EAMONN BUTLER
Phạm Nguyên Trường dịch
3.
Của cải của các quốc gia
Những
chủ đề bao trùm của tác phẩm
Adam Smith viềt Của cải của các quốc gia một phần là để
chọc tức các chính khách vì chính sách của họ hạn chế và làm méo mó chứ không
giúp cho thương trường phát triển. Vì vậy mà ông đã sử dụng cách viết đơn giản,
hiện nay vẫn còn có thể hiểu được.
Nhưng Smith còn cố gắng
xây dựng một môn khoa học mới, đầy là môn kinh tế học nữa. Đấy là tác phẩm có
tính chất khai phá, các thuật ngữ và khái niệm ông dùng hầu như không còn thích
hợp nữa. Nội dung lan man, nhiều đoạn lạc để và đầy những sự kiện, từ giá bạc ở
Trung Quốc cho đến thực đơn của các cô gái điếm người Ireland ở London, vì vậy
mà rất khó theo dõi. Trước hết xin được tập trung vào một số chủ đề chính của
tác phẩm.
Chủ đề nổi bật nhất là các quy định về quản lí thượng mại đã được
xây dựng một cách thiếu căn cứ và phản
tác dụng. Quan điểm giữ thế thượng phong đương thời là tư tưởng của phái “trọng
tiền”, cho rằng tài sản của quốc gia là số tiền mà họ có. Điều này hàm ý rằng
muốn giàu hơn thì phải bán nhiều hàng ra nước ngoài để thu về thật nhiều tiền
và phải mua thật ít để ngăn không cho tiền mặt chảy ra nước ngoài. Quan điểm về
thương mại như thế đã dẫn đến việc hình thành hệ thống thuế nhập khẩu, trợ cấp
cho xuất khấu, thuế và các biện pháp ưu đãi cho nền công nghiệp trong nước, tất
cá đều nhằm hạn chế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu.
Quan điểm mang tính cách
mạng của Smith là tài sản không phải là số vàng và bạc nằm trong kho của nhà nước.
Tiêu chuẩn thực sự đề đánh giá tài sản quốc
gia là lượng hàng hóa và dịch vụ mà nó sản xuất ra. Ông là người phát minh
ra khái niệm :tổng sản phẩm quốc nội[1] (GDP), được dùng phổ biến
và có vai trò nền tảng trong môn kinh tế học hiện nay. Và ông khẳng định rằng
muốn tối đa hoá tổng sản phẩm thì không được cản trở khả năng sản xuất, mà phải
để cho nó được tự do.
Chủ đề quan trọng khác là
khả năng sản xuất phụ thuộc vào phân công
lao động và tích luỹ tư bản. Càng
đầu tư và cho những ngành sản xuất có hiệu quả thì càng có nhiều tài sản được sản
xuất ra trong tương lai. Chia sản xuất thành nhiều công đoạn nhỏ, mỗi công đoạn
lại giao cho những người có chuyên môn thì hiệu quả sẽ cao. Người sản xuất đem
số sán giai phẩm phụ trội đó ra trao đổi hoặc đầu tư vào máy móc nhằm tiết kiệm
nhiều lao động hơn nữa.
Chủ đề thứ ba của cuốn
sách là thu nhập của đất nước trong tương
lai phụ thuộc vào tích luỹ tư bản. Càng đầu tư vào những ngành sản xuất có
hiệu quả thì càng có nhiều tài sản được sản xuất ra trong tương lai. Nhưng người
dân chỉ tích lũy khi họ tin tưởng rằng tài sản của họ sẽ không bị ăn cắp. Quốc
gia thịnh vượng là quốc gia không những đã làm ra nhiều tiền mà còn biết quản
lí và bảo vệ số tiền đã làm ra.
Chủ đề thứ tư: đây là hệ thống tự động. Khi một món
hàng hoá nào đó trở nên khan hiếm thì người dân sẵn sàng trả giá cao hơn: cung
cấp các loại hàng hóa này sẽ được lợi hơn, vì vậy, người sản xuất đầu tư nhiều
hơn cho việc sản xuất các loại hàng hóa khan hiếm. Còn nơi hàng hóa dư thừa thì
giá cả và lợi nhuận sẽ thấp, người sản xuất sẽ chuyển vốn và doanh nghiệp đến
những chỗ khác. Như vậy là, nền sản xuất tự động tập trung chú ý vào những nhu
cầu thiết yếu nhất của quốc gia mà không cần sự chỉ đạo của nhà nước.
Nhưng hệ thống này chỉ có thể trở thành tự động
khi có nền thương mại và cạnh tranh tự do mà thôi. Khi chính phủ trợ cấp hoặc
bảo đảm sự độc quyền cho những người sản xuất được chính phủ ủng hộ hoặc dùng
hàng rào thuế quan che chắn cho họ thì những nhà sản xuất này có thể đòi giá
cao. Người nghèo là người bị thiệt nhất vì phải trả giá cao hơn cho những món
hàng thiết yếu nhất.
Chủ đề tiếp theo của tác
phẩm Của cải của các quốc gia là các giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau tạo
ra những định chế chính quyền khác nhau như thế nào. Những người săn bắn và
hái lượm thời xưa chẳng có tài sản gì đáng giá. Nhưng đối với người nông dân
thì ruộng đất, mùa màng và vật nuôi trở thành tài sản có giá trị và họ xây dựng
chính quyền và hệ thống pháp lí nhằm bảo vệ những tài sản đó.
Trong thời đại thương
nghiệp, tức là khi người ta tích luỹ tư bản, tài sản còn có ý nghĩa hơn nữa.
Nhưng đây chính là giai đoạn của các thương nhân, thương nhân nào biết cách lợi
dụng các tiến trình chính trị nhằm bóp méo thị trường theo hướng có lợi cho
mình thì sẽ càng thu đươc nhiều lợi nhuận hơn. Cạnh tranh và trao đổi tự do sẽ bị đe dọa bởi các doanh nghiệp độc quyền,
các ưu đãi về thuế khóa, kiểm soát và những ưu tiên ưu đãi khác, tức là những
ưu đãi mà chính quyền dành một số nhà sản xuất.
Đấy chính là lí do vì sao
Smith tin rằng nhà nước phải bị giới hạn.
Chức năng chủ yếu của nhà nước là bảo đảm quốc phòng, xây dựng cơ sở hạ tầng và
thúc đẩy giáo dục. Nhà nước phải giữ cho nền kinh tế thị trường cởi mở và tự do
và không được làm méo mó thị trường.
Sản
xuất và trao đổi
Cuốn thứ nhất trong năm “cuốn
sách” của tác phẩm Của cải của các quốc
gia giải thích cơ chế của sản xuất và trao đổi và đóng góp của chúng vào
thu nhập quốc dân.
Lợi
ích của chuyên môn hóa
Dùng một nhà máy sản xuất
đinh ghim làm thí dụ, Smith chỉ ra rằng phân
công lao động - chuyên môn hóa lao động – tạo ra nhiều sản phẩm hơn hẳn. Sản
xuất đinh có vẻ như “một việc tầm thường”, nhưng hoá ra lại rất phức tạp. Dây
phải được chuốt, kéo thẳng, cắt và vuốt một đầu cho nhọn. Đầu kia được mài nhẵn
và đập phẳng. Đinh ghim sau đó phải được tẩy trắng và đóng gói. Cả thảy có khoảng
mười tám công đoạn
Ông bảo rằng nếu để một
người làm tất cả các công đoạn khác nhau thì một ngày anh ta chỉ làm được 20 cái
là cùng (còn nếu phải đi đào mỏ và luyện thép nữa thì cả ngày cũng chưa chắc đã
làm được cái nào). Nhưng trong nhà máy, công việc được chia ra cho nhiều người
khác nhau, mỗi người chỉ thực hiện một đến hai công đoạn mà thôi. Một tổ gồm 10
người đàn ông khoẻ mạnh có thể làm được 48.000 cái đinh trong một ngày, nghĩa
là mỗi người làm được 4.800 cái, gấp 240 lần năng suất của một người làm việc
đơn độc.
Việc chuyên môn hóa hiệu
quả đến mức nó không chỉ xuất hiện trong các công ty mà còn xuất hiện giữa các
nước khác nhau nữa. Người nông dân chuyên môn trồng cấy và chăn nuôi: nếu họ
không phải mất thì giờ tự sản xuất tất cả vật dụng trong gia đình thì ruộng
nương sẽ được trông nom chu đáo hơn và năng suất hơn. Trong khi đó, các nhà sản
xuất sẽ lấy làm sung sướng vì được cung cấp vật dụng gia đình và giao việc sản
xuất đổ ăn thức uống của mình cho nông dân. Tương tự như thể, các nước thực hiện
chuyên môn hóa bằng cách xuất khẩu những món hàng mà họ sản xuất có hiệu quả nhất
và nhập khẩu những món hàng mà các nước khác sản xuất có hiệu quả hơn.
Smith cho rằng hiệu suất
gia tăng không chỉ vì người làm một việc trong một thời gian dài có tay nghề
cao hơn. Thời gian mất mát do di chuyển từ công đoạn này sang công đoạn kia giảm
đi; ngoài ra, chuyên môn hoa tạo điều kiện cho người ta sử dụng máy móc nhằm tiết
kiệm nhân công, làm cho hiệu suất còn gia tăng hơn nữa. Và như vậy là: “Tiến bộ
vĩ đại nhất trong việc tăng năng suất lao động và phần lớn kĩ năng, tay nghề và
óc sáng kiến, dù được nhắm vào đâu hay áp dụng ở đâu thì có vẻ như cũng đều là
kết quả của phân công lao động cả[2]”
Phân công lao động thắt
chặt quan hệ hợp tác của hàng ngàn người trong quá trình sản xuất ra phần lớn
các đồ vật ta dùng hằng ngày:
Lấy
thí dụ như chiếc áo khoác bằng len mà người làm thuê theo lối công nhật vẫn mặc
hằng ngày, dù trông có thô và đơn giản đến đâu chăng nữa thì nó vẫn là sản phẩm
của quá trình lao động kết hợp của rất nhiều người. Người chăn cừu, người phân
loại len, người chải len, người thợ nhuộm, người quay tơ, người thợ dệt, người
thợ hồ vải và nhiều người khác nữa – họ phải kết hợp tay nghề của mình để làm
ra cái sản phẩm giản dị như thế[3].
Hơn nữa, việc chuyên chở
len lại đời hỏi phải có thủy thu, thợ đóng tầu, thợ làm cánh buồm; thậm chí kéo
để cất len cũng đòi hỏi phải có người khai mỏ, người cán thép nữa. Không thể
nào liệt kê hết được. Nhưng chính sự hợp tác như thế của hàng ngàn người có tay
nghề cao là nguồn gốc số cải to lớn của các nước đã phát triển và đã tạo ra những
sản phẩm thí dụ như những chiếc áo khoác bằng len mà ngay một người nghèo nhất
cũng có thể mua được - đấy chính điều mà Smith gọi là “sự giàu có mang tính phổ
quát đã lan tỏa đến cả những người nghèo nhất[4]”
Trao
đổi: đôi bên cùng có lợi
Chương II giải thích việc
trao đổi sản phẩm làm cho lợi ích của quá trình sản xuất đó lan tỏa ra cộng đồng
như thế nào. Ông cho rằng do có một số năng lực đặc biệt, về sức mạnh hoặc trí
tuệ, mà một người trong một xã hội bán khai có ích cho việc làm cung tên giỏi
hơn những người khác, trong khi những người kia lại giỏi hơn trong việc sản xuất
kim loại. Bằng cách chuyên môn hóa, người làm cung tên làm được nhiều tên hơn,
còn người thợ rèn thì rèn được nhiều dao hơn. Thể là hai người đều có những
công cụ tốt và cả hai đều có lợi do việc làm của người kia đã được chuyên môn
hóa và có hiệu quả cao.
Xu hướng “trao đổi và mua
bán”, Smith tuyên bố, là bản chất tự nhiên và phổ quát của con người vì cả đôi
bên đều có lợi. Thực tế, trao đổi sẽ không thể nào xảy ra nếu một trong hai bên
nghĩ rằng mình sẽ bị thiệt. Và đấy chính một quan niệm thấu triệt quan trọng nhất.
Trong thời của Smith, tương tự như thời của chúng ta, người ta thường bán hàng
lấy tiền chứ không phải là hàng đổi hàng nữa. Vì tiền được coi là tài sản cho
nên có vẻ như chỉ có người bán được lợi mà thôi. Nhưng Smith đã chỉ ra rằng cả
hai bên đều có lợi. Nhờ trao đổi mà cả hai bên đều nhận được món hàng họ cần mà
không phải mất nhiều công sức như khi họ phải tự làm lấy tất cả mọi thứ. Nhờ
trao đổi mà ai cũng thành giàu lên. Nói cách khác, tài sản không phải là nhất
thành bất biến mà là được tạo ra trong quá trình buôn bán. Đấy là một ý tưởng cực
kì táo bạo.
Một quan niệm thấu triệt
quan trọng khác là trao đổi mang lại lợi ích cho cả hai bên ngay cả khi mỗi bên
đều giả định và chấp nhận rằng giao kèo mua bán chỉ mang lại lợi ích cho mình
mà không hề nghĩ đến quyền lợi của đối tác. Thê là may, vì nó giúp chúng ta
phương pháp thuyết phục người khác từ bỏ những thứ mà ta đang cần. Smith viết
như sau:
Chúng
ta hi vọng có bữa ăn trưa không phải vì người bán thịt, người nấu bia hay người
làm bánh mì có lòng tốt mà vì họ tôn trọng quyền lợi của chính mình. Chúng ta
không quan tâm đến lòng nhân ái mà quan tâm đến tính ích kỉ của họ, không bao
giờ chúng ta nói chuyện với họ về nhu cầu của mình mà chỉ nói về lợi ích của họ
mà thôi[5].
Smith dùng từ “tự ái” hay
“tư lợi” không phải để ám chỉ “lòng tham” hay “tính ích kỉ”. Hồi thế kỉ XVIII
nó chỉ có nghĩa là không phải thu lợi bằng cách sẵn sàng làm hại người khác, mà
là mối quan tâm hoàn toàn phù hợp và chính đáng đối với phúc lợi của chính
mình. Đấy là điều tự nhiên và quan trọng đối con người đến mức trong tác phẩm Lí thuyết về cảm nhận đạo đức Smith phải
gọi là “sự khôn ngoan![6]” Cũng trong cuốn sách này,
ông còn nhấn mạnh rằng sự “thông cảm” (ngày nay chúng gọi là “đồng cảm”) đối với
người khác là một trong những tính cách nổi bật nhất của nhân loại, và công bằng
(không làm hại người khác) là một trong những luật lệ quan trọng nhất của nó
Thị
trường càng mở rộng thì lợi ích càng nhiều
Lợi ích do trao đổi mang
lại chính là động cơ thúc đẩy chúng ta chuyên môn hoá và như vậy, càng làm gia
tăng sản phẩm thặng dư mà ta có thể đem ra trao đổi. Mức độ chuyên môn hóa phụ
thuộc vào mức độ gia tăng quá trình trao đổi, Smith nói như thế - nghĩa là phụ
thuộc vào mức độ mở rộng của thị trường[7]. Thí dụ, chỉ có các “thành
phố lớn” mới có đủ việc làm cho những người phu khuân vác chuyên nghiệp, còn ở
những khu dân cư thưa thớt thì ngay cả thợ mộc hay thợ xây cũng không có việc
làm, buộc người ta phải tự làm lầy nhiều hơn.
Tiền chính là phương tiện
mở rộng thị trường[8].
Cuộc đời sẽ trở thành chán ngắt nếu người nấu bia đói phải tìm cho bằng được
anh nướng bánh mì khát. Đầy là lí do vì sao chúng ta phải sử dụng vật trung
gian là tiền - đổi sản phẩm mà chúng ta có thừa để lấy tiền và sau đó đổi tiền
lấy những sản phẩm mà chúng ta cần.
Chỉ
số giá trị
Nhưng cái gì quyết định tỉ
lệ trao đổi giữa các sản phẩm khác nhau, dù có dùng tiền hay là không? Smith cảm
thấy bối rối vì một số thứ hoàn toàn vô ích (thí dụ như kim cương) lại có “giá
trị trao đổi” cao, trong khi một số thứ cực kì quan trọng (như nước chẳng hạn)
lại hầu như không có giá trị gì. Ngày nay chúng ta có thể giải quyết vấn đề này
bằng lí thuyết lợi ích cận biên: vì kim cương là của hiếm cho nên có thêm một
viên là niềm mơ ước lớn của chúng ta, còn nước thì quá nhiều cho nên có thêm một
cốc cũng chả ích gì. Hoặc chúng ta có thể sử dụng luật cung cầu.
Đáng tiếc là lúc đó chưa
ai biết thuyết lợi ích cận biên là gì, và tại thời điểm chấp bút Của cải của các quốc gia, Smith chưa
hoàn thiện được phương pháp phân tích cung cầu. Cho nên ông phải xác định cái
gì làm nên giá trị của sản phẩm.
Có vẻ đương nhiên là
trong xã hội bán khai giá trị trước hết phải phản ánh sức lao động hàm chứa trong sản phẩm đó[9]. Xét cho cùng, chúng ta phải
“khó khăn và cực nhọc” mới làm ra sản phẩm chúng ta bán để chúng ta khỏi phải
làm sản phẩm mà chúng ta mua. Không có chuyện một trong hai bên mua sản phẩm mà
người đó có thể tự làm với ít công sức hơn người kia, cho nên tỉ lệ trao đổi lí
tưởng phải phản ánh được công sức ngang nhau.
Vì vậy, nếu những người
thợ săn “giết một con hải li phải tổn gấp đôi công sức so với việc giết một con
hươu thì đương nhiên là một con hải li phải đối được hay có giá là hai con hươu[10]”. Dĩ nhiên là Smith cũng
đã thấy rằng không phải lao động nào cũng như nhau. Một quá trình sản xuất có
thể là nặng nề hơn, hoặc đòi hỏi phải khéo léo hơn, hay phải huấn luyện lâu hơn
và có nhiều kinh nghiệm hơn. Nhưng các tác nhân này sẽ được tính “bằng cách mặc
cả và thỏa thuận trên thương trường[11]”.
Phần này đã bị nhiều người
phê phán vì “thuyết giá trị lao động” đã tạo điều kiện cho Karl Marx tuyên bố rằng
lao động của người công nhân đã bị các ông chủ tư bản đánh cắp. Nếu thế, chắc
chắn nó sẽ chẳng mang lại lợi lộc gì cho thể giới hết.
Nhưng thực ra Smith không
dẫn ta đến lí thuyết về giá trị lao động. Trên thực tế ông chỉ cố gắng tìm hiểu
cái mà hiện nay chúng ta coi là tiêu chuẩn đánh giá kinh tế chủ yếu, tức là giá
thành sản xuất. Trong xã hội săn bắn giá thành hầu như chỉ là lao động. Nhưng
chúng ta đã tiến hoá: Smith tiếp tục xác định các tác nhân khác của sản xuất -
đất và tư bản - những tác nhân được sử dụng trong những hệ thống kinh tế hiện đại
hơn. Ý tưởng này cũng trở thành khái niệm căn bản trong kinh tế học ngày nay.
Sau này, Smith còn đưa ra khái niệm cung và cầu, không chỉ là để khảo sát ảnh
hưởng của chúng đối với giá cả mà còn xem chúng thúc đẩy toàn bộ hệ thống sản
xuất và phân phối như thế nào. Đây là vấn đề rất mới, ông phải viết mấy chương
mới giải thích đầy đủ được. Những chương này mô tả xã hội đã tiến hóa để thoát
ra khỏi cái thời mà lao động là nguồn gốc duy nhất của giá trị[12] như thế nào và chúng ta sẽ
xem xét các chương đó cùng một lúc.
Đất
đai, lao động và tư bản
Đối với nền sản xuất hiện
đại, dù thuộc bất cứ ngành nào cũng cần phải có người làm việc, cần thiết bị,
thí dụ như công cụ hay máy móc để người ta làm và không gian làm việc. Vì vậy,
giá thành sản phẩm có thể được chia cho ba
nhân tố của quá trình sản xuất[13], Smith khẳng định như thế.
Khác với nền kinh tế săn bắn, những nhân tố nói trên thuộc sở hữu của những người
khác nhau, vì vậy, những người này có quyền nhận một phần tiền lãi từ sản phẩm
được làm ra. Đấy là lao động của người
công nhân được thể hiện bằng tiền lương. Đấy còn là tư bản (Smith gọi là vốn) của người sử dụng lao động được thể hiện
bằng lợi nhuận. Và việc sử dụng đất, được thể hiện bằng địa tô, trả cho chủ đất.
Vì vậy, cả đất, tư bản và
lao động đều đóng góp vào quá trình sản xuất, làm cho người lao động, người sử
dụng lao động và chủ đất thành những người phụ thuộc vào nhau. Nhưng sự phụ thuộc
lẫn nhau còn vượt ra ngoài quá trình sản xuất; vì phần lớn sản phẩm là dùng để
trao đổi cho nên họ cũng có vai trò quyết định trong việc định giá và phân phối
sản phẩm nữa. Smith dẫn dắt chúng ta đến nhận thức rằng sản xuất, định giá và
phân phối sản phẩm quốc gia không phải là các quá trình tồn tại một cách riêng
biệt, mà tất cả xảy ra cùng một lúc, như những phần liên hệ với nhau của hệ thống
kinh tế đang vận hành, mỗi người chỉ là một phần của hệ thống đó. Đấy cũng là một
canh tân rất lớn về mặt lí thuyết.
Thị
trường thúc đẩy sản xuất như thế nào
Sau đó Smith mới giải
thích hệ thống này thúc đẩy và định hướng
sản xuất như thế nào. Ông nói rằng giá cả thị trường mà sản phẩm được trao
đổi có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá thành sản xuất của chúng (ông gọi đấy là “giá
tự nhiên[14]”).
Giá thị trường phụ thuộc vào nhu cầu (hoặc ít nhất là như cầu “có hiệu lực” của
những người tiêu dùng có đủ tiền mua) và số sản phẩm được đưa ra thị trường. Nếu
giá thị trường cao hơn giá thành sản xuất thì người bán có lời, nếu thấp hơn
thì người bán lỗ.
Giá thị trường không thể
thấp hơn giá sản xuất trong một thời gian dài: người bán sẽ rút khỏi thị trường
chứ không để bị lỗ mãi. Nhưng cũng không thể cao hơn quá nhiều trong một thời
gian dài. Nó sẽ báo cho những người cạnh tranh biết rằng có thể kiếm được lời,
nguồn cung sẽ gia tăng và giá trị trường sẽ hạ xuống. Như vậy là mục tiêu của sản
xuất là tạo ra số lượng cân bằng trên thị trường.
Di nhiên là cạnh tranh có
thể không hoàn hảo. Các quy định có thể cản trở việc tham gia vào thị trường.
Doanh nghiệp độc quyền có thể đẩy giá lên bằng cách giữ cho thị trường luôn bị
thiếu hụt. Hoặc thiếu thông tin: thí dụ người phát minh ra quy trình sản xuất rẻ
hơn có thể thu được siêu lợi nhuận trong một vài năm, trước khi những người cạnh
tranh cũng phát minh ra quy trình như thế. Cho nên giá “tự nhiên” và giá thị
trường có thể khác nhau.
Lương
phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế
Thị trường lao động cũng
không hoàn hảo. Đất đai, tư bản và lao động có thể phụ thuộc lẫn nhau, nhưng cuộc
đấu tranh giữa người công nhân, người sử dụng lao động và chủ đất là cuộc đấu
tranh không cân sức. Người sử dụng lao động có thể thúc đẩy luật lệ cấm công
nhân câu kết với nhau, Smith Lương phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế
Thị trường lao động cũng
không hoàn hảo. Đất đai, tư bản và lao động có thể phụ thuộc lẫn nhau, nhưng cuộc
đấu tranh giữa người công nhân, người sử dụng lao động và chủ đất là cuộc đấu
tranh không cân sức. Người sử dụng lao động có thể thúc đấy luật lệ cấm công
nhân câu kết với nhau, Smith nói, mặc dù việc câu kết giữa những người sử dụng
lao động với nhau là hiện tượng "thường xuyên và chỉ có một kiểu[15]”. Nhưng người sử dụng lao
động phải nhớ rằng trả lương thấp là sai lầm: lương cao hơn và điều kiện làm việc
tốt hơn có thể gia tăng năng suất lao động và sẽ tạo ra nhiều lợi nhuận hơn.
Ông cho rằng nâng cao thu
nhập quốc dân và gia tăng tích luỹ tư bản sẽ là người bạn đồng hành tốt nhất của
công nhân vì sẽ làm cho đồng lương tăng lên. Người chủ đất với lợi tức gia tăng
cũng sẽ thuê nhiều gia nhân hơn. Người thợ đệt hay thợ đóng giày có nhiều vốn
hơn cũng sẽ thuê thêm thợ phụ. Nói cách khác, nhu cầu lao động tăng khi - và chỉ
khi - tài sản của quốc gia tăng. Lao động sẽ chỉ được “tiền thưởng hào phóng”
khi kinh tế phát triển mà thôi.
Đồng lương thực tế là số
hàng hóa mà nó mua được. Smith nhận thấy rằng trong khi thuế khóa làm cho giá cả
các loại hàng hóa như nến, quần áo da, rượu và các loại hàng hoa xa xỉ khác gia
tăng thì lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm khác lại rẻ đi, tất cả đều
là nhờ hệ thống thị trường. Người nghèo lại càng có lợi, thế không phải là dở
vì: “Chắc chắn là xã hội không thể thịnh vượng và hạnh phúc nếu đa số các thành
viên của nó đều là những người nghèo đói và đáng thương[16]”.
Mức
lương trên thị trường
Vế lí thuyết, Smith giả định,
tiền công sẽ đi theo hướng cân bằng dần. Nếu một ngành nào đó được trả lương
cao, người ta lập tức bỏ những ngành khác và thị trường sẽ nhanh chóng lập lại
cân bằng. Làm sao mức lương thực tế lại có thể khác nhau được?
Ông trả lời rằng chúng ta
không được chỉ nhìn vào công “tính bằng tiền” mà phải nhìn vào công trả không
phải bằng tiền nữa. Một số nghề vất vả hoặc không hấp dẫn (đấy là lí do vì sao
đồ tể và đao phủ được trả lương cao hơn thợ dệt). Một số ngành (như xây dựng)
có tính mùa vụ. Số khác (như y tế đáng được lương cao vì trách nhiệm xã hội rất
lớn). Một số ngành tốn nhiều tiền ăn học (thí dụ như luật khoa), thậm ch đầu tư
nhiều mà khả năng thành công có thể chẳng bao nhiêu (hát opera). Tất cả các
nhân tố đó sẽ ảnh hưởng tới giá lao động trên thị trường của những ngành nghề cụ
thể.
Tiền
lương và chính trị
Nhân tố chính trị cũng có
ảnh hưởng tới thu nhập và lợi nhuận. Luật lệ có thể ngăn chặn không cho người
dân làm một số nghề. Smith trích dẫn luật lệ chỉ cho thợ kéo ở Shefield được
thuê nhiều nhất là một thợ học việc, còn thợ dệt ở Narfolk và thợ làm mũ ở Anh
chỉ được thuê nhiều nhất là hai người. Những rào cản như thế giúp duy trì thu
nhập cho những người có tay nghề, tức là những thợ cả trong nghề làm kéo, nghề
dệt và nghề làm mũ - nhưng bằng cách tước đoạt “tài sản thiêng liêng” do lao động
mà có của những người khác. Luật lệ như thế cũng ngăn cản không cho công nhân
chuyển từ những ngành đang xuống dốc sang những ngành cần thiết hơn.
Smith khẳng định ràng: “Người
làm cùng một nghê ít khí gặp nhau; ngay cả để vui chơi, giải trí, mà không kết
thúc câu chuyện bằng âm mưu chống lại xã hội hoặc là tìm cách nâng giá[17]”
Nhưng (ông liền viết) các
chính trị gia và luật pháp là những kẻ đồng lõa vì họ thông qua và cho thi hành
những luật lệ làm cho sự câu kết như thế càng dễ xảy ra hơn và có hiệu quả hơn.
Đấy là ông muốn nói đến những ưu tiên ưu đãi mà các hội nghề nghiệp được hưởng,
từ thời Trung cổ các hội này đã khăng khăng bảo vệ sự độc quyền của mình, hạn
chế số người được làm nghề và đưa ra điều kiện để được tham gia, đăng kí những
người được cấp môn bài hành nghề và thu hội phí để giúp đỡ những người nghèo
khó trong ngành của mình.
Nhưng luật pháp, Smith
nói, trong khi quy định việc đăng kí một cách công khai những người cùng nghề,
đã tạo điều kiện cho họ dễ dàng gặp gỡ nhau hơn và làm cho những cuộc gặp gỡ mang
tính âm mưu như vậy dễ dàng xảy ra hơn. Quỹ phúc lợi bắt buộc làm cho người ta
phải gặp gỡ nhau thường xuyên hơn vì các hội viên phải đến trụ sở hội để đóng
tiền. Nơi nào mà luật pháp còn đi xa hơn, cho phép các ngành nghề đó quyết định
chính sách bằng quy tắc đa số thì “còn hạn chế cạnh tranh một cách hiệu quả hơn
và kéo dài hơn bất cứ sự kết hợp tự nguyện nào[18]”.
Đối với Smith thì “kỉ luật
hiệu lực và hiệu quả” nhất đối với việc kinh doanh chính là nỗi sợ bị mất khách
hàng[19]. Thị trường tự do, trong
đó khách hàng là “thượng đế” là phương pháp điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp
hiệu quả hơn bất kì quy định chính thức nào khác - những quy định này lại thường
tạo ra kết quả trái ngược hẳn với mục đích mà nó tuyên bố.
Tư
bản và lợi nhuận
Hơn nữa, những quy định
ngặt nghèo còn ảnh hưởng đến một tác nhân nữa của quá trình sản xuất mà ông gọi
là vốn[20]. Vốn, như sau này ông giải
thích[21], bao gồm hàng hóa dự trữ
để sử dụng ngay như quần áo hoặc thức ăn, vốn cố định như máy móc; vốn lưu động,
bao gồm công việc đang làm và hàng hóa đã làm xong nhưng còn giữ trong kho.
Smith nói rằng lợi nhuận
của đồng vốn - tiền lãi trả cho những người đầu tư vào xí nghiệp sản xuất - biến
đổi vô chừng. Lợi nhuận phụ thuộc vào giá cả của mặt hàng, vào tình hình làm ăn
của đối thủ và “hàng ngàn hiện tượng ngẫu nhiên khác”, có thể xảy ra khi hàng
hóa đang trên đường vận chuyển hoặc lưu giữ trong kho[22]. Tuy nhiên, lợi tức là
tiêu chuẩn đầu tiên: người ta sẵn sàng trả lãi suất cao có nghĩa là họ có thể
làm ra nhiều lợi nhuận khi đầu tư vốn vay vào sản xuất.
Bằng những thí dụ minh hoạ,
Smith chỉ cho thấy lợi tức ở các thuộc địa ở Mỹ là rất cao, đấy là nơi có nhiều
đất nhưng lại ít vốn và ít người làm. Đất, vì vậy mà rẻ nhưng tư bản và lao động
thì lại đắt - được thể hiện bằng lợi nhuận, lợi tức và đồng lương, tất cả đều
cao.
Đất
đai và địa tô
Quan điểm của Smith về đất
đai và địa tô[23]
cho thấy thi độ của ông đối với địa chủ cũng chẳng khác gì thái độ của ông đối
với người sử dụng lao động: họ được hưởng “giá cả độc quyền”, không phải là do
cố gắng, mà chỉ vì họ sở hữu khu đất, vị trí và độ phì nhiêu của khu đất đó.
Các thương nhân giàu có càng muốn sở hữu những điền trang nguy nga ở vùng thôn
quê thì nhu cầu về đất càng tăng, giá đất và địa tô vì vậy sẽ tăng thêm.
Đất cung cấp cho ta
khoáng sản cũng như thức ăn và không gian sống. Phần nói thêm về bạc khá dài của Smith đã tập hợp được rất nhiều bằng
chứng ủng hộ cho luận điểm của ông rằng thu nhập quốc dân tăng thì giá hàng hoá
sẽ giảm nhưng giá đất lại tăng thêm.
Hệ
thống tự động
Tóm lại: “sản phẩm hằng
năm của đất nước” bao gồm địa tô, tiền lương và lợi nhuận, nghĩa là điền chủ,
công nhân và người sử dụng lạo động chắc chắn là phải phụ thuộc vào nhau[24]. Họ là thành phần của hệ
thống những dòng lưu chuyển, trong đó hàng hóa được tạo ra, được trao đổi, sử dụng
và thay thế - và các nguồn lực được sử dụng một cách hữu hiệu nhất - tất cả đều
xảy ra hoàn toàn tự động.
Nhưng quá trình đó có thể
bị bẻ cong bởi những người có đặc quyền đặc lợi, tức là những người lợi dụng
quyền lực của chính phủ nhằm bóp méo hệ thống thị trường tự do để thu lợi ích
riêng. Điền chủ có thể là những người ít năng động còn công nhân thì không có
quyền lực: nhưng những người sử dụng lao động thì có cả động cơ lẫn sự nhạy bén
nhằm thúc đẩy những điều luật bóp nghẹt cạnh tranh. Vì vậy:
Bất
kì đề xuất ban hành điều luật hoặc quy định điều tiết thương mại mới nào, có xuất
xứ từ giai cấp đó đều phải được lắng nghe một cách cực kì thận trọng và chỉ được
áp dụng sau khi đã kiểm tra một cách kí lưỡng và đủ lâu, kiểm tra không chỉ với
một sự chú ý cao nhất mà còn với một sự nghi ngờ cao nhất nữa. Vì để xuất đó xuất
phát từ những người mà quyền lợi không bao giờ trùng khít với quyền của xã hội,
những người thường muốn lừa bịp, thậm chí bức xã hội và vì vậy mà đã nhiều lần
lừa bịp và áp bức rồi[25]
Tích
luỹ tư bản
Cuốn II tác phẩm Của cải của các quốc gia nói về tích lũy
tư bản. Smith khẳng định rằng tích luỹ
tư bản là điều kiện chủ yếu cho tiến bộ kinh tế. Thặng dư tạo điều kiện cho quá
trinh trao đổi và chuyên nghiệp hóa. Chuyên nghiệp hoá lại tạo nhiều thặng dư
hơn; đến lượt nó, thặng dư lại có thể được đầu tư vào những thiết bị mới, phức
tạp và tiết kiệm nhân còn cao hơn. Đấy là một chu trình hợp lý. Nhờ có sự gia
tăng tư bản như thế mà sự thịnh vượng mới trở thành cái bánh ngày một lớn hơn:
một cá nhân (hay một dân tộc) không phải nghèo đi để cho người khác (hay dân tộc
khác) trở thành giàu lên. Ngược lại, khi tài sản tăng lên thì cả nước sẽ giàu
thêm.
Tiền
Tiền, theo Smith, không
có giá trị tự thân[26]. Nó chỉ là phương tiện
trao đổi. Tài sản thật sự nằm ở món hàng mà tiền mua được chứ không phải nằm ở
mấy đồng xu. Xét cho cùng, tổng sức mua của vàng và bạc cũng rất bấp bênh. Người
có thu nhập bằng tiền ngày hôm nay có có thể đem tiền đó ra tiêu vào ngày mai
và tạo ra thu nhập cho người thứ hai, người này lại có thể đem tiền đó ra tiêu
vào ngày sau nữa và bằng cách đó tạo ra thu nhập cho người thứ ba. Như vậy, rõ
ràng là số tiền đang lưu thông không phải là tổng thu nhập của quốc gia. Những
người theo phái trọng tiền sai vì đã lẫn lộn hai khái niệm đó.
Nhưng tiền cũng có tác dụng
của nó. Đồng tiền nằm không là một công cụ vô dụng - là “vốn chết” - song nghiệp
vụ ngân hàng hữu hiệu có thể làm cho tiền trở thành công cụ tích cực hơn. Thời
Smith chưa có tiền giấy như ngày hôm nay (đấy thực chất là tuyên bố của chính
phủ rằng tiền giấy mà họ in ra có giá trị sử dụng), thời đó các ngân hàng phát
hành tiền được bảo đảm bằng số vàng trong kho dự trữ. Smith cho rằng điều đó
làm cho tiền được lưu chuyển dễ dàng hơn, tuy nhiên ông đã nhận thấy rủi ro nếu
ngân hàng phát hành quá mức dự trữ của họ - nên nhớ ông chấp bút tác phẩm này
ngay sau cuộc khủng hoảng ngân hàng vào năm 1772, nhiều ngân hàng Scotland đã
phá sản trong vụ này. Smith cho rằng cạnh tranh làm cho ngân hàng phải thận trọng,
tuy nhiên ông cũng coi trọng vai trò điều tiết trong nghiệp vụ ngân hàng.
(Smith không phản đối tất cả các biện pháp điều tiết trong lĩnh vực kinh tế,
ông chỉ phản đối những quy định có mục đích thúc đẩy những lợi ích đi ngược lại
lợi ích chung mà thôi).
Tiêu
dùng và đầu tư
Smith còn đưa ra một sự
phân biệt mang tính sáng tạo nữa, đấy là phân biệt giữa tổng thu nhập và thu nhập
ròng - tổng thu nhập trừ đi chi phí[27], Chương III, nói về lao động
và tiết kiệm, tiếp tục phân tích vấn đề này và là phần chính của Của cải của các quốc gia, tuy thuật ngữ
của nó có thể làm cho người đọc hiện nay lúng túng. Smith chia lao động thành
ra lao động sản xuất và lao động phi sản xuất. Lao động sản xuất là công việc tạo ra giá trị cao hơn chi phí và tạo
ra thặng dư, có thể được đưa vào quá trình tái đầu tư - thí dụ như lao động của
những người tham gia sản xuất trực tiếp. Lao
động phi sản xuất là công việc phục vụ cho việc tiêu thụ trực tiếp, thí dụ
như công việc của bác sĩ hay nhạc công, luật sư hay nghệ sĩ múa rối, công chức
hay anh hề, tức là những công việc không tạo ra lợi tức có thể dùng để tái đầu
tư. Ông đã đưa ra sự phân biệt, mang tính nền tảng trong kinh tế học hiện đại,
đấy là phân biệt giữa lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực dịch vụ.
Tiêu thụ ngay những dịch
vụ như thế nghĩa là chúng ta đã dành lại ít thặng dư hơn cho việc duy trì và
gia tăng nguồn vốn, mà đấy chính là cơ sở cho thu nhập trong tương lai của
chúng ta. Hôm nay, ta càng tiêu thụ nhiều thì tốc độ phát triển và thu nhập
trong tương lai sẽ càng giảm.
Nói tóm lại, ta có thể
tiêu thụ nhiều đến mức chẳng còn gì để mở rộng năng lực sản xuất, thậm chí nhiều
đến mức không thể duy trì được năng lực
sản xuất nữa. Đấy chính là ăn vào vốn - Smith cho rằng: người “hoang phí không
giới hạn việc chi tiêu trong trong khuôn khổ thu nhập của mình” mà “ăn bám vào
số vốn mà cha ông họ đã tiết kiệm... nhằm duy trì sản xuất[28]”
Vốn liếng còn có thể bị
tiêu tán do quyết định đầu tư sai lầm (Smith gọi là “quản lí kém”). Đấy là ông
nhắc đến những người theo phái trọng tiền, tuy không làm giảm dự trữ vàng bạc của
quốc gia, nhưng rõ ràng là đã làm giảm năng lực sản xuất của nó. Và nếu không
có chế độ pháp trị thì tư bản có thể bị mất cắp - làm cho người ta không còn muốn
tích luỹ nữa.
Tuy nhiên, “các dân tộc
vĩ đại không bao giờ bị nghèo đi vì sự ăn bám và quản lí kém trong lĩnh vực tư,
nhưng đôi khi lại bị khánh kiệt vì sự ăn bám và quản lí kém trong lĩnh vực công[29]”. Người dân bình thường
biết rằng muốn cải thiện điều kiện sống thì phải tiết kiệm và đầu tư. Nhưng các
chính phủ thì lại ít quan tâm đến việc duy trì vốn liếng: vai trò của chính phủ
là chi tiêu cho các dịch vụ thường nhật chứ không phải là đầu tư cho sản xuất.
Smith nhận thấy rằng hầu như toàn bộ thu nhập của chính phủ đều được dùng để
nuôi những người không tham gia hoạt động
sản xuất.
Cho nên:
Vua
chúa và các thượng thư là... những kẻ kiêu căng và xấc xược nhất vì họ giả bộ
như đang chăm sóc đến sự tiết kiệm của các cá nhân riêng lẻ và ngăn chặn việc
chi tiêu của họ... Họ, không có ngoại lệ, bao giờ cũng là những kẻ hoang phí nhất
trong xã hội... Nếu việc chi tiêu hoang phí của họ không làm cho nhà nước sụp đổ
thì các thần dân của họ lại càng không bao giờ làm như thế[30].
Việc “chi tiêu quá mức của
chính phủ” có thể buộc những người đóng thuế phải “thâm lạm vào vốn của mình”
cho đến khi, dù “các cá nhân có căn cơ và quản lí tốt đến đâu cũng không bù đắp
được sự lãng phí và suy thoái sản xuất” mà nó gây ra. Nhưng kinh tế thị trường
là một hệ thống đầy sức mạnh. Chính phủ hoang phí có thể làm đất nước thụt lùi
nhưng ít khi ngăn chặn được nó:
Sự
cố gắng nhằm cải thiện điều kiện sống thường xuyên, liên tục và giống nhau của
mỗi người... thông thường đủ sức làm cho tình hình ngày một tiến bộ hơn, dù cho
chính phủ có hoang phí đến đâu và trong quản lí có mắc sai lầm khủng khiếp đến
đâu[31]
Bàn
thêm về tư bản
Smith nhận thấy rằng đồng
vốn có thể sử dụng theo những cách khác nhau[32]. Một số tài sản (như dụng
cụ nghề cá) cung cấp hàng hóa tiêu dùng ngay lập tức, số khác (máy móc) được
dùng để sản xuất hoặc vận chuyển nguyên liệu và thành phẩm; một loại vốn thường
bị lờ đi, nhưng cũng có vai trò quan trọng và hữu ích không kém, đấy là vốn
dùng trong thị trường bán lẻ, được dùng để chia hàng hóa thành những phần nhỏ
hơn, tức là thành những đơn vị sử dụng - để khi muốn ăn thịt ta không phải mua
cả một con bò.
(Điều này đã thúc đẩy
Smith đưa ra nhận xét khôi hài về biện pháp của chính quyền nhằm giới hạn số
người bán lẻ, tương tự như giấy phép cho quán bia vậy. “Không phải quá nhiều
quán bia”, ông nói, “là nguyên nhân gây ra nạn nghiện rượu nói chung... mà
chính nghiện rượu... làm phát sinh ra nhiều quán bia[33]”. Bán lẻ, cũng như mọi
ngành khác, tuân theo nhu cầu).
Tuy nhiên, thông điệp
chính của Cuốn II là việc tiết kiệm một phần sản phẩm của chúng ta, chứ không
tiêu thụ hết, làm cho vốn sản xuất của chúng ta tăng lên; đền lượt nó lại làm
gia tăng sản phẩm của chúng ta trong tương lai. Đầy chính là sự gia tăng tài sản
- không liên quan gì (xin những người theo phái trọng tiền nhớ cho) đền số lượng
kim loại nằm trong tầng hầm của các ngân hàng.
Nhờ có sự tích luý tư bản
mà chúng ta có thể đào tạo được nhiều chuyên gia hơn và sản xuất được nhiều máy
móc hơn. Phân công lao động sẽ càng ngày càng sâu sắc thêm và đến lượt nó,
Smith nói, lại đòi hỏi nhiều lao động hơn. Khi đồng vốn gia tăng thì lương cũng
tăng lên. (Smith chấp bút tác phẩm này trước khi cuộc Cách mạng Công nghiệp thể
hiện hết sức mạnh của mình, tức là chấp bút lúc lao động chân tay đóng vai trò
căn bản trong nền kinh tế. Có vẻ như ông không tưởng tượng được là máy móc có
thể thay thể được con người).
Nói cách khác, kinh tế thị
trường làm cho tài sản quốc gia gia tăng nhanh chóng chưa từng thấy, và số tài
sản này sẽ lan truyền xuống dưới, tới cả những người lao động nghèo khổ nhất.
Thực tế là, người nghèo ở các nước giàu có, tức là những nước áp dụng hệ thống
kinh tế thị trường, sống còn sướng hơn người giàu ở các nước nghèo, không áp dụng
hệ thống này. Đấy chính là thông điệp toàn cầu: các nước sẽ tự cải thiện được
hoàn cảnh của mình nếu họ không cố bám vào tư tưởng tự cung tự cấp hoặc tạo ra
hàng rào thuế quan nhằm chống lại những người khác.
Lịch
sử của các định chế kinh tế
Cuốn III xem xết sự phát
triển của các mối quan hệ kinh tế, dựa vào phòng đoán và rất nhiều sự kiện lịch
sử. Smith bắt đầu bằng việc thảo luận về quá trình tiến hóa từ nền kinh tề nông
nghiệp lên nền kinh tế công nghiệp. Sự phát triển của các thành phố và sự phu
thuộc lẫn nhau giữa thành thị và nông thôn là những hiện tượng hoàn toàn tự
nhiên, ông khẳng định như thế. Thợ thủ công cần nông dân vì nông dân cung cấp
cho họ lương thực, nông dân cần thợ thủ công vì thợ thủ công làm ra thiết bị,
còn các thành phố thì cung cấp thị trường cho hàng hóa của họ: thực vậy, thành
phố càng lớn thì trị trường càng to. Như vậy, không phải là thành phố sống bám
vào nông thôn (như các nhà kinh tế học theo trường phái “trọng nông” của Pháp
thời đó khẳng định); mà cả hai bên, qua trao đổi, đều làm gia tăng giá trị cho
những đóng góp khác nhau của mình.
Smith mô tả sự sụp đổ của
chế độ phong kiến ở châu Âu và khảo sát nguồn gốc của pháp luật phong kiến sau
khi đế quốc Roma tan rã và làm sao thương mại lại có thể buộc nó phải nhường
vai trò lịch sử của mình[34]. Smith biện luận rằng trước
khi xuất hiện thương mại và buôn bán, tài sản nằm trong tay những điền chủ lớn
và chắc chắn là những ông trùm này cũng trở thành những người có quyền hành hợp
pháp ở dịa phương. Đấy là quyền lực độc đoán và luật pháp phong kiến sinh ra là
để tiết chế bớt sự độc đoán, dù không phải lúc nào cũng thành công. Nhưng sự
phát triển của thương mại và buôn bán đã làm cho tài sản (và quyền lực) của các
điền chủ bị gặm nhấm dần và những người quản gia của họ trở thành các tá điền độc
lập. Bây giờ, những người tá điền, đã có khát vọng cá nhân, đòi phải được bảo đảm
an toàn hơn và chế độ phong kiến phải tạo điều kiện cho chế độ pháp trị xuất hiện,
tức là luật pháp được áp dụng giống nhau cho cả những người có địa vị cao lẫn
những kẻ thấp hèn. Sự phát triển của thương mại đã tách quyền lực kinh tế khỏi
quyền lực chính trị; thực vậy, quyền lực kinh tế đã có sức mạnh vô cùng to lớn.
Smith cho rằng đấy là kết
quả đáng mừng, vì nó bảo vệ đồng vốn và cho phép thương mại, buôn bán và sản xuất
phát triển dưới sự che chở của luật dân sự. Một lần nữa, những nhóm người hoàn
toàn không quan tâm đến việc phục vụ lợi ích chung, mà chỉ nghĩ đến việc bảo vệ
tài sản và sự an toàn của chính mình, đã làm được một việc hữu ích.
Lí
thuyết kinh tế và chính sách
Smith phê phán chính sách
can thiệp vào kinh tế trong Cuốn IV. Ông bắt đầu bằng chủ nghĩa trọng tiền và
quan niệm sai lầm của nó khi cho rằng tiền và tài sản là một - và chính sách
ngăn chặn nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu của nó nhằm giữ được càng nhiều
vàng, bạc càng tốt[35].
Phái
trọng tiền và tiền
Tiền, Smith nhắc nhở
chúng ta, chỉ là phương tiện để trao đổi. Vì ngoại thương chỉ là một phần rất
nhỏ của thương mại cho nên việc luân chuyển vàng qua biên giới khó mà có thể
làm cho một nước lớn suy sụp.
Dĩ nhiên là những người
theo phái trọng tiền nói rằng vàng là vật lâu bền và những nước xuất khẩu vào
nước ta có thể tích luỹ trong hàng chục năm, trong khi chúng ta lại ngu dốt đem
đổi vàng lấy những món đồ mau hỏng. Smith phán bắc rằng chúng ta hoàn toàn vui
mừng khi nhập món rượu vang (mau hỏng) và xuất trở lại cho họ đồ kim khí (lâu hỏng).
Nhưng người Pháp cũng không ngốc tới mức tích trừ nồi chảo nhiều hơn con số họ
cần, còn chúng ta cũng không ngốc tới mức dành dụm vàng bạc nhiều hơn mức hữu dụng
của chúng. Kim loại quý dư thừa là vốn chết, mà vốn chết thì không làm chúng ta
giàu lên được.
Ưu
thế tuyệt đối
Hạn chế nhập khẩu nhằm bảo
tồn kho vàng bạc, Smith viết tiếp, đồng nghĩa với việc người tiêu dùng nội địa
có ít lựa chọn hơn: họ phải mua hàng của người sản xuất trong nước chứ không được
mua hàng, có thể rẻ hơn hay tốt hơn, của nhiều nhà sản xuất ngoại quốc[36]. Đấy là chính sách kém hiệu
quả. Cùng với việc phân công lao động giữa các ngành nghề các nước cũng phải sản
xuất những thứ mà họ có khả năng làm tốt nhất và đem phần không dùng hết ra
trao đổi. Luận cứ này chính là nguyên tắc mà ngày nay chúng ta gọi là ưu thế
tuyệt đối, Smith kết thúc trường hợp này bằng thí dụ sống động sau đây:
Dùng
kính, phân bón và tường che, ở Scoland có thể trồng được những loại nho tốt nhất,
rồi từ đó làm ra những loại rượu vang tốt nhất với giá đắt hơn khoảng ba mươi lần
gía của loại rượu có chất lượng tương đương ở nước ngoài. Ngăn cấm nhập khẩu rượu
vang ngoai quốc, thúc đẩy việc xuất rượu vang đỏ ở Scolland, điều luật như thể
có hợp không?[37]
Chính sách can thiệp như
thế không những là bất hợp và tổn kém mà còn dẫn đến những hiện tượng thoái hóa
nữa:
Quan
chức nhà nước, người phải hướng dẫn dân chúng cách sử dụng đồng vốn của họ,
không chỉ khoác lên mình một sự chú ý hoàn toàn không cần thiết mà còn chiếm được
một quyền lực không những không thể trao cho bất kì cá nhân nào, mà còn không
được trao cho bất kì hội đồng hay cơ quan nào, chưa ở đâu quyền lực lại trở
thành nguy hiểm như khi nó nằm trong tay một kẻ điên rồ và ngạo mạn đến mức
nghĩ rằng mình có đủ sức sử dụng quyền lực đó[38].
Thuế
nhập khẩu và trợ cấp
Smith thừa nhận rằng có
thể áp dụng thuế nhập khẩu tạm thời nếu nó có thể buộc các nước khác giảm thuế.
Nhưng nói chung chính sách như thể là vô nghĩa và có hại, chúng ta phải thận trọng
với những người ủng hộ chính sách đó. Thí dụ, Anh đánh thuế nhập khẩu rượu vang
và bia với lí do là để giảm số người nghiện. Nhưng Smith phản bác lại rằng mặc
dù rượu đôi khi có thể bị lạm dụng, nhưng nếu chúng ta có thể mua với giá rẻ
thì vẫn tốt hơn là tự mình nấu lấy. Ông còn nhận xét rằng thuế nhập khẩu thiên
vị Bồ Đào Nha hơn là Pháp với lí do là Bồ Đào Nha tiêu thụ sản phẩm của Anh nhiều
hơn Pháp. Thủ đoạn vụng trộm của những người buôn bán nhỏ “đã trở thành châm
ngôn hành động của đế chế to[39]”, ông phàn nàn như thế.
Chúng ta cũng không cần
thiết phải lo về cán cân thương mại bất lợi, Smith nói với những người theo
thuyết trọng tiền như thế. Khi đất nước còn sản xuất nhiều hơn là tiêu thụ thì
nó sẽ tiết kiệm và vốn liếng sẽ gia tăng. Nước đó có thể cứ nhập nhiều hơn xuất
và tiếp tục làm ra sản phẩm dư thừa và trở thành giàu có hơn.
Lời phê phán của Smith về
những chính sách can thiệp khác, trong đó có bù thuế và thưởng (trợ cấp)[40] cho các nhà xuất khẩu,
cho thấy hình ảnh thú vị về giai đoạn đó. Thí dụ:
Thưởng
cho nghề đánh cá trích trắng theo kích thước của con tàu và tỉ lệ thuận với trọng
tải của tàu chứ không phải theo sự cần cù và thành tích trong việc đánh cá, thì
tôi sợ rằng nói chung tàu bè đều được trang bị chỉ để câu tiền thưởng chứ không
phải là cá[41].
Hạn
chế buôn bán với thuộc địa
Của
cải của các quốc gia được xuất bản chỉ vài tháng trước khi những
vụ xáo trộn ở Mỹ biến thành bạo loạn thực sự. Chương nói về các thuộc địa[42] chứng tỏ Smith có cảm
tình với người Mỹ chủ yếu là vì chính sách hạn chế của những người theo phái trọng
tiền đã làm tổn hại cho lĩnh vực thương mại của họ (chẳng mang lại lợi ích gì
cho Anh quốc) và một phần là vì ông cảm thấy rằng theo lẽ công bằng thì với số
thuế thu được như thế, Mỹ phải được quyền có nhiều đại diện hơn trong Nghị viện.
Trong khi truy nguyên nguồn
gốc của các thuộc địa, Smith cho rằng thuộc địa thường được dựng lên với hi vọng
tìm được vàng và bạc, mà những người theo phái trọng tiền đánh đồng với tài sản
quốc gia. Nhưng tài sản chính của Mỹ lại là đất đai. Đất vừa nhiều, vừa rẻ, muốn
biến của cải tiềm tàng của nó thành hiện thực thì cần phải có nhiều lao động:
Vì thể mà lao động trở thành đất đỏ, nhưng trên thực tế nông nghiệp Mỹ có năng
suất cao đến mức có thể chịu đựng được giá nhân công cao như thế. Thực ra, Mỹ
phì nhiêu và giàu đến mức ngay cả thuế khóa và những hạn chế về thương mại của Anh
quốc cũng không thể làm cho nó phá sản được.
Đáng tiếc là chính sách
buộc Mỹ chỉ được buôn bán với các vùng trong nước đã làm tư bản và xí nghiệp
Anh quốc không được sử dụng một cách hữu hiệu hơn - hạn chế sự thịnh vượng của
cả Anh lẫn Mỹ, kết quả là tư bản sẽ tích luỹ chậm hơn và vì vậy mà thu nhập
trong tương lai ở cả hai nước cũng thấp hơn. Anh quốc, ông nói, cố gắng biến Mỹ
thành “những người tiêu thụ” nhưng chính sách đó đã biến các điền chủ Mỹ thành
chính trị gia: và vì phần lớn nền công nghiệp Anh quốc tập trung cho thương mại
xuyên Đại Tây Dương cho nên rủi ro chính trị là rất lớn. Chỉ có thương mại và tự
do hóa chính trị mới có thể làm giảm được mỗi đe doạ, nhưng các khoản đầu tư của
Anh quốc đã bị làm cho méo mó đến mức sự điều chính cần thiết nhất định là đau
đớn.
Chính sách hạn chế thương
mại của Anh quốc là thí dụ nữa của tư duy theo lối trọng tiền, coi quyền lợi của
người sản xuất là tối thượng. Nhưng: “Tiêu thụ là mục đích cuồi cùng của sản xuất,
quyền lợi của người sản xuất cần phải được quan tâm khi và khi chỉ khi nó cũng
làm lợi cho người tiêu thụ”[43].
Lựa
chọn tự do
Smith cũng phê phán những
người theo phái trọng nông của Pháp vì họ cho rằng tất cả mọi giá trị đều từ đất
và từ sản xuất nông nghiệp mà ra - các nhà buôn và “thợ thủ công” ở thành phố
chỉ làm mỗi một việc là phân bố lại tài sản đó, tự họ chẳng sản xuất được gì hết.
Smith phản bác rằng dân thành thị cũng là người sản xuất. Họ không đơn giản là
tiêu thụ tư bản: họ luân chuyển đồng vốn. Họ là những người hữu ích chứ không
phải là vô ích.
Tuy nhiên, ông coi triết
lí của những người theo phái trọng nông là một trong những triết lí tốt nhất. Họ
không lầm lẫn giữa sản phẩm và tiền, họ cho rằng muốn có năng suất tối đa thì
thương mại phải được tự do hoàn toàn.
Smith khẳng định rằng
kinh tế thị trường đủ sức vượt qua trở lực ngay cả khi tự do chưa được hoàn hảo:
nhưng cái hay của chế độ kinh tế tự do là nó hoạt động một cách tự động. Nói
theo cách của Smith thì “hệ thống các quyền tự do thiên bẩm đơn giản và hiển
nhiên tự củng cố chính nó”. Như chúng, ta đã thấy, khi người ta được tự do theo
đuổi quyền lợi riêng của mình thì họ sẽ thúc đẩy quyền lợi của tất cả mọi người.
Không cần bất cứ chỉ đạo nào của trung ương:
Nhà
vua được được hoàn toàn giải phóng khỏi nhiệm vụ mà để thực hiện nó thì trí tuệ
hay hiểu biết của con người sẽ không bao giờ đủ, ông ta được giải phóng khỏi
nhiệm vụ quản lí công việc của tư nhân hay là hướng nó vào những ngành phù hợp
nhất với quyền lợi của xã hội[44]
Tất cả những hệ thống muốn
đưa các nguồn lực vào những hướng cụ thể nào đó “trên thực tế đều làm hỏng những
mục tiêu vĩ đại mà nó nhắm đến[45]”.
Vai
trò của chính phủ
Vai trò của chính phủ được
khảo sát trong Cuốn V. Ông có thái độ phê phán đối với chính phủ và bộ máy quản
lí hành chính quan liêu nhưng không ủng hộ laissez-faire[46]. Ông tín rằng nền kinh tế
thị trường mà ông mô tả chỉ có thể hoạt động và tạo ra lợi nhuận khi người ta
tuân thủ luật lệ của nó - đấy là tài sản được an toàn và hợp đồng được tôn trọng.
Vì vậy, bảo vệ công lí và chế độ pháp trị là vấn đề quan trọng sống
còn.
Quốc
phòng cũng quan trọng không kém. Người nước ngoài ăn cắp
hay người hàng xóm ăn cắp thì cũng thế, người nước ngoài ăn cắp đâu có làm cho
chúng ta được phong lưu hơn.
Nhưng Smith còn đi xa hơn
thế, ông khẳng định rằng chính phủ còn có trách nhiệm cung cấp công việc công cộng và thúc đẩy giáo dục nữa.
Quốc
phòng
Smith cho rằng trong thời
săn bắn và hái lượm, mỗi người phải tự bảo vệ lấy mình. Vì người thợ săn, tức
là người sống ngày nào biết ngày ấy và có rất ít hoặc chẳng có tài sản nào, gần
như không cần bất kì chính quyền trung ương nào. Luy nhiên, trong thời đại kinh
tế nông nghiệp, khi người ta bắt đầu tích lũy tài sản (thí dụ như thóc lúa hoặc
vật nuôi) thì bảo vệ trở thành ưu tiên. Khi nguyên tắc phân công lao động hình
thành thì lực lượng vũ trang chuyên nghiệp xuất hiện. Người có nhiểu tài sản
càng kiếm được nhiều, họ buộc mọi người phải đóng góp chứ không được đóng vai kẻ
qua đường nữa. Quốc phòng trở thành chức năng của chính phủ từ đấy.
Công
lí
Lí lẽ tương tự như vậy được
áp dụng cho công lí. Khi tiến vào xã hội thương mại, xã hội trao đổi, những người
có của phải thiết lập chính phủ dân sự nhằm bảo vệ họ trong cuộc đấu tranh chống
lại những người hàng xóm tay trắng:
Sự
sung túc của những người giàu kích thích sự phẫn nộ của người nghèo, những người
thường bị nhu cầu thúc đẩy và lòng đố kị xúi giục, xâm phạm vào tài sản của người
giàu. Phải có sự bảo vệ của chính quyền dân sự thì người sở hữu tài sản có giá
trị, thu được sau nhiều năm lao động, mà cũng có thể là nhiều thế hệ nối tiếp
nhau, mới có thể ngủ yên được[47].
Rõ ràng là mọi người đều
được lợi nếu họ chấp nhận quyền lực của các quan tòa độc lập. Nỗ lực của những
người giàu và có thế lực nhằm thiết lập cơ chế bảo vệ bằng pháp luật còn được
khuyến khích bởi xu hướng tự nhiên của con người là tôn trọng uy quyền của những
người có những phẩm chất như sức khỏe, thông thái, khôn ngoan, chín chắn, giàu
có và có địa vị.
Nói cách khác, chính phủ
dân sự là kết quả của xung đột và bất bình đẳng, tức là những hiện tượng xuất
hiện trong xã hội thương mại. Đấy là kết quả tự nhiên, nói chung là có lợi, tuy
hoàn toàn không có nghĩa là tối hảo.
Chính phú dân sự, lẽ ra
nó được dựng lên nhằm bảo vệ tài sản thì trên thực tế nó được dựng lên nhằm bảo
vệ người giàu chống lại người nghèo, hoặc bảo vệ những người có tài sản chống lại
những người hoàn toàn không có gì[48].
Việc chính phủ, được xây
dựng trên nền tảng không hoàn hảo như thế, có một cơ cấu không hoàn hảo chẳng
phải là chuyện đáng ngạc nhiên. Quyền thu thuế cho phép chính phủ tích luỹ được
những nguồn lực to lớn, nhưng nó lại không có động cơ quản lí tài sản hữu hiệu
như tư nhân vẫn làm. Vì vậy:
Khi
đất của nhà vua trở thành tài sản tư nhân thì chỉ sau vài năm là đã được cải
thiện và được chăm sóc kĩ lưỡng ... Ngân khố thu từ thuế nhập khẩu và thuế đánh
vào các mặt hàng tiêu dùng nội địa nhất định sẽ gia tăng khi thu nhập và tiêu thụ
của người dân gia tăng[49].
Thiếu vắng động cơ quản
lí là vấn đề cần phải được khắc phục: “Dịch vụ công chỉ được cải thiện khi phần
thưởng phù hợp với kết quả và tỉ lệ thuận với sự siêng năng trong khi thực hiện[50]”.
Các
cơ quan và công tác xã hội
Nhiệm vụ thứ ba của chính
phủ, theo Smith, là “xây dựng và duy trì những cơ quan và công tác xã hội, cực
kì cần thiết cho xã hội, nhưng lợi ích mà một người hay một nhóm người thu được
từ đó không thể nào bù đắp được chi phí cho nên không thể trông mong một người
hay một nhóm người nào đó đứng ra xây dựng và duy trì[51]”
Công việc này bao gồm các
dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, tức là làm cho việc buôn bán được thuận lợi hơn
và giáo dục, tức là làm cho người dẫn trở thành thành phần xây dựng trong trật
tự kinh tế và xã hội.
Công
tác xã hội
Muốn có thịnh vượng thì
phải có thương mại, mà thương mại lại cần cơ sở hạ tầng như đường xá, cầu cống,
hải cảng. Smith tin rằng một số công trình sẽ không bao giờ hoàn được vốn cho
nên phải lấy tiền thuế tài trợ cho việc xây dựng các công trình đó. Nhưng phí sử
dụng cũng có thể bù đắp được một phần, chứ không chỉ dùng tiền thuế của cả nước.
Tương tự như thế, nếu lợi ích chỉ mang tính địa phương mà phí sử dụng không đủ
bù đắp thì sử dụng thuế địa phương là tốt nhất: thí dụ người đóng thuế ở London
phải trả cho việc lát đường và chiếu sáng ở London.
Smith cho rằng xã hội cần
có chính sách ưu tiên ưu đãi nhằm khuyến khích những người muốn mở mang thương
mại với những nước “bán khai”. Nhưng sự giúp đỡ phải được thực thi dưới hình thức
doanh nghiệp độc quyền trong thời gian ngắn (như bằng phát minh hay bản quyền)
chứ không phải là những khoản trợ cấp lấy từ người đóng thuế.
Vì cho đến đây, tác phẩm Của cải của các quốc gia là sự chỉ trích
việc chính phủ “chỉ đạo” cách sử dụng đồng vốn của người dân, nên các chi tiêu
công cộng bên trên có thể nói là kì quặc. Chắc chắn là thương mại đòi hỏi phải
có hạ tầng cơ sở cũng như phải có công lí. Nhưng không rõ tại sao đường xá, cầu
cống, hải cảng lại không được xây trên cơ sở thương mại và toàn bộ giá thành sẽ
do những người sử dụng trả. Ngay cả việc lát đường hay chiều sáng cũng có thể
do các cơ sở thương mại địa phương trả vì họ sẽ thu được lợi nhuận. Và tại sao chính
phủ lại phải dính líu vào việc mở những đường giao thương mới.
Có thể chúng ta sẽ thông
cảm với Smith vì hiện nay chúng ta có nhiều công cụ tài chính hơn để tài trợ
cho công việc kinh doanh hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu mới. Chúng ta
cũng có công nghệ hoàn hảo hơn, tức là dễ dàng thu phí sử dụng cầu đường, hải cảng
hơn. Nhưng trong thế kỷ XVIII, sáng kiến và tài trợ của chính phủ có vẻ như là
biện pháp duy nhất nhằm thực hiện một số việc mà mọi người đều coi là thiết yếu.
Giáo
dục thế hệ trẻ
Smith cho rằng giáo dục
thế hệ trẻ cũng tương tự như xây dựng cơ sở hạ tầng - rất cần thiết nhằm thúc đẩy
thương mại. Nhưng ở đây, một lần nữa, ý kiến và chỉ dẫn của ông có vẻ như mâu
thuẫn với tinh thần chung của tác phẩm.
Xuất phát điểm là dù có rất
nhiều lợi ích, phân công lao động cũng có thể tạo ra những hậu quả xấu về mặt
xã hội. Tập trung vào những công việc lặp đi lặp lại hằng ngày chắc chắn sẽ hạn
chế quan điểm và mỗi quan tâm của người dân:
Một
người mà cả đời chỉ thực hiện vài hoạt động đơn giản, mà kết quả có thể cũng
như nhau hoặc gần như nhau thì anh ta sẽ không có cơ hội thể hiện sự hiểu biết
hoặc áp dụng sáng kiền nhằm tìm ra phương pháp khắc phục những khó khăn chẳng
bao giờ xảy ra[52].
Marx sau này sẽ gọi đấy
là sự “vong thân” và Smith khẳng dịnh rằng cần phải có giáo dục để uốn nắn lại
chuyện đó. Giáo dục phải đặt trọng tâm vào những người lao động nghèo, đấy
chính là những người đau khổ nhất (chủ các hãng xưởng, thương nhân có công việc
thú vị hơn). Muốn cho buôn bán diễn ra một cách thuận lợi thì người dân phải “biết
đọc, biết viết, biết làm toán”: hình học và cơ học cũng là những môn học có
ích, Smith nói như thế.
“Xã hội” có thể thúc đẩy
việc học tập bằng cách xây dựng trường học - như trường do chính quyền địa
phương tài trợ ở Kirkcaldy, nơi Smith từng theo học. Nhưng nhà nước có thể đầu
tư xây dựng trường mà không cần phải bao cấp toàn bộ tiền lương của giáo viên.
Giáo viên phải dựa chủ yếu vào học phí, công tác giảng dạy sẽ hiệu quả hơn.
Smith bực bội nhớ lại thời sinh viên ở Oxford: “Các khoản tài trợ các trường phổ
thông và đại học, dù ít dù nhiều, chắc chắn sẽ làm giảm sức ép đối với sự cố gắng
của các giáo viên. Tiền lương của họ hoàn toàn không phụ thuộc vào thành tích
và uy tín của họ trong cái nghề đặc biệt này[53]”
Ông không nói rõ nhà nước
phải tài trợ cho giáo dục phổ thông như thế nào, nhưng ông thể hiện sự quan tâm
sâu sắc đến các kĩ năng như đấu kiếm và nhảy múa, đây là những lính vực mà người
học phải trả toàn bộ học phí. Người đọc thời này, sau khi đã thấy những lời cảnh
báo của Smith về các doanh nghiệp của nhà nước, có thể hỏi rằng phải chăng nên
tài trợ cho các sinh viên nghèo hơn là tài trợ cho trường học.
Giáo
dục cho mọi người
Smith còn nhận thấy vai
trò của nhà nước trong việc học tập của người lớn tuổi và giáo dục trong lĩnh vực
tôn giáo nữa. Các giáo sĩ trở thành những kẻ lười biếng vì lương của họ được lấy
từ thuế thập phân[54], nhưng sức cám dỗ của các
thành phố đang phát triển làm cho việc giáo dục tôn giáo và giáo dục đạo đức trở
thành quan trọng hơn lúc nào hết. Cho nên ông ủng hộ vai trò của nhà nước trong
việc khuyến khích nghiên cứu khoa học, triết học và nghệ thuật - nhưng ở đây
ông cũng không nói rõ phải khuyến khích như thế nào. Ông khẳng định rằng nhà nước
phải “đặc biệt chú ý” đấu tranh chống lại “tổn thương về tinh thần” do hèn nhát
cũng như phải ngăn chặn sự lây lan của “bệnh hủi và những căn bệnh ghê tởm và gớm
ghiếc khá[55]”.
Quyền
lực tối cao
Khoản cuối cùng phải dùng
thuế để trả là để duy trì “phẩm giá của quyền lực tồi cao”, trong đó có chi phí
của hoàng gia và tòa hình sự. Nhưng phần lớn chi phí của toà dân sự phải do các
bên tranh chấp chi trả vì họ là những người hưởng lợi chính, Smith khẳng định
như thể.
Nguyên
tắc thuế khóa
Sau khi chứng minh rằng
nhất định phải thu một số loại thuế, Smith quay sang câu hỏi thu như thế nào
thì có lợi nhất. Luận cứ của ông ở đây quen thuộc và vững chấc hơn. Ông nhận thức
rõ rằng: “Không có nghệ thuật nào mà một chính phủ lại học được từ một chính phủ
khác nhanh hơn là nghệ thuật móc tiền từ túi người dân[56]”
Hiển nhiên là cần phải có
một số hạn chế và Smith để xuất bốn nguyên tắc thuế khóa nổi tiếng. Thứ nhất,
dân chúng phải đóng góp theo ti lệ với thu nhập mà họ được hưởng nhờ sự bảo vệ
của nhà nước. Thứ hai, mức thuế phải xác định chứ không lệ thuộc vào quyết định
tùy tiện của nhân viên thuế vụ. Thứ ba, không được gây ra khó khăn trong việc
đóng thuế. Thứ tư, chỉ được gây ra những phản ứng phụ tối thiểu: không tốn kém
trong hành thu, không gây trở ngại cho sản xuất và doanh nghiệp, không quá nặng
buộc người ta phải trốn thuế ví dụ như tìm cách buôn lậu, không đòi hỏi nhân
viên thuế vụ “phải viếng thăm thường xuyên và kiểm tra gay gắt[57]”
Thuế là thứ mà chính phủ
phải thu một cách đúng đấn, Smith nói như thế. Thí dụ như đánh thuế các công ty
là không khôn ngoan - vì, như ông nhận thấy với một sự sáng suốt hiếm có - tư bản
tạo ra thu nhập cho chúng ta có mức năng động rất cao:
Người
chủ tư bản thực chất là công dân toàn thể giới và không nhất thiết phải gắn bó
với một nước cụ thể nào. Người đó có thể bỏ đất nước nơi người đó trở thành đối
tượng của những cuộc điều tra rắc rối nhằm ấn định múc thuế khóa nặng nề và đưa
vốn của mình đến đất nước nơi người đó có thể tiến hành công việc kinh doanh hoặc
hưởng vận may của mình một cách dễ dàng hơn[58].
Nhưng ở đây kế hoạch của
Smith cũng có một vài mâu thuẫn. Ông chống lại thuế tiêu thụ, nhưng lại ủng hộ
thuẻ đánh vào hàng xa xỉ phẩm (kể cả những món hàng mà hiện nay chúng ta coi là
bình thường, thí dụ như thịt gà). Ông bảo rằng dân chúng phải đóng thuế tỉ lệ với
thu nhập của họ, nhưng lại muốn người giàu đóng “nhiều hơn tí lệ đó”.
Nợ
công
Trong khi quan điểm của
Smith về vai trò của chinh phủ không được nhất quán với nguyên tắc tổng quát của
ông và những gợi ý về chính sách có vẻ như cũng không được xem xét một cách đầy
đủ với sự chính xác thường thấy của ông thì ông lại kết thúc tác phẩm với văn
phong vốn có của mình. Các chính phủ có xu hướng tiêu nhiều hơn cả số tiền mà họ
có thể móc được từ túi người dân, ông ghi nhận như thế. Cho nên ông kết thúc
tác phẩm Của cải của các quốc gia với
lời cảnh báo rằng nợ quốc gia mà lớn thì chỉ có hại[59].
Phát hành công trái là
chính phủ rút vốn ra khỏi tiến trình đầu tư và phát triển, và hướng nó vào tiêu
thụ trong hiện tại - chỉ tiêu cho hoạt động của chính phủ - nghĩa là phát triển
sẽ bị chậm lại. Ngoài ra các khoản vay của chính phủ tạo điều kiện cho các
chính trị gia mở rộng chức năng và gia tăng quyền lực của mình mà không cần đòi
hỏi dân chúng phải tăng thuế. Và họ sẽ tìm mọi cách trốn nợ. Vì những lí do đó,
nợ quốc gia không phải là sự chuyển nhượng nhân từ từ nhóm người này sang nhóm
người khác: nó chính là mỗi đe dọạ thực sự đối với tự do và vì vậy mà cũng là mỗi
de dọạ đổi với sự thịnh vượng
Của
cải của các quốc gia ngày nay
Thế giới thời Smíth tất
nhiên là khác hẳn thế giới của chúng ta hiện nay, đấy là thế giới trước khi cuộc
Cách mạng Công nghiệp làm biến đổi tất cả mọi thứ. Ông có thái độ nghi ngờ đối
với các công ty cổ phần, trụ cột của chủ nghĩa tư bản ngày nay. Ông khẳng định
rằng “quá nhiều chủ" không thể giữ cho nó tập trung được[60]. Có thể ông đã nói đúng.
Ông không tiên đoán được sự gia tăng sức mạnh của các liên minh, không tiên
đoán được vấn đề ô nhiễm công nghiệp, vấn để lạm phát và nhiều vấn đề đang làm
đau đầu các nhà kinh tế học hiện nay.
[1] P.
J. O. Rourke, Về tác phẩm Của cải của các
quốc gia, Atlantic Moniny Press, New York, 2006, trang 7-8.
[2] Của cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương
I, trang 13, đoạn 1.
[3] Của cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương
I, trang 22, đoạn 11.
[4] Của cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương
II, trang 22, đoạn 10.
[5] Của cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương
II, trang 26-27, đoạn 12
[6] Lí thuyết về cảm nhận đạo đức, Phần VI,
Tiết 1.
[7] Của cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương
III.
[8] Của cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương
IV.
[9] Của cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương
V.
[10] Của cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương
VI, trang 65, đoạn 4.
[11] Của cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương
V, trang 49, đoạn 4.
[12] Của cải của các quốc gia, Cuồn I, Chương
V-XI.
[13] Của cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương
VI.
[14] Của cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương
VII.
[15] Của
cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương VII, trang 84, đoạn 13.
[16] Của cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương
VIII, trang 96, đoạn 36.
[17] Của
cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương X, Phần II, trang 145, đoạn 27.
[18] Của cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương
IX, trang 145, đoạn 30.
[19] Của cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương
X, Phần I1, trang 146, đoạn 31.
[20] Của cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương
X.
[21] Của cải của các quốc gia, Cuốn II,
Chương 1.
[22] Của cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương
IX, trang 105, đoạn 3.
[23] Của cải của các quốc gia, Cuốn 1, Chương
XI.
[24] Của cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương
XI.
[25] Của cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương
XI, trang 267, đoạn 10.
[26] Của cải của các quốc gia, Cuốn II,
Chương Il.
[27] Của cải của các quốc gia, Cuốn II,
Chương Il.
[28] Của cải của các quốc gia, Cuốn II,
Chương II, trang 339, đoạn 20.
[29] Của cải của các quốc gia, Cuốn II,
Chương III, trang 342, đoạn 36.
[30] Của cải của các quốc gia, Cuốn II,
Chương III, trang 346, đoạn 36.
[31] Của cải của các quốc gia, Cuốn II,
Chương III, trang 343, đoạn 31.
[32] Của cải của các quốc gia, Cuốn II,
Chương V.
[33] Của cải của các quốc gia, Cuốn II,
Chương V, trang 360, đoạn 7.
[34] Của cải của các quốc gia, Cuốn III,
Chương IV.
[35] Của cải của các quốc gia, Cuốn III,
Chương IV.
[36] Của cải của các quốc gia, Cuốn IV,
Chương II.
[37] Của cải của các quốc gia, Cuốn V, Chương
11, trang 458, đoan 15.
[38] Của cải của các quốc gia, Cuốn IV,
Chương 11, trang 456, đoan 10.
[39] Của cải của các quốc gia, Cuốn IV,
Chương I, Phần I, trang 493, đoạn C8.
[40] Của cải của các quốc gia, Cuốn IV,
Chương IV và V.
[41] Của cải của các quốc gia, Cuốn IV,
Chương V, trang 520, đoạn 32.
[42]Của cải của các quốc gia, Cuốn IV,
Chương VII.
[43] Của cải của các quốc gia, Cuốn IV,
Chương VIl, trang 660, đoan 49.
[44] Của cải của các quốc gia, Cuốn IV.
Chương IX, trang 687, đoạn 51.
[45] Của cải của các quốc gia, Cuốn V. Chương
X, trang 687, đoạn 50 .
[46] "Laissez-faire
là lí thuyết hay hệ thống chính quyền ùng hộ tính tự chủ trong lĩnh vực kinh tế,
tin rằng chinh quyền càng ít can thiệp vào quản lý kinh tế thì càng tốt. Khái
niệm này được cho là có xuất xứ từ quan điểm vô vi của Lão tử - ND
[47] Của cải của các quốc gia, Cuốn V. Chương
I, Phần lI trang 710 đoạn C2.
[48] Của cải của các quốc gia, Cuốn V. Chương
I, Phần lI trang 715 đoạn 12.
[49] Của cải của các quốc gia, Cuốn V. Chương
II, Phần I trang 824 đoạn a18.
[50] Của cải của các quốc gia, Cuốn V. Chương
I, Phần lI trang 719 đoạn 20
[51] Của cải của các quốc gia, Cuốn V. Chương
I, Phần IlI, trang 723 đoạn C1
[52] Của cải của các quốc gia, Cuốn V. Chương
I, Phần IlI, trang 782 đoạn F50
[53] Của cải của các quốc gia, Cuốn V, Chương
1, Phần III, mục II, trang 760.
[54] Thuế
thập phân (một phần mười sản phẩm hằng năm của một trang trại. Trước đây được
dùng để trả thuế ùng hộ giáo sĩ và nhà thờ) - ND.
[55] Của cải của các quốc gia, Cuốn V, Chương
I, Phần III, muc II, trang 787- 788, đoạn f60.
[56] Của cải của các quốc gia, Cuốn V, Chương
II, phụ lục cho mục I và Il, trang 861,
đoạn h12..
[57] Của cải của các quốc gia, Cuốn V, Chương
II, Phần II, trang 861, đoạn b6.
[58] Của cải của các quốc gia, Cuốn V, Chương
1, mục II, trang 848-849, đoạn f8.
[59] Của cải của các quốc gia, Cuốn V. Chương
III.
[60] Của cải của các quốc gia, Cuốn V, Chương
1, Phần II, mục 1, trang 744, đoạn e22.
No comments:
Post a Comment