11. Các thang bậc của cái Tôi
Nếu chúng ta có ý định làm một bản tổng quan về đời sống tinh thần của con người ngày nay trên cơ sở các tài liệu bổ xung lẫn nhau về tâm lí đám đông do nhiều tác giả đưa ra thì ta sẽ dễ dàng bị mất phương hướng và có khi mất luôn cả hi vọng tạo ra một tác phẩm hoàn bị. Mỗi một cá thể là thành viên của nhiều đám đông khác nhau; hắn chịu những mối ràng buộc đủ mọi loại sinh ra do đồng nhất hóa; hắn xây dựng cho mình những cái “Tôi”-lí tưởng theo những nguyên mẫu hoàn toàn khác nhau. Như vậy là mỗi cá nhân tham gia vào nhiều đám đông tâm lí khác nhau, tâm lí của chủng tộc, của đẳng cấp, của tôn giáo, của quốc gia v.v., ngoài ra, ở một mức độ nào đó hắn còn là người tự chủ và có cá tính riêng. Những đoàn thể ổn định và vững chắc nêu trên do ít thay đổi nên không thu hút nhiều sự chú ý như những đám đông tụ hội nhất thời mà dựa vào đó Le Bon đã ghi lại được cái đặc trưng nổi bật nhất của linh hồn đám đông và cũng trong đám đông ồn ào, mau tan rã đó, có thể nói trong cái đám đông bao trùm lên các đám đông khác đó đã xảy ra một hiện tượng lạ lùng: cái mà chúng ta vẫn gọi là cá tính đã biến mất (dù là tạm thời) không để lại chút dấu vết nào. Chúng ta cho đó là do cá nhân đã từ bỏ lí tưởng của mình và chấp nhận lí tưởng của đám đông, thể hiện trong người cầm đầu. Đúng ra phải nói rằng không phải trong mọi trường hợp điều lạ lùng đó đều xảy ra với cùng một mức độ như nhau. Sự chia tách cái “Tôi” khỏi “Tôi”-lí tưởng ở một số cá nhân chưa đủ rõ; cả hai còn dễ dàng cùng hiện diện, “Tôi” vẫn còn giữ được một phần ngã ái của mình. Nhờ đó mà sự lựa chọn người cầm đầu sẽ dễ dàng hơn nhiều. Thường thường thì người cầm đầu chỉ cần có những tính cách điển hình nhưng thể hiện được một cách rõ ràng và sắc nét của các cá nhân hợp thành đám đông, hắn ta phải tạo được cảm giác có uy và không bị ràng buộc về mặt tình cảm (libido), nhu cầu về một thủ trưởng đầy sức mạnh sẽ tự tìm đến với hắn, cái nhu cầu đó sẽ trao cho hắn một siêu quyền lực mà trước đó có thể hắn cũng không hề kì vọng tới. Bằng cách tự điều chỉnh, “Tôi”-lí tưởng của các cá nhân khác sẽ thể nhập vào bản ngã của hắn và các cá nhân đó do ám thị, nghĩa là đồng nhất hóa, mà cuốn hút theo hắn.
Tóm lại, lời giải thích mà chúng tôi đưa ra về cơ cấu libido của đám đông có thể rút gọn vào trong sự chia tách cái “Tôi” khỏi “Tôi”-lí tưởng và vì vậy mà có hai loại ràng buộc: đồng nhất hóa và thay thế “Tôi”-lí tưởng bằng đối tượng. Giả thiết về thang bậc đó trong cái “Tôi” như là bước đầu trong việc phân tích cái “Tôi” của con người phải dần dần tìm thấy sự khẳng định trong các lĩnh vực khác của tâm lí học. Trong bài báo Zur Einführung des Narzißmus [1] tôi đã thu thập tất cả các dữ kiện về mặt bệnh lí học làm cơ sở cho việc phân biệt đó. Chắc chắn là khi nghiên cứu sâu vào tâm lí học của bệnh loạn thần kinh (Psychose) ta sẽ thấy vai trò lớn hơn của ngã ái. Chúng ta phải nhớ rằng cái “Tôi” đóng vai trò của đối tượng trong quan hệ với “Tôi”-lí tưởng và có thể toàn bộ những quan hệ mà chúng tôi đã nghiên cứu trong lí thuyết về bệnh suy nhược thần kinh giữa đối tượng bên ngoài và toàn thể cái “Tôi” cũng sẽ lặp lại trên bình diện mới này trong cái “Tôi”.
Tôi muốn từ quan điểm ấy tiếp tục thảo luận một trong những hậu quả có thể xảy ra và như vậy là thảo luận một vấn đề mà tôi chưa giải quyết ở một chỗ khác [2] . Mỗi một sự phân hóa tâm thần mà ta đã làm quen lại gây thêm khó khăn cho chức năng tâm thần, làm nó thêm mất ổn định và có thể là khởi điểm của sự đình chỉ hoạt động, của bệnh tật. Chúng ta khi vừa sinh ra là ngay lập tức bước từ tình trạng ngã ái tự túc tụ mãn sang tình trạng tri giác thế giới luôn luôn biến đổi bên ngoài và bắt đầu quá trình tìm kiếm đối tượng; và kết quả là chúng ta không thể ở trong trạng thái này trong một thời gian lâu, chúng ta phải thường xuyên rời bỏ nó và trở về tình trạng không có kích thích như trước đây và lẩn tránh đối tượng trong giấc ngủ. Tất nhiên là chúng ta tuân theo chỉ dẫn của thế giới bên ngoài, cái thế giới tạm thời giải phóng chúng ta khỏi nhiều tác nhân bằng cách thay đổi theo chu kì ngày và đêm.
Trong quá trình phát triển từ bé tới lớn chúng ta chia toàn bộ thế giới nội tâm của ta thành cái “Tôi” nhất quán và cái vô thức nằm ngoài “Tôi”, bị chèn ép và chúng ta biết rằng sự ổn định của những thành phần mới được thiết lập này luôn luôn bị đe dọa. Trong giấc mơ và trong bệnh suy nhược thần kinh cái tôi vô thức vốn bị đẩy ra khỏi nhận thức của chúng ta tìm mọi cách phá cánh cửa được bảo vệ cẩn thận để đi vào tâm thức, còn trong khi tỉnh táo thì chúng ta sử dụng nhiều biện pháp, đánh lừa sức kháng cự để đưa phần bị dồn nén vào “Tôi” và giành được khoan khoái. Sự hóm hỉnh, hài hước và phần nào nghệ thuật khôi hài nói chung phải được xem xét từ quan điểm này. Những người có hiểu biết về tâm lí bệnh suy nhược thần kinh đều có thể tìm được những thí dụ tương tự dù rằng ở mức độ nhỏ hơn, nhưng tôi xin phép quay trở lại mục đích của chúng ta.
Chúng ta có thể tưởng tượng rằng sự phân li “Tôi”-lí tưởng khỏi “Tôi” không thể nào kéo dài lâu được mà đôi khi nhất định phải xảy ra quá trình ngược lại. Dù có đủ loại cấm đoán và hạn chế áp đặt lên “Tôi”, theo chu kì thường vẫn xảy ra sự chọc thủng những điều cấm đoán, các buổi hội hè lúc đầu chỉ là sự hỗn loạn mà pháp luật cấm và nhờ tính chất vui vẻ của ngày hội mà người ta tạm thời được giải phóng khỏi những cấm đoán thường nhật [3] . Những ngày hội của người La mã cổ cũng như những hội hóa trang ngày nay giống với hội hè của người tiền sử ở điểm chính yếu ở chỗ kết hợp giữa những chuyện trụy lạc và vi phạm những điều cấm kị thiêng liêng nhất. Nhưng “Tôi”-lí tưởng là tổng thể tất cả những hạn chế mà “Tôi” phải tuân theo vì vậy hủy bỏ lí tưởng là ngày hội lớn nhất của “Tôi” và khi đó “Tôi” sẽ cảm thấy tự hài lòng với chính mình.
Khi nào trong “Tôi” có một điều gì đó trùng với “Tôi”-lí tưởng thì ta có được cảm giác đắc thắng. Cảm giác tội lỗi (hay tự ti) có thể hiểu là sự thiếu nhất trí giữa “Tôi” với “Tôi”- lí tưởng. Trotter cho rằng dồn nén là sản phẩm của bản năng bầy đàn. Cũng một ý đó nhưng thể hiện hơi khác đi chứ hoàn toàn không mâu thuẫn khi tôi nói: thành lập lí tưởng là điều kiện thuận lợi cho dồn nén (Einführung des Narzißmus).
Như chúng ta đã biết, có những người mà tâm trạng dao động theo chu kì từ trầm cảm quá độ qua mức vừa phải rồi sang vui vẻ thái quá và trong thực tế thì sự dao động ấy lúc mạnh lúc yếu, có khi không rõ rệt nhưng có lúc lại quá mạnh; thể hiện dưới dạng trầm uất hay cuồng điên gây đau khổ và tàn phá cuộc đời người bệnh. Trong những trường hợp điển hình của hiện tượng rối loạn theo chu kì như thế dường như các nguyên cớ bên ngoài không đóng vai trò quan trọng, những nguyên nhân bên trong cũng không có gì khác biệt với những người khác. Bởi vậy người ta cho rằng đấy không phải là bệnh tâm thần. Những trường hợp rối loạn theo chu kì có thể dễ dàng qui cho có nguyên nhân thương tổn thần kinh sẽ được nói đến sau. Chúng ta chưa biết căn nguyên của những dao động tâm trạng bộc phát đó. Chúng ta không biết cơ chế chuyển từ trầm uất sang cuồng điên. Đối với những người này có thể giả thiết của chúng tôi về việc “Tôi”- lí tưởng tan vào “Tôi” trong khi trước đó nó lại quá khắt khe với “Tôi” có thể được áp dụng.
Để tránh mọi sự mơ hồ xin nhớ: trên cơ sở phân tích cái “Tôi” không còn nghi ngờ gì rằng ở người điên (maniaque) “Tôi” nhập làm một với “Tôi”- lí tưởng, người đó cảm thấy sung sướng vì không còn gì ngăn cản, e ngại, tự trách cứ và người đó ở trong trạng thái đắc thắng, tự thỏa mãn mà không bị bất kì sự tự chỉ trích nào phá quấy cả. Tuy không rõ như vậy nhưng hoàn toàn có thể là sự đau khổ của người trầm cảm là do sự chống đối kịch lệt giữa hai phần của cái “Tôi”. Trong sự chống đối này phần lí tưởng nhậy cảm lên án một cách quá khắt khe cái “Tôi” làm cho người bệnh tự hạ mình và tự hạ nhục. Chỉ còn một vấn đề chưa được giải quyết, đấy là có cần tìm nguyên nhân thay đổi quan hệ giữa “Tôi”- lí tưởng trong những phản kháng chu kì nêu trên hay là nguyên nhân nằm ở chỗ khác.
Việc chuyển sang tình trạng điên cuồng không phải là triệu chứng bắt buộc trong quá trình phát triển bệnh trầm cảm. Có những trường hợp trầm cảm đơn giản, một lần, cũng như có những trường hợp lặp lại theo chu kì nhưng không chuyển thành điên cuồng. Mặt khác có những trường hợp trầm cảm mà nguyên nhân bên ngoài là lí do gây ra bệnh. Đấy là những trường hợp trầm cảm do mất người thân, do bị chết hay do hoàn cảnh mà xảy ra quá trình thu hồi lại libido đã dành cho đối tượng. Các chứng trầm cảm tâm thần ấy cũng có thể chuyển thành điên cuồng và chu kì ấy lặp lại nhiều lần giống như tình trạng trầm cảm tự phát vậy. Như vậy là tình hình còn chưa rõ, hơn nữa cho đến nay phân tâm học mới chỉ phân tích một vài hình thức và một vài trường hợp trầm cảm [4] .
Cho đến nay chúng tôi mới hiểu rõ những trường hợp mà đối tượng bị từ bỏ vì tỏ ra không xứng đáng với tình yêu, sau đó cái “Tôi” tái tạo lại nó bằng cách đồng hóa còn “Tôi”-lí tưởng thì lại lên án gay gắt đối tượng. Những lời chỉ trích và thái độ thù địch với đối tượng được thể hiện dưới dạng tự chỉ trích theo kiểu trầm cảm. Nói đúng hơn: những lời chỉ trích ẩn sau sự chỉ trích chính cái “Tôi” của mình làm cho những chỉ trích ấy thành ra dai dẳng, không thể chối cãi và đấy là đặc trưng sự tự chỉ trích của người mắc bệnh trầm cảm. Hiện tượng chuyển sang điên cuồng có thể xảy ra ngay sau trạng thái trầm cảm đó, cho nên sự chuyển hóa này là dấu hiệu độc lập với những đặc trưng chủ yếu khác của căn bệnh.
Nhưng tôi không thấy có trở ngại gì khi chú ý đến chu kì phản kháng của cái “Tôi” chống lại cái “Tôi”-lí tưởng cho cả hai trường hợp trầm cảm, trầm cảm tâm thần và tự phát. Trong trường hợp trầm cảm tự phát có thể giả định rằng “Tôi”-lí tưởng quá nghiêm khắc với “Tôi”, kết quả là sau đó nó bị tạm thời thủ tiêu một cách tự động. Trong trường hợp trầm cảm tâm thần thì “Tôi” nổi loạn vì “Tôi”-lí tưởng coi thường nó, mà sự coi thường này là kết quả của việc đồng nhất hóa “Tôi” với đối tượng đã bị phủ nhận.
12. Phụ chú
Quá trình nghiên cứu mà nay chúng ta có thể tổng kết đã dẫn chúng ta đến một vài nhánh phụ trước đây chúng ta đã bỏ qua một bên nhưng cũng có liên hệ mật thiết với chúng ta. Ở đây chúng tôi muốn quay trở lại một vài điểm đã bỏ lại đó.
A
Sự khác nhau giữa “Tôi”- đồng nhất hóa và thay thế “Tôi”-lí tưởng bằng đối tượng sẽ tìm được lí giải tuyệt vời trong hai đám đông nhân tạo mà chúng ta đã nghiên cứu ngay đầu cuốn sách: quân đội và nhà thờ Công giáo.
Hẳn là người lính coi vị tổng chỉ huy của mình là nhân vật lí tưởng đồng thời đồng nhất mình với những người lính khác và từ cái “Tôi” chung đó xuất hiện trách nhiệm của những người đồng ngũ nghĩa là sự tương trợ và chia sẻ. Nhưng chàng ta sẽ trở thành trò cười cho thiên hạ nếu tự đồng nhất mình với vị tổng tư lệnh. Có một binh nhì trong trại Wallenstein đã chế giễu viên tiểu đội trưởng như sau: ”Ông ta có nhổ hay chùi mũi thì anh cũng bắt chước theo”.
Trong giáo hội Công giáo thì khác. Mọi con chiên đều yêu Jesus-Christ như yêu nhân vật lí tưởng của chính mình; do đồng nhất hóa mà hắn ta cảm thấy ràng buộc với những người đồng đạo khác. Ngoài ra hắn phải đồng nhất hóa với Jeus-Christ và yêu các đồng đạo vì Chúa cũng yêu họ. Như vậy là nhà thờ công giáo đòi hỏi trong cả hai trường hợp sự bổ túc libido sinh ra nhờ đám đông: đồng nhất hóa phải kèm theo lựa chọn đối tượng, còn tình yêu đối tượng phải kèm theo đồng nhất hóa. Điều này dĩ nhiên là vượt khỏi cơ cấu đám đông; người ta có thể là một con chiên ngoan đạo nhưng đồng thời không có ý đặt mình vào vị trí của Chúa và yêu mọi con chiên khác như Chúa đã làm. Một kẻ hữu sinh hữu tử bình thường không bao giờ dám gán cho mình sự cao thượng và sức mạnh của tình yêu của Chúa Cứu Thế. Nhà thờ công giáo kì vọng tạo ra nền luân lí cao cả nhờ khuyến khích sự phát triển tình cảm đó.
B
Chúng ta đã nói rằng có thể chỉ ra thời kì phát triển từ tâm lí đám đông đến tâm lí cá nhân trong quá trình phát triển tâm hồn nhân lọai.
Những điều trình bày dưới đây là kết quả trao đổi với ông Rank.
Bây giờ xin trở về huyền thoại về người cha của bày ô hợp nguyên thủy. Người cha đó sau này được phong là người tạo ra thế giới, điều đó cũng đúng, vì hắn tạo ra tất cả bày con lập thành đám đông thứ nhất. Hắn là nhân vật lí tưởng của tất cả các con, chúng vừa kính trọng vừa sợ hắn, đó là nguồn gốc của khái niệm cấm kị (tabu) sau này. Một ngày kia đám con xúm lại giết cha, hành hạ cha mình. Không một kẻ nào trong đám đông chiến thắng có thể chiếm được địa vị của cha, mà nếu có kẻ làm được điều đó thì cuộc chiến sẽ lặp lại cho đến khi bọn chúng hiểu rằng chúng phải đoạn tuyệt với di sản của cha. Họ thành lập cộng đồng huynh đệ vật tổ (totem) liên kết bằng quyền lợi và những điều cấm kị như nhau, những cấm kị đó lưu lại kí ức về tội ác và và họ phải ăn năn chuộc tội. Nhưng sự bất mãn với tình trạng vừa được tạo ra vẫn còn và đấy là nguồn gốc của những thay đổi về sau. Những người liên kết vào cộng đồng huynh đệ tiến dần đến việc thiết lập tình trạng cũ theo một lối mới, đàn ông trở thành chủ gia đình và không còn công nhận uy quyền của người đàn bà được thiết lập trong giai đoạn vắng cha nữa. Để bù lại đàn ông công nhận thần linh mẫu hệ, nhằm bảo vệ mẹ mà các thày tư tế thờ phụng thần linh đã bị hoạn. Họ theo gương người cha nguyên thủy, nhưng gia đình mới này chỉ là cái bóng của gia đình cũ vì bây giờ có nhiều cha quá và quyền của người này bị hạn chế bởi quyền của người khác.
Nỗi buồn vắng cha có thể thúc đẩy cá nhân giải thoát khỏi đám đông và chiếm chỗ của cha. Đấy là thi sĩ anh hùng ca, hắn làm được điều đó trong trí tưởng tượng của mình. Thi nhân biến đổi thực tại theo ước muốn của y. Y tạo ra người anh hùng huyền thoại. Người anh hùng là kẻ tự giết cha, một người cha đóng vai quỉ sứ vật tổ trong huyền thoại. Nếu người cha là nhân vật lí tưởng của đứa trẻ thì thi nhân tạo ra trong người anh hùng cái “Tôi”-lí tưởng đầu tiên thế chỗ cho cha. Đứa con út, kẻ được mẹ yêu mến và bảo vệ khỏi sự ghen ghét của cha, kẻ kế vị cha trong thời tiền sử có thể là một người hùng. Trong sự thi vị hóa sai lầm thời tiền sử thì người đàn bà vốn chỉ là sự cám dỗ và phần thưởng sau cuộc chém giết đã trở thành nguyên nhân và kẻ xúi giục của tội ác.
Huyền thoại gán cho người anh hùng hành động mà dĩ nhiên là chỉ có toàn bộ bầy đàn mới thực hiện nổi. Theo Rank thì huyền thoại dù sao vẫn giữ được các dấu tích của các sự kiện đã bị che khuất. Thí dụ huyền thoại thường kể rằng người anh hùng phải làm một việc cực kì khó khăn (đa số trường hợp thì đấy là người con út, hắn thường giả vờ khờ khạo nghĩa là làm ra vẻ không nguy hiểm đối với bố) và hắn chỉ hoàn thành nhiệm vụ nhờ sự trợ giúp của các con vật nhỏ như ong, kiến. Đấy chính là những người anh em trong bầy ô hợp nguyên thủy, cũng giống như trong biểu tượng của giấc mơ, sâu bọ, côn trùng tượng trưng cho anh chị em (khinh bỉ như trẻ con). Ngoài ra, có thể nhận ra một cách dễ dàng những hành vi trong truyện cổ tích và huyền thoại tượng trưng cho hành động anh hùng.
Như vậy là huyền thoại là bước đi mà nhờ nó con người thoát khỏi tâm lí đám đông. Huyền thoại đầu tiên chắc chắn phải là huyền thoại tâm lí, huyền thoại anh hùng ca; huyền thoại về vũ trụ phải xuất hiện sau rất nhiều. Cũng theo Rank thì người thi sĩ, sau khi làm được bước đó, nghĩa là giải phóng khỏi đám đông trong trí tưởng tượng của mình lại biết cách quay về với đám đông đó. Y quay về với đám đông và kể cho họ nghe về những chiến công của người anh hùng do y sáng tạo ra. Người anh hùng ấy chẳng phải ai khác mà chính là thi nhân.
Như vậy là thi nhân hạ xuống ngang tầm thực tại và nâng người nghe lên ngang tầm trí tưởng tượng. Còn người nghe lại hiểu thi sĩ, họ có thể tự đồng hóa với người anh hùng trên cơ sở quan hệ cuồng nhiệt với người cha nguyên thủy [5] .
Sự giả dối của huyền thoại đạt đến cực điểm trong việc thần thánh hóa người anh hùng. Có thể người anh hùng được thần thánh hóa có trước cả người cha thần thánh, và báo trước ngày trở về của người cha thần thánh. Các thần được xếp theo thứ tự thời gian như sau: Nữ thần-mẹ, anh hùng, ông trời-cha. Chỉ với sự trở về của người cha nguyên thủy mà loài người không bao giờ quên thì ông trời mới có những nét đặc trưng mà chúng ta còn thấy ngày nay.
Trong tác phẩm ngắn này chúng tôi đành phải bỏ qua nhiều tài liệu có trong huyền thoại, truyện cổ tích, lịch sử phong tục… mà có thể sử dụng làm căn cứ cho giả thuyết trên.
C
Chúng tôi đã nói nhiều về khao khát dục tính trực tiếp và khao khát dục tính bị ngăn chặn hiểu theo nghĩa mục đích và hi vọng rằng không gặp quá nhiều chống đối. Nhưng thảo luận một cách chi tiết vấn đề này cũng không phải là vô ích dù có lặp lại một vài điều đã được nói tới ở trên.
Thí dụ đầu tiên và cũng là rõ nhất về khao khát dục tính bị ngăn chặn hiểu theo nghĩa mục đích là sự phát triển libido của đứa trẻ. Tất cả những tình cảm mà đứa trẻ dành cho cha mẹ hay người chăm nom nó chỉ là những ước muốn cho phép khao khát dục tính bộc lộ ngay tức thời. Đứa trẻ đòi hỏi người thân mọi hình thức âu yếm mà nó biết: nó muốn hôn họ, đụng chạm vào họ, nhìn ngắm họ, nó thích nhìn bộ phận sinh dục của họ và muốn có mặt khi họ bài tiết, nó hứa sẽ cưới mẹ nó hay cưới bà vú, nó dự định tặng cho cha nó một đứa con v.v. Sự quan sát trực tiếp cũng như các phân tích gần đây về các vết tích tuổi thơ cho chúng tôi biết chắc rằng có sự hòa trộn giữa những tình cảm như âu yếm và ghen tuông với những khao khát dục tính. Sự quan sát và phân tích ấy chứng tỏ rằng đứa trẻ lấy người thân của nó làm đối tượng của các ham muốn dục tính vẫn còn chưa định hình hoàn toàn (xem Sexualtheorie).
Hình thức yêu đương đầu tiên của đứa trẻ liên hệ mật thiết với mặc cảm Ơđíp, sau này, vào giai đoạn tiềm ẩn sẽ bị dồn nén. Theo chúng tôi thì sau khi bị dồn nén, tình cảm với những người thân chỉ còn lại là lòng trìu mến, và tình cảm đó không thể nào gọi là dục tính được nữa. Môn phân tâm học nghiên cứu chỗ sâu kín của tâm hồn con người có thể dễ dàng chứng minh rằng các mối liên hệ dục tính của những năm thơ ấu vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng chúng bị dồn nén và trở thành vô thức. Phân tâm học cũng cho ta sự dũng cảm để khẳng định rằng ở mọi nơi tình âu yếm chỉ là sự tiếp nối của mối liên kết dục tính đối với cá nhân tương ứng hoặc với nguyên mẫu của người đó (imago). Phân tâm học, dĩ nhiên là phải cần một cuộc khảo sát đặc biệt, cũng cho chúng ta biết rằng trong trường hợp cụ thể nào đó thì khao khát dục tính trực tiếp cũ đang ở trong tình trạng bị dồn nén hay đã bị triệt tiêu hẳn. Nói một cách rõ hơn: đã xác định một cách chắc chắn rằng nhân một sự thoái lui nào đó thì nó lại có thể được kích hoạt; vấn đề (không phải lúc nào cũng dễ giải quyết) chỉ còn là trong hiện tại hoạt độ và sức mạnh của nó đến đâu. Ở đây cần phải tránh cả hai sai lầm; đấy là đánh gía thấp cái vô thức bị dồn nén và xu hướng dùng thước đo bệnh lí để đánh giá các trường hợp bình thường.
Môn tâm lí học không muốn và không thể thâm nhập vào các tầng sâu của những cái bị dồn nén, cho rằng trong mọi trường hợp tình âu yếm là biểu hiện của những ham muốn không có màu sắc dục tính mặc dù chúng xuất phát từ các mối ràng buộc mang mầu sắc dục tính. Thái độ thù địch tuy có cơ cấu phức tạp hơn nhưng cũng không nằm ngoài thông lệ này.
Chúng ta có quyền nói rằng các ham muốn đó đã chệch khỏi mục tiêu dục tính trực tiếp tuy khó mà mô tả sự lệch hướng ấy cho phù hợp với đòi hỏi của môn tâm lí siêu hình. Tuy nhiên các ham muốn tính dục bị ngăn chặn hiểu theo nghĩa mục đích vẫn còn giữ được một số mục tiêu ban đầu. Người ta vẫn tìm sự gần gũi xác thịt với người mà mình yêu mến, với bạn bè và với thần tượng, người ta muốn được nhìn thấy người mà mình yêu mến “theo tinh thần tình yêu thương của Thánh Paul”. Chúng ta có thể coi sự cải đổi mục tiêu này là sự thăng hoa của ham muốn dục tính hay sự mở rộng phạm vi của nó. Đứng về phương diện chức năng thì ham muốn dục tính bị cản trở có lợi hơn ham muốn không bị cản trở, vì ham muốn bị cản trở không thể được thỏa mãn hoàn toàn nên có thể tạo ra những mối ràng buộc lâu bền trong khi các ham muốn dục tính trực tiếp mất động lực sau mỗi lần thỏa mãn và phải chờ một thời gian cho sự tích tụ libido dục tình, trong thời gian đó đối tượng có thể bị thay đổi. Ham muốn dục tính bị cản trở có thể hòa trộn với ham muốn không bị cản trở theo mọi tỉ lệ, có thể biến đổi ngược lại thành ham muốn không bị cản trở như nó đã từng thoát thai từ ham muốn này. Ai cũng biết những trường hợp chuyển từ quan hệ thân ái dựa trên cơ sở của lòng kính trọng và ngưỡng mộ thành quan hệ tình ái như giữa thày và trò, giữa nghệ sỹ và người hâm mộ, đặc biệt là ở phái nữ. Sự xuất hiện các mối liên hệ đó, những mối liên hệ mà khởi kì thủy không có mục đích dục tính cho ta thấy một cách trực tiếp phương pháp quen thuộc trong việc lựa chọn đối tượng dục tình. Trong bài báo “Lòng mộ đạo của hầu tước Zizendorf”, Pfister đã đưa ra thí dụ tuyệt vời và dĩ nhiên là không phải đơn lẻ rằng ngay cả sự ràng buộc mạnh mẽ về mặt tôn giáo cũng dễ trở thành ham muốn dục tính bồng bột đến mức nào. Mặt khác, sự chuyển từ ham muốn dục tính trực tiếp ngắn hạn thành sự cảm mến thuần túy bền bỉ là hiện tượng thường thấy và sự chuyển đổi đó chính là nền tảng cố kết các cuộc hôn nhân trên cơ sở một mối tình cuồng nhiệt, đắm say.
Dĩ nhiên chúng ta cũng không ngạc nhiên khi thấy những ham muốn dục tính trực tiếp biến thành các ham muốn bị cản trở hiểu theo nghĩa mục đích trong trường hợp có các cản trở bên trong hoặc bên ngoài ngăn chặn việc đạt mục tiêu. Sự dồn nén trong giai đoạn tiềm ẩn là cản trở bên trong hay nói đúng hơn trở thành bên trong. Khi nói về người cha của bầy ô hợp nguyên thủy chúng tôi đã giả định rằng hắn đã buộc các con mình phải tiết chế và bằng cách đó tạo ra sự ràng buộc bị ngăn chặn hiểu theo nghĩa mục đích, trong khi đó chính hắn vẫn được tự do thỏa mãn nhục dục và như vậy là không bị ràng buộc. Tất cả các mối ràng buộc của cá nhân trong đám đông cũng có đặc trưng của các ham muốn bị ngăn chặn hiểu theo nghĩa mục đích. Như vậy là chúng ta đã tiến gần đến việc thảo luận một đề tài về ham muốn dục tính trực tiếp trong đám đông.
Hai nhận xét trên đây cho chúng ta thấy rằng khao khát dục tính trực tiếp bất lợi cho đám đông. Mặc dù trong lịch sử phát triển gia đình đã từng tồn tại hiện tượng quần hôn, nhưng tình yêu giới tính càng có ý nghĩa với cái “Tôi” nó càng đòi hỏi giới hạn giữa hai người – una cum uno, - được thiên nhiên chỉ định cho mục tiêu sinh sản. Xu hướng đa hôn khi đó đành phải được thỏa mãn bằng việc thay thế thường xuyên đối tượng dục tình.
Hai người tìm đến với nhau để cùng được thỏa mãn dục tình thể hiện sự chống lại bản năng bầy đàn, chống lại ý thức tập thể: họ tìm đến nơi cô tịch. Hai người càng yêu nhau càng làm cho nhau thỏa mãn nhiều hơn. Sự chống lại ảnh hưởng của đám đông được biểu lộ dưới hình thức xấu hổ. Những xúc động mãnh liệt gây ra bởi lòng ghen là để bảo vệ người mình lựa chọn khỏi sự những sự xúc phạm do những ràng buộc với đám đông mang lại. Quan hệ tình dục của một cặp này trước mặt cặp khác hay là việc làm tình tập thể (gọi là hội phóng dục “orgie”) chỉ có thể xảy ra khi yếu tố cá nhân tức tình thương mến đã bị yếu tố nhục dục đẩy xuống hàng thứ yếu. Nhưng đây chính là sự thoái hóa trở về tình trạng quan hệ tính dục cổ sơ, khi ái tình không có tí ý nghĩa gì, mọi đối tượng dục tình đều được coi ngang nhau hay gần ngang nhau, như Bernard Show đã nói một cách độc địa: “yêu nghĩa là phóng đại vô chừng sự khác biệt giữa người đàn bà này với người đàn bà khác”.
Có nhiều chỉ dấu cho thấy rằng mãi sau này ái tình mới thâm nhập vào quan hệ dục tình giữa đàn ông và đàn bà, như vậy nghĩa là sự đối lập giữa tình yêu trai gái và ràng buộc với đám đông cũng xuất hiện muộn. Có thể có cảm giác rằng giả thiết trên không phù hợp với với huyền thoại về gia đình nguyên thủy của chúng tôi. Tình yêu với mẹ và các chị em gái là nguyên động lực thúc đẩy bày anh em trai xúm lại giết cha mình và thật khó mà tưởng tượng được rằng đấy không phải là tình yêu nguyên thủy nghĩa là nó phải hàm chứa cả lòng thương yêu trìu mến và ham muốn xác thịt. Nhưng phân tích kĩ thì thấy rằng điều giả định trên đây chính là sự khẳng định. Một trong những phản ứng dẫn đến việc giết cha là thiết lập chế độ ngoại hôn, nghĩa là cấm mọi quan hệ tình dục với những người đàn bà trong cùng một gia đình, những người mà đứa bé trai từng yêu thương trìu mến ngay từ thuở ấu thơ. Bằng cách đó, người ta đã tách khía cạnh thương mến ra khỏi những ham muốn nhục dục và sự chia tách đó còn tồn tại vững chắc cho đến ngày nay [6] . Kết quả của tục ngoại hôn là nhu cầu nhục dục của người đàn ông phải được thỏa mãn bằng những người đàn bà xa lạ, chưa từng được họ yêu thương.
Trong phần lớn các đám đông nhân tạo, như trong quân đội và nhà thờ, không có chỗ cho đàn bà như là đối tượng dục tình. Quan hệ yêu đương nam nữ nằm ngoài các tổ chức đó. Ngay cả trong các tổ chức gồm cả đàn ông và đàn bà thì sự khác biệt về giới tính cũng không có vai trò gì. Không có vấn đề tìm hiểu xem cái libido duy trì sự đoàn kết đám đông mang bản chất đồng tính ái hay lưỡng tính ái vì nó không phân chia theo giới cũng không phải ám chỉ cơ cấu giới tính của libido.
Những khao khát dục tính trực tiếp vẫn giữ được ở mức độ nào đó tính cách cá nhân ở cả những người đã bị tan trong đám đông. Nơi nào mà các khao khát này phát triển mạnh lên thì chúng có thể làm đám đông tan rã. Giáo hội công giáo có những lí do xác đáng khi khuyên răn đạo hữu sống độc thân và buộc thày tu chay tịnh, nhưng ái tình thường là động lực đưa tu sĩ đến chỗ phá giới. Tương tự như vậy, tình yêu với người đàn bà có thể phá vỡ những ràng buộc về chủng tộc, biên giới quốc gia, phân chia giai cấp và nhờ vậy đã có đóng góp quan trọng vào nền văn minh. Không nghi ngờ gì rằng đồng tính ái dễ dàng dung hợp với các ràng buộc với đám đông ngay cả khi nó thể hiện như những khao khát không bị ngăn chặn. Đó là một sự kiện dị thường, nhưng không thể giải thích được ở đây vì nó sẽ dẫn chúng ta đi quá xa.
Nghiên cứu tâm lí các trường hợp suy nhược thần kinh đã cho chúng tôi nhận thức rằng triệu chứng bệnh bắt nguồn từ các khao khát bị dồn nén nhưng vẫn còn sức hoạt động. Công thức này có thể được bổ túc thêm: các triệu chứng là sản phẩm của những khao khát bị cản trở theo nghĩa mục đích nhưng cản trở đã không thành công và xảy ra hiện tượng quay trở lại với mục tiêu dục tính đã bị dồn nén.
Điều đó cắt nghĩa tại sao chứng suy nhược thần kinh làm cho người ta ác cảm với xã hội và tách khỏi những tập thể quen thuộc của họ. Có thể nói rằng giống như tình yêu, chứng suy nhược thần kinh là yếu tố làm tan rã đám đông. Bởi vậy có thể thấy bất cứ nơi mà có tác nhân tạo lập đám đông mạnh thì nơi đó chứng suy nhược thần kinh giảm hay tạm thời biến mất trong một thời gian. Đã có một số thử nghiệm, không phải không có cơ sở, lợi dụng sự xung khắc giữa bệnh suy nhược thần kinh và đám đông như một phương tiện để chữa bệnh. Ngay cả những người không hề lấy làm tiếc về việc biến mất các ảo tưởng tôn giáo khỏi nền văn minh hiện đại cũng phải công nhận rằng các ảo tưởng đó là một phương tiện bảo vệ hữu hiệu những người gắn kết với tôn giáo khỏi bệnh suy nhược thần kinh. Dễ dàng nhận thấy rằng việc gia nhập những tổ chức tôn giáo thần bí hay triết lí thần bí cũng là một cách chữa gián tiếp các chứng suy nhược thần kinh. Tất cả những điều đó đều liên quan đến sự đối lập giữa những khao khát dục tính trực tiếp và khao khát bị ngăn chặn theo nghĩa mục đích.
Người suy nhược thần kinh bị tách ra khỏi đám đông sẽ phải dùng các triệu chứng bệnh hoạn để thay thế cho những đám đông ấy. Họ tưởng tượng ra một thế giới huyễn hoặc của riêng mình, một tôn giáo riêng, một hệ thống đầy hoang tưởng và như vậy là họ tạo ra những định chế của xã hội loài người dưới dạng méo mó, chứng tỏ sự tham gia một cách mạnh mẽ của các khao khát dục tính trực tiếp [7] .
D
Để kết thúc chúng ta sẽ đưa ra các đánh giá xét từ quan điểm lí thuyết libido những trạng thái mà chúng ta đã nghiên cứu: trạng thái ái tình, thôi miên, đám đông và suy nhược thần kinh.
Ái tình là đồng thời tồn tại khao khát dục tính trực tiếp và khao khát bị ngăn chặn hiểu theo nghĩa mục đích, trong đó đối tượng thu hút một phần libido ngã ái của cái “Tôi”. Trong tình yêu chỉ tồn tại “Tôi” và đối tượng.
Thôi miên giống ái tình ở điểm giới hạn trong hai người, nhưng nó hoàn toàn dựa trên những khao khát dục tính bị ngăn chặn hiểu theo nghĩa mục đích và đặt đối tượng vào “Tôi”- lí tưởng.
Đám đông khuyếch đại quá trình đó; nó giống thôi miên ở bản chất các ham muốn đóng vai trò cố kết và thay thế “Tôi”-lí tưởng bằng đối tượng, nhưng trong đám đông còn có thêm sự đồng nhất hóa với các cá nhân khác, sự đồng nhất hóa này xảy ra là do mọi người có cùng thái độ với đối tượng.
Cả hai trạng thái, thôi miên và đám đông, đều là dấu vết di truyền của cái libido nhân loại khởi từ uyên nguyên của nó; thôi miên là xu hướng tự nhiên còn đám đông là tàn dư trực tiếp. Trong cả hai trường hợp việc thay thế các khao khát dục tính trực tiếp bằng các khao khát bị ngăn chặn hiểu theo nghĩa mục đích đều tạo điều kiện thuận lợi cho việc tách “Tôi” khỏi “Tôi”- lí tưởng; sự phân tách đó đã bắt đầu từ trạng thái ái tình.
Bệnh suy nhược thần kinh nằm ngoài các hiện tượng kể trên. Suy nhược thần kinh phát xuất từ đặc thù của sự phát triển của cái libido nhân loại, phát xuất từ sự đứt quãng của khởi điểm kép, trong giai đoạn tiềm ẩn, của chức năng dục tính trực tiếp [8] . Về khía cạnh này thì suy nhược thần kinh có chung tính chất thoái hóa với trạng thái thôi miên và đám đông, một tính chất mà ái tình không có. Suy nhược xảy ra khi sự chuyển đổi từ các khao khát dục tính trực tiếp sang các khao khát bị ngăn chặn hiểu theo nghĩa mục đích không thực hiện được hoàn hảo, nó là kết quả của cuộc xung đột giữa những ham muốn đã nhập vào cái “tôi” và tạo ra sự phát triển nêu trên và những phần của các ham muốn thoát ra từ vô thức và đòi hỏi thỏa mãn trực tiếp (cũng như các ham muốn đã bị dồn nén hoàn toàn khác). Bệnh suy nhược thần kinh có nội dung vô cùng phong phú vì nó bao gồm tất cả các mối quan hệ giữa “Tôi” và đối tượng: các quan hệ trong đó đối tượng được giữ nguyên vẹn, cũng như các quan hệ mà đối tượng đã không còn hay trong đó đối tượng chính là “Tôi”, ở đây còn bao gồm cả những quan hệ xung đột giữa “Tôi” và “Tôi”-lí tưởng.
Dịch xong tháng 5 năm 2001
© 2005 talawas
[1]Jahrbuch der Psychoanalyse, VI 1914 - Sammlung kleiner Schriften zur Neurosenlehre, IV.
[2]Trauer und Melancholie, Internat. Zeischr. f. Psychoanalyse” IV 1916-1918, Sammlung kleiner Schriffen zur Neurosenlehre, IV.
[3]Vật tổ và cấm kị, Sigmund Freud
[4]Abraham: Ansätze zur pychoanalytischen Erforschung und Behandlung des manisch-depressiven Irreseins, 1912 trong “Klinische Beiträge zur Psychoanalyse”, 1921.
[5]Hans Sachs: Gemeinsame Tagträume. Autoreferat eines Vortrags auf dem VI psychoanalytischen Kongreß in Haag, 1920. “Internat. Zeitsch. für Psychoanalyse”, VI, 1920.
[6]Über die allgemeinste Erniedrigung des Liebeslebens, 1912. “Sammlung Kleiner Schiften zur Neurosenlehre” IV.
[7]Vật tổ và cấm kị, Sigmund Freud
[8]Sexualtheorie
[2]Trauer und Melancholie, Internat. Zeischr. f. Psychoanalyse” IV 1916-1918, Sammlung kleiner Schriffen zur Neurosenlehre, IV.
[3]Vật tổ và cấm kị, Sigmund Freud
[4]Abraham: Ansätze zur pychoanalytischen Erforschung und Behandlung des manisch-depressiven Irreseins, 1912 trong “Klinische Beiträge zur Psychoanalyse”, 1921.
[5]Hans Sachs: Gemeinsame Tagträume. Autoreferat eines Vortrags auf dem VI psychoanalytischen Kongreß in Haag, 1920. “Internat. Zeitsch. für Psychoanalyse”, VI, 1920.
[6]Über die allgemeinste Erniedrigung des Liebeslebens, 1912. “Sammlung Kleiner Schiften zur Neurosenlehre” IV.
[7]Vật tổ và cấm kị, Sigmund Freud
[8]Sexualtheorie
Nguồn: Bản tiếng Nga: З. Фрейд. «Психология масс и анализ человеческого «Я», издательство «Современные проблемы», Н. А. Столляр, М., 1926), http://www.frejd-zigmund.viv.ru/cont/freud/31.html và các trang tiếp theo
Đã đăng trong tác phẩm Gustave Le Bon – Tâm lý học đám đông do Nguyễn Xuân Khánh dịch, nhà xuất bản Tri Thức ấn hành quý III năm 2009.
No comments:
Post a Comment