9. Bản năng bầy đàn
Chúng ta sẽ chẳng hài lòng được lâu với cách giải quyết huyễn hoặc bí mật về đám đông bằng công thức trên. Ý nghĩ rằng thực ra chúng ta đã dựa vào bí ẩn của thôi miên, mà thôi miên thì cũng còn biết bao điều chưa rõ lại làm chúng ta không yên. Và như vậy là lại xuất hiện vấn đề đòi hỏi phải nghiên cứu tiếp.
Chúng ta phải nói ngay rằng những mối liên kết tình cảm của đám đông mà chúng ta đã nói tới cũng đủ để để giải thích một trong các đặc điểm của nó: cá nhân thiếu độc lập và sáng kiến, hành động a dua, có thể nói là sự thoái hoá cá nhân thành một đơn vị của đám đông. Nhưng đám đông, nếu xét tổng thể, còn thể hiện những đặc điểm như: họat động trí tuệ thấp, dễ khích động, không có khả năng tự chế và trì hoãn, có xu hướng vượt giới hạn trong biểu lộ tình cảm và chuyển những tình cảm này thành hành động - tất cả những đặc điểm ấy và cả những đặc điểm khác nữa đã được Le Bon mô tả rất rõ ràng - cho ta một bức tranh về sự thoái hoá tinh thần trở lại thang bậc thấp hơn như ta ta thường thấy ở trẻ con và người tiền sử. Sự thoái hoá đặc biệt rõ ở những đám đông bình thường, còn ở những đám đông nhân tạo, có tổ chức cao thì sự thoái hoá không đến mức sâu sắc như vậy.
Như vậy là chúng ta có cảm giác rằng đấy là trạng thái mà những kích thích tình cảm và hoạt động trí tuệ của từng cá nhân quá yếu, không thể tự thể hiện một cách riêng rẽ được mà nhất định phải chờ tiếp ứng dưới dạng lặp lại một cách đồng loạt ở những người khác. Ta phải nhớ rằng trong xã hội loài người có quá nhiều hiện tượng phụ thuộc như vậy, có quá ít sự độc đáo và lòng can đảm riêng, và mỗi người đều bị tâm lí đám đông chi phối rất mạnh, biểu hiện trong đặc điểm về chủng tộc, trong các thành kiến giai cấp, dư luận xã hội v.v. Bí mật của ảnh hưởng ám thị càng tăng lên khi chúng ta khẳng định rằng ảnh hưởng ấy không chỉ tác động từ người cầm đầu mà còn do từng người tác động lẫn nhau, thì chúng ta phải tự trách mình vì đã nhấn mạnh một chiều quan hệ với người cầm đầu mà không chú ý gì đến tác nhân khác là hỗ tương ám thị.
Chúng ta hãy khiêm tốn lắng nghe một giọng nói khác, giọng nói sẽ đưa ra cho chúng ta lời giải thích trên một cơ sở đơn giản hơn. Tôi xin mựơn lời giải thích từ cuốn sách viết về bản năng bầy đàn của ông W. Trotter [1] , chỉ tiếc là cuốn sách đã không hoàn toàn tránh được mối ác cảm do cuộc Đại chiến vừa rồi gây ra (Cuộc đại chiến thế giới thứ nhất 1914-1918 – ND).
Trotter cho rằng những hiện tượng tinh thần vừa mô tả là sản phẩm của bản năng bầy đàn (gregariousness) bẩm sinh của con người cũng như các loài động vật khác. Về mặt sinh học thì tính chất bầy đàn đó có thể coi là sự tiếp tục của cơ chế đa bào, còn trong lý thuyết libido thì nó là biểu hiện của một khuynh hướng của libido, khuynh hướng tập hợp tất cả các sinh vật sống giống nhau thành một đơn vị to lớn hơn [2] . Mỗi cá thể đều cảm thấy mình chưa toàn vẹn (incomplete) khi đứng một mình. Nỗi sợ hãi của đứa trẻ là biểu hiện của bản năng bầy đàn này. Chống lại bầy cũng có nghĩa là bị chia lìa khỏi bầy nên việc chống đối thường bị né tránh vì sợ hãi. Nhưng bầy đàn lại phủ nhận bất cứ cái gì là mới mẻ, chưa quen. Bản năng bầy đàn là bản năng nguyên thuỷ, không còn phân tích ra nhỏ hơn được nữa (it cannot be split up).
Trotter dẫn ra một một loạt dục vọng (hay là bản năng) mà ông coi là nguyên thuỷ: bản năng bảo tồn, bản năng dinh dữơng, bản năng tính dục và bản năng bầy đàn. Bản năng bầy đàn thường đối lập với các bản năng khác. Ý thức về tội lỗi và trách nhiệm là tài sản đặc trưng của con vật sống thành bày (gregarious animal). Theo quan niệm của Trotter thì sức mạnh dồn nén mà phân tâm học phát hiện được trong cái “Tôi”, nghĩa là sự chống cự mà thày thuốc gặp phải khi thực hiện chữa trị bằng phân tâm là xuất phát từ bản năng bầy đàn. Tiếng nói có tầm quan trọng vì nó giúp những cá nhân trong đoàn hiểu lẫn nhau, dựa vào nó mà có sự đồng nhất hoá các cá nhân trong đoàn với nhau.
Le Bon tập trung chú ý vào các đám đông nhất thời, Mc Dougall thì quan tâm đến các cộng đồng ổn định, Trotter khảo sát những đoàn thể phổ biến nhất trong đó con người, cái được gọi là sinh vật chính trị (zwou politikou), đang sống và xác lập cơ sở tâm lí của chúng. Trotter không cần phải tìm cội nguồn của bản năng bầy đàn vì ông cho rằng nó là nguyên thuỷ, không còn phân tích ra nhỏ hơn được nữa. Lời bình của ông rằng Boris Sidis cho rằng bản năng bầy đàn là sản phẩm của ám thị cũng may là thừa đối với ông; lời giải thích này là theo một mẫu quen thuộc, sai lầm và lời khẳng định ngược lại rằng ám thị là sản phẩm của bản năng bầy đàn theo tôi là đúng hơn.
Nhưng chúng ta còn có nhiều lí do để phản đối ông Trotter hơn là những người khác vì ông gần như không để ý đến vai trò của người cầm đầu trong đám đông, trong khi chúng tôi lại ngả sang ý kiến ngược lại rằng nếu bỏ qua người cầm đầu thì không làm sao hiểu được thực chất của đám đông. Bản năng bầy đàn không dành chỗ cho người cầm đầu, người cầm đầu được đưa vào bầy một cách ngẫu nhiên và vì vậy rất cần chú ý đến sự kiện là: bản năng bầy đàn không dẫn đến nhu cầu có thượng đế, nhưng bầy cừu lại cần một người chăn chiên. Ngoài ra còn có thể bác bỏ quan điểm của Trotter về mặt tâm lí nữa, nghĩa là có thể giả định rằng bản năng bầy đàn có thể chia tách được, nó không phải là nguyên thuỷ như bản năng tự bảo tồn hay bản năng tính dục.
Dĩ nhiên là rất khó theo dõi quá trình phát triển của bản năng bầy đàn trong từng cá thể. Nỗi sợ hãi của đứa nhỏ bị bỏ một mình (Trotter giải thích đấy là biểu hiện của bản năng) có thể được giải thích hoàn toàn khác. Nỗi sợ hãi ấy liên quan đến mẹ nó, sau này là liên quan đến những người thân yêu khác và là biểu hiện của một ước muốn không thực hiện được, đứa trẻ không thể làm gì với ước muốn [3] đó ngoài việc biến nó thành nỗi sợ hãi. Nỗi hoảng sợ không hết dù có người thuộc “bầy” tới gần, ngược lại, người lạ chỉ làm cho nó hoảng sợ hơn mà thôi. Trong một thời gian khá dài người ta không tìm thấy biểu hiện gì của đứa trẻ chứng tỏ bản năng bày đàn hay ý thức tập thể. Tình cảm đó hình thành trong các nhà trẻ, nơi có nhiều trẻ em và từ mối quan hệ với cha mẹ mà cụ thể là: sự ghen tị khởi thủy mà đứa con lớn dành cho đứa nhỏ hơn. Dĩ nhiên là đứa lớn muốn gạt bỏ đứa nhỏ, đẩy đứa nhỏ khỏi cha mẹ, tước mọi quyền lợi của đứa nhỏ, nhưng vì cha mẹ thương yêu đồng đều các con, đứa lớn hơn sẽ không thể giữ mãi thái độ thù địch với em mà không bị trừng phạt nên nó buộc phải đồng nhất hóa mình với những đứa con khác; còn trong nhà trẻ thì xuất hiện ý thức tập thể hay cộng đồng, ý thức ấy sẽ phát triển thêm trong nhà trường. Yêu cầu đầu tiên của sự hình thành phản ứng này là sự công bằng, là cách đối xử giống nhau với mọi người. Chúng ta hẳn đếu thấy rằng ở nhà trường yêu cầu công bằng mạnh mẽ đến mức nào. Nếu tôi không phải là “cục cưng” thì ít ra cũng đừng ai được “cưng” nhé. Có thể cho rằng sự chuyển hóa và thay tính ghen tị bằng tinh thần tập thể trong nhà trẻ và trường học đó là chuyện khó tin nếu như chúng ta không thấy chính quá trình đó trong những quan hệ khác. Chỉ cần nhớ lại một đám đông các bà và các cô mơ mộng cùng yêu một chàng ca sĩ hay nghệ sĩ dương cầm, đang xúm xít chen nhau quanh chàng ta sau buổi biểu diễn thì sẽ rõ. Hẳn là trong thâm tâm cô nào cũng muốn ghen với cô khác, nhưng vì họ đông quá và vì thế mà không cô nào có thể một mình chiếm đọat được thần tượng nên họ đành bỏ ý nghĩ ấy và thay vì lao vào cấu xé nhau, họ hành động như một tập thể thống nhất, hoan hô thần tượng và lấy làm sung sướng mà chia nhau lọn tóc của chàng ta. Ban đầu vốn là những tình địch, nhưng vì tình yêu với một đối tượng nên họ đã có thể đồng nhất hoá với nhau. Thường thường nếu một tình trạng có thể được giải quyết bằng nhiều cách thì không có gì phải ngạc nhiên là giải pháp được thực hiện là giải pháp mang lại một phần thoả mãn trong khi các giải pháp khác, dù thích đáng hơn, lại không được sử dụng vì hoàn cảnh thực tế không cho phép đạt mục tiêu.
Tinh thần tập thể, tình đoàn kết v.v. có hiệu năng trong đời sống xã hội đều là do lòng ghen tị ban đầu này mà ra. Không ai được vượt lên, ai cũng như ai, mọi người đều phải có những giá trị như nhau. Công bằng xã hội nghĩa là một người phải tự từ bỏ một số thứ để người khác cũng từ bỏ những cái đó, hay nói khác hơn, không được đòi những thứ đó. Chính sự đòi hỏi công bằng ấy là cội rễ của lương tâm và tinh thần trách nhiệm. Chúng tôi vô tình đã tìm thấy và nhờ phân tâm học mà hiểu được biểu hiện của đòi hỏi công bằng ấy trong nỗi sợ truyền bệnh cho người khác của những người mắc bệnh giang mai. Nỗi sợ hãi của người bệnh là biểu hiện việc chống lại cái ước muốn vô thức đổ bệnh cho kẻ khác. Bởi vì tại sao chỉ có họ bị bệnh và chịu thiệt thòi đủ thứ, trong khi người khác thì không? Câu chuyện tuyệt vời về vụ xử kiện của Solomon cũng có cùng một cội rễ như vậy: nếu con của một bà chết thì những bà khác cũng không được có con sống. Căn cứ vào ước muốn đó mà nhà vua tìm được người bị nạn.
Như vậy là ý thức xã hội được đặt nền móng trên sự chuyển hóa một tình cảm mà khởi thủy là thù địch thành tình cảm tích cực mang đặc điểm của đồng nhất hoá. Vì chúng tôi theo dõi quá trình đó cho đến nay cho nên chúng tôi nhận thấy là quá trình ấy diễn ra do ảnh hưởng của tình cảm trìu mến với một người khác ở bên ngoài nhóm ấy. Chúng tôi cũng tự thấy sự phân tích về đồng nhất hoá của mình là chưa hoàn hảo, nhưng đối với mục đích của chúng ta hiện nay thì cần phải quay lại với luận điểm rằng đám đông đòi hỏi một sự công bằng triệt để. Như chúng ta đã thấy khi bàn về hai loại đám đông nhân tạo là nhà thờ và quân đội thì điều kiện tiên quyết để chúng tồn tại là tình thương đồng đều của người cầm đầu đối với mọi thành viên của tập thể đó. Nhưng chúng ta cũng không được quên rằng đòi hỏi công bằng trong đám đông ấy chỉ áp dụng cho các thành viên của nó chứ không liên quan đến người cầm đầu. Mọi thành viên của đám đông phải ngang nhau, nhưng họ đều muốn có một người cầm đầu thống trị tất cả. Nhiều người giống nhau, có thể đồng nhất hóa với nhau, và một người, một người duy nhất, cao hơn tất cả - đấy là tình trạng của một đám đông có sức sống. Bởi vậy cho nên chúng tôi mạn phép sửa lại quan điểm của Trotter: người là con vật sống thành bầy, người là con vật thuộc bầy, thành viên của bầy, do một chúa chòm dẫn dắt.
10. Đám đông và bầy đàn nguyên thủy
Năm 1912 tôi đã chấp nhận giả thuyết của Ch. Darwin rằng hình thức nguyên thủy của tổ chức xã hội loài người là một bầy ô hợp chịu sự thống trị độc đoán của một người đàn ông có uy lực. Tôi đã cố gắng chứng minh rằng bầy đàn đó đã để lại những dấu vết không phai mờ trong lịch sử nhân loại, thí dụ như sự phát triển của chế độ tôn thờ vật tổ (totemism) là khởi đầu của tôn giáo, đạo đức và phân hoá xã hội liên quan đến việc thủ tiêu người cầm đầu và biến bày ô hợp phụ hệ thành cộng đồng huynh đệ [4] . Thực ra đây chỉ là một giả thuyết cũng như nhiều giả thuyết khác mà các nhà nghiên cứu về thời tiền sử dùng để soi rọi bức màn bí mật thời nguyên thủy - một nhà phê bình người Anh, ông Kroeger, gọi đây là một câu chuyện (just a story) - nhưng tôi cho rằng giả thuyết này rất đáng được quan tâm nếu có thể dùng nó để thiết lập các mối liên kết và giải thích trong những lĩnh vực khoa học khác.
Đám đông cho chúng ta một bức tranh quen thuộc: một người đàn ông đầy uy lực giữa đám người bình đẳng với nhau, một bức tranh có sẵn trong tưởng tượng của chúng ta về bầy ô hợp nguyên thủy. Tâm lí của đám đông đó như chúng ta đọc thấy trong các mô tả đã trích dẫn: biến mất ý thức cá nhân, hướng ý nghĩ và tình cảm theo một chiều duy nhất, lĩnh vực tình cảm và vô thức trỗi dậy, khuynh hướng muốn thực hiện ngay những ý định vừa xuất hiện - tương ứng với sự thoái hoá về một đời sống tinh thần sơ khai có thể gán cho bầy đàn nguyên thủy.
Những điều chúng tôi mô tả trước đây về đặc điểm chung của đám đông đặc biệt phù hợp với bầy ô hợp nguyên thủy. Ý chí của từng cá nhân quá yếu, hắn không dám hành động. Chỉ có những xung lực tập thể là được thực hiện, chỉ tồn tại ý chí tập thể, không còn ý chí cá nhân, ý niệm không thể biến thành ý chí nếu người ta không thấy rằng nó đã được tăng cường nhờ phổ biến khắp mọi người. Sự yếu ớt của ý niệm là do liên lạc tình cảm rất mạnh giữa mọi người với nhau; điều kiện sống giống nhau và không có tài sản riêng cũng tạo ra những hành động giống nhau của các cá nhân riêng lẻ. Người ta có nhu cầu chung ngay cả trong việc đi đại tiện như ta còn thấy ở trẻ con và trong trại lính. Một ngoại lệ duy nhất là hành vi tính dục vì sự có mặt của người thứ ba là thừa nếu không nói là rất khó chịu khi phải chờ đợi. Sau này sẽ nói tới phản ứng của hành vi tính dục với nhu cầu bầy đàn.
Như vậy ta có cảm giác dường như đám đông là một bầy nguyên thủy tái sinh. Giống như một người nguyên thủy có thể tái sinh trong mỗi cá nhân, từ mỗi đám đông có thể tái tạo bày ô hợp nguyên thủy. Vì đám đông thường thống trị các cá nhân cho nên chúng ta nhận ra nó chính là hậu duệ của bày đàn nguyên thuỷ. Bởi vậy chúng ta phải kết luận rằng tâm lí đám đông là tâm lí cổ xưa nhất của loài người. Tâm lí cá nhân mà chúng tôi đưa ra, vượt qua những biểu hiện đám đông còn rơi rớt lại, chỉ sau này mới xuất hiện và phát triển dần dần, có thể nói là tách ra một phần từ tâm lí cổ xưa của đám đông. Chúng tôi sẽ cố thử tìm điểm khởi đầu của quá trình phát triển đó.
Trước hết chúng ta thấy rằng điều khẳng định trên phải được đính chính. Tâm lí cá nhân cũng phải lâu đời như tâm lí đám đông vì ngay từ khởi thủy đã có hai loại tâm lí: tâm lí của các thành viên của đám đông và tâm lí của người cha, người chỉ huy, lãnh tụ. Các cá nhân tạo thành đám đông cũng bị ràng buộc như ngày nay ta còn thấy, nhưng người cha của bầy nguyên thủy thì tự do. Hoạt động trí tuệ của hắn rất mạnh mẽ và độc lập ngay cả khi phải ở một mình; ý chí của y cũng không cần phải được tăng cường bằng ý chí của kẻ khác. Để được nhất quán chúng ta phải giả định rằng cái “Tôi” của hắn không bị ràng buộc trong quan hệ libido, hắn không yêu ai, hắn chỉ yêu mình, hắn yêu người khác chỉ vì những người ấy phục vụ cho nhu cầu của hắn. Cái “Tôi” của hắn không cho các đối tượng bất cứ cái gì quá mức cần thiết. Trong buổi bình minh của lịch sử nhân loại hắn là một siêu nhân mà Nietzche chờ đợi sẽ xuất hiện trong tương lai. Ngày nay các thành viên của đám đông vẫn cần một ảo tưởng rằng họ được người cầm đầu yêu thương như nhau, nhưng chính người cầm đầu lại không cần phải yêu ai, hắn phải thuộc vào dòng giống cai trị, phải hoàn toàn ngã ái, tự tin và tự chủ. Chúng ta biết rằng tình yêu hạn chế ngã ái và chúng ta có thể chứng minh rằng nhờ ảnh hưởng đó mà nó đã trở thành một nhân tố của nền văn minh.
Bấy giờ người cha của bầy chưa phải là nhân vật bất tử, mãi sau này mới có sự thần thánh hoá như thế. Khi hắn chết thì phải có người thay, chắc là đứa con út của hắn, một kẻ cho đến lúc ấy chỉ là thành viên của đám đông như những người khác, sẽ thay thế hắn. Như vậy là phải có khả năng biến tâm lí đám đông thành tâm lí cá nhân, phải có những điều kiện thực hiện sự biến đổi ấy cũng như bày ong có khả năng, trong trường hợp cần thiết, biến một cái trứng thành ong chúa chứ không phải ong thợ. Chúng ta chỉ có thể tưởng tượng như sau: Người cha tiền sử ấy ngăn chặn không cho các con hắn được thoả mãn các khao khát dục tính trực tiếp, hắn buộc chúng phải tiết chế và kết quả là tạo ra sự ràng buộc tình cảm với mình và giữa chúng với nhau; những mối ràng buộc có thể xuất phát từ những khao khát dục tính bị ngăn chặn. Có thể nói hắn ép các con vào tình trạng phát triển tâm lí đám đông. Chính lòng ghen tuông dục tính và sự thiếu khoan dung của hắn là nguyên nhân của tâm lí đám đông. Có thể giả định rằng những đứa con bị xua đuổi, khi tách rời khỏi người cha đã lợi dụng kết quả đồng nhất hóa với nhau mà thực hiện đồng tính luyến ái và bằng cách đó đã giành được tự do nên đã dám giết cha.
Kẻ kế vị cũng giành được khả năng thoả mãn dục tính và bằng cách đó thoát khỏi các điều kiện của tâm lí đám đông. Sự tập trung libido vào một người đàn bà, khả năng được thoả mãn ngay lập tức, không trì hoãn, đã đặt dấu chấm hết cho những ham muốn dục tính bị ngăn chặn và cho phép lòng ngã ái luôn luôn giữ ở mức cố định. Trong chương cuối chúng ta sẽ bàn đến quan hệ giữa tình yêu và việc hình thành tính cách.
Xin nhấn mạnh một lần nữa những mối liên hệ đáng chú ý giữa cấu trúc của bầy ô hợp nguyên thủy và các điều kiện giữ cho đám đông nhân tạo khỏi tan rã. Qua thí dụ của quân đội và nhà thờ chúng ta đã thấy rằng điều kiện đó là ảo tưởng về một tình yêu đồng đều của người cầm đầu đối với tất cả các thành viên của đám đông. Nhưng đó chỉ là lí tưởng hoá các quan hệ đã có trong bầy ô hợp nguyên thủy, trong đó tất cả các con đều bị cha săn đuổi và đều sợ cha như nhau. Hình thức tổ chức kế tiếp của xã hội loài người là bộ lạc tôn thờ vật tổ đã đòi hỏi một sự chuyển đổi như thế (từ sợ hãi sang tình thương - ND), mọi bổn phận xã hội đều được xây dựng trên cơ sở chuyển đổi đó. Sự bền vững không gì lay chuyển được của gia đình, một tập thể tự nhiên, bắt nguồn từ một tiền đề là tình thương đồng đều của ông bố với mọi thành viên trong gia đình đã được thực tế chứng minh.
Nhưng chắc chắn là chúng ta sẽ còn thu được kết quả lớn hơn qua đánh giá đám đông từ quan điểm bày ô hợp nguyên thủy. Sự đánh giá đó sẽ giúp chúng ta hiểu những điều còn là bí mật, chưa rõ đằng sau những từ ngữ bí hiểm như: thôi miên và ám thị. Xin nhắc lại rằng thôi miên là một cái gì đó khủng khiếp, tính chất khủng khiếp chứng tỏ sự trấn áp những cái già cỗi và ràng buộc chân thành [5] . Xin nhắc lại cách tiến hành thôi miên. Ông thày khẳng định rằng ông ta có sức mạnh bí ẩn có thể làm tê liệt ý chí người bị thôi miên, hay nói cách khác, kẻ bị thôi miên tin rằng ông thày có sức mạnh như thế. Dân gian gọi sức mạnh đó là nhân điện; chắc chắn đấy cũng là sức mạnh nguồn gốc của tục cấm kị (tabu) của các dân tộc thời tiền sử, nghĩa là thần khí (mana) phát ra từ các vua chúa, đến gần họ quả là nguy hiểm. Ông thày thôi miên cũng muốn có sức mạnh đó; họ thể hiện nó như thế nào? Họ bắt đối tượng nhìn vào mắt và thường thường thì họ dùng mắt để thôi miên. Người tiền sử sợ và không chịu nổi ánh mắt của thủ lĩnh và sau này người dân thường cũng sợ ánh mắt của thần thánh vậy. Moise phải làm trung gian giữa dân chúng và Jehova vì dân chúng không chịu nổi con mắt của thần linh và khi Moise trở về mặt ông toả hào quang, một phần thần khí (mana) đã nhập vào ông ta - kẻ môi giới của người tiền sử [6] .
Dĩ nhiên có thể thôi miên bằng những cách khác. Chuyện đó đã đưa đến những lầm lẫn và tạo cớ để người ta đưa ra nhiều lí thuyết sinh lí học vô căn cứ, thí dụ như thôi miên bằng cách nhìn vào một vật sáng chói hay nghe tiếng động đều đều. Thực ra các biện pháp này chỉ nhằm đánh lạc hướng và vô hiệu hóa chú ý hữu thức của đối tượng. Tình trạng cũng giống như khi ông thày thôi miên nói: ”Bây giờ hãy chỉ chú ý đến ta, ngoài ra không có gì đáng kể”. Tất nhiên, về mặt kĩ thuật thì nói thế sẽ không có hiệu quả mong muốn vì người bị thôi miên sẽ bị lôi ra khỏi tình trạng vô thức và sẽ xuất hiện thái độ chống đối. Và mặc dù ông thày cố gắng làm cho sự chú ý hữu thức của đối tượng không để ý đến chủ đích của ông ta và mặc dù đối tượng rơi vào trạng thái khi toàn bộ thế giới trở nên vô nghĩa thì đối tượng bị thôi miên tập trung một cách hoàn toàn vô thức toàn bộ sự chú ý của mình vào ông thày, tạo ra mối liên hệ chuyển di sang ông thày. Phương pháp thôi miên gián tiếp như nói những câu ý vị, khôi hài cũng có kết quả là một sự phân bố năng lượng tinh thần xác định bởi vì một sự phân bố khác đi sẽ phá vỡ quá trình vô thức; các phương pháp này cuối cùng cũng đưa đến mục đích như phương pháp trực tiếp bằng cách nhìn chăm chú. Khi bị thôi miên ý thức vô thức tập trung vào ông thày còn ý thức hữu thức thì tập trung vào các cảm thọ không có giá trị và thay đổi liên tục. Trong khi thực hiện chữa bệnh bằng tâm phân thì tình hình hoàn toàn ngược lại. Trong khi thực hiện tâm phân, ít nhất đã có một lần con bệnh cả quyết rằng không có một tí ý tưởng nào hiện lên trong trí não cả. Sự liên tưởng tự do ngừng hẳn, những khích động thường ngày vẫn điều động sự liên tưởng ấy bây giờ trở nên vô hiệu. Nếu kiên trì hỏi thì người bệnh sẽ thú nhận rằng anh ta đang nghĩ về phong cảnh bên ngoài cửa sổ phòng bệnh hay tấm giấy bồi tường hoặc chiếc đèn treo trước mặt. Điều đó có nghĩa là người bệnh đã bị mối liên hệ chuyển di và những ý tưởng vô thức của ông thày tâm phân chi phối. Nếu giải thích cho người bệnh tình trạng của họ thì các liên tưởng tự do lại được phục hồi.
Ông Ferenzi hoàn toàn có lí khi nói rằng khi ông thày thôi miên bảo đối tượng ngủ đi trước khi thôi miên thì ông thày đã đóng vai trò cha mẹ đối tượng. Ông cho rằng có hai loại thôi miên: loại êm ái và loại đe dọa; loại thứ nhất là mẫu tính, loại thứ hai là phụ tính [7] . Ra lệnh ngủ khi thôi miên cũng chẳng khác gì yêu cầu không được chú ý vào thế giới bên ngoài mà tập trung vào ông thày. Người bị thôi miên cũng hiểu như vậy bởi vì quên thế giới bên ngoài chính là đặc điểm tâm lí của giấc ngủ và chính vì thế mà ngủ gần với trạng thái thôi miên.
Như vậy là ông thày thôi miên đã dùng các biện pháp của mình để đánh thức một phần các tàn tích của quá khứ xa xăm, cái tàn tích còn thể hiện trong quan hệ với cha mẹ, nhất là với cha; ông thày đã đánh thức hình ảnh một cá nhân đầy uy lực, người ta phải mất hết ý chí khi có mặt người đó; ở cạnh người đó hay để hắn trông thấy là cả một mối hiểm nguy. Chúng ta chỉ có thể tưởng tượng thái độ của một cá nhân trong bầy ô hợp nguyên thủy với người cha tiền sử dưới dạng như vậy. Khi nghiên cứu các phản ứng khác chúng tôi nhận thấy rằng tùy thuộc vào đặc điểm riêng của từng cá nhân mà mức độ tái lập các hoàn cảnh quá khứ của từng người là không giống nhau. Nhận thức rằng thôi miên chỉ là một trò chơi, rằng đây chỉ là làm sống lại một cách giả tạo những ấn tượng cũ có thể vẫn còn và điều đó làm cho người bị thôi miên đủ sức kháng cự lại những hậu quả nghiêm trọng của việc triệt tiêu ý thức bằng thôi miên.
Đặc điểm đáng sợ, đầy ám ảnh của đám đông mà ta thấy trong các biểu hiện do ám thị có thể được coi là có xuất xứ từ bầy ô hợp nguyên thủy. Lãnh tụ của đám đông vẫn là người cha tiền sử, người ta sợ hắn; đám đông muốn được điều khiển bởi một quyền lực vô giới hạn; đám đông khao khát một người có quyền uy; đám đông khao khát, theo lời của Le Bon, được phục tùng. Người cha tiền sử là lí tưởng của đám đông, nhân vật lí tưởng ấy thay vì chiếm hữu cái “Tôi”-lí tưởng lại thì lại chiếm hữu chính cái “Tôi”. Thôi miên có thể được coi là đám đông có hai người, còn ám thị là niềm tin đặt cơ sở không phải trên sự tri giác và suy luận mà trên cơ sở liên kết Eros. Cần phải nói rằng những quan điểm trình bày trong chương này cho phép chúng ta đi từ quan điểm của Bernheim ngược về những lối giải thích một cách thô sơ và xưa cũ hơn về thôi miên. Theo Bernheim thì mọi hiện tượng thôi miên đều là sản phẩm của ám thị, còn ám thị là nguyên thể bất khả phân. Chúng tôi lại đi đến kết luận rằng ám thị là biểu hiện của trạng thái thôi miên, còn thôi miên lại có nguồn gốc bẩm sinh còn giữ lại một cách vô thức từ cội nguồn xa xưa của gia đình loài người.
© 2005 talawas
[1]W. Trotter. Instinct of the Herd in Peace and in War, London 1916
[2]Xem tác phẩm của tôi: Jenseits des Lustprinzips, 1920
[3]Xem Freud. Phân tâm học nhập môn. Chương XXV
[4]Vật tổ và cấm kị, Sigmund Freud
[5]Das Unheimliche, Imago, V, 1919.
[6]Vật tổ và cấm kị, Sigmund Freud
[7]Introjection und Übertragung, “Jahrbuch der Psychoanalyse”, I, 1909.
[2]Xem tác phẩm của tôi: Jenseits des Lustprinzips, 1920
[3]Xem Freud. Phân tâm học nhập môn. Chương XXV
[4]Vật tổ và cấm kị, Sigmund Freud
[5]Das Unheimliche, Imago, V, 1919.
[6]Vật tổ và cấm kị, Sigmund Freud
[7]Introjection und Übertragung, “Jahrbuch der Psychoanalyse”, I, 1909.
Nguồn: Bản tiếng Nga: З. Фрейд. «Психология масс и анализ человеческого «Я», издательство «Современные проблемы», Н. А. Столляр, М., 1926), http://www.frejd-zigmund.viv.ru/cont/freud/31.html và các trang tiếp theo
Đã đăng trong tác phẩm Gustave Le Bon – Tâm lý học đám đông do Nguyễn Xuân Khánh dịch, nhà xuất bản Tri Thức ấn hành quý III năm 2009.
(còn 1 kì nữa)
No comments:
Post a Comment