bị bắt và
quan trọng hơn nữa là súng sẽ bị tịch thu.
Trong trụ sở chỉ có tất cả hai mươi mốt khẩu, chúng tôi không được phép
để mất sáu khẩu đó. Sau một hồi thảo luận, tôi và một cậu người Tây Ban Nha tóc
vàng bắt đầu bí mật mang súng ra ngoài. Lừa đám xung phong thì tương đối dễ,
nhưng bọn bảo vệ vũ trang trong quán café Moka thì khó vì họ biết chúng tôi có
để súng trên đài thiên văn và có thể đi báo nếu họ nhìn thấy chúng tôi mang
súng ra ngoài. Chúng tôi cởi áo ngoài ra, đeo súng vào vai trái, báng kẹp nách
còn nòng thì đút vào trong ống quần. Nhưng thật đáng tiếc, đây là loại Mauser
khá dài. Ngay cả một người cao như tôi cũng không thể nhét khẩu Mauser vào
trong ống quần mà có thể đi lại một cách bình thường được. Đi theo cái cầu thang
xoắn ốc của đài thiên văn với chân trái cứng đơ, bất động đúng là một khổ hình.
Ra đến phố chúng tôi mới phát hiện ra rằng phải đi thật chậm, chậm đến mức
không cần co đầu gối. Bên cạnh rạp phim có một đám người tò mò nhìn theo cách
đi như rùa bò của tôi. Tôi thường tự hỏi không biết những người đó nghĩ gì về
tôi. Có lẽ họ cho là tôi bị thương. Dù sao mặc lòng, tất cả súng đã được bí mật
mang qua đường mà không xảy ra một sự cố nào.
Ngày
hôm sau, người của lực lượng xung phong đã đi đầy đường, chẳng khác gì bọn xâm
lược. Không nghi ngờ gì rằng chính phủ muốn phô trương lực lượng để doạ dẫm dân
chúng, chứ họ biết rõ là sẽ không có sự chống đối nào. Nếu quả thật họ sợ rằng
sẽ có bạo động thì quân xung phong đã bị cấm trại chứ không được đi lang thang
thành từng tốp nhỏ như thế. Đấy là những người lính tuyệt vời, tuyệt hơn tất cả
đơn vị tôi đã thấy ở Tây Ban Nha, và mặc dù theo nghĩa nào đó thì họ là “kẻ
thù” nhưng tôi vẫn khoái ngắm họ. Tôi không khỏi lấy làm ngạc nhiên mỗi khi
nhìn thấy họ đi lại trên đường phố. Tôi đã quen với những người dân quân rách
rưới, trang bị tồi ở mặt trận vùng Aragon và không thể biết rằng chính phủ còn
có những đội quân như thế này. Không chỉ khoẻ mạnh và cân đối, vũ khí của họ
mới là cái làm cho tôi ngạc nhiên. Tất cả đều đeo những khẩu súng trường mới
cứng, thường gọi là “súng trường Nga” (được gửi tới từ Liên Xô nhưng tôi tin là
sản xuất ở Mỹ). Tôi đã từng xem một khẩu như thế rồi. Chưa thể gọi là lí tưởng,
nhưng thật là một trời một vực so với những khẩu cổ lỗ sĩ mà chúng tôi đã dùng
ngoài mặt trận. Lính xung phong, mỗi người có một khẩu súng lục, mười người một
khẩu súng máy. Còn chúng tôi, khoảng năm mươi người mới có một khẩu súng máy,
còn súng lục thì chỉ có cách là mua trộm. Mặc dù trước đây tôi không biết,
nhưng sự thật là ở đâu cũng như thế cả. Cánh bảo vệ vũ trang và cảnh sát vũ
trang, những người không bao giờ phải ra mặt trận, lại được trang bị tốt hơn và
ăn mặc nghiêm chỉnh hơn chúng tôi. Tôi ngờ rằng chiến tranh luôn luôn là như
thế: bao giờ cũng có sự tương phản giữa những tay cảnh sát bóng mượt ở hậu
phương và những người lính rách rưới ngoài mặt trận. Nói chung, chỉ một hai
ngày sau là lính xung phong đã hoà đồng với dân chúng rồi. Ngày đầu tiên cũng
có một vài rắc rối vì lính xung phong đã có những hành động mang tính khiêu
khích – tôi cho là họ hành động theo lệnh trên. Họ nhảy lên tàu điện, khám
người đi tàu, nếu tìm được thẻ đoàn viên C.N.T. thì xé
đi và lấy chân dẫm lên. Có vài vụ ấu đả với quân vô chính phủ và một vài người
đã bị giết. Nhưng ngay sau đó quân xung phong đã bỏ thái độ hống hách và quan
hệ trở thành hữu hảo hơn. Chỉ vài ngày sau là đa số đã kiếm được gái.
Những
cuộc đụng độ ở Barcelona đã tạo cho chính quyền Valencia cơ hội, họ đã chờ đợi
cơ hội này từ lâu, nhằm kiểm soát hoàn toàn Catalonia. Lực lượng dân quân của
công nhân sẽ bị giải thể và cho nhập vào các đơn vị Quân đội Nhân dân. Cờ của
nước Cộng hoà Tây Ban Nha tung bay trên khắp bầu trời Barcelona — đây là lần
đầu tiên tôi trông thấy lá cờ này, đấy là không kể những lần thấy nó được cắm trên
chiến hào quân phát xít. Chiến luỹ trong các khu lao động đang được rỡ bỏ,
nhưng thường là từng đoạn một, vì dựng chiến luỹ thì dễ mà đặt những phiến đá
lát đường vào chỗ cũ thì khó hơn nhiều. Chiến luỹ bên ngoài trụ sở P.S.U.C. vẫn được để lại, thực ra nhiều đoạn còn đứng yên mãi
đến cuối tháng sáu mới bị rỡ bỏ. Lực lượng bảo vệ vũ trang vẫn tiếp tục nắm giữ
các vị trí chiến lược xung yếu. C.N.T bị tịch thu khá nhiều vũ khí, nhưng tôi
ngờ rằng họ cũng đã giấu được khá nhiều. Tờ La Batalla vẫn xuất hiện đều đặn, nhưng vì bị kiểm
duyệt cho nên trang nhất hầu như bị bỏ trắng hoàn toàn. Báo chí của P.S.U.C. không bị kiểm duyệt và đã cho đăng những bài có tính
kích động, đòi cấm không cho P.O.U.M. hoạt động. Họ
tuyên bố rằng P.O.U.M. là tổ chức phát xít trá hình.
Thành viên của P.S.U.C. đem phân phát khắp thành phố bức biếm hoạ vẽ một người
đánh rơi chiếc mặt nạ có hình búa liềm và bên trong hiện ra bộ mặt khủng khiếp
với hình chữ thập ngoặc. Như vậy là người ta đã chính thức xác định nguyên nhân
vụ đụng độ ở Barcelona: đây là vụ nổi loạn của “đội quân thứ năm” của bọn phát
xít, do P.O.U.M. kích hoạt.
Sau
khi chiến sự kết thúc, không khí nghi ngờ và thù địch trong khách sạn vốn đã
khủng khiếp lại càng gia tăng hơn nữa. Nếu ở đâu cũng thấy người ta kết án nhau
thì giữ thái độ trung lập là việc bất khả thi. Bưu điện lại làm việc, báo chí
cộng sản nước ngoài cũng bắt đầu xuất hiện trở lại, nhưng những bài viết về
cuộc đụng độ vừa qua thì vừa thiên lệch vừa thiếu chính xác một cách nghiêm
trọng. Tôi nghĩ rằng một số người cộng sản có mặt tại trận, tức là những người
đã chứng kiến những sự kiện diễn ra trên thực tế, đã bị bối rối vì những lời
giải thích của báo chí, nhưng dĩ nhiên là họ đành phải ngậm miệng. Anh bạn cộng
sản của tôi lại tới và hỏi xem tôi có muốn ra nhập các Binh đoàn Quốc tế nữa
không.
Tôi
rất ngạc nhiên. “Báo chí của các anh nói tôi là phát xít rồi mà”, tôi bảo. “Từ
P.O.U.M. chạy sang thì tôi sẽ bị nghi ngờ ngay”.
“Không thành vấn đề. Thực ra anh cũng chỉ
thực hiện mệnh lệnh thôi mà”.
Tôi
buộc phải nói với anh ta rằng sau vụ này, tôi không thể ra nhập các đơn vị do
cộng sản kiểm soát được nữa. Tham gia vào các đơn vị đó thì trước sau gì tôi
cũng sẽ bị sử dụng để chống lại giai cấp công nhân mà thôi. Không thể nói rằng
khi nào thì chuyện đó sẽ lại xảy ra một lần nữa. Nhưng nếu phải sử dụng vũ khí
trong trường hợp như thế thì tôi sẽ đứng về phía giai cấp công nhân chứ không
phải là chống lại họ. Anh ta tỏ ra rất thông cảm với những điều tôi nói. Nhưng
tình hình đã thay đổi. Không còn có cảnh “đồng ý có những khác biệt” và không
thể làm một vại bia với người bất đồng chính kiến nữa rồi. Đã xảy ra vài cuộc
cãi vã trong tiền sảnh khách sạn. Nhà tù thì đầy nhóc người. Sau khi chiến sự
kết thúc, quân vô chính phủ đã thả hết tù binh nhưng lực lượng bảo vệ vũ trang
lại không thả. Chẳng những thế, họ còn đưa tù nhân vào trại giam, giữ ở đó, mấy
tháng liền mà không đem ra xét xử. Nhiều người hoàn toàn vô tội đã bị cảnh sát
bắt oan. Bên trên tôi đã nói rằng Douglas Thompson bị thương ngay từ đầu tháng
tư. Chúng tôi bị mất liên lạc với anh ta, chuyện đó thường hay xảy ra với
thương binh vì thương binh được chuyển hết bệnh viện này đến bệnh viện khác.
Anh ta được đưa đến bệnh viện ở Tarragona rồi quay lại Barcelona vào khoảng
thời gian nổ ra chiến sự. Tôi gặp anh trên đường phố vào sáng thứ ba. Anh ta tỏ
ra hết sức kinh ngạc khi nghe thấy tiếng súng vang lên khắp nơi và hỏi, như mọi
người đều hỏi hôm đó:
“Có chuyện gì thế nhỉ?”
Tôi giải thích theo cách hiểu của mình.
Thompson nói ngay:
“Tôi sẽ tránh xa vụ này. Tay tôi vẫn còn đau.
Tôi phải quay lại và ở lì trong đó thôi.”
Anh
ta quay lại khách sạn, nhưng thật không may là khách sạn đó lại nằm trong khu
vực do lực lượng bảo vệ vũ trang kiểm soát (trong những trận đánh nhau trên
đường phố như thế này, nắm được địa hình khu vực là hệ trọng lắm!). Khách sạn
bị khám xét. Thompson bị bắt rồi bị tống vào nhà giam chật ních người, không có
chỗ nào đặt lưng và bị giam tám ngày liền. Nhiều người bị như thế. Nhiều người
ngoại quốc có lí lịch chính trị đáng ngờ phải bỏ trốn, nơm nớp lo sợ bị cáo
giác vì cảnh sát thường xuyên tung lực lượng truy lùng họ. Khổ nhất là người Ý
và người Đức, tức là những người không có hộ chiếu và cũng đang bị cảnh sát mật
của chính nước mình săn đuổi. Nều bị bắt, chắc chắn họ sẽ bị trục xuất sang
Pháp, cũng có nghĩa là có thể bị đưa trở lại nước Ý hay nước Đức, chỉ có Trời
mới biết những sự khổ ải đang chờ họ ở đấy mà thôi. Một hai cô gái ngoại quốc
đã vội vã làm đám cưới giả với đàn ông Tây Ban Nha, đấy cũng là một lối thoát.
Một cô gái người Đức không có bất cứ giấy tờ gì đã trốn cảnh sát bằng cách đóng
giả tình nhân của một người đàn ông Tây Ban Nha suốt mấy ngày. Tôi còn nhớ nét
mặt ngượng ngùng và khổ sở của cô khi vô tình gặp cô đi ra khỏi phòng ngủ của
người đàn ông nọ. Dĩ nhiên, cô không phải là tình nhân của người đàn ông đó,
nhưng chắc chắn là cô nghĩ rằng tôi coi cô là người như thế. Lúc nào người ta
cũng có cảm giác bực bội khi nghĩ rằng một người bạn cũ nào đó có thể đang tố
cáo mình với cảnh sát mật. Cơn ác mộng kéo dài của cuộc giao tranh, những tiếng
ồn ào, đói ăn và buồn ngủ, tâm trạng căng thẳng và buồn chán khi ngồi canh gác
trên mái nhà cùng với ý nghĩ rằng khi nào thì mình bị bắn hay khi nào thì mình
phải bắn vào một người nào đó làm thần kinh tôi muốn vỡ bung ra. Căng thẳng đến
mức vừa nghe thấy tiếng kẹt cửa là tôi đã nắm lấy súng lục rồi. Sáng thứ bảy
lại có tiếng nổ rộ lên ở bên ngoài, mọi người cùng hét lên: “Lại bắt đầu rồi!”
Tôi chạy ra ngoài, hoá ra mấy tay thuộc lực lượng xung phong bắn một con chó
điên. Những người đã từng có mặt ở Barcelona lúc đó, hoặc hàng tháng sau đó, sẽ
không thể nào quên được không khí kinh hoàng do nỗi sợ hãi, sự ngờ vực, lòng
hận thù, báo chí bị kiểm duyệt, nhà tù chật cứng người, những đám người chen
nhau mua lương thực thực phẩm và từng nhóm vũ trang lảng vảng khắp nơi, tạo ra.
Tôi
đã cố gắng ghi lại cảm tưởng của một người từng có mặt ở Barcelona đúng vào lúc
diễn ra những trận giao tranh trên đường phố. Tôi không nghĩ rằng mình đã
chuyển tải được đầy đủ sự kì quặc của tình hình lúc đó. Mỗi khi nhớ lại, trong
đầu tôi lại hiện ra những người không tham gia vào cuộc giao tranh mà tôi vô
tình gặp gỡ trong thời gian đó, đối với họ tất cả đơn giản chỉ là một vụ ồn ào
vô nghĩa lí. Tôi vẫn nhớ hình dáng một người đàn bà ăn mặc hợp thời trang, với
một chiếc làn đi chợ khoác trên một tay còn tay kia thì dắt sợi xích buộc một
con chó nhỏ, đi trên phố Ramblas, đúng vào lúc tiếng súng đang rộ lên trên một
hai dãy phố gần đấy. Tôi nghĩ rằng bà ấy điếc. Hay hình ảnh người đàn ông chạy
qua quảng trường Cataluña không một bóng người, mỗi bàn tay đều có một chiếc
khăn mùi xoa trắng. Và đây là hình ảnh một nhóm khá đông người mặc quần áo màu
đen, cả tiếng đồng hồ tìm cách đi ngang qua quảng trường Cataluña mà không
được. Cứ mỗi lần họ ló đầu ra khỏi góc phố là súng máy của lực lượng P.S.U.C. trong khách sạn Colón lại bắn và buộc họ phải lùi lại
– không biết là tại làm sao vì rõ ràng là họ không có súng. Tôi nghĩ rằng đấy
là đám ma. Rồi hình ảnh một người đàn ông nhỏ nhắn, bảo vệ viện bảo tàng bên
trên rạp chiếu phim Poliorama, có vẻ như ông ta coi tất cả chỉ là trò đùa. Ông
rất vui khi thấy có cả một người Anh đến thăm - người Anh dễ thương lắm, ông bảo thế. Ông hi vọng rằng khi những sự lộn xộn
như thế này chấm dứt, chúng tôi sẽ lại đến thăm ông. Sau đó tôi có đến thăm ông
như đã hứa. Một ông già nhỏ bé nữa, đứng nép bên cánh cửa, vui vẻ nhìn về phía
quảng trường Cataluña đang bị bắn như vãi đạn từ mọi phía và bảo (như là nói về
một buổi sáng đẹp trời vậy): “Lại một ngày mười chín tháng bảy nữa rồi!” Và
những người trong cửa hàng giày, nơi tôi đặt đóng một đôi ủng. Tôi đến đó ba
lần: trước và sau khi xảy ra giao tranh, lúc có ngừng bắn hôm mồng 5 tháng 5
tôi cũng rẽ vào trong vòng vài phút. Đấy là một cửa hàng bán toàn giày đắt
tiền, những người làm ở đây là thành viên công đoàn U.G.T., mà
cũng có thể có cả đoàn viên công đoàn P.S.U.C. nữa. Dù thế nào thì họ
cũng là những người đối lập với tôi về mặt chính trị và họ biết là tôi đang
chiến đấu trong lực lượng của P.O.U.M. Nhưng họ lại tỏ
ra thờ ơ với mọi chuyện. “Thật đáng tiếc là lại xảy ra những chuyện như thế.
Làm ăn càng khó khăn thêm. Làm sao chấm dứt mau thì tốt! Bắn nhau ngoài mặt
trận còn chưa đủ hay sao!”..v.v.. Chắc chắn là có nhiều người, mà có thể là
phần lớn dân chúng Barcelona, chẳng hề quan tâm đến các sự kiện ở đây, hoặc là
chỉ chú ý đến chúng như chú ý đến những vụ không kích mà thôi.
Trong chương này tôi mới chỉ kể về trải
nghiệm của cá nhân mình. Trong chương sau tôi sẽ cố gắng thảo luận những vấn đề
rộng lớn hơn, tức là cố gắng trình bày những sự kiện đã diễn ra trên thực tế,
ai đúng, ai sai, ai phải chịu trách nhiệm. Cần phải đánh giá một cách khách
quan vì có một số người đã lợi dụng những vụ đụng độ ở Barcelona. Vấn đề này đã
được viết quá nhiều rồi, có thể in thành mấy cuốn sách dày và tôi nghĩ rằng
không phải là phóng đại khi nói rằng 90% là bịa đặt. Hầu như tất cả các bài báo
xuất bản trong thời gian đó đều do những kí giả ở xa mặt trận bịa ra, không
những thiếu chính xác mà còn cố tình xuyên tạc sự thật nữa. Thường thì chỉ một
phía được phép trình bày trước công luận mà thôi. Giống như tất cả những người
có mặt ở Barcelona trong thời gian đó, tôi chỉ nhìn thấy những điều xảy ra ngay
bên cạnh, nhưng những điều tôi nhìn và nghe thấy cũng đủ phản bác lại nhiều
chuyện dối trá được người ta loan truyền khắp nơi. Như trước đây tôi đã nói,
độc giả nào không quan tâm đến những cuộc tranh cãi chính trị, không quan tâm
đến các đảng phái và các tiểu đảng phái với những cái tên có thể làm người ta
rối trí (chẳng khác gì tên các tướng lĩnh Trung Hoa) có thể bỏ qua chương này.
Tìm hiểu những cuộc tranh cãi nội bộ trong các đảng phái là việc làm khủng
khiếp, chẳng khác gì lặn hụp trong một hố phân. Nhưng đây lại là việc cần làm
nếu ta có ý định phục hồi lại sự thật. Những vụ cãi vã bẩn thỉu ở một thành phố
xa xôi có thể có ý nghĩa quan trọng hơn là ta tưởng lúc ban đầu.
Sẽ không bao giờ có được một bản báo cáo hoàn
toàn chính xác và không thiên vị về trận đụng độ ở Barcelona vì không có những
tài liệu cần thiết. Các nhà sử học tương lai sẽ chẳng có gì ngoài những lời buộc
tội lẫn nhau và những tài liệu tuyên truyền mang tính đảng phái. Chính tôi cũng
có rất ít tư liệu, tôi chỉ dựa vào những điều mắt tôi nhìn thấy và những điều
tai tôi nghe được từ những người chứng kiến tin cậy được mà thôi. Tuy nhiên,
tôi có thể phản bác một số điều dối trá trắng trợn và sắp xếp các sự kiện vào
một mối tương quan nhất định.
Trước
hết, đã xảy ra chuyện gì?
Trước đây một thời gian, căng thẳng đã xảy ra
trên khắp vùng Catalonia. Trong những chương trước tôi đã nói đến cuộc đấu
tranh giữa những người cộng sản và những người theo phái vô chính phủ rồi. Đến
đầu tháng 5 năm 1937, tình hình căng thẳng đến mức bạo lực là không thể tránh
được. Nguyên nhân trực tiếp là lệnh của chính phủ buộc phải giao nộp tất cả vũ
khí cá nhân, trùng hợp với quyết định xây dựng lực lượng cảnh sát “phi chính
trị” được trang bị một cách đầy đủ, không còn các công đoàn viên nữa. Ý nghĩa của nó thì ai cũng rõ. Bước tiếp theo
sẽ là kiểm soát những ngành công nghiệp chủ chốt hiện đang nằm trong tay C.N.T. Ngoài ra, giai cấp công nhân còn bất mãn vì khoảng cách
giàu nghèo ngày một gia tăng và cảm giác chung của mọi người là cuộc cách mạng
đã bị phản bội. Nhiều người còn phấn khởi, ngạc nhiên khi bạo loạn không nổ ra
vào ngày 1 tháng 5. Ngày 3 tháng 5 chính phủ quyết định chiếm tổng đài điện
thoại mà ngay từ đầu cuộc chiến đã do các công nhân thuộc C.N.T.
vận hành. Lí do là nó hoạt động kém và các cuộc gọi của chính phủ đã bị nghe
trộm. Salas, Giám đốc Sở cảnh sát điều ba ô tô tải chở đầy lính bảo vệ vũ trang
đến chiếm toà nhà (ông ta có vượt quyền hay không thì chưa rõ), các khu phố
xung quanh bị cảnh sát vũ trang mặc thường phục bao vây chặt. Cùng thời gian
đó, các đơn vị bảo vệ vũ trang cũng chiếm các toà nhà nằm ở các vị trí chiến
lược. Dù mục đích thực sự có như thế nào thì mọi người cũng đều tin rằng đây là
tín hiệu để cho lực lượng bảo vệ vũ trang và P.S.U.C. (cộng sản và xã hội) tấn
công vào C.N.T. Khắp nơi trong thành phố, người ta đồn rằng các
toà nhà do công đoàn nắm giữ đang bị tấn công, lực lượng vũ trang vô chính phủ
xuất hiện trên đường phố, công nhân ngừng việc, chiến sự bùng lên ngay lập tức.
Đêm đó và sáng hôm sau chiến luỹ được dựng lên khắp nơi, mãi đến sáng mồng 6
tháng 5 chiến sự vẫn chưa chấm dứt. Nhưng ở cả hai bên, cuộc chiến chỉ có tính
phòng vệ. Các ngôi nhà đã bị bao vây, nhưng theo tôi biết thì không có cuộc tấn
công đánh chiếm nào, pháo binh cũng không được sử dụng. Về đại thể, lực lượng
C.N.T.—F.A.I.—P.O.U.M.
chiếm giữ các khu phố lao động ở ngoại ô, cảnh sát vũ trang và lực lượng P.S.U.C. giữ khu trung tâm và khu hành chính của thành phố.
Ngày mồng 6 tháng 5 có thoả thuận ngừng bắn, nhưng chiến sự lại nổ ra ngay sau đó
vì lực lượng bảo vệ vũ trang định tước vũ khí của công nhân-đoàn viên công đoàn
C.N.T. Nhưng sáng hôm sau, dân chúng tự ý rời bỏ chiến luỹ.
Trước đó, tức là đến trước đêm này mồng 5 tháng 5 lực lượng C.N.T. vẫn
giữ thế thượng phong, có khá nhiều lính bảo vệ vũ trang đầu hàng. Nhưng công
nhân không có ban lãnh đạo chính thức được mọi người chấp nhận, không có một kế
hoạch xác định - thực ra là chẳng có một kế hoạch nào, họ chỉ có mỗi quyết tâm
mơ hồ là phải chống lại lực lượng bảo vệ vũ trang mà thôi. Những người lãnh đạo
của C.N.T. đã cùng với lãnh đạo U.G.T.
kêu gọi dân chúng trở lại làm việc, trước hết là vì lương thực thực phẩm đã
cạn. Trong những hoàn cảnh như thế, không ai dám chắc kết quả sẽ như thế nào
nếu còn tiếp tục đánh nhau. Đến chiều ngày mồng 7 tình hình đã gần như đã trở
lại bình thường. Tối hôm đó, sáu ngàn quân xung phong được đưa từ Valencia tới
bằng đường biển và họ kiểm soát toàn bộ thành phố. Chính phủ ra lệnh cho các
lực lượng không chính qui phải giao nộp toàn bộ vũ khí. Trong vòng có vài ngày
một số lượng lớn vũ khí đã bị tịch thu. Theo số liệu chính thức, trong thời
gian diễn ra chiến sự đã có bốn trăm người bị giết và khoảng một ngàn người bị
thương. Bốn trăm người bị giết có thể là phóng đại, nhưng vì không có cách nào
kiểm tra nên chúng ta đành phải chấp nhận vậy.
Thứ hai, về hậu quả của cuộc xung đột. Không
có gì chắc chắn cả. Không có bằng chứng nào chứng tỏ vụ đụng độ ảnh hưởng trực
tiếp tới tình hình mặt trận, nhưng chắc chắn sẽ có ảnh hưởng nếu nó kéo dài
thêm vài ngày nữa. Đấy là cái cớ để cho Valencia kiểm soát hoàn toàn Catalonia
nhằm đẩy nhanh việc giải tán lực lượng dân quân và đàn áp P.O.U.M.,
và không nghi ngờ gì rằng vụ đụng độ này đã góp phần làm sụp đổ chính phủ của
Caballero. Nhưng những sự kiện này chắc chắn sẽ xảy ra dù có xung đột hay là
không. Vấn đề là những người công nhân-công đoàn viên C.N.T.
được hay thua trong cuộc chiến này. Chỉ có thể đoán, nhưng tôi cho rằng họ được
nhiều hơn mất. Vụ chiếm tổng đài điện thoại Barcelona chỉ là một tình tiết
trong một loạt các sự kiện. Công đoàn đã mất dần quyền lực ngay từ năm ngoái và
xu hướng chung là quyền kiểm soát chuyển dần từ tay giai cấp công nhân sang
chính quyền trung ương, sang chủ nghĩa tư bản nhà nước, mà cũng có thể là đang
dẫn đến sự phục hồi chủ nghĩa tư bản tư nhân. Sự phản đối chỉ có thể làm cho
quá trình diễn ra một cách chậm chạp hơn. Một năm sau khi chiến tranh nổ ra,
công nhân vùng Catalonia đã đánh mất khá nhiều quyền lực, nhưng họ vẫn có vị
trí tương đối thuận lợi. Địa vị của họ sẽ kém hơn nhiều nếu họ cúi mặt làm ngơ
trước bất kì vụ khiêu khích nào. Có những lúc thà đánh nhau mà thua còn hơn là
không đánh đấm gì hết.
Thứ ba, đánh nhau để làm gì? Đây có phải là
một vụ đảo chính hay một hành động
cách mạng không? Có phải mục tiêu cuối cùng là lật đổ chính phủ không? Nói
chung, mục tiêu đã được hoạch định hay chưa?
Cá nhân tôi cho rằng vụ đụng độ đã được hoạch
định theo nghĩa là mọi người đều tin rằng nhất định nó sẽ xảy ra. Không có dấu
hiệu nào chứng tỏ rằng các bên đã có sẵn kế hoạch từ trước. Hành động của quân
vô chính phủ gần như chắc chắn là mang tính tự phát vì các đảng viên thường
tham gia là chủ yếu. Quần chúng đổ ra đường phố, còn lãnh đạo thì miễn cưỡng đi
theo hoặc hoàn toàn không theo. Chỉ có “Những người bạn của Durruti”, một nhóm
cực tả, chẳng có mấy thành viên trong lực lượng F.A.I. và P.O.U.M.
là nói theo tinh thần cách mạng mà
thôi. Nhưng họ cũng chỉ đi theo chứ không phải là lực lượng lãnh đạo. Những
người bạn của Durruti đem phân phát những tờ truyền đơn cách mạng, nhưng đấy là
ngày mồng 5 và không thể nói rằng truyền đơn khơi mào cho cuộc chiến vì nó đã
nổ ra trước đó hai ngày rồi. Các nhà lãnh đạo chính thức của C.N.T.
phủ nhận toàn bộ trách nhiệm ngay từ đầu. Có nhiều lí do. Trước hết là C.N.T. vẫn có đại diện trong chính phủ trung ương, còn chính
phủ Catalonia thì tìm mọi cách để bảo đảm rằng lãnh đạo C.N.T.
phải là những người bảo thủ hơn các công đoàn viên của họ. Thứ hai, mục tiêu
chủ yếu của lãnh đạo C.N.T. là thành lập liên minh với U.G.T., xung đột chỉ làm chia rẽ sâu sắc thêm, ít nhất là
trong thời gian đó. Thứ ba - mặc dù chuyện này lúc đó chưa có nhiều người biết
– những người lãnh đạo quân vô chính phủ sợ rằng nếu tình hình vượt quá giới
hạn nào đó và công nhân chiếm được thành phố (họ có thể làm như thế vào ngày
mồng 5 tháng năm) thì nước ngoài sẽ can thiệp. Một tuần dương hạm và hai khu
trục hạm của Anh đã đậu trong cảng và chắc chắn còn những chiếc tàu chiến khác
lởn vởn gần đó nữa. Báo chí Anh viết rằng những con tàu này đến Barcelona là
“để bảo vệ quyền lợi của Anh”, nhưng trên thực tế, họ không có ý định làm việc
đó vì không thấy họ đưa người lên cũng không thấy họ đón bất kì người tị nạn
nào. Không có bằng chứng chắc chắn, nhưng hoàn toàn có khả năng là chính phủ
Anh sẽ không động một ngón tay để cứu chính quyền Tây Ban Nha khỏi bọn phát xít
Franco, nhưng nó sẽ nhanh chóng can thiệp để cứu chính phủ này khỏi tay giai
cấp công nhân của chính mình.
Lãnh đạo P.O.U.M.
không chối bỏ trách nhiệm, trên thực tế họ còn khuyến khích người của mình giữ
vững chiến luỹ, thậm chí ủng hộ (trên tờ La Batalla, ra ngày 6 tháng 5)
khẩu hiệu cực đoan của Những người bạn của Durruti nữa. (Không ai biết chắc nội
dung tờ truyền đơn này vì cho đến nay chưa ai tìm thấy tờ nào). Một số tờ báo
nước ngoài gọi những tờ truyền đơn này là “khẩu hiệu kích động” được “dán” khắp
thành phố. Nhưng chắc chắn là không có khẩu hiệu nào như thế cả. Sau khi so
sánh những nguồn tin khác nhau, tôi có thể nói rằng truyền đơn kêu gọi (i)
Thành lập hội đồng cách mạng, (ii) Bắn bỏ tất cả những người chịu trách nhiệm
trong vụ tấn công tổng đài điện thoại, (iii) tước vũ khí lực lượng bảo vệ vũ
trang. Vẫn còn chưa rõ là báo La Batalla
ủng hộ truyền đơn đến mức độ nào. Tôi không được đọc truyền đơn cũng như không
đọc báo La Batalla ra ngày hôm ấy.
Trong suốt thời gian diễn ra cuộc xung đột tôi chỉ nhìn thấy một tờ truyền đơn.
Đấy là tờ truyền đơn do nhóm Trotskyist (“Bolshevik-Leninist”), một nhóm rất ít
thành viên, phân phát hôm mồng 4 tháng 5. Tờ này viết: “Tất cả đều lên chiến
luỹ - Tổng bãi công trong tất cả các
ngành, xí nghiệp, trừ các xí nghiệp sản
xuất vũ khí”. (Nói cách khác, nó chỉ yêu cầu làm những việc đã xảy ra rồi).
Nhưng trên thực tế, lãnh đạo P.O.U.M. đã giao động. Họ
không bao giờ ủng hộ cuộc nổi dậy nếu chưa chiến thắng Franco, nhưng khi công
nhân nắm lấy vũ khí thì những nhà lãnh đạo P.O.U.M. đã tuân
theo đường lối Marxist giáo điều, tức là đường lối cho rằng khi công
nhân đã xông ra đường phố thì các đảng cách mạng có trách nhiệm ủng hộ họ. Vì
thế, trong khi mồm thì hô những khẩu hiệu cách mạng “đánh thức tinh thần ngày
19 tháng 7” và những khẩu hiệu tương tự, nhưng trên thực tế họ lại tìm mọi cách
giới hạn hành động của công nhân theo hướng phòng thủ là chính. Thí
dụ, họ không bao giờ ra lệnh tấn công bất kì toà nhà nào, và như tôi đã viết
trong chương trước, họ chỉ hạ lệnh cho người của mình luôn phải sẵn sàng, nhưng
tìm mọi cách tránh nổ súng. Tờ La Batalla còn in chỉ thị cấm các đơn vị
quân đội rời mặt trận nữa[31]. Theo đánh giá của tôi thì trách nhiệm của P.O.U.M. chỉ là đã kêu gọi mọi người ở lại trên chiến luỹ, và
có thể đã thuyết phục được một số người ở lại lâu hơn là đáng lẽ họ đã làm.
Những người đã từng tiếp xúc với các nhà lãnh đạo P.O.U.M.
trong thời gian đó (tôi không tiếp xúc với họ) đều nói với tôi rằng họ đã mất
hết tinh thần, nhưng cảm thấy có trách nhiệm ủng hộ công nhân. Sau này, dĩ
nhiên là người ta đã thu được vốn liếng chính trị, đấy cũng là việc bình
thường. Ông Gorkin, một trong những nhà lãnh đạo của P.O.U.M.,
thậm chí còn nói đến “những ngày tháng năm vinh quang” nữa. Từ quan điểm tuyên
truyền thì điều này có thể là đúng. Trong giai đoạn ngắn trước khi bị cấm, lực
lượng của P.O.U.M. có gia tăng được một ít. Về mặt chiến thuật, việc ủng
hộ truyền đơn của nhóm Những người bạn của Durruti có thể là một sai lầm; tổ
chức này vừa nhỏ, vừa hay có thái độ thù địch đối với P.O.U.M.
Xét tình trạng kích động nói chung và những lời phát biểu từ cả hai phía lúc đó
thì truyền đơn chỉ có nghĩa là kêu gọi mọi người tiếp tục giữ vững chiến luỹ.
Nhưng ủng hộ nó, trong khi tờ Solidaridad Obrera, cơ quan ngôn luận của
những người vô chính phủ, lên án truyền đơn, tức là các nhà lãnh đạo P.O.U.M. đã tạo cớ cho báo chí chí cộng sản sau này nói rằng
vụ chạm súng là một hình thức khởi nghĩa chỉ do một mình P.O.U.M.
phát động. Tuy nhiên, chắc chắn là đằng nào thì báo chí cộng sản cũng nói như
thế. Trước và sau cuộc chiến, dù chẳng có sơ sở nào thì hai bên cũng đã kết án
nhau hết sức nặng nề rồi. Lãnh đạo C.N.T., vì quá thận trọng
nên chẳng được gì. Người ta đã ca ngợi họ vì có lòng trung thành, và khi có cơ
hội thì đã tống khứ họ ra khỏi cả chính phủ trung ương lẫn chính quyền
Catalonia.
Theo lời người ta nói lúc đó thì không ai có
ý định làm cách mạng. Đứng sau chiến luỹ chỉ là những người công nhân bình
thường, thành viên của công đoàn C.N.T., có thể có cả
thành viên công đoàn U.G.T. nữa; họ không có ý định lật
đổ chính phủ mà chỉ muốn chống lại, có thể đúng mà cũng có thể sai, cuộc tấn
công của cảnh sát mà thôi. Thực ra, hành động của họ chỉ có tính chất tự vệ và
tôi không biết đây có phải là một “cuộc nổi dậy” như báo chí ngoại quốc viết
hay không. Nổi dậy hàm ý có hành động tấn công và một kế hoạch nhất định. Đây
rõ ràng là một cuộc bạo loạn - một cuộc bạo loạn đẫm máu vì cả hai bên đều có
vũ khí nóng và sẵn sàng nổ súng.
Còn ý định của phía bên kia thì sao? Nếu đây
không phải là cuộc đảo chính của lực lượng vô chính phủ thì có thể là cuộc đảo
chính của cộng sản chăng? Đây có phải là cố gắng đã được tính toán trước nhằm
tước đoạt quyền lực của C.N.T. chỉ bằng một cú ra đòn
hay không?
Tôi không tin, mặc dù là có một số lí do để
người ta ngờ là như thế. Đáng kể là sự kiện tương tự như thế đã xảy ra tại
Tarragona hai ngày sau đó (cảnh sát vũ trang, theo lệnh của Barcelona, đã chiếm
tổng đài điện thoại). Còn ở Barcelona thì tấn công tổng đài điện thoại không
còn là hành động đơn lẻ nữa. Các đơn vị bảo vệ vũ trang và thành viên P.S.U.C. đã chiếm các toà nhà có vị trí chiến lược, nếu không
nói là ngay trước khi xung đột xảy ra thì cũng diễn ra một cách mau lẹ đến bất
ngờ. Nhưng nên nhớ rằng đấy là chuyện xảy ra ở Tây Ban Nha chứ không phải ở
Anh. Barcelona là một thành phố có lịch sử đánh nhau khá dài. Trong những khu
vực như thế mọi chuyện xảy ra rất nhanh, các bên đều đã sẵn sàng, mọi người đều
nắm được địa hình địa vật, cho nên khi súng vừa nổ là mọi người đã vào đúng vị
trí, hệt như trong cuộc diễn tập cứu hoả vậy. Có lẽ những người chịu trách
nhiệm chiếm tổng đài điện thoại cho rằng sẽ có rắc rối – nhưng không đến mức
như thực tế đã diễn ra – và sẵn sàng đè bẹp mọi kháng cự. Nhưng như thế cũng
không có nghĩa là họ đã lập kế hoạch tấn công C.N.T. Tôi
không tin rằng một trong hai bên đã sẵn sàng cho một trận xung đột rộng lớn
hơn. Có hai lí do:
(i) Trước đó không có bên nào đưa quân tới
Barcelona. Chỉ có những người đang ở Barcelona, mà chủ yếu là thường dân và
cảnh sát, tham gia đánh nhau mà thôi.
(ii) Lương thực thực phẩm cạn kiệt gần như
ngay lập tức. Những người đã từng phục vụ ở Tây Ban Nha đều biết rằng chiến
dịch duy nhất mà người Tây Ban Nha làm được một cách hoàn hảo trong thời gian
diễn ra cuộc chiến là nuôi quân. Có vẻ như hoàn toàn không có khả năng là một
bên nào đó đã dự liệu trước một hai tuần rằng cuộc đụng độ và tổng đình công sẽ
xảy ra mà lại không dự trữ trước lương thực thực phẩm.
Cuối
cùng, bên nào đúng, bên nào sai?
Báo chí chống phát xít đã tung ra một đống
hoả mù, nhưng thường là chỉ có một bên được nghe mà thôi. Kết quả là vụ động độ
ở Barcelona được người ta mô tả như là cuộc nổi dậy của những kẻ phản bội - tức
là phe vô chính phủ và Trotskyist - những người đã “đâm một nhát dao vào sau
lưng chính phủ Tây Ban Nha”..v.v... Nhưng vấn đề không hoàn toàn đơn giản như
thế. Không nghi ngờ gì rằng khi đang giao chiến với kẻ tử thù thì tốt nhất là
quân ta không được đánh quân mình, nhưng cũng cần nhớ rằng phải có hai bên tham
gia thì mới thành cãi nhau và dân chúng sẽ không xây chiến luỹ nếu họ không
nhận được tín hiệu mà họ có thể coi là khiêu khích.
Rắc rối thực sự bùng lên khi chính phủ ra
lệnh cho quân vô chính phủ giao nộp vũ khí. Ở Anh, báo chí đã diễn giải theo
cách hiểu của người Anh như thế này: mặt trận Aragon đang rất cần vũ khí, nhưng
những người vô chính phủ không có lòng yêu nước đã giữ lại. Viết như thế là
không hiểu hoàn cảnh thực tế ở Tây Ban Nha. Mọi người đều biết rằng cả quân vô
chính phủ lẫn P.S.U.C. đều tích trữ vũ khí và khi cuộc
chiến bùng lên ở Barcelona thì càng rõ rằng hai bên đã sản xuất được rất nhiều
vũ khí. Quân vô chính phủ biết rằng ngay cả nếu họ giao nộp vũ khí thì P.S.U.C., lực lượng chính trị chủ yếu ở Catalonia, cũng sẽ
không nộp. Sau khi cuộc xung đột chấm dứt, thực tế đã diễn ra đúng như thế.
Trong khi đó, như có thể nhìn thấy trên đường phố, một số lượng lớn vũ khí rất
cần cho mặt trận lại bị lực lượng cảnh sát “phi chính trị” giữ lại ở hậu
phương. Nguyên nhân sâu xa là mâu thuẫn không thể dung hoà giữa những người
cộng sản và những người vô chính phủ, trước sau gì cũng sẽ dẫn tới đụng dộ. Từ
ngày nổ ra chiến tranh, Đảng cộng sản Tây Ban Nha đã phát triển rất nhanh về số
lượng đảng viên và nắm được hầu hết quyền lực chính trị ở trong nước. Ngoài ra,
còn có hàng ngàn người cộng sản nước ngoài tìm đến Tây Ban Nha, nhiều người còn
nói rõ rằng sau khi đánh bại Franco thì sẽ “thanh toán” chủ nghĩa vô chính phủ.
Trong tình hình như thế, thật khó mà nghĩ rằng lực lượng vô chính phủ sẽ giao
nộp số vũ khí mà họ đã nắm được vào mùa hè năm 1936.
Việc chiếm tổng đài điện thoại chỉ là que
diêm châm vào khối thuốc nổ đã sẵn sàng từ lâu mà thôi. Rất có thể là những
người có trách nhiệm đã không tưởng tượng được rằng nó sẽ gây ra rắc rối. Người
ta còn đồn rằng ông Company, Chủ tịch Catalonia, trước đó vài
ngày còn vừa cười vừa tuyên bố rằng bọn vô chính phủ sẽ phải ngậm bồ hòn làm
ngọt[32]. Nhưng rõ ràng đây là một hành động thiếu khôn
ngoan. Suốt mấy tháng gần đây, đụng độ giữa cộng sản và vô chính phủ đã xảy ra
tại nhiều khu vực khác nhau rồi. Catalonia và đặc biệt là Barcelona đã ở
trong tình trạng căng thẳng đến mức đã xảy ra những vụ xung đột trên đường phố
và giết người. Bất ngờ có tin loang ra khắp thành phố rằng một số người vũ
trang đã tấn công những toà nhà mà công nhân chiếm được trong những trận đụng
độ hồi tháng bảy, mà đấy lại là những biểu tượng rất quan trọng đối với họ. Cần
phải nhớ rằng công nhân chẳng ưa gì bảo vệ vũ trang. Các thế hệ trước vốn vẫn
coi la guardia (bảo vệ -ND) là đày tớ
của các ông trùm và địa chủ. Bảo vệ vũ trang còn bị ghét nữa vì người ta ngờ
rằng họ trung thành với bọn phát xít[33].
Có thể chính những tình cảm đã thúc đẩy người dân đứng lên chống lại các tướng
lĩnh phản loạn hồi đầu chiến tranh lần này đã đưa họ lên chiến luỹ ngay trong
những giờ phút đầu tiên. Dĩ nhiên là người ta có thể cãi rằng công nhân của C.N.T. không nên kháng cự mà phải bàn giao ngay tổng đài điện
thoại. Ở đây, ý kiến của mỗi người lại phụ thuộc vào thái độ của người đó đối
với quyền kiểm soát của chính phủ trung ương và quyền kiểm soát của giai cấp công
nhân. Câu trả lời phù hợp nhất có thể là: “Vâng, hoàn toàn có thể là C.N.T. có
lí. Nhưng đang có chiến tranh, họ không nên gây sự ở hậu phương”. Tôi hoàn toàn
đồng ý như thế. Bất kì sự rối loạn nào ở bên trong cũng chỉ có lợi cho Franco
mà thôi. Nhưng ai là người ta tay trước? Chính phủ có thể có quyền mà cũng có
thể không có quyền chiếm tổng đài điện thoại; vấn đề là trong hoàn cảnh lúc đó
việc chiếm tổng đài nhất định dẫn đến đụng độ. Đấy là một hành động khiêu
khích, nó chỉ có nghĩa là: “Quyền lực của các vị đã hết, bây giờ đến lượt chúng
tôi.” Chỉ có điên mới nghĩ là không có kháng cự. Công bằng mà nói, những việc
đại loại như thế này, không thể đổ lỗi hoàn toàn cho một phía. Quan điểm thiên
lệch đã được mọi người chấp nhận chỉ đơn giản là vì các đảng cách mạng Tây Ban
Nha không có cơ sở trong các cơ quan báo chí ngoại quốc. Đặc biệt là trong báo
chí Anh, phải tìm rất lâu thì may ra mới thấy ý kiến có thiện cảm với những
người vô chính phủ Tây Ban Nha. Họ bị bôi nhọ một cách có hệ thống, và theo kinh
nghiệm của tôi thì đưa những ý kiến biện hộ cho họ lên mặt báo là việc gần như
bất khả thi.
Tôi đã cố gắng viết một cách khách quan về
trận đụng độ ở Barcelona, mặc dù rõ ràng là chẳng ai có thể hoàn toàn khách
quan về những vấn đề như thế này. Trên thực tế, ai cũng phải chọn phe. Tất
nhiên là tôi đã có sai lầm, không chỉ trong lúc viết về những sự kiện ở
Barcelona mà còn trong những đoạn khác của tác phẩm này nữa. Thật khó mà viết
được một cách chính xác về cuộc chiến tranh Tây Ban Nha vì không có tài liệu
nào là không mang màu sắc tuyên truyền. Tôi xin cảnh báo với độc giả về thành
kiến của mình cũng như sai lầm của mình. Nhưng tôi đã có gắng hết sức để có thể
viết một cách trung thực. Nhưng báo cáo của tôi sẽ khác hẳn với những bài viết
trên sách báo ngoại quốc, nhất là trên báo chí cộng sản. Cần phải xem xét lại
lối giải thích của cộng sản vì nó được báo chí toàn cầu đăng lại, được cập nhật
thường xuyên và vì vậy mà được nhiều người chấp nhận nhất.
Báo chí cộng sản và thân cộng sản đổ toàn bộ
tội lỗi vụ đụng độ ở Barcelona lên đầu P.O.U.M. Họ không
coi đấy là một hành động bột phát mà là một vụ bạo loạn có tổ chức, có kế
hoạch, nhằm chống lại chính phủ, do P.O.U.M. cùng với
một vài phần tử “quá khích” bị dụ dỗ khởi sự. Hơn thế nữa, họ bảo đây là âm mưu
của bọn phát xít, do bọn phát xít chỉ huy nhằm phát động cuộc nội chiến ở hậu
phương và như thế là làm tê liệt chính phủ. P.O.U.M. là
“đạo quân thứ năm” của Franco, là tổ chức Trotskyist cộng tác với bọn phát xít.
Theo tờ Daily Worker (ngày 11 tháng năm):
Điệp viên Đức và Ý tràn vào Barcelona, bề
ngoài là để “chuẩn bị Đại hội quốc tế IV” đầy tai tiếng, nhưng trên thực tế,
chúng lại làm những việc hoàn toàn khác. Đấy là: Cùng với những tên Trotskyist
ở địa phương gây ra tình trạng hỗn loạn và đổ máu, tạo điều kiện cho Đức và Ý
tuyên bố rằng “vì những vụ bạo loạn ở Barcelona cho nên không thể kiểm soát
được một cách hiệu quả vùng bờ biển Catalonia” và vì vậy mà “cần phải đưa quân
vào Barcelona”.
Nói cách khác, lúc đó người ta cố tình tạo
điều kiện để chính phủ Đức và Ý có thể công khai đưa bộ binh hoặc thuỷ quân đến
bờ biển Catalonia nhằm “bảo vệ trật tự”…
Đức và Ý đã có sẵn phương tiện trong tay, đó
là tổ chức Trotskyist, vẫn được gọi là P.O.U.M.
P.O.U.M. đã cộng tác với những phần tử tội
phạm nổi tiếng và một số cá nhân lầm đường lạc lối trong các tổ chức phi chính
phủ để lên kế hoạch, tổ chức và chỉ huy vụ tấn công ở hậu phương, đúng vào lúc
bọn phát xít công kích trên toàn mặt trận ở Bilbao .. v..v.. và ..v..v..
Ở đoạn sau của bài báo, thì vụ đụng độ ở
Barcelona đã trở thành “cuộc tấn công của P.O.U.M.”, còn một bài khác, cũng trong số này, lại tuyên
bố: “Không nghi ngờ gì rằng P.O.U.M. phải chịu toàn bộ
trách nhiệm về vụ đổ máu ở Catalonia”. Tờ Inprecor (ngày 29 tháng 5)
tuyên bố rằng tất cả những người xây dựng chiến luỹ ở Barcelona “đều là thành
viên của P.O.U.M., họ được đảng cử đi để làm việc đó.”
Tôi có thể trưng ra nhiều trích dẫn hơn nữa,
nhưng như thế cũng đã đủ. P.O.U.M. phải chịu hoàn toàn
trách nhiệm và P.O.U.M. đã hành động theo lệnh của phát
xít. Sau này tôi sẽ trưng ra thêm trích dẫn từ báo chí cộng sản, để thấy rằng
chúng tự mâu thuẫn với nhau nên chẳng có giá trị gì. Nhưng trước khi làm như
thế, cần phải chỉ ra một số lí do vì sao quan điểm cho rằng vụ đụng độ vào
tháng năm ở Barcelona là vụ bạo loạn của bọn phát xít, do người của P.O.U.M. tổ chức, là không thể chấp nhận được.
1. P.O.U.M. không có đủ người và
ảnh hưởng để có thể tạo ra những vụ hỗn loạn lớn đến như thế. Lại càng không đủ
sức kêu gọi được cuộc tổng bãi công. Đấy là tổ chức chính trị không có cơ sở
vững chắc trong phong trào công đoàn, khả năng gây ra một cuộc đình công trên
toàn lãnh thổ Barcelona cũng chẳng khác gì, thí dụ, khả năng của Đảng cộng sản
Anh trong việc gây ra cuộc tổng đình công trên toàn lãnh thổ Glasgow vậy. Như
tôi đã nói bên trên, thái độ của những người lãnh đạo P.O.U.M.
có thể giúp kéo dài vụ đụng độ, nhưng họ không thể gây ra vụ đụng độ, ngay cả
khi họ muốn như thế.
2. Âm mưu của bọn phát xít chỉ là lời khẳng
định suông, trong khi tất cả bằng chứng đều chỉ theo hướng ngược lại. Người ta
bảo rằng kế hoạch là để Đức và Ý đưa quân tới Catalonia, nhưng chẳng có chiếc
tàu chiến Đức hay Ý nào đến gần bờ chứ đừng nói đổ bộ. Còn “Đại hội quốc tế IV”
cũng như “gián điệp Đức và Ý” cũng hoàn toàn là chuyện bịa đặt. Theo tôi biết
thì chưa hề có ai nói đến Đại hội quốc tế IV. Có kế hoạch, nhưng chưa chắc
chắn, cho Đại hội của P.O.U.M. và những đảng anh em của
họ (ở Anh là I.L.P., ở Đức là S.A.P…v.v..
và ..v..v..) vào khoảng tháng 7 – hai tháng sau vụ đụng độ - nhưng không
có đại biểu nước ngoài nào tham dự cả. “Gián điệp Đức và Ý” thì chỉ có mặt trên
tờ Daily Worker mà thôi.
Những ai từng đi qua biên giới thời gian đó đều biết rõ rằng “tràn” vào hoặc đi
ra khỏi Tây Ban Nha là việc không dễ dàng gì.
3. Ở Lerida, vị trí trọng yếu của P.O.U.M., cũng như ở ngoài mặt trận đều không có chuyện gì cả.
Rõ ràng là nếu các lãnh tụ của P.O.U.M. muốn giúp đỡ
quân phát xít thì họ đã hạ lệnh cho lực lượng của mình tránh ra cho quân phát
xít đi qua rồi. Nhưng không có chuyện gì như thế cả, kể cả nghe nói cũng không
nốt. Cũng không có chuyện rút người khỏi mặt trận, mặc dù đưa lén một vài ngàn
người đến Barcelona không phải là khó, thiếu gì lí do để làm như thế. Cũng
không có những hành động phá hoại, ngay cả gián tiếp, ở ngoài mặt trận. Việc
vận chuyển lương thực, đạn dược và những thứ khác vẫn được tiến hành một cách
bình thường; tôi đã kiểm tra vấn đề này. Nhưng trước hết là một cuộc nổi dậy
kiểu như thế, đấy là nói một cuộc nổi dậy theo kế hoạch, phải chuẩn bị hàng
tháng trời, phải tiến hành tuyên truyền trong hàng ngũ dân quân ..v.v.. Nhưng
không có dấu hiệu hay tin đồn nào như thế cả. Sự kiện là lực lượng dân quân
không tham gia vào cuộc “bạo loạn” là chứng cớ thuyết phục nhất. Nếu P.O.U.M. thực sự lập kế hoạch đảo chính[34]
thì họ không thể không sử dụng khoảng mười ngàn chiến sĩ vũ trang, tức là lực
lượng tấn công duy nhất mà họ có trong tay.
Như thế là đủ chứng tỏ luận điệu của cộng sản
cho rằng “vụ bạo loạn” là do P.O.U.M tổ chức theo lệnh của bọn phát xít là hoàn
toàn không có cơ sở. Xin dẫn ra thêm một vài trích dẫn từ báo chí cộng sản.
Những bài viết về vụ đột kích tổng đài điện thoại, tức là sự kiện mở màn vụ
xung đột, là rõ ràng hơn cả; mỗi bài nói một phách, ngoại trừ độc một điểm, đấy
là đổ tội cho phía bên kia. Đáng chú ý là báo chí cộng sản Anh ban đầu đổ lỗi
cho quân vô chính phủ, sau đó mới quay sang gán cho P.O.U.M.
Họ có đầy đủ lí do để làm như thế. Chẳng mấy người ở Anh được nghe nói tới “chủ
nghĩa Troskyist”, nhưng ai cũng phát run khi nghe thấy từ “vô chính phủ”. Đầu
tiên hãy bảo rằng “quân vô chính phủ” có dính líu vào chuyện này, tạo được định
kiến rồi thì sẽ quay sang kết tội bọn
“Trotskyist” cũng chưa muộn. Tờ Daily Worker bắt đầu như sau
(ngày 6 tháng 5):
“Trong ngày thứ hai và thứ ba một nhóm quân
vô chính phủ đã chiếm và cố gắng giữ trụ sở điện báo và điện thoại và bắt đầu
xả súng xuống đường phố”.
Bắt đầu bằng việc đảo lộn vai trò. Lực lượng
bảo vệ vũ trang tấn công toà nhà do C.N.T. kiểm soát, cho nên
họ phải viết là C.N.T. tấn công toà nhà của mình, nghĩa là tấn công chính mình.
Mặt khác, ngày 11 tháng 5 tờ Daily Worker lại tuyên bố:
“Ông Aiguade, Bộ trưởng bộ an ninh, thuộc phe
tả và ông Rodrigue Salas, Tổng tư lệnh lực lượng giữ gìn trật tự xã hội, đảng
viên đảng xã hội thống nhất, đã ra lệnh cho lực lượng cảnh sát cộng hoà vào
tổng đài điện thoại để tước vũ khí những người đang làm việc ở đó, mà đa số là
thành viên tổ chức công đoàn C.N.T.”
Điều này có vẻ như mâu thuẫn với tuyên bố ban
đầu, tuy nhiên Daily Worker không thèm công nhận là thông tin trước sai.
Cũng ngày 11 tháng 5, Daily Worker lại nói rằng những tờ truyền đơn của
“Những người bạn của Durruti”, vốn bị C.N.T. lên án,
xuất hiện vào ngày 4 và 5 tháng 5, tức là trong thời gian đang đánh nhau. Tờ Inprecor
(ngày 22 tháng 5) lại khẳng định rằng truyền đơn xuất hiện vào ngày 3 tháng
năm, tức là trước khi đánh nhau và
nói thêm “trên cơ sở các sự kiện như thế” (sự kiện xuất hiện những tờ truyền
đơn này):
“Lực lượng cảnh sát, do chính Cảnh sát trưởng
chỉ huy đã chiềm tổng đài điện thoại vào chiều ngày 3 tháng 5. Người ta đã bắn
vào lực lượng cảnh sát trong khi họ thi hành nhiệm vụ. Đấy chính là tín hiệu
cho những tên khiêu khích nổ súng loạn xạ trong khắp thành phố”.
Và
đây là tờ Inprecor ngày 29 tháng 5:
“Vào lúc ba giờ chiều, đồng chí Salas, Tổng
tư lệnh lực lượng giữ gìn trật tự xã hội, đi đến tổng đài điện thoại, mà đêm
hôm trước đã bị 50 thành viên của P.O.U.M. và những phần tử vô trách nhiệm khác
chiếm giữ”.
Thật là kì quặc. Việc chiếm tổng đài điện
thoại do 50 người thuộc P.O.U.M. tiến hành có thể coi là
sự kiện khác thường và có thể chắc chắn là người ta đã nhận ra ngay lúc đó rồi.
Nhưng hoá ra là phải ba bốn tuần sau người ta mới phát hiện được nó. Trong một
số khác của tờ Inprecor, 50 thành viên của P.O.U.M.
đã biến thành 50 du kích quân thuộc lực lượng P.O.U.M.
Thật khó mà đưa được nhiều mâu thuẫn hơn vào mấy đoạn văn ngắn như thế. Ban
đầu C.N.T. là
người tấn công tổng đài điện thoại, sau đó họ lại là người bị tấn công; truyền
đơn khi thì xuất hiện trước vụ chiếm tổng đài và là nguyên nhân của nó, lúc
khác lại xuất hiện sau và là kết quả của vụ tấn công tổng đài; người ở tổng đài
điện thoại khi thì là của C.N.T., lúc khác lại là của P.O.U.M. .v.v.. Và trên tờ Daily Worker ra ngày 3 tháng
6 ông J. R. Campbell lại cho chúng ta biết rằng chính phủ chỉ chiếm đài phát
thanh sau khi chiến luỹ đã mọc lên trên đường !
Vì khuôn khổ của tác phẩm, tôi chỉ dừng lại ở
những bài viết về có một sự kiện, nhưng những mâu thuẫn như thế có mặt trong
tất cả các bài viết trên báo chí cộng sản. Đấy là chưa kể những bài mà thực
chất là bịa đặt một cách trắng trợn. Thí dụ như tờ Daily Worker (ngày 7
tháng 5) trích dẫn tuyên bố, dường như là do đại sứ quán Tây Ban Nha ở Paris
đưa ra như sau:
“Đặc điểm nổi bật của vụ bạo loạn là lá cờ
của phe bảo hoàng thủ cựu đã phấp phới bay trên nhiều toà nhà của Barcelona,
thể hiện niềm tin chắc chắn rằng những kẻ bạo loạn đã làm chủ được tình hình.”
Rất có khả năng là tờ Daily Worker đã
tin khi đăng lại lời tuyên bố, nhưng những người đưa ra lời tuyên bố đó đã cố
tình nói dối. Bất kì người Tây Ban Nha nào cũng biết rằng không phải như thế.
Cờ bảo hoàng bay trên Barcelona! Đấy là điều duy nhất có thể đoàn kết ngay lập
tức tất cả các phe phái đang giao tranh. Ngay những người cộng sản có mặt tại
chỗ cũng phải mỉm cười khi đọc tin này. Có thể nói tương tự như thế về những
bài trên những tờ báo khác nhau của phe cộng sản viết về số vũ khí mà P.O.U.M. đã sử dụng trong “vụ bạo loạn”. Chỉ có những người
không biết một chút sự kiện nào mới có thể tin được mà thôi. Ngày 17 tháng 5,
ông Frnak Pitcairn viết trên tờ Daily Worker như sau:
“Họ đã sử dụng mọi loại vũ khí, khí tài. Có
loại là do họ ăn cắp và dấu diếm suốt mấy tháng trời, còn những loại khí tài
như xe tăng thì họ lấy từ trại lính đúng vào thời điểm diễn ra bạo loạn. Rõ
ràng là họ còn giữ nhiều khẩu súng máy và mấy ngàn khẩu súng trường.”
Tờ
Inprecor (ngày 29 tháng 5) còn khẳng định:
“Ngày 3 tháng 5, lực lượng P.O.U.M. có trong
tay mấy chục khẩu súng máy và mấy ngàn khẩu súng trường … Ở quảng trường Plaza
de España, bọn Trotskyist dùng cả súng 75-milimet, đấy là những khẩu đáng lẽ
phải được đưa ra mặt trận Aragon, nhưng họ lại đem dấu trong doanh trại của
mình.”
Ông Pitcairn không nói cho chúng ta bằng cách
nào và khi nào thì người ta biết rằng P.O.U.M. có hàng
chục khẩu súng máy và mấy ngàn khẩu súng trường. Tôi đã liệt kê số vũ khí có
trong ba toà nhà chính của P.O.U.M.: khoảng 80 khẩu súng
trường, mấy quả bom, nhưng không có khẩu súng máy nào. Đấy là số vũ khí đủ để
trang bị cho lực lượng bảo vệ những toà nhà mà đảng phái chính trị nào lúc đó
cũng có. Thật kì lạ là sau đó, khi P.O.U.M. đã bị cấm và các toà nhà của
tổ chức này bị tịch thu thì hàng ngàn khẩu súng ấy bỗng biến đi đâu mất hút;
đặc biệt là xe tăng và trọng pháo là những thứ không thể dấu vào ống khói được.
Nhưng điều đập vào mắt trong hai bản tin vừa dẫn là tác giả của chúng hoàn toàn
mù tịt, hoàn toàn chẳng nắm được tình hình gì hết. Theo ông Pitcairn thì P.O.U.M. đã ăn cắp xe tăng “từ doanh trại quân đội”. Lực lượng
của P.O.U.M. ở
Barcelona (lúc đó đã không còn bao nhiêu vì các đảng phái đã không còn tuyển
thêm quân nữa) đóng trong doanh trại mang tên Lenin, Quân đội Nhân dân cũng
đóng ở đấy mà quân số lại đông hơn nhiều. Như vậy là ông Pitcairn yêu cầu chúng
ta tin rằng P.O.U.M. đã ăn cắp xe tăng với sự đồng loã
của Quân đội Nhân dân. Các “doanh trại”, nơi dấu những khẩu pháo 75-milimet thì
cũng thế. Không thấy nói các doanh trại ấy nằm ở đâu. Nhiều tờ báo nói đến việc
nã pháo vào quảng trường Plaza de España, nhưng theo tôi, ta có thể nói một
cách chắc chắn rằng không làm gì có những khẩu pháo như thế. Như trước đây tôi
đã nói, tôi không hề nghe thấy tiếng pháo nổ trong suốt thời gian giao tranh,
mà quảng trường Plaza de España chỉ cách chỗ tôi chưa đến hai cây số[35].
Sau khi chiến sự chấm dứt mấy ngày, tôi có đến quảng trường Plaza de España
nhưng không thấy toà nhà nào có vết đạn pháo. Một người từng có mặt gần quảng
trường trong suốt thời gian diễn ra chiến sự nói rằng ở đó không có khẩu pháo
nào cả. (Nhân đây xin nói thêm rằng câu chuyện về những khẩu súng bị đánh cắp
có thể là do Antonov-Ovseenko, tổng lãnh sự Liên Xô, bịa ra. Dù sao thì ông ta
cũng đã nói như thế với một nhà báo nổi tiếng người Anh, người này tin lời ông
ta và đã nhắc lại đúng như thế trên một tờ tuần báo. Sau này Antonov-Ovseenko
đã bị “thanh trừng”. Chuyện đó có ảnh hưởng thế nào đối tới mức độ khả tín của
ông ta thì tôi không biết). Sự thật, dĩ nhiên là, người ta phải bịa ra xe tăng,
pháo binh ..v.v.. vì nếu không thì khó có thể coi P.O.U.M., với một số lượng
thành viên ít ỏi, là lực lượng đã gây ra những trận xung đột dữ dội như thế.
Người ta cần phải tuyên bố rằng P.O.U.M. chịu hoàn toàn
trách nhiệm về vụ xung đột, người ta cũng cần tuyên bố rằng đấy chỉ là một đảng
không đáng kể, chỉ có “mấy ngàn đảng viên”, nhưng không có người ủng hộ, như tờ
Inprecor viết.
Muốn cho người ta tin cả hai lời tuyên bố trên thì phải bịa ra là P.O.U.M. được trang bị những loại vũ khí, khí tài hiện đại
nhất.
Không thể không nghĩ rằng, đấy là nói khi đọc
báo chí cộng sản, người ta đã cố tình lợi dụng sự kém hiểu biết của độc giả và
chỉ nhắm tới một mục đích duy nhất là tạo ra định kiến mà thôi. Thí dụ như lời
tuyên bố của ông Pitcairn trên tờ Daily Worker ra ngày 11 tháng 5 rằng
“vụ bạo loạn” đã bị Quân đội Nhân dân dẹp rồi. Ý tưởng là làm cho người bên
ngoài nghĩ rằng mọi người ở Catalonia đều chống lại “bọn Trotskyist”. Nhưng
Quân đội Nhân dân đã giữ thái độ trung lập trong suốt thời gian xung đột, mọi
người ở Barcelona đều biết như thế, và thật khó mà tin rằng ông Pitcairn lại
không biết chuyện này. Hay là trò lừa gạt của báo chí cộng sản về số người chết
và bị thương, mục đích của họ là thổi phồng mức độ rối loạn. Báo chí cộng sản
thường trích tuyên bố của Diaz, Tổng bí thư Đảng cộng sản Tây Ban Nha, rằng có
900 người chết và 2.500 người bị thương. Trong khi ông Bộ trưởng Bộ tuyên
truyền Catalonia lại nói chỉ có 400 người chết và 1000 người bị thương thôi.
Đảng cộng sản sau khi đã nhân đôi lại còn cộng thêm vài trăm nữa cho chắc ăn.
Báo chí tư sản ngoại quốc, nói chung, đều đổ
tội cho lực lượng vô chính phủ, nhưng cũng có vài tờ theo đuôi cộng sản. Một
trong số đó là tờ báo tiếng Anh mang tên News Chronicle, thông tín viên
của nó, ông John Langdon-Davies, cũng có mặt ở Barcelona trong thời gian đó.
Xin trích một phần bài báo của ông này:
VỤ
BẠO LOẠN CỦA NHÓM TROTSKYIST
. . . Đây không phải là vụ bạo loạn của bọn
vô chính phủ. Đây là vụ đảo chính bất
thành của đảng Trotskyist P.O.U.M., thông qua những tổ chức mà nó kiểm soát
như: “Những người bạn của Durruti” và “Thanh niên tự do”… Bi kịch bắt đầu vào
trưa ngày thứ hai, khi chính phủ đưa lực lượng cảnh sát vũ trang đến giải giới
số công nhân, phần lớn là thành viên C.N.T., làm việc ở tổng đài điện thoại.
Tình trạng lộn xộn nghiêm trọng ở đây đã gây ra tranh cãi từ khá lâu rồi. Đám
đông tụ tập trên quảng trường Plaza de Cataluña, trong khi các thành viên của
C.N.T. vừa chống cự vừa rút dần lên những tầng lầu phía trên. . . . Tình tiết
rất không rõ ràng, nhưng người ta đồn rằng chính phủ đánh nhau với quân vô
chính phủ. Đường phố đầy người mang súng.
. . Ngay tối hôm đó trong các khu công nhân và xung quanh những toà nhà
chính phủ, chiến luỹ đã được dựng lên, và đến khoảng mười giờ thì thấy những
loạt súng đầu tiên, rồi tiếng còi của xe cứu thương vang lên trên đường phố.
Trước khi trời sáng cả thành phố chìm trong tiếng súng... Sáng ra, số người
chết đã là hơn một trăm, có thể đoán được là chuyện gì đã xảy ra. Lực lượng
C.N.T., theo đường lối vô chính phủ và lực lượng U.G.T., theo đường lối xã hội
chủ nghĩa về nguyên tắc là “không đổ ra đường”. Trong khi đứng sau chiến luỹ,
họ chỉ quan sát, nhưng sẵn sàng bắn vào bất cứ người nào mang súng xuất hiện
trên phố. . . Khủng khiếp nhất là những phát súng của mặt trận đỏ - những tên bắn tỉa, thường là phát xít, nấp trên mái
nhà và bắn lung tung, nhưng chúng đã tìm mọi cách để làm cho tình hình càng hỗn
loạn thêm. . . . Tuy nhiên, đến chiều ngày thứ tư thì người ta đã biết rõ kẻ
nào đứng đằng sau vụ bạo loạn. Trên các bức tường xuất hiện những lời hiệu
triệu với giọng điệu khiêu khích một cách trắng trợn, họ kêu gọi làm cách mạng
và bắn bỏ các lãnh tụ cộng hoà và xã hội chủ nghĩa ngay lập tức. Do “Những
người bạn của Durruti” kí. Sáng thứ năm, tờ nhật báo của lực lượng vô chính phủ
tuyên bố rằng họ không biết và không đồng tình với những lời hiệu triệu đó,
nhưng tờ La Batalla, cơ quan ngôn luận của P.O.U.M., chẳng những đã in
lại mà còn đánh giá rất cao. Barcelona, thành phố đầu tiên của Tây Ban Nha đã
rơi vào một vụ tắm máu, do những tên khiêu khích sử dụng tổ chức phá hoại này
gây ra.
Hoàn toàn khác với cách giải thích của cộng
sản mà tôi đã nói tới bên trên, nhưng chính bài báo này tự nó cũng đã chứa đầy
mâu thuẫn rồi. Đầu tiên sự kiện được mô tả như là “vụ bạo loạn của những người
theo phái Trotskyist”, sau đó lại được coi là kết quả của vụ đánh chiếm tổng
đài điện thoại và mọi người tin rằng chính phủ “ra đòn chống lại quân vô chính
phủ. Chiến luỹ được dựng lên trong thành phố và người của C.N.T.
cũng như U.G.T. đứng sau chiến luỹ. Hai ngày sau đó thì
xuất hiện biểu ngữ (thực ra là những tờ truyền đơn), và đây được coi là nguyên
nhân của toàn bộ vụ việc - hậu quả có trước nguyên nhân. Còn một sự xuyên tạc
trắng trợn nữa. Ông Langdon-Davies viết
rằng “Những người bạn của Durruti” và “Thanh niên tự do” là những tổ chức do
P.O,U.M. “kiểm soát”. Trên thực tế đấy là hai tổ chức vô chính phủ và chẳng có
liên hệ gì với P.O.U.M. Tổ chức “Thanh niên tự do” là
liên đoàn thanh niên vô chính phủ, tương tự như J.S.U. của đảng P.S.U.C. Còn “Những người bạn của Durruti” là một nhóm nhỏ
trong F.A.I., và có thái độ thù nghịch với P.O.U.M. Theo tôi biết thì không có ai lại cùng một lúc là
thành viên của cả hai tổ chức đó. Nói thế thì cũng chẳng khác gì bảo rằng Liên
đàn những người xã hội chủ nghĩa là tổ chức do Đảng tự do Anh “kiểm soát”. Ông
Langdon-Davies có hiểu điều đó hay không? Nếu hiểu thì ông ta nên viết một cách
thận trọng hơn về vấn đề cực kì phức tạp này mới phải.
Tôi không bảo rằng ông Langdon-Davies không
trung thực, nhưng cuộc xung đột đã chấm dứt ngay sau khi ông ta rời Barcelona,
nghĩa là ông đã ra đi đúng vào lúc có thể tìm hiểu sự việc một cách kĩ lưỡng
hơn. Qua bài báo, có thể thấy rõ là ông đã chấp nhận cách giải thích chính thức
về “vụ bạo loạn Trotskyist” mà không kiểm tra một cách đầy đủ. Điều này thể
hiện rõ ngay trong đoạn tôi vừa trích dẫn. “Buổi tối” chiến luỹ đã được dựng
lên và “khoảng mười giờ” thì có tiếng súng nổ. Đây không phải là lời của người
tận mắt chứng kiến. Theo như bài báo này thì phải đợi cho kẻ thù dựng xong
chiến luỹ rồi mới bắn. Có cảm tưởng là phải mấy tiếng đồng hồ sau khi xây xong
chiến luỹ thì mới có những loạt đạn đầu tiên, trong khi trên thực tế không phải
như thế. Tôi và nhiều người khác nhìn thấy những loạt đạn đầu tiên ngay từ buổi
chiều. Lại còn những tên bắn tỉa, “thường là phát xít”, bắn từ trên mái nhà
xuống nữa chứ. Ông Langdon-Davies không bảo làm sao ông biết đấy là bọn phát
xít. Có lẽ là ông ta không leo lên mái để hỏi rồi. Ông ta chỉ nhắc lại những
điều người khác nói, mà vì đấy là những điểu phù hợp với cách giải thích chính
thức nên ông ta không kiểm tra nữa. Vấn đề là ngay ở đầu bài báo ông ta đã
thiếu thận trong khi nói rằng Bộ tuyên truyền là một trong những nguồn thông
tin chủ yếu của ông ta. Các phóng viên ngoại quốc hoàn toàn phụ thuộc vào Bộ
tuyên truyền, mặc dù đáng lẽ ra người ta phải thận trọng khi nghe thấy cái tên
này rồi. Nói Bộ tuyên truyền đưa tin khách quan về những rắc rối ở Barcelona
thì cũng chẳng khác gì bảo huân tước Carson, nay đã ra người thiên cổ, đưa tin
khách quan về vụ bạo loạn ở Dublin vào năm 1916 vậy.
Tôi đã đưa ra những lí do để có thể khẳng
định rằng cách giải thích của cộng sản về vụ đụng độ là không nghiêm túc. Ngoài
ra, tôi phải nói thêm một chút về lời buộc tội vẫn thường được nhắc tới, đấy là
P.O.U.M. là tổ chức phát xít bí mật, do Franco và Hitler
cung cấp tiền bạc.
Lời buộc tội này được báo chí cộng sản nhắc
đi nhắc lại, nhất là từ đầu năm 1937 trở đi. Đấy là một phần của chiến dịch
chống phái Trotskyist trên phạm vi toàn cầu do cộng sản phát động, mà P.O.U.M.
lại được coi là đại diện của phái này ở Tây Ban Nha. Theo tờ Prente Rojo (tờ
báo của Đảng bộ đảng cộng sản Valencia) thì phái Trotskyist “không phải là một
học thuyết chính trị. Trotskyist là tổ chức tư sản, là một băng nhóm khủng bố
phát xít, chuyên phá hoại và gây tội ác chống lại nhân dân.” P.O.U.M.
là tổ chức “Trotskyist liên minh với bọn phát xít và là một phần của đạo quân
thứ năm của Franco.” Đáng chú ý là ngay từ đầu người ta đã không trưng ra được
bất kì bằng chứng nào, tất cả chỉ là những lời khẳng định của những người có vẻ
như là có uy quyền mà thôi. Việc công kích lại được thực hiện bằng những lời
phỉ báng cá nhân dữ dội nhất, người ta chẳng thèm quan tâm đến hậu quả của nó
đối với cuộc chiến. Để thoá mạ P.O.U.M, nhiều cây viết cộng sản có vẻ như sẵn
sàng coi bí mật quân sự chỉ là chuyện nhỏ. Thí dụ, trong số ra vào tháng 2 trên
tờ Daily Worker nhà báo (Winifred Bates) tự cho mình quyền tuyên bố rằng
P.O.U.M. chỉ đưa ra mặt trận có một nửa binh sĩ mà họ
có. Điều này là không đúng, nhưng cứ cho là nhà báo tin là đúng đi. Có nghĩa
là, nhà báo này và tờ Daily Worker sẵn sàng trao cho quân thù những tin
tức cực kì quan trọng. Còn trên tờ New Republic thì ông Ralph Bates lại
tuyên bố rằng các chiến sĩ của P.O.U.M. “đã đá bóng với
bọn phát xít trên vùng đất vô chủ”, trong khi trên thực tế lúc đó P.O.U.M. đang bị thiệt hại nặng nề, nhiều người bạn của tôi đã
bị giết hoặc bị thương. Rồi còn một bức tranh châm biếm rất hiểm ác, lưu hành
rộng rãi, ban đầu là ở Madrid, sau đó lan đến Barcelona, vẽ P.O.U.M.
với chiếc mặt nạ có hình búa liềm đang bị tuột ra, để lộ bộ mặt thật xăm hình
chữ thập ngoặc. Nếu chính phủ thực chất không bị cộng sản kiểm soát thì nó sẽ
không bao giờ để cho những chuyện như thế xảy ra trong lúc đang có chiến tranh.
Đây là một đòn có chủ ý nhắm vào không chỉ lực lượng quân sự của P.O.U.M.
mà còn giáng vào cả những người bên cạnh họ nữa, vì tin nói rằng đơn vị bên
cạnh toàn bọn phản bội chỉ có tác dụng làm nản lòng binh sĩ mà thôi. Tôi ngờ là
chiến dịch thoá mạ P.O.U.M. cũng chẳng làm cho các binh sĩ của họ nản lòng.
Nhưng mục đích là như thế, và những người chịu trách nhiệm về chiến dịch này đã
đưa mâu thuẫn đảng phái lên trên sự đoàn kết của các lực lượng chống phát xít.
Lời kết án P.O.U.M. rút cuộc lại là như sau:
tổ chức này gồm mấy ngàn người, đa số là công nhân, chưa kể khá nhiều ủng hộ
viên người ngoại quốc, mà phần lớn là người tị nạn từ các nước phát xít cũng
như hàng ngàn dân quân chỉ là tổ chức gián điệp ăn lương của bọn phát xít. Thật
là trái ngược với lí trí thông thường, lịch sử của P.O.U.M.
chứng tỏ đấy là những điều không đáng tin. Tất cả các nhà lãnh đạo của P.O.U.M. đều có quá trình hoạt động cách mạng khá lâu dài. Một
số người từng tham gia vào cuộc khởi nghĩa năm 1934, phần lớn đều bị chính
quyền quân chủ hoặc chính phủ Lerroux bỏ tù vì những hoạt động theo đường lối
xã hội chủ nghĩa. Năm 1936, người lãnh đạo lúc đó là Joaquin Maurín đã là một
trong những đại biểu quốc hội báo động về việc chuẩn bị bạo loạn của Franco.
Sau khi chiến tranh bùng phát, trong khi đang tổ chức kháng chiến ở hậu phương
của Franco thì ông đã bị bọn phát xít bỏ tù. Sau khi nổ ra bạo loạn, P.O.U.M. có vai trò nổi bật trong cuộc kháng chiến, nhiều
thành viên của P.O.U.M., đặc biệt là ở Madrid, đã hi sinh trong những trận
chiến đấu trên đường phố. Đây là một trong những tổ chức đầu tiên thành lập
được lực lượng dân quân ở Madrid và Catalonia. Thật không thể nào tưởng nổi
rằng đấy là những hành động của một đảng ăn tiền của bọn phát xít. Đảng do phát
xít nuôi sẽ làm một việc đơn giản là chạy sang phía bên kia.
Trong thời gian chiến tranh cũng không thấy
họ có hoạt động thân phát xít nào. Có người biện luận rằng việc P.O.U.M. đòi
chính phủ phải thực hiện đường lối cách mạng hơn đã gây chia rẽ trong chính phủ
và như vậy là gián tiếp giúp đỡ bọn phát xít. Tôi không đồng ý như thế. Tôi
nghĩ bất kì chính phủ theo đường lối cải cách nào cũng sẽ được thể tất nếu họ
coi những tổ chức tương tự như P.O.U.M. là những kẻ
nhiễu sự. Nhưng phản bội lại là vấn đề khác hẳn. Không thể nào giải thích được
vì sao - đấy là nói nếu P.O.U.M. là tổ chức phát xít -
lực lượng dân quân của họ lại vẫn trung thành với chính phủ. Mà đấy là tám đến
mười ngàn người trên những khu vực xung yếu nhất, trong những điều kiện vượt
quá sức chịu đựng của con người trong những ngày mùa đông năm 1936-1937. Nhiều
người trong số họ phải ở trong chiến hào suốt bốn năm tháng liền. Nếu những lời
kết án trên kia là đúng thì thật không thể nào hiểu được vì sao họ không rời bỏ
mặt trận hoặc đơn giản là chạy sang phía bên kia. Lúc nào họ cũng có thể làm
như thế, có những giai đoạn mà việc bỏ trống trận địa có thể tạo ra ảnh hưởng
quyết định tới kết quả cuộc chiến. Nhưng họ vẫn tiếp tục chiến đấu. Ngay cả sau
khi P.O.U.M. đã bị cấm hoạt động. Lúc sự kiện này vẫn
còn tươi rói trong trí óc của mọi người, thì lực lượng dân quân – lúc đó chưa
bị phân bổ vào các đơn vị Quân đội Nhân dân – đã tham gia vào một trận tấn công
đẫm máu ở phía đông Huesca với mấy ngàn người bị giết trong có một hai ngày. Ít
nhất họ cũng phải có thái độ hữu hảo đối với quân địch hoặc binh sĩ thường
xuyên đào ngũ. Nhưng như tôi đã nói trước đây, đào ngũ là hiện tượng cực kì
hiếm. Hay là công việc tuyên truyền thân phát xít, “chủ bại”. Không có dấu hiệu
nào như thế cả. Chắc chắn là có những tên gián điệp, những kẻ khiêu khích trong
hàng ngũ P.O.U.M. rồi; đảng cánh tả nào mà chả có. Nhưng
không hề có bằng chứng nào chứng tỏ rằng P.O.U.M. có nhiều gián điệp hơn những
đảng khác.
Đúng là một số bài trên báo chí cộng sản có
nói, dù là miễn cưỡng, rằng chỉ có các lãnh tụ của P.O.U.M. mới
được lĩnh lương của bọn phát xít, còn các đảng viên thường thì không. Nhưng đây
chỉ là mánh khoé nhằm chia rẽ lãnh đạo với quần chúng mà thôi. Thực chất của
lời kết án là từ các đảng viên thường đến dân quân của P.O.U.M. đều cùng một
giuộc. Vì nếu Nin, Gorkin và những người khác thực sự ăn lương của bọn
phát xít thì các đồng chí từng tiếp xúc với họ phải biết trước khi tin ấy đến
tai các phóng viên ngồi tận London, Paris và New York chứ. Dù sao mặc lòng, sau
khi P.O.U.M. bị cấm, lực lượng cảnh sát mật do cộng sản
kiểm soát đã coi tất cả đều có tội như nhau. Họ bắt tất cả những người có dính
líu với P.O.U.M., trong đó có cả thương binh, ý tá, vợ và đôi khi cả con các
thành viên của P.O.U.M. nữa.
Cuối cùng, ngày 15-16 tháng 6, P.O.U.M. bị cấm hoạt động và bị tuyên bố là tổ chức bất hợp
pháp. Đấy là một trong những hành động đầu tiên của chính phủ Negrín. Chính phủ
này được thành lập vào tháng 5. Khi Ban chấp hành của P.O.U.M.
đã bị tống vào tù, thì ở bên ngoài báo chí cộng sản tuyên bố rằng đã phá vỡ một
âm mưu to lớn của bọn phát xít. Có thời, báo chí cộng sản toàn thế giới đã phát
sốt lên với những bản tin đại loại như (Tờ Daily Worker, ngày 21 tháng
6):
BỌN
TROTSKYIST TÂY BAN NHA ÂM MƯU VỚI FRANCO
Sau khi bắt giam phần lớn những tên
Trotskyist đẩu sỏ ở Barcelona và những nơi khác... đến cuối tuần, người ta mới
biết chi tiết một trong những vụ án gián điệp rùng rợn nhất trong lịch sử chiến
tranh và sự phản bội nhơ bẩn nhất của bọn Trotskyist cho đến nay... Tài liệu mà
cảnh sát nắm được cùng với lời thú nhận của của khoảng 200 người bị bắt chứng
minh ..v.v. và ..v.v..
Đã “chứng minh” được rằng các lãnh tụ của P.O.U.M. đã dùng điện đài để chuyển các bí mật quân sự cho
tướng Franco; tiếp xúc với Berlin, và hợp tác với tổ chức phát xít bí mật ở
Madrid. Ngoài ra còn có những chi tiết giật gân về những bức thư viết bằng mực
hoá học, những tài liệu bí ẩn với chữ kí là N. (nghĩa là Nin) ..v..v. và .v.v..
Nhưng kết quả cuối cùng là như thế này: sáu
tháng sau sự kiện mà tôi vừa kể, phần lớn các nhà lãnh đạo của P.O.U.M.
vẫn còn nằm trong tù, nhưng họ vẫn chưa được đưa ra toà; tội dùng điện đài liên
lạc với Franco .v..v.. vẫn chưa được khởi tố. Nếu quả thật họ mắc tội hoạt động
gián điệp thì họ đã bị đưa ra toà và bị bắn ngay trong vòng một tuần như nhiều
tên gián điệp phát xít khác rồi. Nhưng ngoài những lời tuyên bố suông trên báo
chí cộng sản, người ta đã không tìm được một tí bằng chứng nào. Còn về hai trăm
“lời thú tội”, nếu quả thật có những lời thú tội như thế thì đấy chính là bằng
chứng kết tội rồi. Nhưng không thấy ai nói đến nữa. Thực ra, đấy cũng chỉ là
kết quả của trí tương tượng của một người nào đó mà thôi.
Hơn thế nữa, phần lớn các thành viên trong
chính phủ Tây Ban Nha cũng không tin vào những lời kết án chống lại tổ chức P.O.U.M. Gần đây, chính phủ còn ra quyết định thả tất cả các
tù nhân chống phát xít với năm phiếu thuận và hai phiếu chống, hai phiếu chống
là của các bộ trưởng đảng viên cộng sản. Trong tháng 8 có một phái đoàn quốc tế
do ông James Maxton, đại biểu quốc hội Anh, dẫn đầu đến Tây Ban Nha điều tra
những cáo buộc chống lại P.O.U.M. và những sự kiện liên
quan đến việc mất tích của Andrés Nin. Prieto, bộ trưởng quốc phòng, Irujo, bộ
trưởng bộ tư pháp, Zugazagoitia, bộ trưởng nội vụ, Ortega y Gasset, tổng chưởng
lí, Prat García và những người khác đã nói là họ không tin rằng các vị lãnh đạo
P.O.U.M. là những tên gián điệp. Irujo nói thêm rằng ông
ta đã kiểm tra các tài liệu, tất cả những cái gọi là bằng chứng đều không có
căn cứ và những giấy tờ được cho là do Nin kí đều “không có giá trị”, nghĩa là
giả mạo hết. Prieto cho rằng các lãnh đạo P.O.U.M. phải
chịu trách nhiệm về vụ xung đột hồi tháng 5 ở Barcelona, nhưng phủ nhận ý tưởng
cho rằng họ là điệp viên của lực lượng phát xít. “Quan trọng nhất là không phải
chính phủ quyết định bắt các lãnh đạo P.O.U.M. mà cảnh
sát đã tự ý làm. Không phải những người lãnh đạo cảnh sát quyết định, mà là bộ
sậu của họ, vốn vẫn bị rất nhiều đảng viên cộng sản thâm nhập từ lâu”, Prieto
nói như thế. Ông ta còn nói đến một số trường hợp câu lưu phi pháp khác. Irujo
cũng tuyên bố rằng cảnh sát đã trở thành lực lượng “độc lập giả hiệu” và trên
thực tế đã bị những phần tử cộng sản quốc tế kiểm soát. Prieto đã nhắc khéo
phái đoàn rằng trong khi người Nga còn cung cấp vũ khí thì chính phủ không được
làm phật lòng đảng cộng sản. Phái đoàn thứ hai, do ông John McGovern, đại biểu
quốc hội Anh, dẫn đầu đến Tây Ban Nhà vào tháng 12, cũng nhận được những thông
tin tương tự; ông Zugazagoitia, bộ trưởng nội vụ còn nhắc lại ý của ông Prieto
một cách thẳng thắn hơn nữa. “Chúng tôi được Nga viện trợ cho nên chúng tôi
buộc phải chấp nhận một số hành động mà chúng tôi thực sự không ưa.” Một trong
những biểu hiện của sự tự tung tự tác của cành sát là mặc dù đã có lệnh của
giám đốc nhà tù cũng như của bộ trưởng bộ tư pháp, McGovern và
những người trong đoàn vẫn không được tiếp cận với một trong những “nhà tù bí
mật” do đảng cộng sản quản lí ở Barcelona[36].
Tôi nghĩ rằng như thế là đủ rõ. Người ta chỉ
dựa vào những bài viết trên báo chí cộng sản và tài liệu của cảnh sát mật do
cộng sản kiểm soát để kết tội hoạt động gián điệp của P.O.U.M.
mà thôi. Lãnh đạo P.O.U.M. và hàng trăm, hay hàng ngàn
đảng viên của họ vẫn còn bị giam, đã sáu tháng rồi mà báo chí cộng sản vẫn còn
lớn giọng đòi xử tử “những tên phản bội”. Nhưng Negrín và những người khác vẫn
kiên định, họ không chịu giết hại những người theo phái Trotskyists. Nếu xét
thêm những áp lực mà họ phải chịu thì càng thấy rằng họ là những người rất đáng
được tôn trọng. Cùng với những tài liệu mà tôi trích dẫn bên trên, thật khó mà
tin được rằng P.O.U.M. là tổ chức tình báo phát xít. Đấy
là nói nếu ta không tin rằng những người như Maxton, Mc-Govern, Prieto, Irujo,
Zugazagoitia và những người khác nữa cũng đều là gián điệp ăn lương của bọn
phát xít.
Cuối cùng, xin xem xét lời kết án cho rằng P.O.U.M. là tổ chức Trotskyist. Đây là từ rất thông dụng hiện
nay, thường bị hiểu sai và bị người ta cố tình làm sai lệch đi. Xin xem xét ý
nghĩa của nó một cách cụ thể hơn. Từ Trotskyist được sử dụng cho ba loại người
khác nhau sau đây:
1. Những người, tương tự như Trotsky, kêu gọi
tiến hành “cách mạng thế giới”, chống lại “chủ nghĩa xã hội trong một quốc
gia”. Đại khái, đấy là người cách mạng quá khích.
2.
Thành viên của tổ chức do Trotsky lãnh đạo.
3. Những tên phát xít đóng giả người cách
mạng, thực tế là chống lại Liên Xô và nói chung là chia rẽ và phá hoại lực
lượng cánh tả.
Có thể gọi P.O.U.M. là
tổ chức Trotskyist theo nghĩa thứ nhất. Nhưng thế thì cũng có thể gọi Đảng lao
động độc lập ở Anh, Đảng S.A.P. ở Đức, Đảng xã hội cánh
tả ở Pháp.. là các tổ chức Trotskyist vậy. Nhưng P.O.U.M.
không có liên hệ gì với bản thân Trotsky cũng như với tổ chức Trotskyist (“Bolshevik-Lenninist”).
Khi chiến tranh nổ ra, những người theo phái Trotskyist ngoại quốc đến Tây Ban
Nha (khoảng mười lăm đến hai mươi người) ban đầu đã làm việc cho P.O.U.M. vì đảng này có quan điểm gần gũi với họ, nhưng họ
không phải là thành viên của đảng. Nhưng sau này, khi Trotsky ra lệnh cho người
của mình tấn công đường lối của P.O.U.M. thì những người
theo phái Trotskyist bị đuổi ra khỏi các cơ quan của đảng, nhưng một vài người
vẫn còn ở lại trong lực lượng vũ trang. Nin, trở thành người lãnh đạo của P.O.U.M. sau khi Maurín bị bọn phát xít bắt, có thời từng là
thư kí của Trotsky, nhưng đã li khai với ông này cách đó mấy năm để thành lập
ra P.O.U.M. bằng cách liên kết những tổ chức cộng sản
đối lập với đảng gọi là khối công nông. Việc Nin có thời liên minh với Trotsky
đã được báo chí cộng sản sử dụng để chứng minh rằng P.O.U.M.
là tổ chức Trotskyist. Nhưng bằng cách đó ta cũng có thể chứng minh rằng Đảng
cộng sản Anh là tổ chức phát xít vì John Strachey có thời đã liên minh với
Oswald Mosley.
Theo nghĩa thứ hai, nghĩa chính xác nhất của
từ này, thì P.O.U.M. rõ ràng không phải là tổ chức
Trotskyist. Đây là điều đặc biệt quan trọng vì đối với phần lớn các đảng viên
cộng sản, tổ chức Trotskyist theo nghĩa thứ hai chắc chắn phải là tổ chức
Trotskyist theo nghĩa tứ ba, tức là Trotskyist đơn giản chỉ là tổ chức gián
điệp của bọn phát xít mà thôi. Từ chủ nghĩa Trotskyist trở thành thông dụng
trong thời gian diễn ra những phiên toà mang tính trình diễn ở Moskva và gọi
một người là Trotskyist cũng đồng nghĩa với việc coi người đó là tên sát nhân,
tên khiêu khích... Nhưng đồng thời bất cứ người nào đứng trên lập trường tả
khuynh mà phê phán đường lối của cộng sản thì cũng đều có thể bị gán cho là
Trotskyist. Như vậy có phải là khẳng định rằng tất cả những người cách mạng quá
khích đều ăn lương của phát xít?
Câu trả lời có thể là khẳng định, mà cũng có
thể là phủ định, tuỳ lúc và tuỳ nơi. Khi Maxton dẫn đầu đoàn đại biểu quốc tế
đến Tây Ban Nha, như tôi đã nói bên trên, những tờ báo cộng sản như Verdad,
Frente Rojo và một số tờ khác đã lập tức lên án ông ta là
“Trotskyist-Fascist”, là gián điệp của Gestapo ..v.v... Nhưng báo chí cộng sản
Anh đã không vào hùa với những lời kết án như thế. Báo chí cộng sản Anh chỉ kết
án Maxton một cách tù mù là “kẻ thù của giai cấp công nhân”. Lí do rất đơn
giản: sau một vài bài học đau xót, báo chí cộng sản ở Anh đã biết sợ pháp luật,
không còn dám phỉ báng nữa. Việc người ta không dám nhắc lại lời kết án ở đất
nước, nơi mà đương sự có thể bị buộc phải chứng minh đủ cho ta thấy tính chất
dối trá của những lời kết án kiểu đó.
Có người sẽ cho rằng tôi bàn quá nhiều, quá
mức cần thiết, về những lời kết án đối với P.O.U.M. So
với những tai hoạ khủng khiếp mà cuộc nội chiến đã gây ra thì những vụ cãi vã
giữa các đảng phái với những lời kết án sai lầm và bất công có thể chỉ là
chuyện vặt. Nhưng thực tế không hoàn toàn như thế. Tôi tin rằng những lời vu
khống và các chiến dịch do báo chí tiến hành và thói quen tư duy mà chúng cho
thấy có thể giáng vào sự nghiệp chống phát xít những đòn chí tử.
Ai có hiểu biết sơ qua về cách thức cộng sản
đối phó với những người đối lập đều biết rằng bịa ra những lời kết án không
phải là việc mới. Hôm nay họ gán cho là “Trotskyist-Fascist”; còn trước đây thì
họ vu cho là “Xã hội-phát xít”. Chỉ mới sáu hay bảy năm trước đây toà án Liên
Xô từng “chứng minh” rằng Quốc tế II, trong đó có Leon Blum và những nhà hoạt
động nổi tiếng của Đảng lao động Anh từng tham gia vào âm mưu to lớn với mục
đích là đánh chiếm Liên Xô. Thế mà hiện nay những người cộng sản Pháp lại thấy
vô cùng sung sướng khi có một nhà lãnh đạo là Blum, còn đảng viên cộng sản Anh
thì tìm mọi cách để được đứng vào hàng ngũ của Đảng lao động. Tôi ngờ rằng cách
làm như thế chẳng mang lại lợi ích gì, ngay cả xét theo quan điểm đảng phái.
Nhưng không nghi ngờ gì rằng việc kết án là “Trotskyist-Fascist” đã gây ra hận
thù và chia rẽ. Khắp mọi nơi, các đảng viên thường đều được huy động tham gia
vào một công việc vô nghĩa lí là truy lùng những người theo phái Trotskyist,
còn các đảng như kiểu P.O.U.M. thì bị đẩy vào tình thế
cực kì khó khăn vì mang tiếng là những đảng chống cộng. Phong trào công nhân
quốc tế đứng trước những dấu hiệu chia rẽ đầy nguy hiểm. Chỉ cần một vài chiến
dịch bôi nhọ những người đã đấu tranh suốt đời cho chủ nghĩa xã hội, chỉ cần
một vài âm mưu xảo trá tương tự như những lời kết án chống lại P.O.U.M.
là sự phân rã có thể trở thành không gì cứu vãn nổi. Chỉ còn hi vọng là những
mâu thuẫn về mặt chính trị sẽ được giữ ở mức độ cho phép thảo luận mọi vấn đề
một cách thấu đáo. Có sự khác biệt thực sự giữa những người cộng sản và những
người “tả hơn” hoặc tuyên bố là “tả hơn” họ. Cộng sản cho rằng có thể liên minh
với một vài bộ phận của giai cấp tư sản (Mặt trận dân tộc) để đánh đổ chủ nghĩa
phát xít, còn những người phản đối thì cho rằng sách lược đó chỉ tạo thêm khu
vực hoạt động cho bọn phát xít mà thôi. Đây là vấn đề cần phải giải quyết ngay.
Quyết định sai lầm có thể đẩy nhân loại vào tình trạng nô lệ trong hàng thế kỉ.
Nhưng khi mà lí lẽ duy nhất chỉ là những tiếng rên rỉ “Trotskyist-Fascist!”
thì khởi sự đã là việc bất khả thi rồi, nói gì đến thảo luận một cách nghiêm
túc. Thí dụ, tôi không thể nào tranh luận về vụ đụng độ ở Barcelona với một
người đảng viên cộng sản vì không có người cộng sản nào - đấy là nói người cộng
sản “chân chính” - chịu tin rằng tôi đã trình bày các sự kiện một cách chân
thực. Nếu anh ta tuân thủ “đường lối” của đảng thì anh ta sẽ tuyên bố rằng tôi
cố tình nói dối hoặc tôi đã lầm lẫn một cách nghiêm trọng. Anh ta sẽ nói rằng
chỉ cần đọc đầu đề của những bài báo trên tờ Daily Worker là một độc giả
có ở xa cả ngàn cây số cũng biết rõ các sự kiện ở Barcelona hơn là tôi. Không
thể thảo luận trong tình hình như thế, điều kiện tối thiểu cho sự đồng thuận
cũng không thể có. Nói rằng những người như Maxton ăn tiền của bọn phát xít để
nhằm mục đích gì? Mục đích duy nhất là chặn đứng mọi cuộc thảo luận nghiêm túc.
Chẳng khác gì đang chơi cờ mà một trong hai người bỗng gào lên rằng người kia
từng đốt nhà hay mắc tội đa thê. Không thể giải quyết được vấn đề. Vu khống
không giải quyết được gì hết.
12
Phải ba ngày sau khi những vụ đụng độ ở
Barcelona chấm dứt chúng tôi mới quay lại mặt trận. Sau vụ đụng độ - nhất là
sau cuộc đấu khẩu trên báo chí - thật khó mà nghĩ vể cuộc chiến này một cách lí
tưởng thơ ngây như trước được nữa. Tôi cho rằng không có người nào từng ở Tây
Ban Nha vài ba tuần mà không cảm thấy thất vọng, dù ít dù nhiều. Tôi chợt nhớ
đến người phóng viên mà tôi gặp trong ngày đầu tiên tới Barcelona. Anh ta bảo:
“Cuộc chiến tranh này cũng chỉ là một thủ đoạn giống như mọi cuộc chiến tranh
khác mà thôi”. Nhận xét của anh ta đã làm tôi choáng váng, lúc đó (tháng 12)
tôi cho là không đúng, còn bây giờ là tháng 5, cũng vẫn không đúng, mà phải nói
là quá đúng. Vấn đề là cuộc chiến nào cũng dẫn đến thoái hoá, thời gian càng kéo
dài thì thoái hoá lại càng gia tăng vì hiệu quả của các hành động quân sự không
thể song hành với tự do cá nhân và báo chí trung thực.
Bây
giờ người ta có thể dự đoán được các sự kiện sẽ phát triển theo hướng nào. Dễ
dàng đoán được là chính phủ của Caballero sẽ đổ và sẽ được thay bằng một chính
phủ hữu khuynh hơn, chịu nhiều ảnh hưởng của cộng sản hơn (chuyện này xảy ra
sau đó một hoặc hai tuần), với mục tiêu là đập tan sức mạnh của các tổ chức
công đoàn. Tương lai - đấy là nói sau khi đánh bại được Franco và để sang một
bên những khó khăn to lớn của thời kì tái thiết – cũng sẽ chẳng lấy gì làm tốt
đẹp. Câu chuyện của báo chí nói rằng “đây là cuộc chiến vì dân chủ” chỉ là
những lời ba hoa chích choè mà thôi. Không một người có lí trí nào lại hi vọng
rằng sẽ có dân chủ - dù là dân chủ theo kiểu ở Anh hay theo kiểu Pháp - ở đất
nước Tây Ban Nha đầy chia rẽ và kiệt quệ này, ngay cả sau khi chiến tranh đã
kết thúc. Sẽ là chế độ chuyên chính và rõ ràng là cơ hội thiết lập chế độ
chuyên chính của giai cấp công nhân đã vĩnh viễn qua rồi. Điều đó có nghĩa là
sẽ hướng về chủ nghĩa phát xít. Không nghi ngờ gì rằng chủ nghĩa phát xít với
một cái tên tao nhã hơn, và – vì đây là Tây Ban Nha – cho nên cũng nhân bản hơn
và kém hiệu quả hơn là phát xít Đức và Ý. Chỉ có mấy khả năng, đấy là nền độc
tài tồi tệ của Franco hoặc là chiến tranh sẽ kết thúc bằng việc chia cắt Tây
Ban Nha với những đường biên giới thực sự hoặc thành những khu vực kinh tế
riêng biệt.
Kiểu
nào cũng khổ. Nhưng như thế không có nghĩa là không cần chiến đấu bảo vệ chính
phủ, không cần chiến đấu chống lại chủ nghĩa phát xít không che đậy và đã ăn
sâu bén rễ của Farnco và Hitler. Dù chính phủ thời hậu chiến có mắc sai lầm gì
đi nữa thì chế độ của Franco chắc chắn là vẫn xấu hơn. Đối với công nhân, tức là
đối với người vô sản thành thị, ai chiến thắng có lẽ cũng không phải là điều
quan trọng. Nhưng Tây Ban Nha là đất nước nông nghiệp và nông dân có phần chắc
là sẽ được lợi nếu chính phủ cộng hoà giành được chiến thắng. Nông dân sẽ giữ lại được một phần đất đai mà
họ đã chiếm đoạt được, rồi ruộng đất trong khu vực còn nằm dưới quyền kiểm soát
của phát xít cũng sẽ được đem chia, và chế độ nông nô từng tồn tại ở một vài
khu vực có lẽ sẽ không được tái lập nữa. Nếu chính phủ giành được chiến thắng
thì nhất định nó phải có tinh thần phản phong và bài giáo hội. Chính phủ sẽ hạn
chế được ảnh hưởng của nhà thờ, ít nhất là trong một thời gian nào đó; sẽ hiện
đại hoá đất nước, thí dụ như xây dựng đường sá, thúc đẩy giáo dục và bảo vệ sức
khoẻ; ngay cả trong thời chiến người ta cũng đã làm được một vài việc theo
hướng này rồi. Mặt khác, Franco, ngay cả nếu không coi hắn là bù nhìn của Đức
và Ý, gắn bó chặt chẽ với những điền chủ lớn và là tay sai của các thế lực tăng
lữ-quân phiệt phản động. Mặt trận nhân dân có thể là bịp bợm, nhưng Franco lại
là hiện tượng lỗi thời. Chỉ có những triệu phú hoặc những người viển vông mới
mong cho hắn thắng mà thôi.
Hơn
nữa, còn có vấn đề uy tín của chủ nghĩa phát xít quốc tế. Câu hỏi này, chẳng
khác gì một cơn ác mộng, đã hành hạ tôi suốt một hai năm nay. Từ năm 1930 đến
nay, bọn phát xít đã giành hết chiến thắng này đến chiến thắng khác. Đã đến lúc
cho chúng một bài học, ai làm việc đó không phải là quan trọng. Nếu chúng ta có
thể hất cẳng được Franco và bọn lính đánh thuê ngoại quốc của hắn thì tình hình
thế giới sẽ được cải thiện một cách đáng kể. Chỉ cần như thế cũng đáng phải
thắng rồi, ngay cả nếu sau đó Tây Ban Nha có rơi vào tay chế độ độc tài và
những người con ưu tú nhất của nó có bị tù đầy.
Trong
thời gian đó tôi đã nghĩ như thế. Có thể nói rằng hiện giờ tôi đánh giá chính
phủ của Negrín cao hơn là khi ông ta mới cầm quyền. Chính phủ đã kiên trì theo
đuổi cuộc chiến đấu đầy khó khăn với một tinh thần dũng cảm vô song và đã thể
hiện thái độ khoan dung chính trị không ai có thể ngờ được. Tuy nhiên, tôi vẫn
tin rằng - trừ phi Tây Ban Nha bị chia cắt với những hậu quả không thể lường
trước được – chính phủ thời hậu chiến sẽ ngả về phe phát xít. Một lần nữa tôi
xin đưa ra ý kiến của mình như thế, hãy để thời gian phán xét, cũng như đã từng
phán xét hầu hết các nhà tiên tri khác.
Vừa
ra đến mặt trận, chúng tôi nhận được tin là Bob Smillie đang trên đường trở về
Anh thì bị bắt ở biên giới rồi bị giải về Valencia và tống vào tù. Smillie đến
Tây Ban Nha vào tháng 10 năm ngoái. Anh làm trong văn phòng P.O.U.M.
mấy tháng, và khi những thành viên khác của I.L.P. tới
thì cùng với họ tham gia lực lượng dân quân và ra ngay mặt trận với điều kiện
là sau ba tháng sẽ trở lại Anh để tham gia vào một đoàn tuyên truyền cổ động.
Phải sau một thời gian chúng tôi mới biết vì sao Smillie bị bắt. Anh bị biệt
giam cho nên ngay cả luật sư cũng không tiếp xúc được. Ở Tây Ban Nha – ít nhất
là trên thực tế - người ta có thể bắt giam người mấy tháng liền mà không cần
đưa ra bản án chứ chưa nói tới việc xét xử. Cuối cùng, có một người tù được thả
cho chúng tôi biết rằng Smillie bị bắt vì “mang theo vũ khí”. Sau này, tình cờ
tôi mới biết được rằng “vũ khí” ở đây là hai quả lựu đạn cổ lỗ sỹ được sử dụng
hồi đầu cuộc chiến. Smillie mang theo cùng với vài mảnh vỏ đạn và đồ lưu niệm
lặt vặt khác để làm “giáo cụ trực quan” trong những bài nói chuyện ở quê nhà.
Mấy quả lựu đạn này đã bị tháo hết thuốc và ngòi nổ, chỉ còn là mấy ống kim
loại rỗng, hoàn toàn vô hại. Rõ ràng đấy chỉ là cái cớ, Bob Smillie bị bắt là
vì mối liên hệ của anh với P.O.U.M. mà ai cũng biết. Vụ đụng độ
ở Barcelona vừa mới kết thúc và chính quyền tìm mọi cách không để cho
những người có thể phản bác cách giải thích của chính phủ ra khỏi Tây Ban Nha.
Kết quả là một số người đã bị bắt ở biên giới chỉ vì những lí do rất vớ vẩn.
Hoàn toàn có khả năng là đầu tiên người ta chỉ định giữ Smillie mấy ngày thôi.
Nhưng rắc rối là ở chỗ, ở Tây Ban Nha đã vào tù rồi thì cứ ngồi đấy, ra toà hay
không không thành vấn đề.
Chúng
tôi vẫn đóng ở Huesca, nhưng lần này bị đẩy xa hơn về phía bên phải. Trước mặt
chúng tôi là đồn địch mà chúng tôi đã tạm chiếm được cách đây vài tuần. Bây giờ
tôi giữ chức teniente — có lẽ tương đương với chức thiếu uý trong quân
đội Anh - chỉ huy khoảng ba mươi chiến sĩ, cả người Tây Ban Nha lẫn người Anh.
Người ta đã đưa tên tôi vào danh sách phong hàm quân đội chính qui, nhưng không
chắc là sẽ được phong. Trước đây sĩ quan dân quân không chấp nhận quân hàm
chính qui vì nhận nghĩa là được thêm lương, mà như thế là trái ngược với nguyên
tắc bình đẳng của lực lượng dân quân, nhưng nay thì bắt buộc phải nhận.
Benjamin đã được phong hàm đại uý, còn Kopp thì đang đợi phong hàm thiếu tá. Dĩ
nhiên là chính phủ không thể không dùng các sĩ quan trưởng thành từ lực lượng
dân quân, nhưng chưa phong ai cao hơn cấp bậc thiếu tá, có lẽ họ muốn giữ các
cấp bậc cao hơn cho các sĩ quan quân đội chính qui và học viên các trường sĩ
quan. Kết quả là trong sư đoàn 29 của chúng tôi, chắc chắn là các sư đoàn khác
cũng thế, sư trưởng, các trung đoàn trưởng, các tiểu đoàn trưởng, tất cả đều
đeo lon thiếu tá!
Mặt
trận vẫn bình lặng. Trận đánh giành quốc lộ Jaca đã chấm dứt, phải mãi đến
tháng 6 chiến sự mới tái tục. Ở khu vực của chúng tôi rắc rối chủ yếu là bọn
bắn tỉa. Chiến hào của bọn phát xít cách chúng tôi chừng một trăm năm mươi mét,
nhưng chúng ở cao hơn và bọc chúng tôi từ cả hai phía vì chiến hào của chúng
tôi có một góc nhọn đâm thẳng vào chiến hào của bọn chúng. Cái góc này là chỗ
nguy hiểm nhất, nhiều thương vong do bọn bắn tỉa gây ra nhất. Đôi khi bọn phát
xít còn bắn bằng súng phóng lựu hoặc là những loại vũ khí tương tự khác. Lựu
đạn nổ rất to và rất đáng sợ, vì không thể biết trước mà tránh. Nhưng lại không
nguy hiểm, nó chỉ tạo ra một hố bằng cái thau. Đêm mát mẻ và dễ chịu, nhưng
ngày thì nóng như thiêu như đốt, muỗi bay như trấu và mặc dù có quần áo sạch sẽ
mang từ Barcelona tới, chúng tôi gần như có rận ngay lập tức. Trong những vườn
cây ăn trái vô chủ trên khu đất tranh chấp, hoa anh đào nở trắng xoá. Mưa xối
xả kéo dài hai ngày liền, hầm trú ẩn đầy nước, bờ công sự sụt lở; sau trận mưa
chúng tôi phải đào suốt ngày, đất thì dính mà xẻng Tây Ban Nha thì không có
cán, lại cong queo chẳng khác gì những chiếc thìa bằng thiếc.
Họ
hứa cấp cho chúng tôi một khẩu súng cối tầm ngắn. Nhưng chờ đến sốt ruột mà vẫn
chưa thấy. Chúng tôi vẫn đi tuần đêm như thường lệ. Nhưng bây giờ nguy hiểm hơn
vì bọn phát xít có đông quân hơn và chúng đã cảnh giác hơn, chúng vất vỏ đồ hộp
bên ngoài hàng rào kẽm gai và thường nổ súng ngay khi nghe thấy tiếng vỏ đồ hộp
va chạm nhau. Ban ngày chúng tôi nấp trong khu đất đang còn tranh chấp, hễ thấy
tên nào ló ra thì bắn. Phải bò khoảng một trăm mét mới tới cái hào có đám cỏ
cao che kín, nắm ở đây có thể nhắm bắn vào khoảng trống trên bờ công sự của bọn
phát xít. Chúng tôi dựng một ụ súng trên bờ hào. Nếu chịu khó đợi thì thế nào
cũng có lúc trông thấy một người mặc quần áo kaki vội vã chạy qua khoảng trống
trên bờ công sự. Tôi đã bắn mấy lần. Chẳng biết có trúng không, nhiều khả năng
là không; tôi bắn rất kém. Nhưng mà vui, bọn phát xít không biết đạn bắn từ
hướng nào, còn tôi thì tin chắc rằng trước sau gì tôi cũng hạ được một tên.
Nhưng thật là đồ chó chết, tôi trúng đạn trước. Tôi ra mặt trận khoảng mười
ngày thì bị. Cảm giác trúng đạn cũng rất thú vị và tôi nghĩ là xứng đáng được
ghi chép lại một cách tỉ mỉ.
Lúc
đó tôi đang đứng ở góc chiến hào, mới năm giờ sáng. Đây là thời điểm nguy hiểm
vì mặt trời mọc ở phía sau lưng chúng tôi, chỉ cần thò đầu lên khỏi chiến hào
là bị phát hiện ngay. Tôi đang nói chuyện với mấy chiến sĩ sắp đổi gác. Bất
thình lình, tôi chưa nói hết câu thì cảm thấy - thật khó nói tôi cảm thấy cái
gì dù rằng cảm giác vẫn còn sống động như ngày nào.
Đại
khái là tôi cảm thấy như đứng giữa trung tâm của một vụ nổ. Tiếng nổ rất to và
tia chớp loá mắt bao trùm tất cả, rồi tôi thấy người mình giật bắn lên – không
đau, chỉ bị giật mạnh, như điện giật, người lả đi, như đang rữa ra và tan biến
đi vậy. Những bao cát trước mặt tôi bỗng lùi ra một khoảng cách rất xa. Tôi
nghĩ là người bị sét đánh cũng có cảm giác như thế. Tôi biết ngay là mình đã
trúng đạn, nhưng vì tưởng là có tiếng nổ và tia chớp cho nên tôi nghĩ là khẩu
súng bên cạnh đã cướp cò và bắn phải tôi. Tất cả xảy ra chỉ trong vòng chưa đến
một giây. Đầu gối khuỵu xuống, tôi ngã, đầu đập mạnh vào bờ hào, nhưng không
thấy đau. Người tôi cứng đơ, mê đi, tôi biết mình bị thương nặng, nhưng không
thấy đau theo nghĩa thông thường của từ này.
Tay
lính gác người Mĩ vừa nói chuyện với tôi cúi xuống hỏi: “Này! Anh bị thương
hả?” Đám đông bu lại xung quanh. Mọi sự bắt đầu rối tinh lên, như vẫn thường
thấy trong những trường hợp thế này. “Đỡ anh ta dậy! Bị thương ở đâu? Cởi áo
ra!” ..v.v.. và ..v.v.. Tay lính người Mĩ hỏi xem ai có dao để rạch áo cho tôi.
Tôi nhớ có một con dao trong túi áo và định đưa tay tìm nhưng hoá ra tay phải của
tôi đã bị liệt, không cử động được nữa. Vẫn không đau, thậm chí còn cảm thấy
hài lòng. Bà xã sẽ khoái lắm đấy, tôi tự nhủ. Bà xã lúc nào cũng mong tôi bị
thương, vì bị thương thì sẽ không bị giết. Chỉ đến lúc này tôi mới bắt đầu nghĩ
xem mình bị thương ở đâu, có nghiêm trọng không. Tôi không có cảm giác gì,
nhưng ý thức được rằng viên đạn đã bay từ đằng trước tới. Tôi cố lên tiếng,
nhưng hoá ra không nói được thành lời, chỉ có những tiếng khè khè nhè nhẹ,
nhưng rồi tôi cũng hỏi được là bị thương ở đâu. Vào cổ, họ bảo thế. Harry Webb,
chiến sĩ cứu thương của chúng tôi, mang băng và một chai cồn dùng cho những
trường hợp bị thương ngoài mặt trận. Tôi vừa được đỡ ngồi dậy thì đã thấy máu
từ miệng tuôn ra xối xả. Một chiến sĩ người Tây Ban Nha đứng đằng sau tôi bảo
rằng viên đạn bay xuyên qua cổ. Bình thường thì cồn rất xót, nhưng lần này tôi
lại thấy cảm giác mát dịu khi những giọt cồn đầu tiên lan trên vết thương.
Trong
khi đợi người ta mang cáng tới, họ lại đặt tôi nằm xuống. Vừa nghe thấy nói đạn
xuyên qua cổ là tôi đã chắc mẩm: đời mình tiêu rồi. Tôi chưa từng nghe nói ai
hay con vật nào bị đạn bắn xuyên quả cổ mà sống sót. Máu vẫn rỉ ra bên khoé
miệng. “Đứt động mạch rồi”, tôi tự nhủ. “Không hiểu động mạch cảnh bị đứt thì
còn sống được bao lâu? Chắc chỉ mấy phút thôi”, tôi thầm nghĩ như thế. Mọi thứ
như đang trôi trong màn sương mù dày đặc. Tôi cảm thấy như mình đã chết rồi,
chuyện ấy kéo dài độ hai phút. Cũng rất thú vị - ý tôi là thú vị khi biết ta đã
nghĩ gì trong thời gian đó. Cũng bình thường thôi, trước hết tôi nghĩ đến bà
xã. Thứ hai, cảm thấy rất hận khi phải từ biệt thế giới này, cái thế giới đầy
những khiếm khuyết nhưng rất hợp với tôi. Cảm giác này rất là sống động. Rủi
thế, tôi muốn phát điên lên được. Nhảm nhí quá thể! Trúng đạn, không phải ở giữa
trận tiền mà trong góc cái chiến hào chết tiệt này, chỉ vì một phút lơ đễnh!
Tôi cũng nghĩ về kẻ đã bắn trúng tôi – không hiểu đấy là người Tây Ban Nha hay
người ngoại quốc, liệu hắn ta có biết là đã bắn trúng tôi không .v.v.. Tôi
không hề căm hận hắn. Tôi mường tượng rằng vì hắn là một tên phát xít cho nên
chắc chắn là tôi sẽ giết nếu có điều kiện, nhưng nếu hắn bị bắt làm tù binh và
được đưa đến trước mặt tôi thì tôi sẽ chúc mừng hắn vì đã bắn trúng mục tiêu.
Cũng có thể, một người chết thật sẽ có những ý nghĩ hoàn toàn khác với ý nghĩ
của tôi.
Họ
vừa đặt tôi lên cáng thì cánh tay phải cũng bắt đầu hồi sinh và đau không thể
chịu nổi. Tôi mường tượng rằng tôi đã làm gãy tay khi ngã, nhưng cơn đau lại
làm tôi yên tâm vì tôi biết rằng khi người ta hấp hối thì cảm giác không thể
sắc bén như vậy được. Tôi bắt đầu cảm thấy khá hơn và thấy ái ngại cho bốn
chiến sĩ tải thương tội nghiệp, áo đẫm mồ hôi, bước thấp bước cao, đang phải
cáng tôi. Phải đi gần hai cây số mới tới được trạm cứu thương, mà chiến hào thì
trơn, đầy ổ trâu, ổ gà. Tôi biết rõ như thế, vì trước đó một hai ngày đã từng
giúp cáng một thương binh trên con đường này. Đôi chỗ, cành bạch dương rủ xuống
sát mặt chiến hào, lá bạch dương mơn man trên má tôi. Tôi nghĩ thật hạnh phúc
biết bao khi được sống trên thế gian, nơi có những cây bạch dương như thế này.
Trong khi đó tay vẫn đau không thể nào chịu nổi, tôi đã mấy lần văng tục, nhưng
rồi lại cố không văng tục vì mỗi lần thở mạnh là máu lại sùi ra ở miệng.
Bác
sĩ băng bó lại vết thương, tiêm cho tôi một liều morfin rồi cho chở tôi đi
Sietamo ngay lập tức. Bệnh xá ở Sietamo là những nhà gỗ tạm, thương binh thường
chỉ được giữ lại trong vài giờ rồi được chở đi Barbastro hoặc Lerida. Tôi bị
say morfin, nhưng vẫn đau khủng khiếp, gần như không cử động nổi, máu vẫn chảy,
tôi phải nuốt vì không nhổ ra được. Một cô y tá mang tới khẩu phần ăn của bệnh
viện gồm một bát súp, mấy quả trứng luộc và một miếng thịt hầm béo ngậy - các
bệnh viện Tây Ban Nha bao giờ cũng làm như vậy. Cô ý tá tỏ vẻ ngạc nhiên khi
thấy tôi không ăn. Tôi hỏi xin thuốc lá, nhưng đây là giai đoạn khan hiếm trầm
trọng, bệnh viện không còn điếu thuốc lá nào. Một lúc sau có hai người bạn xin
được phép đi thăm tôi xuất hiện.
“Chào! Thế là sống rồi hả? Tốt. Hãy cho chúng
tớ đồng hồ, súng lục, đèn pin nữa. Nếu cậu có dao thì cũng cho xin luôn đi.”
Họ
lấy hết những gì tôi có trong người. Thương binh nào cũng thế - tất cả những gì
anh ta có đều bị chia ngay lập tức. Mà thế là đúng. Ngoài mặt trận đồng hồ,
súng lục và những thứ khác đều là của quí cả, còn thương binh mà mang theo
người thì trước sau gì cũng bị ăn cắp sạch.
Buổi
chiều, khi thương bệnh binh đã nhiều, họ cho chúng tôi lên mấy chiếc xe cứu
thương và chở đi Barbastro. Thật là một chuyến đi hãi hùng! Người ta thường nói
rằng trong cuộc chiến tranh này nếu bị thương vào chân tay thì sống, còn bị
thương vào bụng thì chết là cái chắc. Bây giờ thì tôi hiểu vì sao. Vượt qua
đoạn đường dài đã bị ô tô tải nặng cày nát và từ hồi chiến tranh đến giờ vẫn
chưa được sửa chữa lần nào mà lại còn bị chảy máu nội tạng nữa thì sống làm sao
nổi! Xe lao vào hết ổ gà nọ đến ổ gà kia, rung lên bần bật. Nó làm tôi nhớ lại trò
chơi “bập bênh”[37] hồi còn
bé. Người ta quên cột chặt chúng tôi vào cáng. May là tay trái tôi còn khoẻ nên
vẫn bám được, nhưng có một cậu bị rơi xuống sàn, chắc là đau lắm. Một người
khác, đi lại được, ngồi trong góc xe, nôn thốc nôn tháo suốt cả đoạn đường.
Bệnh viện ở Barbastro chật cứng người, giường kê sát nhau. Ngày hôm sau, một số
người được đưa lên mấy toa tầu bệnh viện để đi Lerida.
Tôi
nằm ở Lerida năm hoặc sáu ngày. Đây là một bệnh viện lớn, thương binh, bệnh
binh và bệnh nhân bình thường nằm lẫn lộn với nhau. Trong phòng tôi có những
thương binh rất nặng. Bên cạnh tôi là một thanh niên tóc đen, không biết uống
thuốc gì mà nước tiểu xanh như ngọc bích. Chai đựng nước tiểu của anh ta trở
thành sự kiện lạ, thu hút khối người tò mò. Nghe tin có một người Anh nằm viện,
một đảng viên cộng sản Hà Lan nói được tiếng Anh đã đến thăm tôi. Chúng tôi kết
bạn với nhau, anh ta mang báo tiếng Anh đến cho tôi đọc. Anh bị thương rất nặng
trong trận đánh diễn ra hồi tháng mười, anh tìm cách ở lại làm việc tại bệnh
viện Lerida và đã kịp cưới một cô y tá làm vợ. Vết thương làm một chân anh teo
lại, bây giờ trông nó còn nhỏ hơn cả cánh tay tôi. Có hai cậu dân quân đi phép
ghé vào thăm tôi. Tôi đã gặp hai cậu này ngay trong những ngày đầu tiên ra mặt
trận, họ cũng nhận ra tôi. Hai cậu này còn rất trẻ, chỉ khoảng mười tám là
cùng. Họ đứng cạnh giường tôi, ấp a ấp úng, không nói lên lời. Sau đó, họ rút
hết thuốc lá trong túi ra và đưa cho tôi rồi chuồn thẳng đến nỗi tôi không kịp
trả lại nữa. Đấy là cách thể hiện tình cảm của họ. Đặc sệt Tây Ban Nha! Sau này
tôi mới biết rằng trong thành phố này không có chỗ nào bán thuốc lá, họ đã cho
tôi tất cả số thuốc lá được phát cho cả một tuần.
Sau
vài ngày tôi đã có thể đứng dậy và đi lại được, tuy tay vẫn còn phải băng và
treo trước ngực. Không hiểu sao bỏ xuống thì đau hơn nhiều. Vẫn còn rất đau ở
bên trong, đấy là do tôi ngã. Giọng nói thì mất hẳn, nhưng bản thân vết đạn thì
không đau nữa. Có vẻ như ai cũng thế cả. Chính cú va đập mạnh của đầu đạn đã
làm tê liệt cảm giác; trong khi mảnh đạn hay mảnh bom nham nhở, tuy va đập
không mạnh bằng như lại gây đau đớn hơn nhiều. Trong sân bệnh viện có một mảnh
vườn khá xinh xắn và bể cá, có cả cá vàng và mấy chú cá màu xám nhỏ nữa. Tôi
thường ngắm chúng hàng giờ liền không biết chán. Cách làm việc ở Lerida cho
phép tôi hiểu được hệ thống quân y viện ở mặt trận Aragon - ở những nơi khác có
như thế hay không thì tôi không biết. Về một số mặt, quân y viện ở đây phải nói
là tốt. Các bác sĩ đều giỏi, thuốc và dụng cụ y tế có vẻ như cũng không thiếu.
Nhưng có hai khiếm khuyết nghiêm trọng, chắc chắn đã làm hàng trăm, thậm chí
hàng ngàn thương bệnh binh chết oan.
Một
là, tất cả các quân y viện gần mặt trận chỉ được sử dụng gần như là trạm băng
bó. Kết quả là chỉ các thương binh nặng, không thể chuyển đi được mới được cứu
chữa tại chỗ. Về lí thuyết thì hầu hết thương binh đều phải được chuyển thẳng
đến Barcelona hay Tarragona, nhưng vì không có phương tiện nên phải một tuần,
thậm chí mười ngày sau họ mới được chuyển tới nơi. Thương binh nằm lăn lóc ở
Sietamo, Barbastro, Monzon, Lerida và những nơi khác, trong khi chẳng được chữa
trị gì ngoài việc thay băng, đôi khi ngay cả băng cũng chẳng được thay. Vết
thương sâu hoắm hay gãy chân gãy tay cũng chỉ được băng hay bó bột sơ sài, bệnh
án thì được viết bằng bút chì lên trên, rồi cứ để như thế cho đến khi tới được
Barcelona hay Tarragona, tức là mười ngày sau mới được tháo ra. Chữa trị vết
thương trên đường là việc gần như bất khả thi. Mấy ông bác sĩ đi theo không thể
làm xuể được. Họ thường chỉ chạy ngang qua, miệng lẩm bẩm: “Vâng, vâng, ở
Barcelona người ta sẽ chữa cho anh.” Lúc nào cũng thấy nói mañana (ngày mai) sẽ có tàu bệnh viện đi Barcelona.
Khiếm khuyết thứ hai là thiếu y tá có tay nghề. Rõ ràng là Tây Ban Nha không có
đủ số y tá có tay nghề, có thể là do trước chiến tranh công việc này chủ yếu là
do các bà xơ làm. Tôi không phàn nàn gì mấy cô ý tá, bao giờ họ cũng rất nhã
nhặn, chỉ có điều là tay nghề rất kém. Tất cả các nữ y tá đều biết cặp nhiệt
độ, một số người biết băng bó, tất cả kiến thức chỉ có thế. Kết quả là những
thương binh nặng không tự chăm sóc được thường bị bỏ mặc. Các cô ý tá sẵn sàng
để mặc người bị táo bón nằm như thế cả tuần lễ, họ cũng ít khi tắm rửa những
người yếu quá không tự tắm được. Tôi nhớ một anh chàng tội nghiệp bảo với tôi
là tay bị gãy, ba tuần liền không rửa được mặt. Chăn chiếu mấy ngày liền cũng
chẳng ai thay. Thức ăn thì quân y viện nào cũng tốt, quá tốt là khác. Ở Tây Ban
Nha người ta có thói quen cho người ốm ăn còn nhiều hơn là các nước khác. Thức
ăn ở Lerida nhiều khủng khiếp. Sáu giờ sáng, điểm tâm: súp, trứng rán, thịt
hầm, bánh mì, vang trắng, café; buổi trưa còn nhiều hơn – mà đấy là trong lúc
đa số dân chúng đang bị thiếu đói nghiêm trọng. Có vẻ như người Tây Ban Nha
không công nhận chế độ ăn kiêng. Cùng một khẩu phần cho cả người ốm lẫn người
khoẻ, nhiều năng lượng, nhiều mỡ, lại tưới đẫm dầu ô-liu.
Buổi
sáng hôm đó người ta bảo rằng tất cả mọi người trong phòng đều được chuyển đến
Barcelona ngay. Tôi đã tìm cách gửi điện thông báo cho bà xã là mình sắp về.
Sau đó họ đưa chúng tôi lên ô tô ra ga. Chỉ đến khi tàu đã chạy người hộ lí đi
cùng mới làm như vô tình nói rằng tầu không đi Barcelona mà đi Tarragona. Tôi
cho rằng tay lái tàu đã đổi ý. “Đúng là Tây Ban Nha!” – tôi tự nhủ. Nhưng còn
Tây Ban Nha hơn nữa, khi họ đồng ý đợi tôi gửi bức điện thứ hai rồi mới khởi
hành. Bà xã không nhận được bức điện này, đấy cũng là đặc trưng của Tây Ban
Nha.
Họ
đưa chúng tôi vào toa hạng ba, ghế ngồi bằng gỗ. Nhiều thương binh nặng, đây là
lần đầu tiên họ bước ra khỏi giường. Chẳng bao lâu sau, vì nóng và sóc, một nửa
số thương binh trong toa đã mệt rũ ra, có người nôn ngay ra sàn. Tay hộ lí chạy
qua chạy lại giữa đám thương binh nằm ngổn ngang, tay cầm một cái bọc làm bằng
da dê đựng đầy nước; thỉnh thoảng anh ta lại phun thẳng vào miệng một người nào
đó. Nước có mùi vị rất hãi, tôi vẫn còn nhớ rõ. Chúng tôi đến Tarragona khi
chiều tà. Đường tàu hoả chạy ngay sát bờ biển. Khi chúng tôi vào thì một đoàn
tàu khác chở quân nhân các Binh đoàn quốc tế đang rời ga. Đám đông đứng trên
cầu vẫy tay chào họ. Đoàn tàu này rất dài, toa nào cũng đầy lính, pháo đặt trên
những toa không mui, xung quanh cũng đầy lính. Cảnh tượng sống động đó vẫn hằn
sâu trong tâm trí tôi: đoàn tầu hoả khởi hành trong ánh chiều vàng nhạt; những
khuôn mặt đen nhẻm, rạng rỡ nụ cười bên cửa sổ các toa tàu; nòng súng trường và
những chiếc khăn quàng màu đỏ thắm - tất cả lần lượt lướt qua một cách chậm
rãi, đằng sau là mặt biển màu xanh ngọc.
“Extranjeros — người ngoại quốc”, có người nói,
“Người Ý”.
Chắc
chắn là người Ý rồi. Chỉ có người Ý mới sôi động và đáp lại lời chào của đám
đông một cách trang trọng như thế - trang trọng ngay cả khi có đến một nửa số
người trên tàu đang dốc ngược những chai rượu vang sắp cạn lên tu. Sau này mới
biết rằng đấy là một trong những đơn vị đã giành chiến thắng trong trận đánh ở
Guadalajara hồi tháng ba. Họ vừa trả phép và được đưa ra mặt trận Aragon. Tôi
nghĩ là chỉ sau đó mấy tuần đa số đã hi sinh ở Huesca. Tất cả các thương binh
có thể đi được đều đứng lên vẫy chào các chiến sĩ người Ý khi đoàn tầu của họ
lướt qua. Người giơ nạng ra ngoài cửa sổ, kẻ đưa cách tay băng bó lên làm động
tác chào. Thật là một bức tranh đầy ấn tượng về cuộc chiến: một bên là đoàn tàu
hoả với những chàng trai tươi rói đang hùng dũng tiến ra tiền tuyến, còn bên
kia là một đoàn tàu khác chở đầy thương binh chậm chạp bò về hậu phương; còn
hình ảnh những khẩu pháo trên những toa tầu không mui lại làm tim đập rộn lên,
làm sống lại cái tình cảm nguy hiểm nhưng rất khó bỏ: dù sao mặc lòng, chiến
đấu vẫn là vinh quang.
Quân
y viện ở Tarragona thuộc loại rất lớn, đầy thương bệnh binh từ khắp các mặt
trận đổ về. Đủ loại thương tật! Một số vết thương được điều trị bằng những
phương pháp hiện đại nhất, nhưng chỉ cần nhìn vào cũng đã sởn ra gà rồi. Vết
thương được để hở hoàn toàn, không băng bó gì, người ta chỉ che vết thương bằng
mấy sợi tơ căng trên cái khung bằng dây thép để không cho ruồi bám vào. Có thể
nhìn thấy rõ những miếng thịt bày nhày, đỏ chót trên những vết thương đang lên
da non. Có một người bị thương vào mặt và cổ thành ra đầu anh ta được che không
chỉ bằng mấy sợi tơ mà được bọc trong một cái lưới, trông như mũ bảo hộ; miệng
ngậm một cái ống nhỏ làm lỗ thông hơi. Anh chàng tội nghiệp trông rất cô đơn,
cứ đi ra đi vào một mình, chỉ nhìn mọi người mà không nói được. Tôi đã ở
Tarragona được ba hoặc bốn ngày. Sức khoẻ đã dần hồi phục, một hôm tôi đã lết
tới tận bãi biển. Tôi lấy làm ngạc nhiên khi nhìn thấy cuộc sống trên bãi biển
vẫn diễn ra một cách bình thường. Những quán café sang trọng dọc con đường ven
biển, những nhà tư sản địa phương béo núc ních tắm biển và nắm phơi nắng trên
những chiếc ghế bố như thể chiến tranh đang xảy ra cách đây hàng ngàn dặm vậy.
Thế mà tôi lại nhìn thấy một người bị chết đuối, thật không thể tưởng tượng
được là có thể chết đuối trong vùng nước nông và lặng sóng thế này.
Cuối
cùng, sau khi rời mặt trận được tám hay chín ngày, tôi được đưa đi kiểm tra vết
thương. Trong phòng phẫu thuật, nơi những người mới tới được đưa vào khám, các
bác sĩ dùng những chiếc kéo lớn rạch
những tấm thạch cao mà ở các trạm cứu thương ngoài tiền duyên người ta dùng để
bọc những người bị gãy xương sườn hay xương đòn gánh. Đằng sau những tấm thạch
cao sù sì ấy là những khuôn mặt đầy lo âu, bẩn thỉu, râu ria tua tủa vì cả tuần
chưa cạo. Một tay bác sĩ đẹp trai, nhanh nhẹn, tuổi chừng ba mươi ngồi xuống
chiếc ghế bên cạnh tôi; anh ta lấy một miếng gạc để lên lưỡi của tôi và kéo ra
ngoài, rồi anh ta đưa vào họng tôi một chiếc gương nhỏ và bảo nói “a”. Sau khi
làm lưỡi tôi chảy máu và nước mắt tôi trào ra, anh ta bảo rằng một dây thanh âm
của tôi đã bị liệt.
“Bao
giờ thì tôi có thể nói được như trước?”, tôi hỏi.
“Nói
như trước? Anh không bao giờ có thể nói như trước được nữa”, tay bác sĩ vui vẻ
đáp.
Nhưng
anh ta đã lầm. Trong vòng hai tháng tôi chỉ có thể nói thầm, thế rồi bất ngờ
tôi lại nói được. Hoá ra dây âm thanh kia đã “gánh đỡ” được cho cái dây bị
liệt. Cánh tay vẫn còn đau vì viên đạn đã làm đứt bó dây thần kinh ở sau gáy.
Đau đớn kéo dài cả tháng, nhất là ban đêm, thành ra tôi gần như mất ngủ hoàn
toàn. Các ngón tay trên bàn tay phải của tôi cũng gần như bị liệt. Đến nay, đã
năm tháng rồi mà các ngón tay vẫn còn tê – cũng lạ, bị thương vào cổ mà lại
liệt ngón tay.
Theo
một nghĩa nào đó thì vết thương của tôi cũng là hiện tượng lạ. Khá nhiều bác sĩ
tới khám đã tặc lưỡi bảo: “May quá! May quá!” Một ông còn bảo rằng viên đạn chỉ
cách động mạch chủ “khoảng một milimet”. Tôi không hiểu làm sao mà ông ta biết
được như thế. Tất cả những người tôi gặp hồi đó – bác sĩ, y tá, thực tập sinh,
thương binh cùng phòng - đều khẳng định rằng người bị thương vào cổ mà còn sống
thì nhất định sẽ là người hạnh phúc. Nhưng cá nhân tôi thì nghĩ rằng đã là
người hạnh phúc thì không thể nào bị thương được.
13
Trong những tuần cuối cùng, khi tôi còn ở
Barcelona, cảm giác ngột ngạt bao trùm lên khắp thành phố - thái độ nghi kị, sợ
hãi, bất an và thù hận ngấm ngầm hiện diện khắp nơi. Những vụ đụng độ hồi tháng
5 còn để lại dấu vết chưa phai mờ. Sau khi chính phủ của Caballero đổ, quyền
lực rơi vào tay những người cộng sản. Các bộ trưởng cộng sản chịu trách nhiệm
bảo vệ trật tự công cộng và mọi người đều tin rằng họ sẽ đập tan các đối thủ
chính trị khi có điều kiện, dù là nhỏ nhất. Tôi không tưởng tượng được chuyện
gì sẽ xảy ra, nhưng nhận thức mù mờ về hiểm nguy, về một chuyện gì đó tồi tệ
sắp xảy ra thì lúc nào cũng thường trực trong đầu. Cho dù không có chân trong
một hội kín nào, nhưng không khí xung quanh làm người ta có cảm tưởng như mình
đang tham gia vào một âm mưu nào đó. Ở các quán xá, chỗ nào cũng thấy người ta
thì thầm với nhau, mắt lấm lét, như thể bàn bên đang có một tên chỉ điểm vậy.
Kiểm
duyệt báo chí gây ra đủ loại tin đồn. Trong đó có tin chính phủ Negrín-Prieto chuẩn
bị thoả hiệp nhằm chấm dứt chiến sự. Lúc đó tôi ngả sang quan điểm như thế vì
bọn phát xít đã tiến gần đến Bilbao mà chính phủ thì không có hành động gì nhằm
bảo vệ thành phố cả. Cờ xứ Basque tung bay trên khắp thành phố, các cô con gái
mang hòm công đức đi quyên tiền trong các quán xá, loa phóng thanh ra rả suốt
ngày về “những người bảo vệ anh hùng”, nhưng người dân xứ Basque lại chẳng nhận
được một sự trợ giúp nào. Có vẻ như chính phủ đang chơi trò nước đôi. Các sự
kiện sau đó chứng tỏ rằng tôi hoàn toàn sai, nhưng vẫn có thể cứu được Bilbao
nếu quân đội cộng hoà cố gắng thêm một chút nữa. Tấn công trên mặt trận Aragon,
ngay cả nếu không thành công cũng buộc Franco rút bớt quân khỏi Bilbao. Nhưng
chính phủ chỉ ra lệnh tấn công khi đã quá muộn, đấy là lúc Bibao đã thất thủ
rồi. Lực lượng C.N.T. tung ra rất nhiều truyền đơn, nói:
“Hãy cảnh giác!”, ngầm hiểu rằng “có đảng” (tức là đảng cộng sản) đang chuẩn bị
đảo chính. Mọi người còn sợ rằng quân
phát xít sẽ tràn vào cả Catalonia nữa. Trước đó, trên đường trở lại mặt trận
tôi đã trông thấy những chiến tuyến vững chắc, được xây dựng cách mặt trận cả
chục cây số, ở Barcelona người ta còn đào cả hầm tránh bom nữa. Ngày nào còi
báo động tấn công bằng đường không và đường biển cũng hụ vài lần, phần lớn là
báo động giả, nhưng mỗi lần như thế thành phố lại mất điện mấy giờ liền, còn
dân chúng thì phải chui xuống hầm. Cảnh sát mật có mặt khắp nơi. Nhà tù lúc nào
cũng chật cứng, đấy phần lớn là những người bị bắt sau cuộc đụng độ hồi tháng
5. Ngoài ra, thỉnh thoảng lại có một hai thành viên đảng vô chính phủ hay P.O.U.M. bị bắt. Theo những gì được biết thì chưa có ai bị đưa
ra toà hoặc bị kết án, ngay cả kết án là theo “phái Trotskyist” cũng không nốt.
Đơn giản là bị tống vào tù, mà thường là biệt
giam. Bob Smillie vẫn còn ngồi tù ở Valencia. Chúng tôi chỉ biết rằng cả
đại diện tại chỗ của I.L.P. cũng như luật sư bào chữa
đều chưa được phép tới thăm anh. Người ngoại quốc trong các Binh đoàn quốc tế
bị bắt tù ngày một nhiều hơn. Họ thường bị vu là đào ngũ. Nói chung, hiện nay
không hiểu người ta coi dân quân là lính tình nguyện hay lính chính qui. Mấy
tháng trước, khi ghi tên, người ta nói rằng dân quân là lính tình nguyện và nếu
muốn, có thể được cấp giấy chứng nhận xuất ngũ trong thời gian nghỉ phép. Bây
giờ hoá ra chính phủ đã thay đổi thái độ, dân quân cũng được coi là lính chính
qui và bị coi là đào ngũ nếu anh ta tìm cách trở về nhà. Nhưng ngay cả chuyện
này cũng không có gì là chắc chắn cả. Ở một số khu vực, người ta vẫn cấp giấy
xuất ngũ. Ở biên giới, đôi khi người ta công nhận giấy xuất ngũ, nhưng có khi
lại không; có người bị tống vào tù là vì như thế. Sau này số người ngoại quốc
“đào ngũ” bị tù lên đến hàng trăm, nhưng đa số đã được thả khi dư luận trong
các nước đó phản đối dữ dội quá.
Các
đơn vị xung kích sục sạo khắp các đường phố, trong khi lực lượng bảo vệ vũ
trang vẫn còn chiếm đóng trong các quán café và những ngôi nhà giữ vị trí chiến
lược, chiến luỹ và bao cát vẫn xếp đầy xung quanh những toà nhà của P.S.U.C. Người ta dựng lên trong thành phố những trạm kiểm soát, do
lực lượng bảo vệ hay cảnh sát vũ trang trấn giữ, để kiểm tra giấy tờ người đi
đường. Mọi người đều nhắc tôi không được đưa thẻ dân quân P.O.U.M., chỉ cần
trình hộ chiếu và thẻ ra vào khách sạn là được. Nếu họ biết là đã từng phục vụ
trong lực lượng dân quân P.O.U.M. là đã nguy hiểm rồi. Thương binh hay
dân quân P.O.U.M. đi phép gặp đủ thứ phiền toái, thí dụ
như gây khó dễ trong việc nhận lương. Tờ La Batalla vẫn ra, nhưng bị
kiểm duyệt đến mức chẳng còn gì mà đọc nữa; tờ Solidaridad và những tờ
báo khác của phe vô chính phủ cũng bị kiểm duyệt rất ngặt nghèo. Có luật mới là
phần bị kiểm duyệt không được để trắng, phải thay bài khác vào, cho nên nhiều
khi không biết phần nào bị cắt xén nữa.
Việc
thiếu hụt lương thực thực phẩm vẫn thường xuyên xảy ra, nhưng đây là giai đoạn
tồi tệ nhất. Bột mì khan hiếm, người ta đem trộn những loại rẻ tiền với bột
gạo. Binh lính trong trại được phát những mẩu bánh mì trông như ma-tít chèn cửa
sổ. Sữa và đường cực kì khan hiếm, thuốc lá không còn, trừ những loại đắt tiền
do buôn lậu mà có. Dầu ô liu là thứ người Tây Ban Nha rất hay dùng cũng cực kì
khan hiếm. Phụ nữ xếp hàng mua dầu ô liu dài đến nỗi phải đưa các kị sĩ thuộc
lực lượng bảo vệ vũ trang ra giữ trật tự, bọn này thỉnh thoảng lại cố tình để
ngựa nhẵm vào chân các bà để mua vui. Không có tiền lẻ cũng gây ra phiền toái. Tiền xu bằng bạc đã bị thu hồi, trong khi tiền lẻ mới thì lại
chưa có. Người nghèo lại càng khốn khó thêm. Một người phụ nữ có mười đồng
bạc có thể phải xếp hàng nhiều tiếng đồng hồ mà vẫn không thể mua được gì vì
người bán hàng không có tiền lẻ, mà bà ta lại không thể tiêu một lúc cả mười
đồng.
Thật
khó mà tả được cơn ác mộng của thời đó - đấy là sự bất an đặc thù, sinh ra bởi
những lời đồn đại cứ thay đổi luôn soành soạch, bởi báo chí bị kiểm duyệt và sự
có mặt của binh lính. Thật khó mà mô tả được vì nước Anh hiện không có những
cái làm nên cơn ác mộng đó. Ở Anh thái độ bất dung chính trị chưa phải là hiện
tượng đương nhiên. Những vụ kì thị lặt vặt về chính trị dĩ nhiên là có, thí dụ
nếu tôi là công nhân mỏ thì tôi không muốn ông chủ biết tôi là đảng viên cộng
sản; nhưng khác với châu Âu lục địa, ở Anh hiện tượng “đảng viên trung kiên”,
hiện tượng những ông trùm trong nền chính trị còn là của hiếm; khái niệm “tiêu
diệt” hay “loại bỏ” tất cả những người bất đồng ý kiến còn chưa được coi là
đương nhiên. Nhưng ở Barcelona thì đấy lại là những chuyện đương nhiên. Những
người theo phái Stalin đang giữ thế thượng phong, và như thế, những người theo
phái Trotskyist bị nguy là đúng rồi. Điều mọi người sợ nhất là sẽ nổ ra một vụ
xung đột mới và cũng như trước đây, người ta sẽ lại đổ vấy cho P.O.U.M.
và lực lượng vô chính phủ. Nhưng cuối cùng chuyện đó đã không xảy ra. Đôi khi
tôi thấy mình dỏng tai nghe xem có tiếng súng không. Dường như thành phố đang
bị một thế lực hắc ám đầy sức mạnh nào đó bao phủ vậy. Mọi người đều nhận thấy
như thế. Và điều kì lạ là mọi người đều dùng những từ ngữ như nhau để nói về
chuyện đó: “Thật kinh khủng. Chẳng khác gì sống trong một nhà thương điên.” Có
lẽ tôi không nên nói là mọi người.
Một số khách du lịch người Anh, những người chỉ đi từ khách sạn nọ sang khách
sạn kia qua khắp nước Tây Ba Nha cỏ vẻ như đã không nhận thấy điều gì bất
thường cả. Trên tờ Sunday Express ra
ngày 17 tháng 10 năm 1937, bà Hầu tước xứ Atholl viết như sau:
Tôi
đã đến Valencia, Madrid và Barcelona . . . Trật tự vẫn được giữ vững trong các
thành phố này mà không hề thấy sự hiện diện của lực lượng quân sự. Tất cả các
khách sạn mà tôi có dịp dừng chân đều không chỉ “bình thường” và “lịch sự” mà
còn cực kì tiện nghi nữa, chỉ hiếm bơ và café thôi.
Đặc
điểm của các khách du lịch người Anh là họ thực sự không tin rằng bên ngoài
những bức tường của các khách sạn sang trọng kia là một đời sống khác hẳn. Hi
vọng là người ta đã tìm được bơ cho bà Hầu tước xứ Atholl.
Tôi
được đưa tới an dưỡng đường Maurín, một trong những an dưỡng đường do lực lượng
P.O.U.M. cai quản. An dưỡng đường này nằm ở ngoại ô,
ngay dưới chân dãy núi Tibidabo, một dãy núi có hình thù kì quặc, dựng đứng như
một bức tường thành ngay bên ngoài thành phố Barcelona. Truyền thuyết kể rằng
quỉ Satan đã đứng trên ngọn núi này và chỉ cho Chúa Jesus vị trí của các nước
trên trái đất. Ngôi nhà này trước đây là của một tay tư sản giàu có và đã bị
tịch thu trong giai đoạn cách mạng. Đa số người đến đây là các thương phế binh,
không thể nào chiến đấu được nữa, thí dụ như bị cụt chân cụt tay. Có cả mấy
người Anh: Williams, bị thương ở chân; còn Stafford Cottman, một chàng trai mới
có mười tám tuổi thì bị nghi là lao phổi; Arthur Clinton, với cánh tay trái bị
thương phải nẹp bằng những cái thanh khá to, người Tây Ban Nha gọi là máy bay.
Bà xã nhà tôi vẫn ở lại khách sạn Continental, ban ngày tôi thường trở về
Barcelona. Buổi sáng tôi phải đến bệnh viện trung tâm để chạy điện cánh tay bị
thương. Cách chữa khá kì quặc – kích thích cơ bắp bằng một loạt xung điện gây
tê – nhưng hình như có tác dụng; các ngón tay đã cử động được và đỡ đau hơn.
Chúng tôi quyết định tốt nhất là nên quay lại nước Anh ngay khi có điều kiện.
Tôi còn yếu lắm, có vẻ như đã mất hẳn giọng nói, còn các bác sĩ thì bảo rằng
phải mấy tháng nữa may ra tôi mới phục hồi được sức chiến đấu. Trước sau gì tôi
cũng phải nghĩ đến chuyện kiếm tiền, ở lại Tây Ban Nha và ăn những thứ mà người
khác đang rất cần là việc làm vô nghĩa. Nhưng động cơ của tôi vẫn chủ yếu là có
tính ích kỉ. Tôi muốn rời xa tất cả những thứ này, muốn rời xa không khí nghi
ngờ và thù hận chính trị ở đây, rời xa những đường phố đấy lính tráng, những vụ
không kích, những giao thông hào, súng máy, rời xa những đoàn tàu điện rền rĩ, những
tách trà không sữa, những món ăn đầy dầu ô liu và cảnh thèm thuốc lá - rời xa
tất cả những thứ mà tôi tin là một phần của nước Tây Ban Nha ngày nay.
Các
bác sĩ ở bệnh viện trung tâm phát cho tôi giấy chứng nhận thương tật. Nhưng để
có giấy xuất ngũ, tôi phải trình diện hội đồng y khoa tại một trong những bệnh
viện gần mặt trận và sau đó đến tổng hành dinh của P.O.U.M. ở Sietamo để họ
đóng dấu vào giấy tờ của tôi. Kopp vừa trở về từ mặt trận, anh tỏ ra rất phấn
chấn. Anh đã tham gia vào chiến dịch và nói rằng quân ta sắp chiếm được Huesca
rồi. Chính phủ đã đưa quân từ Madrid tới, quân số lên đến ba mươi ngàn, với rất
nhiều máy bay yểm trợ nữa. Các đơn vị người Ý mà tôi nhìn thấy trên đường tới
Tarragona đã tham gia tấn công vào quốc lộ Jaca, nhưng bị thương vong rất
nhiều, mất cả hai chiếc xe tăng. Nhưng Huesca nhất định sẽ thất thủ, Kopp nói
như thế. (Lạy chúa tôi! Nó không thất thủ. Cuộc tấn công đã thất bại thảm hại,
nếu không kể những trò dối trá trên mặt báo thì chẳng mang lại lợi lộc gì).
Trong khi đó Kopp phải đi đến Valencia để gặp người của bộ chiến tranh. Anh có
mang theo bức thư giới thiệu của tướng Pozas, chỉ huy tập đoàn quân phương
Đông. Ông này giới thiệu Kopp là “người đặc biệt tin cậy” và đề nghị đưa anh
vào các đơn vị kĩ thuật (Kopp vốn là kĩ sư). Ngày 15 tháng 6 chúng tôi cùng
khởi hành, Kopp đi Valencia, còn tôi đi Sietamo.
Năm
ngày sau tôi mới trở lại Barcelona. Chúng tôi tới Sietamo trên một chiếc xe tải
vào lúc nửa đêm. Việc đầu tiên khi tới trụ sở của P.O.U.M.
là xếp thành hàng, rồi chẳng cần hỏi tên tuổi gì, họ phát ngay súng đạn cho
chúng tôi. Có vẻ như sắp bị tấn công và có thể phải gọi lực lượng dự bị bất cứ
lúc nào. Tôi có giấy chứng thương, nhưng không nỡ từ chối tham gia với tất cả
mọi người. Tôi nằm xuống đất, đầu gối lên hộp đạn, lòng buồn rười rượi. Vết
thương đã làm đầu óc tôi mụ mẫm đi – tôi nghĩ cũng là việc bình thường – và khả
năng phải nằm dưới tầm hoả lực của đối phương làm tôi vô cùng sợ hãi. Nhưng rồi
cái mañana – ngày mai – như thường lệ đã diễn ra và chúng tôi không bị
đưa ra mặt trận. Sáng hôm sau tôi mang giấy chứng thương ra trình và xin xuất
ngũ. Phải đi qua khá nhiều nơi và làm đủ
thứ thủ tục rắc rối, mệt mỏi. Họ đẩy tôi đi hết bệnh viện này đến bệnh viện
khác, từ Sietamo qua Barbastro, tới Monzon, rồi quay lại Sietamo để đóng dấu
vào giấy chứng thương, sau đó trở về qua ngả Barbastro và Lerida. Toàn bộ
phương tiện giao thông đã được trưng dụng cho việc chuyển quân đến mặt trận
Huesca, chẳng còn trật tự nào hết. Tôi nhớ đã qua đêm ở những chỗ lạ lùng, khó
tưởng tượng nổi – khi thì ngủ trên giường bệnh viện, lúc thì nằm dưới giao
thông hào, có hôm lại ngủ trên một chiếc ghế băng hẹp đến mức đang ngủ thì bị
rơi xuống đất, còn đến Barbastro thì được ngủ trong nhà tập thể của chính quyền
địa phương. Đoạn nào không có đường sắt thì chỉ còn cách đi nhờ xe ô tô tải.
Phải đứng đợi hàng tiếng, thậm chí ba bốn tiếng liền; bên cạnh là những người
nông dân mệt mỏi, chán chường, tay sách nách mang những bao tải chứa đầy vịt và
thỏ, liên tục vẫy tay xin đi nhờ những chiếc xe tải chạy ngang qua. Cuối cùng
rồi cũng được một chiếc xe tải nào đó đã lèn chặt người với đủ thứ lỉnh kỉnh
như là bánh mì, hòm đạn dừng lại bên đường và cho lên. Chưa có con ngựa nào hất
tôi lên cao như những chiếc xe tải này. Chỉ còn cách là ngồi sát và bám chặt
vào nhau. Thật xấu hổ khi tôi phát hiện ra là mình yếu đến nỗi không thể trèo
được lên ô tô nếu không có người giúp đỡ.
Tôi
ngủ một đêm ở bệnh viện Monzon, hội đồng giám định y khoa nằm trong bệnh viện
này. Bên cạnh giường tôi nằm là một chiến sĩ thuộc lực lượng xung kích, bị
thương vào trán, phía trên mắt bên trái. Anh ta tỏ ra thân thiện và lấy thuốc
lá mời tôi. Tôi bảo: “Chút nữa là chúng ta đã bắn vào nhau ở Barcelona rồi”, và
cả hai cùng phá lên cười. Điều thú vị là tình cảm người ta thay đổi khi tiến
đến gần mặt trận. Tất cả hay gần như tất cả lòng hận thù mang tính đảng phái đã
biến mất, không để lại dấu vết gì. Suốt trong thời gian ở mặt trận tôi chưa bao
giờ thấy thành viên nào của P.S.U.C. tỏ thái độ thù địch
với tôi chỉ vì tôi là quân của P.O.U.M. Thái độ đó chỉ
có ở Barcelona hay ở những khu vực cách xa mặt trận. Ở Sietamo có rất nhiều
lính xung kích. Họ được đưa từ Barcelona tới để tham gia tấn công vào Huesca.
Về nguyên tắc, lực lượng xung kích không dùng để đánh nhau, nhiều người còn
chưa ra trận lần nào. Họ là những ông tướng trên các đường phố ở Barcelona,
nhưng ở đây họ chỉ là bọn lính mới tò te, bị cả những chú nhóc mới mười lăm
tuổi, nhưng đã có thâm niên mặt trận vài tháng, nhìn bằng nửa con mắt.
Tay
bác sĩ ở Monzon cũng vẫn làm những động tác như kéo lưỡi ra và đưa chiếc gương
nhỏ vào miệng tôi rồi vui vẻ khẳng định rằng tôi sẽ không bao giờ nói bình
thường được nữa. Sau đó ông ta kí giấy chứng nhận. Trong khi tôi chờ khám thì
trong phòng phẫu thuật người ta thực hiện một ca mổ mà không có thuốc gây mê.
Tôi không biết tại sao lại không gây mê.
Ca mổ kéo dài rất lâu, bệnh nhân kêu thét vang trời. Khi tôi ghé vào phòng mổ
thì thấy ghế đổ ngổn ngang, trên nền máu và nước đái đọng thành từng vũng.
Những
chi tiết của chuyến đi cuối cùng vẫn còn in đậm trong kí ức của tôi. Tôi đã có
một tâm trạng khác, tôi chú ý quan sát hơn là mấy tháng trước đó. Tôi đã được
giải ngũ, có dấu của sư đoàn 29 và giấy chứng thương của bác sĩ, nói rằng “tôi
là phế binh”. Tôi được tự do trở về Anh, và vì vậy mà gần như đây là lần đầu
tiên tôi có cơ hội ngắm nhìn lại Tây Ban Nha. Tôi có một ngày đi dạo ở
Barbastro vì mỗi ngày chỉ có một chuyến tàu đi qua thành phố này. Trước đây tôi
chỉ được nhìn lướt qua thành phố và đối với tôi, nó chỉ đơn giản là một phần của
cuộc chiến tranh - tất cả đều một màu xám ngoét, bùn lầy, lạnh lẽo và tiếng gầm
rú của những chiếc xe tải, tiếng bước chân của những đoàn quân. Nhưng bây giờ
mọi sự đều đã khác. Trong khi đi dạo quanh thành phố tôi đã phát hiện ra những
con đường ngoằn nghèo dễ thương, những chiếc cầu đá cũ, những cửa hàng rượu
vang với những thùng rượu cao ngang đầu người và tò mò đứng ngắm những người
thợ thủ công bên vỉa hè đang làm những chiếc bánh xe bò, những con dao găm,
những chiếc thìa bằng gỗ và những chiếc bình đựng nước làm bằng da dê. Tôi nhìn
người người thợ làm bình đựng nước bằng da dê và phát hiện ra một điều cực kì
thú vị là họ lộn phần lông, chưa hề cạo vào bên trong, hoá ra là người ta uống
nước ngâm với lông dê. Tôi đã uống nước đó hàng tháng liền mà không biết. Sát
ngoại ô thành phố có một con suối rất nông, nước màu xanh biếc. Một tảng đá lớn
với những ngôi nhà đục trong đá đứng sừng sững giữa dòng nước. Có thể nhổ thẳng
từ cửa số các ngôi nhà nằm trên độ cao chừng ba mươi mét đó xuống dòng suối bên
dưới. Rất nhiều chim bồ câu sống trong vách đá. Ở Lerida tôi còn trông thấy
những ngôi nhà đổ nát mà dưới mái hiên có hàng ngàn tổ én, cái nhô ra cái thụt
vào, đứng gần trông như những hoa văn trang trí thời Rococo vậy. Điều kì lạ là
suốt sáu tháng qua tôi đã không để ý đến những thứ như thế. Bây giờ, sau khi có
tờ giấy xuất ngũ trong tay, tôi mới lại cảm thấy mình là một con người, thậm
chí còn có vẻ như là một lữ khách nữa.
Đây gần như là lần đầu tiên tôi cảm thấy mình thực sự đang ở Tây Ban
Nha, đất nước mà tôi suốt đời mong ước được tới thăm. Khi dạo bước trên những
con phố nhỏ yên tĩnh ở Lerida và Barbastro, trong đầu tôi bỗng hiện lên hình
ảnh của nước Tây Ban Nha xưa cũ, những hình ảnh mà qua những lời đồn đại vẫn
sống trong trí tưởng tượng của mỗi chúng ta. Đấy là những dãy núi đá lởm chởm
màu trắng, những đàn dê, những nhà ngục tối tăm của toà án giáo hội, những toà
lâu đài của người Moor, những đàn la chở hàng màu đen đi thành hàng dài ngoằn
nghèo, những hàng cây ô liu màu xám và những vuờn chanh, những cô gái choàng
khăn đen, ruợu vang vùng Malaga và Alicante, những giáo đường, những vị hồng y
giáo chủ, những trận đấu bò tót, những người Di Gan và dạ khúc – tóm lại là
nước Tây Ban Nha. Trong tất cả các nước châu Âu thì đây là nước kích thích trí
tưởng tượng của tôi nhiều nhất. Chỉ đáng tiếc là, cuối cùng, khi có điều kiện
tới đây thì tôi lại chỉ nhìn thấy mỗi cái góc đông bắc nhỏ hẹp này, giữa thời
buổi chiến tranh và trong mùa đông giá nữa.
Đêm
đã khuya tôi mới về đến Barcelona. Ở đây không có taxi mà an dưỡng đường Maurín
lại nằm ở ngoại ô thành phố cho nên tôi đi đến khách sạn Continental để ăn tối
trước khi đi tiếp. Tôi nhớ đã nói chuyện với một người hầu bàn hiền hậu về
những cái bình gỗ sồi viền đồng đựng bia để rót cho khách. Tôi nói muốn mua một
bộ để mang về Anh. Người hầu bàn tỏ vẻ thông cảm và nói: “Vâng, đẹp phải không?
Nhưng hiện không thể nào mua được. Không ai làm nữa, không ai làm bất cứ thứ gì
nữa. Chiến tranh - tiếc quá!” Chúng tôi đồng ý rằng chiến tranh là đáng tiếc.
Tôi lại cảm thấy mình là một lữ khách. Người hầu bàn thân mật hỏi tôi có thích
Tây Ban Nha không, có trở lại Tây Ban Nha nữa không? Có, tôi sẽ trở lại Tây Ban
Nha. Câu chuyện đầy tinh thần hữu hảo này bám chặt vào trí nhớ của tôi vì nó
trái ngược hẳn với những gì diễn ra ngay sau đó.
Vừa
bước vào khách sạn tôi đã nhìn thấy bà xã ngồi trong tiền sảnh. Cô ấy đứng dậy
và tiến về phía tôi với dáng vẻ rất điềm tĩnh, rồi cô đưa tay choàng lấy cổ tôi
và quay sang những người trong phòng với một nụ cười dịu dàng nhất nhưng lại ghé
sát vào tai tôi:
“Sao cơ?”
“Ra khỏi đây ngay!”
“Sao
cơ?”
“Đừng
đứng ở đây nữa! Anh phải đi ra khỏi đây ngay lập tức!”
“Cái
gì? Tại sao? Em định nói gì?”
Cô
cầm lấy tay tôi và dẫn ra phía cầu thang. Trên đường đi xuống chúng tôi gặp một
người Pháp, tôi sẽ không nói tên vì tuy không liên quan với P.O.U.M.
nhưng anh đã giúp chúng tôi rất nhiều trong suốt giai đoạn khó khăn đó. Anh
nhìn tôi với nét mặt đầy băn khoăn.
“Nghe
đây! Anh không được đến đây. Đi ngay, trốn mau trước khi họ kịp báo cảnh sát.”
Trời đất! vừa đi tới chân cầu thang thì có
một nhân viên khách sạn hớt hơ hớt hải lao từ trong thang máy ra, anh này cũng
là thành viên P.O.U.M. (nhưng có lẽ ban giám đốc khách sạn
không biết, tôi đoán thế), anh ta bảo tôi phải đi ngay. Đến lúc đó tôi vẫn chưa
hiểu đã xảy ra chuyện gì.
“Có
chuyện quỉ quái gì thế?”, tôi hỏi, sau khi cả hai đã ra đến hè phố.
“Anh
chưa nghe thấy gì sao?”
“Chưa.
Chuyện gì? Chưa nghe nói gì hết”
“P.O.U.M. đã bị cấm. Họ đã chiếm hết
các toà nhà. Hầu như tất cả đều đã bị bắt. Người ta bảo rằng đã tử hình một số
người rồi.”
Thế
đấy. Phải tìm một chỗ nào đó để nói chuyện. Tất cả các quán café trên đường
Ramblas đã đầy cảnh sát, nhưng chúng tôi cũng tìm được một quán café yên tĩnh
trên một con hẻm. Bà xã vội vàng kể cho tôi nghe những chuyện đã xảy ra ở đây
trong thời gian tôi đi vắng.
Ngày
15 tháng 6 cảnh sát bất ngờ xông vào bắt Andrés Nin ngay trong văn phòng làm
việc của ông, chiều hôm đó thì bố ráp khách sạn Falcón và bắt tất cả những
người có mặt trong đó, đa số là dân quân đang nghỉ phép. Người ta lập tức biến
toà nhà thành nhà tù và chẳng bao lâu sau đã chật cứng tù nhân đủ mọi loại.
Ngày hôm sau người ta tuyên bố P.O.U.M. là tổ chức bất
hợp pháp và tất cả các văn phòng, các cửa hàng sách báo, nhà nghỉ, trung tâm
chữ thập đỏ … đều bị đóng cửa hết. Trong khi đó họ cũng bắt giữ tất cả những
người từng có liên hệ với P.O.U.M. Trong vòng một đến
hai ngày tất cả hay gần như tất cả bốn mươi Uỷ viên ban chấp hành đều bị bắt
giam. Có thể là một hoặc hai uỷ viên đã trốn được, nhưng cảnh sát đã áp dụng
một biện pháp đơn giản (cả hai phía tham gia cuộc chiến này vẫn thường xuyên sử
dụng biện pháp này) là bắt vợ người đó làm con tin. Không thể nào biết được có
bao nhiêu người đã bị bắt. Bà xã nhà tôi nghe nói rằng chỉ riêng ở Barcelona đã
có bốn trăm người rồi. Tôi nghĩ rằng ngay cả lúc đó số người bị bắt đã lớn hơn
rất nhiều. Họ bắt mà chẳng cần phân biệt gì hết. Thậm chí có trường hợp cảnh
sát còn bắt cả những thương binh đang điều trị trong bệnh viện.
Tôi
cảm thấy chán nản vô cùng. Sao thế nhỉ? Cấm P.O.U.M. thì tôi có
thể hiểu được, nhưng vì sao lại bắt người? Chẳng có lí do gì cả. Chắc là
việc cấm P.O.U.M. đã có hiệu lực hồi tố, tức là hiện nay
P.O.U.M. bị coi là bất hợp pháp và vì vậy mà tất cả các
thành viên của nó đều bị coi là tội phạm. Thường thì chẳng có ai bị khởi tố
hết. Trong khi đó, báo chí cộng sản ở Valencia chạy những hàng tít với những
câu chuyện về “một âm mưu của bọn phát xít”, về việc liên lạc bằng sóng vô
tuyến với quân thù, về những tập tài liệu được viết bằng mực hoá học..v.v.. và
.v..v.. Chuyện này tôi đã kể rồi. Đặc biệt là chuyện này chỉ xuất hiện trên báo
chí ra ở Valencia mà thôi. Tôi nghĩ sẽ không sai khi nói rằng báo chí ở Barcelona
- dù là cộng sản, vô chính phủ hay cộng hoà – không nói một lời nào về việc cấm
P.O.U.M. hoặc âm mưu nọ kia. Không phải báo chí Tây Ban Nha mà là báo chí xuất
bản ở Anh được đưa đến Barcelona sau đó một hai ngày đã cung cấp cho độc giả
cáo trạng chống lại những nhà lãnh đạo P.O.U.M. Lúc đó
chúng tôi cũng không biết rằng chính phủ Tây Ban Nha không phải là người đưa ra
cáo trạng về tội phản bội hay gián điệp, sau này chính các thành viên chính phủ
đã phủ nhận những cáo trạng như thế. Chúng tôi chỉ biết một cách mù mờ rằng các
nhà lãnh đạo của P.O.U.M. và có thể là tất cả chúng tôi
đều bị kết tội là nhận tiền của bọn phát xít. Có tin đồn là tù nhân đã bị lén
lút tử hình ngay trong nhà giam. Nhiều vụ đã bị thổi phồng, nhưng chắc chắn là
đã có một vài trường hợp như thế. Nin là trường hợp khó có thể nghi ngờ được.
Sau khi bị bắt, Nin được giải về Valencia, sau đó đến Madrid và ngày 21 tháng 6
thì có tin đồn ở Barcelona là ông đã bị bắn. Sau này người ta còn nói cụ thể
hơn: Nin đã bị cảnh sát mật bắn chết trong tù rồi vứt xác ra đường. Nhiều
người, kể cả Federico Montsenys, một cựu quan chức chính phủ đã nói như thế. Từ
đó đến nay không thấy ai nói rằng Nin còn sống nữa. Sau này, khi bị các đoàn
đại biểu ngoại quốc khác nhau chấn vấn, chính phủ đã tìm cách chối quanh và
thường bảo rằng Nin đã biến mất và họ không biết ông đang ở đâu. Một vài tờ báo
còn bịa chuyện nói rằng ông đã trốn sang vùng phát xít kiểm soát. Không có bằng chứng nào như thế cả, còn Irujo, bộ trưởng Bộ tư
pháp thì tuyên bố rằng hãng thông tấn Tây Ban Nha đã xuyên tạc bản thông cáo chính thức của ông ta. Dù
gì thì gì, một người tù quan trọng như Nin khó mà có cơ hội đào thoát. Tôi nghĩ
ông đã bị giết trong tù.
Số
vụ bắt bớ ngày càng gia tăng, bắt bớ kéo dài mấy tháng liền, cho đến khi con số
người bị bắt lên đến mấy ngàn, đấy là chưa kể những tên phát xít bị bắt giam từ
trước. Điều đặc biệt dễ nhận ra là sự lộng hành của cảnh sát cấp dưới. Nhiều
người bị bắt một cách phi pháp, một số người được thả theo lệnh của cảnh sát
trưởng đã bị bắt lại ngay ở cửa trại giam và bị đưa đến các “nhà tù bí mật”.
Điển hình là trường hợp của vợ chồng Kurt Landau. Họ bị bắt vào khoảng ngày 17
tháng 6, Landau “biến mất” ngay sau đó.
Năm tháng sau người vợ vẫn còn bị giam giữ, không có án mà cũng chẳng
nhận được tin tức gì của chồng. Bà tuyên bố tuyệt thực, lúc đó bộ trưởng bộ tư
pháp mới gửi thư cho bà, nói rằng chồng bà đã chết. Bà được thả ngay lập tức,
nhưng cũng ngay lập tức lại bị bắt giam và tống vào ngục. Rõ ràng là, cảnh sát,
chí ít là trong thời gian đầu, chẳng thèm quan tâm tới hệ quả của những hành
động của họ đối với cuộc chiến. Họ sẵn sàng bắt giam các sĩ quan quân đội đang
giữ trọng trách mà không cần lệnh của ai hết. Khoảng cuối tháng 6, José Rovira,
tướng chỉ huy sư đoàn 29, bị một nhóm cảnh sát từ Barcelona tới bắt ngay gần
chiến tuyến. Các chiến sĩ dưới quyền ông đã cử đoàn đại biểu đến tận Bộ chiến
tranh để phản đối. Hoá ra cả bộ trưởng bộ chiến tranh lẫn cảnh sát trưởng đều
không nhận được báo cáo về vụ bắt giữ Rovira. Tuy có thể không phải là chi tiết
đặc biệt quan trọng nhưng điều làm tôi day dứt hơn cả là các đơn vị ngoài mặt
trận không hề hay biết gì về tất cả các sự kiện nói trên. Không có ai ngoài mặt
trận biết rằng P.O.U.M. đã bị cấm hoạt động. Tất cả các
sở chỉ huy dân quân, các trung tâm chữ thập đỏ của P.O.U.M.
và các cơ quan khác vẫn hoạt động bình thường và cho đến tận ngày 20 tháng 6 ở
Lerida, cách Barcelona khoảng 160 km, vẫn không ai nghe nói đến những sự kiện
đang diễn ra ở đấy. Báo chí ở Barcelona không hề viết một chữ nào về những vụ
bắt bớ (báo chí xuất bản ở Valencia với những câu chuyện bịa đặt về hoạt động
gián điệp của P.O.U.M. không tới được mặt trận Aragon) và chắc chắn là một
trong những lí do bắt giữ tất cả các dân quân P.O.U.M.
đang nghỉ phép ở Barcelona là để họ không thể đưa tin ra mặt trận. Lực lượng
tăng cường mà tôi đi cùng hôm 15 tháng 6 chắc chắn là đơn vị cuối cùng. Tôi vẫn
suy nghĩ nát óc không hiểu họ làm thế nào mà giữ được bí mật, trong khi xe vận
tải và những loại xe cộ khác vẫn đi đi về về; nhưng không nghi ngờ gì rằng vẫn
giữ được bí mật và sau này nhiều người nói với tôi rằng mấy ngày sau những
người ở mặt trận vẫn không hay biết gì. Động cơ thì đã rõ. Cuộc tấn công vào
Huesca đã bắt đầu, mà P.O.U.M. vẫn là đơn vị riêng biệt,
có thể người ta sợ rằng nếu dân quân P.O.U.M. biết thì họ sẽ không chịu chiến
đấu nữa. Nhưng trên thực tế, khi tin tức đến được mặt trận thì những chuyện như
thế đã không xảy ra. Trong những ngày đó chắc chắn là có nhiều chiến sĩ đã hi
sinh mà không biết rằng báo chí ở hậu phương đã gọi họ là quân phát xít. Đấy là
điều khó có thể tha thứ. Tôi biết là người ta thường không cho quân sĩ biết
những tin thất thiệt, nguyên tắc này cũng có thể chấp nhận được. Nhưng đưa
người ta ra mặt trận mà lại không nói cho người ta biết rằng ở hậu phương đảng
của người ta đang bị đàn áp, lãnh đạo của họ bị kết tội phản bội, bạn bè và
người thân của người ta bị tống giam, thì lại là chuyện khác được.
Bà xã bắt đầu kể cho tôi nghe về mấy người
bạn của mình. Một vài người Anh và người ngoại quốc khác đã kịp thời vượt biên
rồi. Williams và Stafford Cottman đã trốn thoát khi an dưỡng đường Maurín bị bố
ráp và đang lẩn trốn ở đâu đó. John McNair cũng đã bỏ trốn, anh này đã sang
Pháp nhưng lại quay về Tây Ban Nha sau khi P.O.U.M. bị
coi là tổ chức bất hợp pháp. Mạo hiểm đấy, nhưng anh không thể sống trong cảnh
thanh bình khi các đồng chí của mình gặp nguy hiểm. Còn những người khác thì
chỉ đơn giản là: “Họ đã bắt trong hoàn cảnh như thế, như thế.” Có vẻ như họ đã
bắt được tắt cả mọi người rồi. Nhưng việc họ bắt George Kopp đã làm tôi choáng
váng.
“Sao?
Cả Kopp nữa à? Anh nghĩ là anh ta ở Valencia?”
Hoá
ra là Kopp đã quay lại Barcelona với một bức thư của bộ chiến tranh gửi cho
viên đại tá chỉ huy các đơn vị kĩ thuật ở mặt trận phía đông. Anh biết là P.O.U.M. đã bị cấm hoạt động, dĩ nhiên là như thế, nhưng có
thể anh không nghĩ rằng cảnh sát lại ngu đến mức bắt người đang trên đường ra
mặt trận để thi hành một nhiệm vụ quân sự cấp bách. Anh ghé vào khách sạn
Continental để lấy ba lô, lúc đó vợ tôi đang đi vắng, nhân viên khách sạn tìm
cách giữ chân anh cho đến khi cảnh sát tới. Tin Kopp bị bắt làm tôi tức điên
lên được. Anh là bạn của tôi, anh là người chỉ huy của tôi suốt mấy tháng liền.
Chúng tôi đã ở bên nhau dưới làm đạn của quân thù và tôi biết khá nhiều chuyện
về anh. Anh là người đã hi sinh tất cả - gia đình, tổ quốc, đời sống tiện nghi
- để đến Tây Ban Nha nhằm chiến đấu chống lại chủ nghĩa phát xít. Bí mật rời
khỏi nước Bỉ và tham gia quân đội nước ngoài trong khi anh đang là lực lượng
trù bị của Bỉ, và trước đó anh đã giúp đỡ bí mật sản xuất vũ khí cho chính phủ
Tây Ban Nha, nếu một mai Kopp trở về cố quốc thì đấy sẽ là những tội lỗi phải
trả giá bằng nhiều năm tháng tù đầy. Anh đã ra trận từ tháng 10 năm 1936 và đã
tiến từ một dân quân bình thường lên đến cấp bậc thiếu tá, tôi không biết anh
đã chiến đấu trong bao lâu, nhưng đã có lần bị thương. Trong những vụ lộn xộn
hối tháng 5, chính mắt tôi đã nhìn thấy Kopp đứng ra ngăn cản một vài vụ nổ
súng trong khu vực và như vậy là anh đã cứu sống từ mười đến hai mươi người. Họ
đã trả công bằng cách tống anh vào tù. Tức giận chỉ làm mất thì giờ, nhưng ngu
đến mức như thế thì khó ai có thể bình tĩnh được.
Họ
vẫn chưa bắt bà xã nhà tôi. Mặc dù cô ấy vẫn ở trong khách sạn Continental
nhưng cảnh sát chưa động tới. Chắc chắn là họ đang dùng cô làm một cái bẫy.
Cách đây vài ngày, khi trời vẫn còn chưa sáng hẳn, có sáu cảnh sát mặc thường
phục xông vào phòng của chúng tôi thuê trong khách sạn. Họ lục soát và lấy đi
tất cả giấy tờ, may là họ còn để lại hộ chiếu và sổ tín dụng. Họ tịch thu tất
cả các cuốn nhật kí, tất cả sách vở của tôi; cả những mẩu báo cắt từ những tờ
báo ra cách đây mấy tháng (tôi không biết họ lấy để làm gì), cả những vật kỉ
niệm chiến trường và thư từ của chúng tôi họ cũng không tha. (Cảnh sát tịch thu
cả những bức thư của độc giả gửi cho tôi. Có một số bức tôi chưa kịp hồi âm, và
dĩ nhiên là tôi cũng không có địa chỉ người gửi. Không hiểu những người đã viết
cho tôi về cuốn sách mới ra gần đây của tôi mà không nhận được hồi âm, khi đọc
những dòng này có coi đây là là lời tạ lỗi hay không?) Sau này tôi mới biết
rằng cảnh sát còn tịch thu cả những thứ tôi bỏ lại ở an dưỡng đường Maurín nữa.
Họ mang đi cả những tấm vải trải giường đã bẩn. Có lẽ họ nghĩ rằng trên đó có
những bức thư viết bằng mực hoá học.
Bà
xã nhà tôi cứ ở lại khách sạn thì sẽ an toàn hơn, ít nhất là trong giai đoạn
hiện nay. Nếu cô có ý định đi khỏi đây thì họ sẽ theo dõi ngay. Còn tôi thì
phải trốn cho mau. Viễn cảnh quả là ngán ngẩm. Mặc dù đã có vô số vụ bắt bớ,
tôi vẫn không thể tin là mình đang gặp nguy hiểm. Tất cả đều có vẻ quá nhảm
nhí. Chính vì không chịu cân nhắc một cách nghiêm túc những vụ bắt bớ ngu ngốc
này mà Kopp đã bị tống vào tù. Nhưng tôi tự hỏi vì sao người ta lại muốn bắt
tôi? Mình phải làm gì bây giờ? Tôi không chỉ là thành viên của P.O.U.M.
Đúng là trong thời gian diễn ra những vụ xung đột hồi tháng 5 tôi đã mang súng,
nhưng lúc đó có chừng bốn năm chục ngàn người mang súng như tôi. Ngoài ra, tôi
buồn ngủ quá rồi. Tôi định đi vào khách sạn đánh một giấc, nhưng bà xã nhất định
không chịu. Cô đã nhẫn nại giải thích cho tôi toàn bộ tình hình. Vấn đề không
phải là tôi đã làm hay không làm một việc gì đó. Vấn đề không phải là săn lùng
tội phạm mà là chế độ khủng bố. Tôi không có tội gì ngoài tội theo phái
Trotskyist. Chỉ một việc là chiến đấu trong hàng ngũ dân quân P.O.U.M. cũng đủ
để người ta bắt giam tôi rồi. Bám vào khái niệm của nước Anh - người không phạm
pháp là người vô tội - là việc làm vô ích. Ở đây, luật pháp là do cảnh sát
quyết định. Chỉ còn cách là đi trốn và xoá sạch dấu vết liên hệ với P.O.U.M. Chúng tôi xem lại tất cả giấy tờ đang giữ trong túi
áo. Bà xã bắt tôi phải xé thẻ quân nhân có chữ P.O.U.M.
in to bên trên, xé tấm ảnh chụp mấy chiến hữu trên nền lá cờ P.O.U.M.;
đấy là những thứ mà hôm nay có thể đưa người ta vào tù. Nhưng tôi phải giữ lại
giấy chứng nhận xuất ngũ. Mặc dù trên những tờ giấy này có đóng dấu của sư đoàn
29, mà cảnh sát có thể biết rằng sư 29 là quân của P.O.U.M., nhưng nếu không
mang theo những giấy tờ này thì tôi lại có thể bị bắt vì tội đào ngũ.
Bây
giờ phải nghĩ cách chuồn khỏi Tây Ban Nha. Trước sau gì cũng vào tù thì ở lại
đây là việc làm vô nghĩa. Sự thật là cả hai chúng tôi đều rất muốn ở lại, đơn
giản để xem sẽ xảy ra chuyện gì. Tôi biết là nhà tù Tây Ban Nha thật là kinh
khủng (nhưng trên thực tế còn tệ hơn tôi tưởng tượng nhiều), đã vào tù thì sẽ
không biết bao giờ ra, mà tôi thì đang rất yếu, đấy là chưa nói cánh tay lại
đang bị đau. Chúng tôi hẹn gặp lại nhau ở lãnh sự quán Anh vào ngày hôm sau,
Cottman và McNair cũng sẽ đến đó. Có thể phải mất vài ngày mới thu xếp xong hộ
chiếu. Trước khi rời Tây Ban Nha, cần phải xin được dấu ở ba nơi khác nhau, đấy
là văn phòng cảnh sát trưởng, lãnh sự quán Pháp và cơ quan xuất nhập cảnh
Catalonia. Văn phòng cảnh sát trưởng dĩ nhiên là chỗ nguy hiểm rồi. Nhưng chúng
tôi hi vọng là lãnh sự Anh có thể giải quyết được mà không để lộ mối liên hệ
của chúng tôi với P.O.U.M. Chắc chắn là cảnh sát có danh
sách những người ngoại quốc bị nghi là theo phái Trotskyist và có nhiều khả
năng là chúng tôi có tên trong bản danh sách này, nhưng nếu gặp may thì chúng
tôi có thể ra khỏi biên giới trước khi người ta lập xong danh sách. Ở đây mọi
thứ bao giờ cũng lộn xộn và bê trễ lắm. Đây là Tây Ban Nha chứ không phải Đức.
Cảnh sát mật Tây Ban Nha cũng tương tự như Gestapo nhưng năng lực thì kém xa.
Chúng
tôi chia tay nhau. Bà xã quay lại khách sạn, còn tôi lang thang trong bóng đêm
để tìm chỗ ngủ. Buồn bã và chán nản vô cùng. Chỉ muốn có một cái giường để ngả
lưng! Không biết đi đâu, không biết trốn vào đâu. Thực tế là P.O.U.M.
không có các tổ chức bí mật. Chắc là các nhà lãnh đạo của nó đã nghĩ đến khả
năng bị cấm đoán, nhưng không bao giờ họ lại nghĩ là đàn áp sẽ biến thành vụ
săn lùng phù thuỷ triệt để đến như thế. Quả thật là họ không nghĩ như thế, cho
nên đến tận ngày bị đặt ra ngoài vòng pháp luật họ vẫn còn tiếp tục cải tạo
những toà nhà do P.O.U.M. chiếm giữ (trong đó có việc
dựng một rạp chiếu phim trong toà nhà dùng làm văn phòng của P.O.U.M.).
Kết quả là P.O.U.M. không có những điểm hẹn và những nơi ẩn náu bí mật mà đương
nhiên đảng cách mạng nào cũng phải có. Chỉ có trời mới biết có bao nhiêu người
- những người mà nhà ở đang bị cảnh sát lục soát - phải ngủ ngoài trời đêm nay.
Tôi đã trải qua một cuộc hành trình vất vả dài suốt năm ngày, đã qua đêm ở
những chỗ khó tưởng tượng nhất, cánh tay thì nhức buốt không thể nào chịu nổi,
thế mà bọn ngu ngốc đó lại đang săn lùng tôi và tôi sẽ lại phải nằm ngủ ngoài
đường. Đầu óc chỉ quanh quẩn những chuyện như thế. Không còn sức đâu để nghĩ
đến chính trị chính em nữa. Đấy là cách phản ứng của tôi. Tôi nhận thấy là khi
bị dính líu vào chuyện chiến tranh hay chính trị là y như rằng bao giờ tôi cũng
chỉ nghĩ đến những thiếu thốn về mặt vật chất và chỉ mong sao cho những chuyện
vô nghĩa khốn nạn đó chấm dứt cho mau mà thôi. Sau này tôi có thể đánh giá được
tầm quan trọng của những sự kiện đó, nhưng khi chúng đang diễn ra thì tôi lại
chỉ muốn tránh cho xa. Thái độ tiểu nhân, có thể như thế lắm.
Tôi
đi khá xa và đã đến gần khu vực bệnh viện trung tâm. Tôi muốn tìm một chỗ ngả
lưng mà không sợ bị cảnh sát đến hỏi giấy tờ. Tôi đã thử chui vào một hầm trú
ẩn, nhưng đấy là cái hầm mới, tường còn ấm ướt lắm. Tôi tìm được một ngôi nhà
thờ đổ, trong những ngày cách mạng ngôi nhà thờ này bị cướp và đốt sạch. Chỉ
còn cái vỏ với bốn bức tường, không có mái, xung quanh đầy gạch vụn. Quờ quạng mãi trong bóng đêm tôi mới tìm thấy
một chỗ như cái hang để nằm. Gạch vụn đâm vào lưng rất khó chịu nhưng may mà
trời ấm và tôi đã ngủ được mấy tiếng.
14
Đối
với những người bị cảnh sát truy nã ở những thành phố như Barcelona thì khó
chịu nhất là các cửa hàng, cửa hiệu đều mở rất muộn. Khi phải ngủ ở ngoài
đường, bao giờ người ta cũng dậy ngay từ lúc rạng đông, nhưng ở đây không có
quán café nào mở cửa trước chín giờ sáng. Phải mấy tiếng đồng hồ sau tôi mới
cạo được râu hay uống được một li café. Những bức tranh cổ động của phe vô
chính phủ treo trên tường hiệu cắt tóc, bảo cấm đưa tiển lót tay, giờ trông
thật khôi hài. “Cách mạng đã chặt đứt gông xiềng”, tranh cổ động viết như thế.
Tôi chỉ muốn nói với người thợ cắt tóc rằng nếu họ không cẩn thận thì chẳng bao
lâu nữa gông xiềng sẽ lại quay về mất thôi.
Tôi
đi lang thang về phía trung tâm thành phố. Cờ đỏ đã bị gỡ khỏi những toà nhà
của P.O.U.M., thay vào đó là cờ của chính phủ cộng hoà, lính
gác của lực lượng bảo vệ vũ trang thấp thoáng bên trong. Cửa sổ toà nhà hội chữ
thập đỏ trên quảng trường Cataluna gần như không còn một tấm kính nào.
Cảnh sát đã đập hết, để mua vui. Các quán sách báo của P.O.U.M.
sạch trơn, không còn cuốn nào, trên tấm biển quảng cáo đối diện với phố Ramblas
có một bức biếm hoạ - P.O.U.M. mang một cái mặt nạ, đằng
sau là mặt của một tên phát xít. Khi đi đến cuối phố Ramblas, tức là sát bờ
biển, tôi bắt gặp một cảnh tượng kì lạ: một đám dân quân rách rưới, bẩn thỉu,
mệt mỏi, ngồi đợi trên những chiếc ghế ngay trước hiệu đánh giày. Tôi biết họ
là ai rồi, thậm chí còn nhận ra cả một người quen nữa. Đấy là những dân quân
của P.O.U.M., những người mới rời mặt trận ngày hôm trước,
nhưng nay P.O.U.M. đã bị cấm hoạt động. Họ phải ngủ ngoài đường vì nhà
đã bị lục soát. Dân quân của P.O.U.M. trở về Barcelona
vào thời gian đó chỉ có hai lựa chọn: chạy trốn hoặc vào tù. Cảnh đón tiếp
chẳng lấy gì làm thú vị, nên nhớ rằng trước đó họ đã ở ngoài mặt trận ba bốn
tháng liền.
Chúng
tôi rơi vào một hoàn cảnh thật là chớ trêu. Ban đêm chúng tôi phải lẩn trốn,
nhưng ban ngày có thể sống một cách bình thường. Tất cả những ngôi nhà có người
ủng hộ P.O.U.M. cư trú cũng đều bị theo dõi, hoặc có vẻ
như bị theo dõi. Vào khách sạn hay nhà nghỉ cũng không được vì chủ nhà được
lệnh khi có người lạ phải báo ngay cho cảnh sát. Trên thực tế, điều đó có nghĩa
là chỉ còn cách ngủ ngoài đường. Nhưng với thành phố cỡ như Barcelona, ban ngày
lại khá an toàn. Ngoài đường đầy bảo vệ vũ trang, lực lượng xung kích, cảnh sát
vũ trang cũng như cảnh sát thường; rồi chỉ có Trời mới biết có bao nhiêu mật vụ
mặc thường phục đang lởn vởn khắp nơi. Nhưng họ không thể hỏi giấy tờ tất cả
mọi người được và người bình thường có thể vẫn thoát được sự dòm ngó của họ.
Chỉ cần tránh xa những toà nhà của P.O.U.M. và không
được đến các quán café hay khách sạn mà nhân viên biết rõ mặt mình là được. Tôi
ngồi trong nhà tắm công cộng gần suốt ngày hôm đó cũng như ngày hôm sau. Đấy là
cách giết thì giờ hữu hiệu mà lại không bị người ta để ý. Không may là nhiều
người cũng nghĩ như thế và mấy ngày sau - đấy là nói khi tôi đã rời Barcelona
rồi - cảnh sát đã bố ráp một nhà tắm công cộng và bắt được khá nhiều thành viên
nhóm Trotskyist trong tình trạng khoả thân.
Đang
đi trên phố Ramblas thì tôi bắt gặp một thương binh từng nghỉ ở an dưỡng đường
Maurín. Chúng tôi nháy mắt ra hiệu cho nhau, lúc đó người ta vẫn chào nhau như
thế, và tìm cách gặp được nhau trong một quán café cũng nằm trên con phố này.
Anh đã chạy thoát khi cảnh sát bố ráp an dưỡng đường Maurín; nhưng, cũng như
những người khác, anh trở thành kẻ vô gia cư. Anh chỉ có mỗi một chiếc áo sơ mi
– phải vất lại cả áo vét khi bỏ chạy – túi không có xu nào. Anh kể cho tôi nghe
lính bảo vệ vũ trang đã giật bức chân dung khá lớn của Maurín vẫn treo trên
tường toà nhà và xéo nát như thế nào. Maurín (một trong những người sáng lập P.O.U.M.) bị bọn phát xít bắt và người ta tin rằng lúc đó ông
đã bị chúng giết rồi.
Tôi
gặp bà xã ở lãnh sự quán Anh vào lúc mười giờ sáng. McNair và Cottman cũng đến
ngay sau đó. Họ nói rằng Bob Smillie đã chết. Anh chết trong nhà tù ở Valencia,
còn vì sao thì không ai biềt. Người ta đem anh đi chôn ngay, David Marray, đại
diện của I.L.P. tại địa phương, cũng không được nhìn
thấy xác của anh.
Dĩ
nhiên tôi nghĩ ngay là chúng đã bắn chết Smillie. Lúc đó mọi người đều nghĩ như
thế. Nhưng bây giờ tôi cho rằng có thể mình đã lầm. Sau này người ta nói rằng
anh chết là do ruột thừa, một tù nhân được thả sau đó nói rằng Smillie đã bị
ốm. Cho nên câu chuyện về bệnh ruột thừa có thể là đúng. Còn việc Murray không
được nhìn thấy xác của Smillie có thể chỉ vì ác ý mà thôi. Bob Smillie mới có
hai mươi hai tuổi, anh là một trong những những người khoẻ nhất mà tôi từng
gặp. Tôi nghĩ anh là người duy nhất, kể cả người Anh lẫn người Tây Ban Nha, đã
ở chiến hào suốt ba tháng liền mà không bị ốm ngày nào. Những người khoẻ mạnh
như thế ít khi chết vì bệnh ruột thừa, đấy là nói nếu được chăm sóc tử tế.
Nhưng nếu nhìn thấy nhà tù Tây Ban Nha – nhà tù thường phạm được cải tạo lại để
giam chính trị phạm - thì không ai còn nghĩ rằng người bệnh được chăm sóc tử tế
nữa. Có thể coi những nhà tù này là ngục tối thời trung cổ. Phải quay lại thế
kỉ XVIII mới tìm được những nhà tù kiểu như thế ở Anh. Nhiều người bị lèn vào những
phòng chật hẹp, đến nỗi không có chỗ mà nằm, đấy thường là các tầng hầm hoặc
những chỗ tối tăm khác. Đây không phải là những biện pháp tạm thời, có người bị
giam trong những phòng hầu như không có ánh sáng suốt năm sáu tháng liền. Thức
ăn thì bẩn và thiếu: hai bát súp với hai mẩu bánh mì mỗi ngày. (Sau đó vài
tháng thức ăn có vẻ như đã được cải thiện một chút). Tôi không nói ngoa, độc
giả nào không tin xin cứ hỏi những người đã từng ngồi tù ở Tây Ban Nha thì sẽ
biết. Tôi có bằng chứng về nhà tù Tây Ban Nha từ nhiều nguồn khác nhau, những
bằng chứng này giống nhau đến mức ta buộc phải tin vào tính chân thực của
chúng. Ngoài ra, chính tôi cũng đã vào nhà tù Tây Ban Nha vài lần rồi. Một ông
bạn người Anh khác, bị đi tù sau đó một thời gian, viết rằng sự trải nghiệm
“giúp anh ta dễ dàng hiểu được trường hợp của Smillie hơn.” Smillie chết là
việc khó mà tha thứ được. Chàng trai dũng cảm và đầy tài năng này đã từ bỏ con
đường hoạn lộ ở trường đại học Glasgow để lên đường chiến đấu chống lại bè lũ
phát xít. Ngoài mặt trận, anh có thái độ tốt và dũng cảm không chê vào đâu
được. Chính mắt tôi là người chứng kiến tất cả những chuyện đó. Thế mà để đáp
lại, họ đã tống anh vào tù và để anh chết thảm chẳng khác gì một con chó hoang.
Tôi biết rằng giữa lúc đang đánh nhau dữ dội và đẫm máu như thế này thì gây ồn
ào về cái chết của một người là việc làm vô ích. Một quả bom thả từ trên không
xuống một dãy phố đông người còn gây ra nhiều đau khổ hơn hàng loạt vụ bắt bớ
chính trị. Nhưng điều làm người ta căm hận là Smillie và những người tương tự
như anh đã chết một cách hoàn toàn phi lí. Bị giết trên chiến trường là chuyện
đương nhiên, người ta sẵn sàng chấp nhận; nhưng bị tống vào tù chỉ vì lòng thù
hận mù quáng rồi bị bỏ mặc cho chết trong cảnh cô đơn lại là chuyện khác. Tôi
không biết những việc làm như thế - trường hợp của Smillie không phải là ngoại
lệ - làm sao có thể mang lại chiến thắng được.
Hai
vợ chồng tôi đến thăm Kopp ngay chiều hôm đó. Có thể đến thăm những người tù
không bị biệt giam, nhưng sẽ không an toàn nếu đến quá một hai lần. Cảnh sát
theo dõi việc ra vào nhà tù, những người đến thường xuyên bị coi là cảm tình
với Trotskyist và có thể bị bỏ tù. Nhiều người đã bị như thế.
Kopp
không bị biệt giam, chúng tôi được phép gặp anh mà không gặp phải khó khăn gì.
Khi được đưa qua cánh cửa sắt nhà giam tôi đã trông thấy một dân quân người Tây
Ban Nha mà tôi đã quen từ hồi còn ở mặt trận đang được hai lính bảo vệ vũ trang
giải đi. Bốn mắt gặp nhau, chúng tôi cùng bí mật chào nhau. Người đầu tiên
chúng tôi gặp trong tù là một dân quân người Mĩ. Anh này được cho về nhà cách
đây vài hôm, giấy tờ đủ cả nhưng bị bắt ở biên giới, có thể là vì anh vẫn mặc
quần nhung, mà họ coi là sắc phục của dân quân. Chúng tôi bước ngang qua nhau
như những người hoàn toàn xa lạ. Cảm giác thật kinh khủng. Tôi quen anh đã
nhiều tháng nay, chúng tôi đã từng cùng ngủ trong một căn hầm, anh đã khiêng
tôi ra khỏi mặt trật khi tôi bị thương. Nhưng bây giờ không thể làm khác được.
Lính bảo vệ mặc quân phục màu xanh có mặt khắp nơi. Muốn sống thì chớ làm ra bộ
biết nhiều người ở đây.
Phòng
giam là tầng hầm của một cửa hàng. Gần một trăm con người chen chúc nhau trong
hai phòng, mỗi phòng chừng hai mươi mét vuông. Chẳng khác gì những nhà giam hồi
thế kỉ XVIII, vẫn được vẽ trên những tờ lịch treo tường. Ẩm ướt, bẩn thỉu, rất
nhiều người, không giường phản - chỉ có nền đá, một cái ghế dài và mấy tấm nệm
rách – ánh sáng lờ mờ vì của sổ đã bị bít bằng những tấm thép đục lỗ như mắt
sàng. Trên những bức tường màu xám vẫn còn những khẩu hiệu cách mạng: “P.O.U.M. muôn năm!”, “Cách mạng muôn năm!” Chỗ này được dùng
để giam chính trị phạm được mấy tháng nay rồi. Ồn ào tưởng muốn vỡ màng nhĩ.
Đây là giờ thăm nuôi, chật cứng người, đi lại rất khó khăn. Hầu như tất cả đều
thuộc tầng lớp lao động nghèo khổ nhất. Tôi đã trông thấy những người phụ nữ
đang mở những cái túi đựng thức ăn thăm nuôi lép kẹp. Có cả mấy thương binh đã
nghỉ ở an dường đường Maurín cũng bị giam ở đây. Hai người bị cưa chân, mà một
người thì không có nạng, đành phải nhảy lò cò mỗi khi muốn di chuyển. Có cả một
thằng bé chưa đến mười hai tuổi, chắc là họ bắt giam cả trẻ con. Mùi hôi nồng
nặc, những chỗ đông người mà không có điều kiện vệ sinh thì bao giờ cũng hôi
hám như thế cả.
Kopp
chen lấn một lúc mới ra được chỗ chúng tôi. Khuôn mặt đầy đặn, tươi tỉnh của
anh trông vẫn như xưa; ở một chỗ bẩn thỉu như thế này mà anh vẫn giữ được quần
áo tươm tất, lại còn cạo được cả râu. Còn một người mặc đồng phục sĩ quan Quân
đội Nhân dân nữa. Anh ta và Kopp vừa chen lấn vừa giơ tay chào nhau, trông có
vẻ khôi hào thế nào ấy. Kopp có vẻ rất phấn chấn. “Tớ ngờ rằng chúng tớ sẽ bị
bắn hết”, anh vui vẻ nói. Tôi thấy nhột
khắp người khi nghe anh nói từ “bắn”. Tôi bị trúng đạn cách đây chưa lâu, cảm
giác vẫn còn sống động trong trí nhớ. Chẳng thú vị gì khi nghĩ rằng điều đó sẽ
xảy ra với những người thân quen với mình. Lúc đó tôi tin rằng tất cả những nhà
lãnh đạo của P.O.U.M., trong đó Kopp, đều sẽ bị bắn. Đấy
là lúc có tin là Nin đã chết, chúng tôi cũng biết rằng P.O.U.M.
bị kết tội phản bội và hoạt động gián điệp. Tất cả các sự kiện đều cho thấy sẽ
có một phiên toà bịa đặt với rất đông bị can và sau đó là vụ giết hại hàng loạt
những người Trotskyist chủ chốt. Thật là kinh khủng khi phải chứng kiến cảnh
người bạn ở trong tù mà mình không thể nào giúp đỡ được. Vì không thể làm được
gì. Kêu gọi chính phủ Bỉ cũng vô ích vì bỏ nước ra đi là Kopp đã phạm luật rồi.
Tôi phải để bà xã nói chuyện là chính, trong khung cảnh như thế này anh sẽ
không thể nào nghe được giọng nói the thé của tôi. Kopp kể cho chúng tôi nghe
về những người bạn mà anh mới kết thân trong tù, về lính gác, một số lính gác
là người tốt, nhưng cũng có người chửi mắng và đánh đập tù nhân, thức ăn thì
chẳng khác gì cám lợn. May là chúng tôi có đem theo một bọc đồ ăn và cả thuốc
lá nữa. Sau đó Kopp kể về số giấy tờ mà họ đã tịch thu khi bắt anh. Trong đó có
bức thư của ông Bộ trưởng chiến tranh gửi cho viên đại tá chỉ huy lực lượng kĩ
thuật ở mặt trận phía Đông. Cảnh sát đã tịch thu mà không chịu trả lại, nghe
nói nó nằm trong văn phòng của cảnh sát trưởng. Nếu tìm được thì hoàn cảnh của
Kopp có thể sẽ khác.
Tôi
nhận thức ngay được tầm quan trọng của bức thư này. Bức thư với lời giới thiệu
của Bộ trưởng chiến tranh và tướng Pozas sẽ cho người ta thấy Kopp là một người
rất đáng tin cậy. Nhưng vấn đề là phải chứng minh được rằng Kopp đã mang theo
người một bức thư như thế, nếu văn phòng cảnh sát trưởng đã mở bức thư thì chắc
chắn mật thám đã tiêu huỷ rồi. Chỉ có một người có thể lấy lại bức thư, đấy là
người nhận. Kopp đã nghĩ đến chuyện này và anh đã viết một bức thư, nhờ tôi
mang ra và gửi theo đường bưu điện. Nhưng tôi nghĩ nhanh nhất và bảo đảm nhất
là tự mình mang đến gặp viên đại tá. Để bà xã ngồi lại với Kopp, tôi lao vội ra
ngoài và sau một hồi tìm kiếm tôi đã bắt được một chiếc taxi. Tôi biết rằng
thời gian là tất cả. Bây giờ là năm giờ rưỡi, đại tá có thể sẽ rời văn phòng
vào lúc sáu giờ; còn ngày mai thì có Trời mới biết bức thư sẽ nằm ở đâu - bị xé
hay bị thất lạc giữa hàng đống giấy tờ của những người bị bắt. Văn phòng của
đại tá nằm ở Cục phòng vệ, gần cầu cảng. Tôi đang lao lên bậc tam cấp thì bị
một lính xung kích đưa báng súng dài ngoẵng của anh ta ra chặn đường và đòi
“giấy tờ”. Tôi giơ giấy xuất ngũ của mình ra. Có lẽ anh ta không biết đọc,
nhưng bị mấy mảnh giấy làm cho choáng váng nên đã cho tôi vào. Bên trong là
những toà nhà to và rắc rối, bao quanh một cái sân, với hàng trăm văn phòng làm
việc trên mỗi tầng. Vì đây là Tây Ban Nha nên không ai biết văn phòng tôi cần
tìm nằm ở đâu. Tôi luôn mồm nói: “El coronel —, jefe de ingenieros, Ejército
de Este!”[38].
Tất cả những người tôi gặp đều mỉm
cười và nhún vai một cách rất tao nhã. Mỗi người chỉ theo một hướng. Hết lên
rồi xuống, rồi lại đi theo những hành lang dài bất tận để cuối cùng vào một ngõ
cụt. Mà thời gian thì cứ thế trôi. Tôi có cảm giác như đang rơi vào một cơn ác
mộng: chạy lên rồi lao xuống cầu thang, thấy những người bí ẩn đi dọc hành
lang, ngó vào những văn phòng, giấy tờ vương vãi khắp nơi, tiếng máy chữ lạch
cạch. Mà thời gian thì cứ trôi, trong khi cuộc sống của một người lại như đang treo
trên đầu sợi tóc.
Nhưng
tôi đã đến kịp và lấy làm ngạc nhiên là người ta đã tiếp tôi. Tôi không được
gặp đại mà chỉ gặp viên sĩ quan tuỳ tùng hay thư kí của ông ta thôi. Đấy là một
người nhỏ bé, mặc bộ quân phục may vừa khít, đôi mắt to và lác. Anh ta ra hẳn
phòng ngoài để tiếp tôi. Tôi bắt đầu kể câu chuyện của mình: Tôi được cấp trên
cử đến đây, đấy là thiếu tá Jorge Kopp, người được phái ra mặt trận với một
nhiệm vụ khẩn cấp, nhưng do nhầm lẫn nên đã bị bắt. Bức thư mà thiếu tá mang
đến cho đại tá là tài liệu mật và phải thu hồi ngay lập tức. Tôi đã chiến đấu
cùng với Kopp suốt mấy tháng liền, đấy là một sĩ quan tuyệt vời, chắc chắn là
có sự nhầm lẫn, cảnh sát đã nhầm anh với ai đó ..v.v. Tôi khẳng định rằng nhiệm
vụ của Kopp là cực kì cấp bách, đấy chính là át chủ bài của tôi. Nhưng câu
chuyện, khi thì bằng tiếng Tây Ban Nha ngọng ngịu, lúc lại chuyển sang tiếng
Pháp chắc chắn là nghe cũng khá kì quặc. Tệ hại nhất là tôi bị mất giọng ngay
từ đầu và cố gắng lắm tôi cũng chỉ phát ra những âm thanh khò khè. Tôi sợ nhất
là sẽ mất hẳn gịong và người sĩ quan nhỏ bé này sẽ chán. Sau này tôi thường tự
hỏi không biết anh ta nghĩ thế nào: tôi say hay là lúng túng vì lương tâm không
trong sáng.
Nhưng
anh đã kiên nhẫn nghe tôi nói đến cùng, nhiều lần gật đầu tỏ vẻ đồng ý với tôi.
Vâng, có thể đây là một sự lầm lẫn. Rõ ràng là cần phải xem xét vấn đề. Ngày
mai – viên sĩ quan nói. Không, không để đến mai được! – tôi phản đối. Vấn đề
cực kì khẩn cấp, Kopp đáng lẽ đã phải có mặt ở mặt trận rồi. Viên sĩ quan có vẻ
như đồng ý. Bây giờ đến câu hỏi mà tôi sợ nhất:
“Trong lực lượng dân quân của P.O.U.M.” - mấy từ khủng khiếp nhất đã được nói ra.
“P.O.U.M. à!”
Ước
gì tôi có thể mô tả được sự hoảng hốt trong giọng nói của anh ta. Cần phải biết
rõ hoàn cảnh của P.O.U.M. lúc đó. Chiến dịch săn lùng
gián điệp đang ở thời kì cao điểm, có thể tất cả những người cộng hoà đều tin
rằng P.O.U.M. là tổ chức tình báo lớn ăn tiền của Đức.
Nói từ đó với một sĩ quan Quân đội Nhân dân cũng chẳng khác gì có mặt trong câu
lạc bộ kị binh ngay sau vụ “Bức thư đỏ[39]”
và tuyên bố rằng mình là cộng sản vậy. Đôi mắt đen của anh ta lướt nhanh trên
mặt tôi. Sau một lúc im lặng, anh ta chậm rãi nói:
“Anh
bảo rằng đã cùng ở mặt trận với anh ta. Nghĩa là anh là dân quân của P.O.U.M.?”
“Vâng”
Anh
ta quay lưng và chui tọt vào phòng viên đại tá. Tôi nghe thấy người ta thảo
luận rất sôi nổi. “Dĩ nhiên rồi”, tôi thầm nghĩ. Không bao giờ người ta trả lại
thư của Kopp. Hơn nữa, vì tôi tự nhận là người của P.O.U.M.
nên chắc chắn là họ sẽ gọi cảnh sát và đưa thêm được một Trotskyist nữa vào tù.
Nhưng người sĩ quan đã lại xuất hiện, anh ta lấy mũ và ra hiệu cho tôi đi theo.
Chúng tôi đi tới văn phòng cảnh sát trưởng. Đường đi khá xa, mất hai mươi phút.
Người sĩ quan nhỏ nhắn đi đằng trước, bước đều như duyệt binh. Không ai nói câu
nào. Chúng tôi trông thấy một đám đông những kẻ du thử du thực, trông rất hắc
ám; có nhiều khả năng đấy là những tên mật thám, những tên chỉ điểm, những tên
gián điệp đủ mọi loại, đang tụ tập trước văn phòng cảnh sát trưởng. Người sĩ
quan nhỏ nhắn đi vào văn phòng. Tôi nghe thấy người ta nói rất to, có lúc gay
gắt nữa. Tôi mường tượng trong đầu những cái vung tay quá đà, những cái nhún
vai tỏ vẻ khó hiểu và cả cảnh đập bàn đập ghế nữa. Chắc là cảnh sát không chịu
trao trả bức thư. Nhưng cuối cùng người sĩ quan cũng đi ra, mặt đỏ gay, tay cầm
một chiếc phong bì to tướng. Đấy chính là thư của Kopp. Chúng tôi đã giành được
một chiến thắng nho nhỏ, nhưng hoá ra sau này mới biết là cũng chẳng có ý nghĩa
gì. Bức thư đã được chuyển đi, nhưng những người chỉ huy của Kopp đã không thể
đưa anh ra khỏi nhà tù.
Người
sĩ quan hứa với tôi là bức thư sẽ được đưa đến tay người nhận. “Thế còn Kopp?”,
tôi hỏi. “Không thể đưa được anh ta ra hay sao?” Người sĩ quan khẽ nhún vai.
Đấy lại là vấn đề khác. Họ không biết Kopp bị bắt vì lí do gì. Anh ta chỉ có
thể nói với tôi rằng họ sẽ cho điều tra đến nơi đến chốn. Không còn gì để nói
với nhau nữa, đã đến lúc chia tay. Chúng tôi cùng khẽ nghiênh mình chào nhau.
Nhưng đúng lúc đó đã xảy ra một chuyện bất ngờ và cảm động. Người sĩ quan lưỡng
lự trong giây lát, rồi anh tiến lên nắm lấy tay tôi.
Không
biết tôi có đủ khả năng thể hiện cho độc giả thấy sự xúc động của mình trước cử
chỉ đó hay không. Dường như đấy chỉ là một chuyện nhỏ nhặt, nhưng không phải
như thế. Phải hiểu được khung cảnh thời đó, đấy là lúc mà lòng hận thù và nghi
kị hiện diện khắp nơi, đấy là lúc mà những lời dối trá và tin đồn thất thiệt
lan truyền cùng khắp, đấy là lúc mà ở đâu cũng có những khẩu hiệu nói rằng tôi
và những người như tôi là gián điệp của bọn phát xít. Ngoài ra, cần phải nhớ
rằng chúng tôi đang đứng ngay bên ngoài văn phòng cảnh sát trưởng, ngay trước
mắt những kẻ ngồi lê đôi mách và những tên khiêu khích, bọn chúng có thể biết
là tôi đang bị cảnh sát truy nã. Bắt tay tôi lúc đó cũng chẳng khác gì công
khai bắt tay một người Đức trong thời gian diễn ra Chiến tranh thế giới Thứ
nhất. Tôi đồ rằng anh ta nghĩ tôi không phải là gián điệp. Dù sao mặc lòng, anh
ta vẫn là một người rất tử tế.
Tôi
ghi lại câu chuyện này, tuy nghe có vẻ tầm thường, nhưng theo tôi rất đặc trưng
cho người Tây Ban Nha: lòng hào hiệp trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Trong
đầu tôi, nước Tây Ban Nha để lại nhiều hình ảnh rất không hay, nhưng hình ảnh
người Tây Ban Nha không ra gì thì rất ít. Tôi chỉ nổi đoá với người Tây Ban Nha
có hai lần, nhưng bây giờ nghĩ lại, cả hai lần tôi đều là người có lỗi. Họ là
những người có lòng hào hiệp, nhân cách cao thượng, không hoàn toàn phù hợp với
thế kỉ XX. Điều đó gieo vào lòng ta hi vọng rằng ở Tây Ban Nha, ngay cả chủ
nghĩa phát xít cũng sẽ có hình thức tự do hơn và dễ chịu hơn. Ít người Tây Ban
Nha có những phẩm chất như kiên trì và mẫn cán đến mức bệnh hoạn, mà đấy lại là
những đặc tính tối cần thiết đối với nhà nước toàn trị. Có thể lấy việc cảnh
sát khám xét căn phòng của bà xã nhà tôi cách đó mấy ngày làm minh chứng cho
điều đó. Rất tiếc là tôi đã không được chứng kiến cảnh khám xét, nếu có mặt tại
chỗ có thể tôi đã nổi đoá lên rồi.
Cảnh
sát tiến hành khám xét theo đúng phong cách của OGPU hay GESTAPO. Tức là đập
cửa vào lúc rạng đông, rồi sáu người bước vào phòng. Họ bật đèn lên và lập tức
chiếm giữ những vị trí khác nhau, chắc là đã só sự phân công từ trước. Sau đó
họ bắt đầu lục soát hai căn phòng (phòng tắm nằm sát phòng ngủ) một cách cực kì
kĩ lưỡng. Họ gõ vào tường, rồi lật thảm lên, họ kiểm tra cả nền nhà, xem cả rèm
cửa, cúi xuống kiểm tra gầm bồn tắm và lò sưởi, họ đổ hết các thứ trong ngăn
kéo và va li ra ngoài, họ còn mang tất cả quần áo ra trước ánh đèn để kiểm tra
nữa. Cảnh sát tịch thu tất cả sách vở, giấy má, kể cả giấy tờ trong sọt rác. Họ
phát điên lên khi phát hiện thấy bản dịch tiếng Pháp cuốn Cuộc đấu tranh của tôi của Hitler trong phòng chúng tôi. Nếu đấy là
cuốn sách duy nhất họ phát hiện được thì số phận của chúng tôi coi như xong. Kẻ
đọc Cuộc đấu tranh của tôi chắc chắn
phải là phát xít rồi. Nhưng ngay sau đó họ lại tìm thấy cuốn Những biện pháp đấu tranh với bọn Trotskyist
và những kẻ hai mặt khác của Stalin, cuốn này làm họ phần nào yên tâm hơn.
Họ tìm thấy mấy tập giấy quấn thuốc lá trong một cái ngăn kéo. Họ xé ra và kiểm
tra từng tờ một xem có chữ viết không. Vụ khám xét kéo dài chừng hai tiếng đồng
hồ. Nhưng họ lại không động tới giường ngủ. Lúc đó bà xã nhà tôi vẫn nằm trên
giường, chắc chắn bên dưới tấm nệm là cả tá súng ống, chưa nói dưới gối còn có
cả tập tài liệu Trotskyist nữa. Thế mà cảnh sát không động tới giường, cũng
không ngó xuống gầm giường. Tôi không tin là OGPU cũng làm như thế. Cần phải
nhớ rằng cảnh sát gần như nằm dưới sự kiểm soát toàn diện của cộng sản, chính
những người này có thể cũng là đảng viên cộng sản. Nhưng họ còn là người Tây
Ban Nha nữa, buộc người đàn bà đứng dậy là việc làm quá sức đối với họ. Bỏ qua
chiếc giường, việc khám xét của họ hoá thành công cốc.
Đêm
đó tôi, McNair và Cottman ngủ ở một bãi cỏ rậm rạp trên một công trường xây
dựng đã bị bỏ hoang. Trời lạnh so với mọi năm, không ai ngủ được đẫy giấc. Tôi
nhớ mãi những giờ phút đi lang thang dài dằng dặc, loanh quanh hết chỗ nọ đến
chỗ kia, chờ quán café mở cửa. Từ khi đến Barcelona, đây là lần đầu tiên tôi
ghé thăm nhà thờ lớn - một biểu tượng của kiến trúc hiện đại, nhưng cũng có
hình thù gớm guốc nhất thế giới. Nó có bốn cái tháp nhọn trông như những chai
rượu vang lớn. Khác với đa số nhà thờ ở Barcelona, nhà thờ lớn không bị hề hấn
gì trong suốt thời kì cách mạng. Có người nói rằng nó được giữ lại vì “có giá
trị nghệ thuật”. Tôi cho rằng những người vô chính phủ là những kẻ không có đầu
óc thẩm mĩ cho nên họ mới không cho nổ tung toà nhà này, mặc dù họ đã treo trên
tháp của nó lá cờ hai vạch đỏ và đen. Chiều hôm đó hai vợ chồng tôi đến thăm
Kopp lần cuối. Chúng tôi không giúp được gì, tuyệt đối không, chúng tôi chỉ có
thể nói lời tạm biệt và đưa ít tiền cho những người ban Tây Ban Nha để thỉnh
thoảng họ mang thức ăn và thuốc lá vào cho anh. Một thời gian ngắn sau khi
chúng tôi rời khỏi Barcelona thì anh bị biệt giam, thức ăn cũng không được nhận
nữa. Đêm đó, chúng tôi đi dạo trên đường Ramblas và có ghé ngang qua quán café
Moka, thấy lính bảo vệ vũ trang vẫn đứng đầy xung quanh. Trong cơn bốc đồng,
tôi bước thẳng vào quán và nói chuyện với hai người đeo súng đang đứng tựa vào
quầy tính tiền. Tôi hỏi họ có biết những bạn đồng ngũ đã có mặt ở đây trong
thời gian diễn ra những vụ đụng độ hồi tháng 5 hay không. Họ nói không biết và
cũng không biết tìm những người ấy ở đâu. Tôi bảo rằng bạn tôi, tên là Jorge
Kopp, hiện đang bị ngồi tù và có thể bị đưa ra toà vì những vấn đề liên quan
đến những vụ xung đột hồi tháng 5. Những người thuộc lực lượng bảo vệ vũ trang
có mặt ở đây trong thời gian đó biết Kopp đã ngăn chặn được hoả lực và cứu được
vài người trong bọn họ. Họ phải đứng ra làm chứng. Một anh chàng trông có vẻ
đần độn, nặng nề, cứ lắc đầu suốt vì tiếng ồn bên ngoài át hết giọng của tôi.
Nhưng anh kia thì lại khác. Anh ta bảo rằng đã nghe thấy các bạn nói về Kopp.
Kopp là buen chico (một người tốt). Nhưng ngay lúc đó tôi biết rằng sẽ
chẳng ích gì. Trong những trường hợp như thế này, đấy là nói nếu Kopp bị đưa ra
toà, người ta sẽ chưng ra bằng chứng giả. Nếu họ bắn anh (tôi sợ là như thế)
thì câu buen chico sẽ là câu khắc trên bia mộ cho anh. Đấy là câu nói
của một anh lính bảo vệ khốn khổ; anh ta chính là một phần của cái hệ thống bẩn
thỉu đó, nhưng anh vẫn còn giữ được tình người và nhận thức được hành động nào
là tử tế khi có dịp.
Chúng
tôi có một cuộc sống khá kì quặc, chẳng khác gì lũ điên. Ban đêm chúng tôi là
tội phạm, nhưng ban ngày chúng tôi lại là những du khách khá giả người Anh – cử
chỉ của chúng tôi tỏ ra như thế. Ngay cả sau khi ngủ ở ngoài trời suốt đêm,
nhưng vừa rửa mặt, cạo râu và đánh giày xong là chúng tôi đã trở thành những
người khác hẳn. Hiện nay, trông càng giống người có của thì càng an toàn. Chúng
tôi thường đến những khu vực sang trọng, ở đấy người ta không biết mặt chúng
tôi, còn khi vào những nhà hàng đắt tiền thì chúng tôi phải cư xử với bồi bàn
như những người Anh chính hiệu. Đây là lần đầu tiên tôi viết lên tường. Khẩu
hiệu “Visca P.O.U.M.!” (P.O.U.M. muôn năm!) được
tôi viết bằng những chữ cái rất to trên những bức tường của mấy khách sạn sang
trọng. Mặc dù trên thực tế tôi đã rút vào bí mật, nhưng tôi không cảm thấy lo
lắng gì cả. Tất cả đều có vẻ quá vô lí. Tôi vẫn tin theo đúng kiểu người Anh là
nếu không vi phạm pháp luật thì không ai có thể bắt được mình. Nhưng trong giai
đoạn khủng bố chính trị thì đấy là một quan niệm cực kì nguy hiểm. Có lệnh bắt
McNair rồi và có thể tất cả chúng tôi cũng đều nằm trong danh sách đó. Bắt bớ,
khám xét vẫn tiếp tục. Trên thực tế, tất cả những người chúng tôi biết, nếu
không ở mặt trận thì đều đã vào tù rồi. Cảnh sát còn khám xét cả những chiếc
tàu của Pháp vẫn đến chở người tị nạn và bắt những người bị nghi là theo phái
Trotskyist đã lên tàu.
Nhờ
sự nhiệt tình của lãnh sự quán Anh, họ đã phải cố gắng rất nhiều trong suốt một
tuần lễ đó, chúng tôi đã thu xếp được hộ chiếu một cách ổn thoả. Lên đường càng
nhanh càng tốt. Theo lịch trình thì tàu đi Port Bou sẽ khởi hành vào lúc bảy
rưỡi tối, nhưng chắc là tám rưỡi nó mới chạy. Chúng tôi thoả thuận là bà xã sẽ
thuê sẵn taxi, sau đó mới xếp đồ đạc, rồi thanh toán tiền phòng và rời khách
sạn càng muộn càng tốt. Nếu để người khách sạn biết thì chắc chắn họ sẽ báo
cảnh sát. Tôi đến nhà ga vào lúc bảy giờ và phát hiện ra rằng tàu đã chạy vào
lúc bảy giờ kém mười. Lái tàu ở đây thường cứ tự tiện như thế đấy. May là chúng
tôi đã kịp báo cho bà xã. Chuyến tàu tiếp theo khởi hành vào lúc sáng sớm ngày
hôm sau. McNair, Cottman và tôi ăn tối trong một nhà hàng nhỏ ngay gần sân ga. Sau
câu chuyện đầy ý tứ với người chủ nhà hàng, chúng tôi phát hiện ra rằng anh là
thành viên của C.N.T. và tỏ ra là một người thân thiện. Anh cho
chúng tôi ngủ trong một căn phòng có ba chiếc giường và “quên” không
đăng kí tạm trú với cảnh sát. Năm đêm rồi tôi mới được cởi quần áo trước khi đi
ngủ.
Bà
xã đã chuồn khỏi khách sạn một cách an toàn. Tàu xuất phát muộn gần một tiếng
đồng hồ. Tôi dành thời gian đề viết một bức thư khá dài, gửi ông bộ trưởng
chiến tranh. Tôi nói với ông ta trường hợp của Kopp, tôi khẳng định rằng anh bị
bắt nhầm, anh rất cần cho mặt trận, rất nhiều người sẵn sàng làm chứng anh là
người vô tội..v.v.. Không hiểu có ai đọc bức thư đó không, đấy là một bức thư
được viết trên tờ giấy xé ra từ cuốn sổ tay, bằng những nét chữ lộn xộn như gà
bới (các ngón tay của tôi vẫn cứng lắm) và bằng thứ tiếng Tây Ban Nha còn lộn
xộn hơn. Bức thư này cũng như tất cả những việc khác mà chúng tôi đã làm đều
không đem lại kết quả. Khi viết những dòng này, tức là sáu tháng sau ngày tôi
gửi bức thư, Kopp vẫn còn ở trong tù (đấy là nói nếu họ chưa bắn anh), không có
án, mà cũng chẳng có cáo trạng gì hết. Thời gian đầu chúng tôi có nhận được vài
ba lá thư của anh, những người tù được trả tự do mang ra và gửi từ Pháp. Vẫn là
những chuyện cũ: phòng giam bẩn, tối, chật chội; thức ăn thì vừa ít vừa không
thể nuốt nổi; ốm vì điều kiện giam giữ, lại không được chữa trị gì. Một vài
nguồn tin khác, cả của người Anh lẫn người Pháp, cũng khẳng định như thế. Gần
đây Kopp bị đưa vào một trong những “nhà tù bí mật”, không thể nào liên lạc
được nữa. Số phận của anh là số phận của hàng chục, thậm chí hàng trăm người
ngoại quốc khác. Không ai biết mấy ngàn người Tây Ban Nha bị rơi vào hoàn cảnh
như thế.
Cuối
cùng chúng tôi đã ra khỏi biên giới mà không gặp phải trở ngại nào. Đoàn tàu
này có một toa hạng nhất và toa nhà ăn - lần đầu tiên tôi thấy ở Tây Ban Nha.
Đến mãi thời gian gần đây tàu hoả ở Catalonia chỉ có toa hạng hai mà thôi. Hai
cảnh sát đi vào các toa và ghi tên người ngoại quốc; nhưng thấy chúng tôi ngồi
trong toa ăn, chắc họ nghĩ chúng tôi là những người thành đạt cho nên không
hỏi. Mọi sự đã thay đổi. Chỉ sáu tháng trước, khi chính quyền còn nằm trong tay
lực lượng vô chính phủ, chỉ có những người trông có vẻ vô sản mới đáng tin. Khi
nhập cảnh Tây Ban Nha qua ngả Perpignan vào Cerberes, một thương gia người Pháp
đi cùng toa đã bảo tôi: “Anh không được ăn mặc thế này khi vào Tây Ban Nha.
Tháo cổ cồn và cà vạt ra đi. Ở Barcelona người ta sẽ giật ra đấy.” Ông ta nói
hơi quá, nhưng đấy chính là Catalonia trong quá khứ. Tôi đã chứng kiến cảnh
lính biên phòng của lực lượng vô chính phủ không cho vợ chồng một người Pháp ăn
mặc lịch sự nhập cảnh. Tôi đồ rằng chỉ vì họ trông như những nhà tư sản thứ
thiệt. Bây giờ mọi sự đã khác, càng giống tư sản càng an toàn. Tại trạm kiểm tra
hộ chiếu trên biên giới, họ tìm xem chúng tôi có tên trong danh sách những
người khả nghi hay không, nhưng do sự cẩu thả của cảnh sát mà chúng tôi đã
không có tên trong danh sách. Ngay cả McNair cũng không có tên. Họ khám từ đầu
đến chân, nhưng chúng tôi không có bất cứ thứ gì đáng ngờ, nếu không kể giấy tờ
xuất ngũ của tôi, nhưng tay cảnh sát khám tôi không biết rằng sư đoàn 29 là lực
lượng dân quân của P.O.U.M. Thế là chúng tôi vượt qua
biên giới, tôi đã đặt chân lên đất Pháp sau đúng sáu tháng. Tôi chỉ mang theo
hai vật kỉ niệm, đấy là cái bình đựng nước bằng da dê và cái đèn dầu ô liu nhỏ
tí mà người nông dân Tây Ban Nha vẫn dùng để thắp sáng. Về hình thức, cái đèn
này giống hệt những cái đèn mà người Roma đã dùng cách đây hai ngàn năm. Tôi đã
nhặt được nó trong một căn nhà đổ và không hiểu sao nó lại vẫn còn nằm trong
túi sách của tôi.
Hoá
ra chúng tôi đã thoát trong đường tơ kẽ tóc. Ngay trên tờ báo đầu tiên mua được
trên đất Pháp chúng tôi đã đọc được lệnh bắt giam McNair vì hoạt động gián
điệp. Chính quyền Tây Ban Nha đã tuyên bố chuyện này hơi sớm. May là thành viên
nhóm Trotskyist không thuộc loại tội phạm phải bị dẫn giải.
Tôi
không biết là người ta thường làm gì ngay sau khi rời khỏi đất nước có chiến
tranh và đặt được chân lên mảnh đất hoà bình. Còn tôi thì chạy ngay ra quán bán
thuốc lá và lèn đến đầy túi mới thôi. Sau đó chúng tôi vào quán và uống mỗi
người một tách trà. Lần đầu tiên, sau nhiều tháng trời, chúng tôi mới lại được
uống trà với sữa tươi. Phải mấy ngày sau tôi mới quen với ý nghĩ rằng có thể
mua thuốc lá bất cứ lúc nào. Lúc nào trong đầu tôi cũng lởn vởn hình ảnh quán
bán thuốc lá đóng của và trên cửa sổ là hàng chữ: “No hay tabaco[40]”.
McNair
và Cottman đi Paris. Vợ chồng tôi xuống tàu ở Banyuls, tức là ngay ga đầu tiên,
vì cảm thấy cần phải nghỉ ngơi vài ngày. Người Banyuls tỏ ra khá lạnh nhạt khi
biết chúng tôi từ Barcelona tới. Nhiều lần tôi phải nói cùng một câu chuyện:
“Ông từ Tây Ban Nha tới à? Đứng về bên nào? Bên chính phủ à?” – và người đối
thoại thể hiện thái độ lạnh lùng ngay lập tức. Thành phố nhỏ này có vẻ như đứng
về phe Franco, đấy chắn chắn là do có nhiều người tị nạn thuộc phe phát xít đã
chạy tới đây. Hầu bàn trong quán café mà tôi thường lui tới là một người Tây
Ban Nha theo phe Franco, hắn ta thường nhìn xoáy vào tôi mỗi khi đưa đồ uống
tới. Nhưng ở Perpignan thì lại khác, thành phố này gắn bó với chính phủ cộng
hoà, còn các phe nhóm cộng hoà khác nhau thì cũng đánh nhau chẳng khác gì ở
Barcelona. Có cả một quán café mà khi nghe nói đến P.O.U.M. là
người hầu bàn sẽ mỉm cười, còn bạn bè người Pháp thì vây quanh ngay lập tức.
Tôi
nhớ đã ở Banyuls ba ngày. Đấy là những ngày tâm hồn xao xuyến một cách kì lạ.
Trong thành phố của những ngư phủ thanh bình, nhỏ bé này, cách xa khu vực bom
rơi đạn nổ, xa những đám người xếp hàng mua thức ăn, xa bộ máy tuyên truyền và
thủ đoạn, đáng lẽ chúng tôi phải cảm thấy lòng cực kì thanh thản thì mới đúng.
Nhưng hoàn toàn không phải như thế. Chúng tôi đã rời bỏ Tây Ban Nha, nhưng
những sự kiện ở Tây Ban Nha lại không chịu rời bỏ chúng tôi. Ngược lại, các sự
kiện lại còn sống động và gần gũi hơn cả trước kia nữa. Chúng tôi vẫn liên tục
suy nghĩ, nói và ước mơ về Tây Ban Nha. Nhiều tháng trời chúng tôi thường tự
nhủ “khi ra khỏi Tây Ban Nha” chúng tôi sẽ đến một chỗ nào đó bên bờ Địa Trung
Hải, hưởng không khí thanh bình một thời gian và có thể còn đi câu cá nữa. Thế
mà nay chúng tôi đã đến đây, ngay bên bờ biển, mệt mỏi và chán chường. Trời
lạnh, gió không ngừng thổi từ biển vào, nước nông và đục, mặt nước ngay bên bờ
cảng ngầu bọt, nút chai và ruột cá bám đầy trên những phiến đá. Nghe có vẻ như
dở hơi, nhưng cả hai chúng tôi đều muốn quay lại Tây Ban Nha. Dù chẳng mang lại
lợi ích gì cho ai, thậm chí còn có hại nữa, nhưng cả hai chúng tôi đều lấy làm
tiếc là đã không ở lại Barcelona để được đi tù cùng với những người khác. Tôi
nghĩ rằng mình chỉ có thể truyền đạt được một phần rất nhỏ ý nghĩa của những
ngày tháng đó. Tôi đã ghi lại được một số sự kiện bên ngoài, nhưng tôi không
thể ghi lại được tình cảm mà những sự kiện đó đã để lại trong tôi. Tình cảm của
tôi hoà quyện cùng với phong cảnh, mùi vị và âm thanh, là những thứ không thể
nào viết ra giấy được: mùi của chiến hào, đứng bên sườn núi ngắm ánh bình minh
trải dài đến tận chân trời, tiếng đạn nổ lạnh sống lưng, tiếng gầm rú và tiếng
nổ của những quả bom, ánh mặt trời buổi sáng lạnh và trong trẻo ở Barcelona,
tiếng giầy đinh trong sân doanh trại trong tháng 12 xa xôi, khi mà dân chúng
còn tin vào cách mạng. Và những dòng người trước của hàng thực phẩm, những lá
cờ hai màu đỏ và đen, rồi gương mặt những người dân quân Tây Ban Nha, vâng,
trước hết là gương mặt những người dân quân, những người tôi đã từng gặp ngoài
mặt trận nhưng nay đã bị tan tác, có trời biết là đã lưu lạc đến những đâu, một
số đã hi sinh ngoài mặt trận, một số bị thương, có người bị tù đày, nhưng đa số
chắc là vẫn còn sống và mạnh khoẻ, tôi hi vọng thế. Cầu Chúa phù hộ cho họ. Hi
vọng rằng họ sẽ thắng và sẽ đuổi cổ được tất cả những người ngoại quốc ra khỏi
nước Tây Ban Nha. Đức, Nga hay Ý thì cũng thế. Cuộc chiến tranh này, phần đóng
góp của tôi quả là không đáng kể, đã để lại trong lòng tôi những kỉ niệm buồn,
nhưng tôi không ân hận là mình đã tham gia chiến đấu. Nhìn lại cái thảm hoạ này
– dù kết quả cuộc chiến có như thế nào đi chăng nữa thì nó vẫn là một thảm hoạ,
đấy là chưa nói đến cảnh giết chóc và đau khổ về mặt thể chất – tôi cũng không
hoàn toàn thất vọng và không muốn trở thành một kẻ ích kỉ. Thật thú vị là kinh
nghiệm vừa trải qua càng làm tôi tin tưởng hơn vào sự tử tế của con người. Tôi
hi vọng rằng câu chuyện của tôi không dẫn đến những sự hiểu lầm thái quá. Tôi
tin rằng chẳng có ai hoàn toàn khách quan khi nói về những vấn đề như thế này.
Thật khó mà khẳng định được bất cứ điều gì, ngoại trừ những điều chính mình đã
chứng kiến. Dù vô tình hay cố ý, người ta ai cũng có thái độ thiên vị cả. Nếu
bên trên tôi chưa kịp nói thì ở đây tôi xin được nói với độc giả như sau: xin
hãy thận trọng trước thái độ thiên vị, sai lầm và xuyên tạc không thể nào tránh
khỏi của tôi, vì tôi chỉ nhìn thấy một phần sự kiện mà thôi. Và xin bạn hãy có
thái độ thận trọng như thế khi bạn đọc bất cứ tác phẩm nào viết về cuộc chiến
tranh Tây Ban Nha trong giai đoạn đó.
Vì
luôn cảm thấy phải làm một điều gì đó, nhưng thực ra chúng tôi chẳng làm được
gì, chúng tôi đã rời Banyuls sớm hơn dự kiến. Càng lên phía bắc, nước Pháp càng
xanh hơn và mềm mại hơn. Chúng tôi đã rời xa khu vực đồi núi và những cánh đồng
trồng nho để quay về với đồng cỏ và rừng cây du. Khi tôi đi qua Paris để đến
Tây Ban Nha, thành phố này trông có vẻ tàn tạ và tối tăm, khác hẳn với Paris mà
tôi từng biết tám năm về trước, khi đời sống còn dễ chịu hơn và Hitler thì còn
chưa được ai nhắc tới. Một nửa trong số những quán café mà tôi thường lui tới
đã phải đóng cửa vì vắng khách, ai cũng bị ám ảnh bởi giá cả hàng hoá và chiến
tranh. Bây giờ, sau khi chứng kiến nước Tây Ban Nha tội nghiệp, ngay cả Paris
cũng có vẻ vui nhộn và đang ăn nên làm ra. Hội chợ triển lãm quốc tế đang ở
giai đoạn nào nhiệt nhất, nhưng chúng tôi đã tìm cách tránh, không đến thăm.
Và
sau đó là nước Anh - miền nam nước Anh có thể là vùng đất trù phú nhất thế
giới. Khi đi ngang qua vùng này, nhất là lúc đang tĩnh trí lại sau cơn say
sóng, thả lỏng người trên những tấm gối êm, thật khó tin rằng có chuyện gì đó
đang diễn ra ở một nơi nào đó. Động đất ở Nhật, nạn đói ở Trung Quốc, cách mạng
ở Mexico? Sáng mai người ta vẫn mang sữa đến đặt ngay trước cửa, còn tờ New
Statesman thì vẫn sẽ ra vào sáng thứ sáu, lo gì. Các thành phố công nghiệp
nằm ở rất xa, trái đất hình tròn cho nên nó đã che hết, không cho ta nhìn thấy
khói bụi và cảnh khốn cùng. Ngoài cửa sổ là nước Anh mà tôi đã biết từ thời thơ
ấu: hoa dại mọc đầy bên rìa đường xe lửa, những chú ngựa béo tốt bóng loáng
đang chậm rãi nhai cỏ trên những cánh đồng hoang, liễu rủ bên những dòng suối
lững lờ trôi, những cây du xum xuê cành lá, những hàng cây phi yến trong khuôn
viên những ngôi nhà nhỏ ở thôn quê, rồi sau đó là những khu rừng rậm bên ngoài
ngoại ô London, những chiếc phà trên dòng sông đục ngầu, những con phố quen,
những bảng quảng cáo về trận đấu cricket và đám cưới Hoàng gia, những người đàn
ông đội mũ nỉ, những chú bồ câu trên quảng trường Trafalgar, những chiếc xe ô
tô màu đỏ, những người cảnh sát mặc trang phục màu xanh da trời. Nước Anh đang
ngủ, đang ngủ rất say, đôi khi tôi lại có cảm giác sợ hãi, tôi sợ rằng chúng ta
sẽ chỉ giật mình tỉnh giấc khi có tiếng bom nổ ngay bên cạnh mà thôi.
HẾT
Dịch
theo: GEORGE ORWELL: “HOMAGE TO CATALONIA”: A NOVEL
First published by Secker and Warburg, GB, London, in April 25, 1938.
First published by Secker and Warburg, GB, London, in April 25, 1938.
Nguồn:
http://www.orwell.ru/library/novels/Homage_to_Catalonia/english/e_htc
____
____
[1] Người Ý à?
[2] Không,
người Anh. Còn anh?
[3] Người Ý.
[4] Đảng công
nhân thống nhất mác-xít, theo đường lối trái ngược với đường lối của Cộng sản
quốc tế do Liên Xô đứng đầu - ND.
[5] Tôi biết
sử dụng súng trường. Tôi không biết bắn súng cối. Tôi muốn học bắn súng cối. Lúc
nào chúng ta sẽ học súng cối?
[6] Ngày
mai.
[7] P.O.U.M
muôn năm! Bọn phát xít là lũ hèn nhát!
[8] Đảng xã
hội chủ nghĩa thống nhất vùng Catalonia .
[9] Liên đoàn
những người vô chính phủ Iberia .
[10] Văn hoá
- Tiến bộ hay Chúng ta sẽ - Bất khả chiến bại.
[11] Đứng lại!
Catalonia !
[12] Phát xít
hèn nhát!
[13] Tây Ban
Nha muôn Năm – Franco muôn năm!
[14] Đại tá
Blimp – cách nói chế giễu những người bảo thủ Anh.
[15] Liên
minh lao động toàn quốc.
[16] Tổng hiệp
hội công nhân.
[17] Liên đoàn
thanh niên cộng sản Iberia n
[18] Liên đoàn
thanh niên xã hội chủ nghĩa thống nhất
[19] Đảng
lao động độc lập (của Anh)
[21] Chính vì
thế mà trên mặt trận Aragon ,
nơi các đơn vị vô chính phủ đóng vai trò chủ đạo, có rất ít vũ khí của Liên Xô.
Đến tháng 4 năm 1937, vũ khí duy nhất là tôi thấy, nếu không kể máy bay cũng có
thể do Liên Xô sản xuất, là một khẩu súng máy.
[22] Cortes
- Quốc hội Tây Ban Nha
[23] Cuốn The
Spanish Cockpit của Franz Borkenau
mô tả rất rõ cuộc đấu tranh trong nội bộ liên minh cầm quyền. Đây là tác
phẩm thuyết phục nhất về cuộc chiến tranh Tây Ban Nha từ trước tới nay.
[24] Tháng
6 năm 1936 P.O.U.M. có 10.000 thành viên, tháng 12 năm 1936 có 70.000, tháng 6 năm
1937 có 40.000. Nhưng đây là số liệu chính thức do P.O.U.M. công bố, các đảng thù
địch với nó đưa ra số liệu ít hơn, theo tôi, phải đến 4 lần. Điều duy nhất có thể
nói một cách chắc chắn về số đảng viên, đấy là đảng nào cũng đưa vống số lượng
đảng viên lên.
[25] Nguyên
văn 4000 feet - ND
[26] Hàng trăm
yards (một yard dài 0,9144m) - ND
[27] Một số
người nói rằng các đội tuần tra công nhân đã cho đóng cửa 75% nhà chứa trong thành
phố.
[28] Nguyên
văn 5 yards – ND.
[29] Nguyên
văn một đến hai trăm yards – ND.
[30] Tổng
cục cảnh sát chính trị của Liên Xô – ND.
[31] Trong số ra gần đây, tờ Inprecor (cơ quan ngôn
luận của Ban chấp hành Comintern) tuyên bố hoàn toàn ngược lại rằng tờ La
Batalla ra lệnh cho các đơn vị của P.O.U.M. rời mặt trận! Có thể dễ dàng
kiểm tra nếu xem lại số báo La Batalla ra ngày hôm đó.
[32] Tờ New Statesman, ra ngày 14 tháng 5.
[33] Ngay khi cuộc chiến nổ ra lực lượng bảo vũ trang bap
giờ cũng chạy sang phía mạnh hơn. Sau này, thí dụ như ở Santander , nhiều lính bảo vệ vũ trang đã chạy
sang phía phát xít.
[34] coup
d'état – nguyên văn tiếng Pháp –
ND.
[35] Nguyên
văn: a mile – ND.
[36] Xem báo cáo của hai phái đoàn trên các tờ báo: Le
Populaire (ngày 7 tháng chín), Lalèche (ngày 18 tháng chính), Báo
cáo của phái đoàn Maxton được Independent News (219 Rue Saint-Denis,
Paris) và McGovern xuất bản thành cuốn sách Khủng
bố ở Tây Ban Nha.
[38] Đại tá,
chỉ huy lực lượng kĩ thuật, mặt trận phía Đông.
[39] Bức thư của Zinoviev, được báo chí Anh đăng vào tháng
10 năm 1924, được cho là chỉ thị của Quốc tế cộng sản về việc tiến hành tuyên
truyền cách mạng trong quân đội Anh và tổ chức khởi nghĩa ở nước Anh – ND.
[40] Không còn
thuốc lá – ND.
cám ơn chú, cháu sẽ dành thời gian để đọc tác phẩm này vào dịp 30-4 này.
ReplyDeleteQuá hay lun. Cảm ơn đã đăng.
ReplyDelete