Các vua
Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.” (Hồ Chí
Minh)
Vài lời phi lộ: Năm 2009
mỗ đã đăng bài này trên talawas.org và bauxitvn, nhưng mạng bauxitvn đã bị hack
nhiều lần, bài này nay đã không còn, còn talawas thì đã ngừng hoạt động từ đầu
năm 2010, chắc chẳng mấy người còn nhớ. Nay nhân dịp ngừng xây cảng Kê Gà và
mấy mỏ bauxite đến hồi đóng cửa, xin đăng lại để những ai quan tâm tới những ý
kiến phản biện hồi năm 2009 có thể tham khảo.
Từ
khá lâu rồi, chính xác là từ những năm 60 của thế kỉ trước các nhà khoa học đã
nhận thấy hậu quả nghiêm trọng về chính trị và kinh tế mà các nước giàu tài
nguyên thiên nhiên có thể gặp. Họ gọi đấy là “căn bệnh Hà Lan” hay là “lời
nguyền rủa của tài nguyên” để mô tả quá trình suy sụp của ngành công nghiệp,
hậu quả của những khoản thu nhập to lớn bất thình lình đổ về từ việc xuất khẩu
nguyên liệu, nhiên liệu thô, tức là xuất khẩu những nguồn tài nguyên không thể
tái sinh được. Thomas
L. Friedman viết:
Tại những
nước bị “bệnh Hà Lan” đồng nội tệ tự nhiên tăng giá đột ngột vì nguồn ngoại tệ
chảy vào từ việc bán dầu hoả, vàng, khí đốt, kim cương hay các nguồn nguyên
liệu khác. Kết quả là: hàng công nghiệp xuất khẩu không còn khả năng cạnh tranh
còn hàng nhập khẩu thì xuống giá trông thấy. Người dân rủng rỉnh tiền trong
túi, bắt đầu đổ xô đi mua hàng nhập khẩu, nền công nghiệp trong nước chết yếu –
đấy chính là quá trình suy sụp của nền công nghiệp. Thuật ngữ “lời nguyền rủa
của tài nguyên” cũng ám chỉ quá trình này, cũng nói về sự phụ thuộc vào nguồn
tài nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng đến đời sống chính trị của đất nước, ảnh
hưởng đến những ưu tiên về đầu tư và ưu tiên trong lĩnh vực giáo dục. Vấn đề
lúc đó sẽ là: ai có quyền vặn “van dầu” và ai được chia bao nhiêu phần của cái
bánh chứ không phải là làm thế nào bảo đảm được khả năng cạnh tranh hữu hiệu,
sáng kiến và sản xuất ra hàng hoá thực cho nhu cầu tiêu dùng thực nữa.
Hơn thế
nữa, Michael L. Ross, nhà chính trị học của Đại học California (Los Angeles),
sau khi nghiên cứu số liệu thống kê của 113 nước trong giai đoạn từ 1971 đến
1997, đã rút ra kết luận:
Nói
chung, quá chú ý đến việc xuất khẩu dầu mỏ và các khoáng sản khác là một trở
ngại đối với tiến trình dân chủ hoá đất nước, nhưng việc xuất khẩu các hàng hoá
khác lại không có hiệu ứng như thế; hiện tượng này được tìm thấy không chỉ ở
bán đảo Arab, Trung Đông và phía Nam sa mạc Sahara mà còn xảy ra ở cả các nước
nhỏ nữa.
Đấy chính
là qui luật thứ nhất của nền chính trị dựa trên dầu mỏ do Thomas L. Friedman
nêu ra:
Mức độ tự
do của các quốc gia dầu mỏ tỉ lệ nghịch với giá dầu. Theo qui luật thứ nhất của
nền chính trị dựa trên dầu mỏ thì giá dầu trung bình thế giới càng cao, tự do
ngôn luận, tự do báo chí, các thiết chế về bầu cử tự do và trung thực, tinh
thần thượng tôn pháp luật, sự độc lập của toà án và các đảng phái chính trị
càng mờ nhạt.
Nhưng thế
chưa phải là hết, bằng vào kinh nghiệm của nước Nga, Yury Afanasiev, nhà sử
học lỗi lạc, người sáng lập Trường Đại học Nhân văn Quốc gia Nga, còn viết:
Một khi
nhà nước tập trung chú ý vào nguyên liệu thô chứ không phải vào sản phẩm thì nó
cũng không cần đến dân chúng nữa. Nếu đất nước có “đường ống dẫn” và “vàng đen”
thì dân chúng trở thành gánh nặng và mối đe doạ tiềm tàng. Chế độ cho rằng lúc
nào nó cũng có thể mua chuộc được dân chúng. Nó không có nhu cầu thiết lập mối
quan hệ với dân chúng thông qua các định chế thông thường của một xã hội dân
chủ phát triển cao.
Tức là,
khác hẳn với những nước biết mình nghèo, biết mình không có nhiều tài nguyên
thiên nhiên, muốn phát triển thì phải khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.
Ở những nước đó, nước muốn mạnh thì dân phải giàu. Còn chính phủ của các nước
giàu tài nguyên thiên nhiên thì không cần như thế, chỉ cần bán tài nguyên thiên
nhiên là họ có đủ tiền để bảo đảm nuôi sống bộ máy quan liêu của mình và tiếp
tục giữ mãi nhân dân trong cảnh sống phi dân chủ, nhẫn nhục và tăm tối. Đấy
chính là lời nguyền rủa cay độc nhất của tài nguyên thiên nhiên. Chẳng cần phải
là người thông thái cũng có thể nhận ra chuyện đó. Chỉ cần nhìn vào những nước
như Nam Hàn, Singapore, Đài Loan, một bên và bên kia là những nước kia như
Iran, Iraq thì sẽ rõ.
Đấy là
những câu chuyện ở xa và đã có từ lâu. Còn đây là câu chuyện gần và mới, ông
Thứ trưởng Lê Dương Quang, trong một buổi trả lời phỏng vấn với phóng viên của
Cổng Chính phủ Online, ông cho rằng chúng ta (Việt Nam) phải tìm mọi cách khai
thác hết tiềm năng bauxite ở Tây Nguyên. Ngoài ra, trong khi tiếp xúc với cử
tri quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng (09/05/2009), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
khẳng định: “Tài nguyên nước ta hạn hẹp trong khi trữ lượng bauxite lớn thứ ba
thế giới, riêng ở Tây Nguyên trên 5 tỷ tấn” và sẽ “đưa ngành công nghiệp khai
thác quặng bauxite trở thành một ngành công nghiệp lớn của đất nước”. Lời của
ông Thứ trưởng và tái khẳng định của ông Thủ tướng, cũng là lời của một người
sang, tức là lời “có gang có thép”, nhất định phải trở thành hiện thực. Và như
thế, “căn bệnh Hà Lan” hay “lời nguyền rủa của tài nguyên” có lẽ sẽ trở thành
sự thật nhãn tiền trên đất nước này.
Nhưng lần
này “lời nguyền” còn cay độc hơn bội phần, bởi vì khai thác dầu khí hay vàng
không tạo ra hàng triệu tấn bùn đỏ nguy hại, không tạo ra nguy cơ ô nhiễm những
nguồn nước cung cấp cho hàng triệu người dân sống phía dưới hạ lưu, không đe
doạ huỷ diệt môi trường văn hoá và môi trường sống của hàng triệu cư dân bản
địa. Và nhất là không diễn ra ở những vùng chiến lược xung yếu của quốc gia…
Thiết nghĩ kể thêm nữa cũng bằng thừa, các nhà khoa học cùng với những người
hoạt động trong lĩnh vực văn hoá và quân sự đã nói quá đủ rồi.
La Thành đã viết rất đúng rằng: “Bauxite Tây Nguyên hoàn toàn
có thể là điểm khởi đầu cho một sự tan rã, không chỉ ở mức thể chế chính trị mà
ở tầm quốc gia – dân tộc”. Chỉ xin được bổ sung thêm: Nếu hồn thiêng sông núi
cùng với anh linh của các bậc tiền nhân và những lời can gián trung thực, đấy
khí phách và kiến thức của những người đang sống không buộc được những kẻ tham
lam và ngu xuẩn phải ngừng ngay dự định bán tống bán tháo tài nguyên quốc gia,
không bảo vệ được vùng Tây Nguyên xanh, một trong những tài sản quí giá nhất mà
cha ông đã để lại cho chúng ta thì quá trình Somali-hoá cái đất nước có hình chữ
S tươi đẹp này là việc hoàn toàn có thể xảy ra. Đấy chính là lời nguyền rủa tối
hậu đối với tất cả chúng ta. Vì đấy là “lời nguyền rủa mang tên Tây Nguyên”.
Thoáng
nhớ lại đâu đó câu thành ngữ “Ăn của rừng, rưng rưng nước mắt”!
Đã đăng
trên talawas blog http://www.talawas.org/?p=4635
cong san la 1 lu ngu dot, lao khoet... tham nhung, hoi lo, hut mau nhan dan muon nam.... ban luan con c gi voi may thang cong san !
ReplyDelete