(Reality, Spirituality and Modern Man)
David Hawkins, M. D., Ph. D.
Phạm Nguyên Trường dịch
CHƯƠNG 19
Tu tập
Dẫn nhập
Mục đích của tất cả những
tác phẩm và bài giảng trước đó là cung cấp các phương tiện cho việc áp dụng
theo lối thực dụng, thực tế, theo lối chủ quan các nguyên tắc và khám phá quá
trình tiến hóa của ý thức hướng tới Chứng ngộ và khám phá ra Sự thật Tâm linh.
Do đó, tất cả các tác phẩm trước đây là hiến dang cho Thiên Chúa và khám phá Thần
tính theo lối chủ quan như là Thực tại Tối thượng và Cội nguồn gốc của đời sống
và tồn tại.
Để khẳng định ý định
này, tất cả các cuốn sách đều bắt đầu và kết thúc với tuyên bố, “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời!”.
Tầng hiệu chỉnh sự thật và ý thức của tất cả các cuốn sách đều được nêu rõ nhằm
hỗ trợ trong việc định hướng. Mục đích của các tác phẩm đã được xuất bản phù hợp
với quá trình phát triển và tiến hóa của nghiên cứu tổng thể và những khám phá,
cũng như trình bày từng bước một phương thức nghiên cứu mới, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc tổng hợp tính chủ quan và tính khách quan. Cũng phát hiện được rằng
việc tiếp xúc với những khám phá và đưa vào bối cảnh thích hợp là có tính chuyển
hóa theo lối chủ quan.
Nhờ có hiểu biết ý thức,
con đường tu tập đã xuất hiện, tạo thuận lợi cho quá trình tiến hóa tâm linh và
sự thật tâm linh, cả quá khứ và hiện tại, đều có thể xác minh một cách dễ dàng.
Như vậy là, đệ tử tâm linh hay tín đồ tôn giáo hiện nay có điều kiện thuận lợi
hơn hẳn mọi người trong quá khứ, lúc đó họ chỉ có thể dựa vào tin đồn, danh tiếng,
hoặc sự khẳng định mang tính văn hóa, coi đó là xác minh.
Vì không có la bàn,
trong suốt chiều dài của lịch sử đã có rất nhiều sai lầm, đấy hậu quả của những
hạn chế trong quá trình tiến hóa của chính ý thức của con người. Những sai lầm như
thế không thể nào xảy ra được nữa, vì hiện nay đã có sẵn phương tiện nhằm xác định
sự thật của bất kỳ giáo lý, vị thầy, và truyền thống tôn giáo hoặc tâm linh nào.
Giá trị cốt lõi của công trình nghiên cứu hiệu chỉnh ý thức là phân biệt bản chất
với biểu hiện bên ngoài, và do đó, phân biệt được thật giả (vọng tưởng).
Đánh giá lịch sử: Tóm tắt
Sự xuất hiện của nghiên
cứu và điều tra về các thực tại và sự thật tâm linh/tôn giáo, tự nó đã có giá
trị mang tính thực dụng rồi. Phương pháp nghiên cứu đã mở ra ngay trước mặt người
ta những lĩnh vực thông tin mà trước đây tâm trí con người chưa bao giờ tiếp cận
được.
Mấu chốt của nghiên cứu
lâm sàng là phản ứng sinh lý được quyết định bởi tầng ý thức và sự thật của bản
chất chứ không phải hình thức bên ngoài của vấn đề đang được nghiên cứu. (Công
trình nghiên cứu được thực hiện trong thời gian gần đây cũng xác nhận phản ứng của
đồng tử. [Davis, 2007]). Người ta cũng phát hiện được rằng, các đệ tử tâm linh đã
tiến hóa tương đối cao không yếu đi khi phản ứng trước các kích thích tiêu cực
(ví dụ, đèn huỳnh quang, thuốc trừ sâu và đường hóa học). Phát hiện này dẫn đến
cách làm, theo đó những người còn ngây thơ được kiểm tra trước khi bắt đầu chính
thức theo khóa học tâm linh [cuốn Bải tập (Workbook)
trong khóa học về Phép lạ] và sau đó kiểm tra theo từng giai đoạn. Phát hiện được
rằng, sau ba tháng làm những bài tập cụ thể này thì các đối tượng kiểm tra trở
thành miễn nhiễm với các kích thích tiêu cực. (Hiện tượng tương tự cũng xảy ra
với bất kỳ khóa học tâm linh chính trực nào khác).
Dường như các phản ứng
trong quá trình kiểm tra sinh lý được quyết định bởi chính tầng ý thức giữ thế
thượng phong của nó. Để ghi lại phản ứng, thang đo ý thức tùy chọn từ 1 đến
1.000 đã được sử dụng, nhưng nó nhanh chóng chứng tỏ là không thực tế: các con
số gia tăng với tốc độ quá nhanh; do đó, chúng tôi phát hiện được rằng thang đo
hàm số mũ có thể biểu thị tốt hơn sức mạnh tương đối của năng lượng của ý thức.
Chúng tôi tạo ra một thang đo từ 1 đến 1.000, bao gồm tất cả các tầng tiềm năng
và toàn bộ đời sống, có ích theo lối thực dụng, theo nghĩa là nó bao gồm tất cả
các tiềm năng.
Tầng ý thức cao nhất
(1.000) là kết quả của quá trình hiệu chỉnh các Tháng thần Giáng thế Vĩ đại của
nhân loại, mà cụ thể là Chúa Jesus Christ, Đức Phật, Krishna và Zoroaster. Sau
đó là phát hiện quan trọng: tầng ý thức dưới 200 biểu thị giả dối và những tầng
từ 200 trở lên chứng tỏ sự thật đang gia tăng. Đường phân giới này cũng là đường
phân tách đặc tính của lực lượng bên ngoài (dưới 200) và sức mạnh bên trong (cao
hơn 200).
Tôi dành ba mươi năm tiếp
theo cho việc nghiên cứu trong mọi lĩnh vực của đời sống của con người, nhấn mạnh
vào nhận thức các tầng của sự thật và hiện thực tâm linh. Như vậy là, đã xác nhận
bằng trải nghiệm và theo lối chủ quan những khám phá của công trình nghiên cứu lâm
sàng, từ đó xuất hiện phổ có thể xác nhận được và hệ hình của thực tại, tương
quan với tầng ý thức, cũng như trải nghiệm của lịch sử loài người, trong đó có
những trạng thái tâm linh rất cao của các giác giả đã chứng ngộ.
Ứng dụng nghiên cứu ý
thức vào hầu hết các khía cạnh của đời sống đã diễn ra trong hàng chục năm và
được hỗ trợ bởi những khám phá của nhiều nhà nghiên cứu và các nhón nghiên cứu
độc lập trên toàn thế giới. Các phản hồi của họ lại thúc đẩy chúng tôi nghiên cứu
thêm hầu hết các khía cạnh của tồn tại trong khoảng thời gian dài hơn hẳn, và
thậm chí vượt ra ngoài vọng tưởng của chính thời gian. Từ đây xuất hiện nguyên
tắc nói rằng tất cả các tuyên bố về sự thật chỉ đúng trong một bối cảnh cụ thể.
Do đó, lần đầu tiên trong lịch sử nhận loại, đã tìm được phương pháp xác định sự
thật có thể kiểm chứng được.
Vì bối cảnh tối thượng
là trường vô biên vô tế của chính ý thức, nằm ngoài thời gian hoặc vị trí mang
tính khái niệm, những khu vực được mở ra cho nghiên cứu là không giới hạn. Kết
quả (được trình bày trong Truth vs.
Falsehood) trải rộng từ những hiện tượng dường như là rất trần tục đến những
tầng nhận thức tâm linh cao cấp nhất và cho tới chính trạng thái Chứng ngộ. Sự
thật đó có thể được nhận dạng, xác minh và xác thực là khối kiến thức mới mẻ dành
cho nhân loại, chính nhân loại cũng mới chỉ vượt lên khỏi tầng ý thức 200 để
vươn lên tới tầng 204 hồi những năm 1980 mà thôi. Chính bước nhảy này dường như
báo hiệu kỷ nguyên mới trong quá trình tiến hóa của nhân loại, tức là, xuất hiện
giống người Homo Spiritus (mời đọc
tác phẩm I: Reality and Subjectivity).
Như vậy là, không chỉ sự
thật mà sự thật chính xác đến mức nào về bất cứ điều gì, ở bất cứ đâu, nằm
ngoài thời gian hoặc không gian đều có thể được xác định chỉ trong vài giây. Khá
tình cờ là, trong những thập kỷ mà chúng tôi phát triển phương pháp nghiên cứu này
thì trong cơ học lượng tử và vật lý lượng tử cũng có những bước tiến bộ, cung cấp
cho chúng ta hệ hình mở rộng về vũ trụ. Phôi thai cho những khám phá này là
Nguyên lý bất định Heisenberg, vì vậy, chính ý thức đã trở thành mắt xích liên
kết giữa các chiều kích tuyến tính và phi tuyến, và do đó, liên kết giữa lý trí
và đức tin.
Quá trình học tập
Bằng nghiên cứu ý thức,
đã khẳng định được rằng chỉ cần đọc những cuốn sách đã xuất bản hoặc nghe các
bài giảng về nghiên cứu ý thức cũng đã dẫn đến những tiến bộ có thể đo lường được
trong tầng ý thức của cá nhân và do đó, thăng tiến về tâm linh rồi. Tự nó, những
thông tin cơ bản này rõ ràng là có tính chuyển hóa vì nó đưa trải nghiệm và hiểu
biết vào bối cảnh mới, kết quả là quá trình mở rộng hệ hình, bằng cách đó, ý
nghĩa nào đó được chuyển hóa, đó là do hệ quả của việc đưa vào bối cảnh mới chứ
không phải là xử lý theo lối tuyến tính.
Chúng tôi đã cố ý xuất
bản một loạt cuốn sách theo thứ tự: Qualitative and Quantitative Analysis
and Calibration of the Levels of Human Consciousness (1995), Power vs.
Force (1995), The Eye of the I (2001), I: Reality and
Subjectivity (2003), sau đó là Truth vs. Falsehood (2005), Transcending
the Levels of Consciousness (2006), and Discovery of the Presence of God
(2007).
Một loạt bài giảng trên
đĩa CD và DVD cũng góp phần làm rõ nội dung những cuốn sách vừa nói. Nội dung của
các buổi hội thảo không chính thức cũng được ghi trên đĩa CD.
Ứng dụng thực tế
Hầu hết mọi người đều đã
có sẵn một số định hướng tôn giáo/tâm linh, đấy là kết quả của cách sống, của nền
văn hóa hay trong gia đình. Trong những cách sống đó truyền thống là những sự
thật phổ quát hiện nay có thể dễ dàng được xác nhận. Ngoài ra, tác phẩm Truth
vs. Falsehood còn cung cấp cho người đọc những xác nhận đã được hiệu chỉnh
về cội nguồn của sự thật tâm linh, cũng như danh sách các đạo sư và giáo lý
chính trực.
Những con đường tâm
linh truyền thống là thông qua giáo dục và nghiên cứu kinh sách tâm linh chính
trực, có sức cuốn hút tự nhiên bằng những nguyên tắc và giáo lý khác nhau. Bằng
cầu nguyện, ý định của người tầm đạo được tiếp thêm sức mạnh cho nên tầng sự thật
sẽ được tiết lộ dần dần, phù hợp với tầng của ý thức đang giữ thế thượng phong
cũng đang thăng lên. Do đó, quan trọng là không trộn lẫn các tầng ý thức, vì làm
như thế có thể tạo ra những hiện tượng dường như là mơ hồ. Tốt hơn hết là giữ tất
cả thông tin mang tính thăm dò, vì sinh lý não sẽ tự thay đổi khi ý thức thăng
lên, nó sẽ giúp cho người ta nhận thức được toàn bộ vấn đề.
Mỗi người có thể chọn một
khái niệm tâm linh cơ bản làm chủ đề cho một ngày và dùng chiêm nghiệm, thiền định
và cầu nguyện cộng với những hành có tính dâng hiến. Nhiều người thấy rắng các
tác phẩm Practice of the Presence of God do Brother Lawrence chấp bút (2005) hay Centering
Prayer do Father Thomas Keating chấp bút (2004) là rất hữu ích. Cũng nên
tìm kiếm “các thiện tri thức” và tránh những người, những địa điểm và trò giải
trí có điểm hiệu chính dưới tầng 200. Trong đó có những hoạt động mà tên gọi là
tâm linh, nhưng có điểm hiệu chỉnh khá thấp. Vì vậy, tốt nhất là nên tránh hội
chợ của Thời đại Mới (New-Age fairs) các ông đồng bà cốt và các thiết bị được
cho là làm gia tăng tầng ý thức của con người. Cũng tránh những thứ giật gân hoặc
được quảng bá, chẳng hạn như mời tham gia “khóa huấn luyện” “công năng siêu
phàm” hay công năng đặc dị. Những “bí mật” được bán để kiếm lời có điểm hiệu chỉnh
khá thấp. Vì thế, khôn ngoan là không để “những bí ẩn của người xưa” (điểm hiệu
chỉnh 160) quyến rũ, nó có sức cuốn hút bản ngã tâm linh muốn trở thành “đặc biệt”.
Sự thật tâm linh không
có bí mật nào hết. Sự thật tâm linh là miễn phí và minh bạch. Lưu ý rằng không có
thánh thần giáng thế vĩ đại nào hay vị thầy tâm linh vĩ đại nào trong lịch sử che
dấu bất kỳ “bí mật” nào hết. Ngược lại, họ nói một cách tự do, cởi mở và không
hạn chế, tất cả đều vì lợi ích của nhân loại.
Bằng thiện chí và lòng
nhân từ với đời sống trong mọi biểu hiện của nó, vẻ đẹp bẩm sinh và sự hoàn hảo
của nó tỏa sáng như là Ánh hào quang, tồn tại xuất hiện từ đó. Cần nhớ rằng trong
thế giới có thể quan sát được này không có cái gì là “nguyên nhân” của bất cứ
cái gì khác, và mọi thứ chỉ đơn giản là thể hiện của tiềm năng tự xuất hiện, như
là thực tại, đấy là hệ quả của quá trình tiến hóa liên tục của Tạo hóa. Hiện tượng
này là trọng tâm của các lý thuyết về sự xuất hiện và độ phức tạp của lý thuyết
khoa học tiên tiến (Theise, 2006).
Trong quá trình quán
chiếu, cần nhận ra rằng hiện tượng “chứng kiến” và “quan sát” hoặc “trải nghiệm”
là tự trị, xảy ra một cách tự phát và về bản chất là phi cá nhân. Cũng lưu ý rằng
những phẩm chất trần tục của ham muốn là do bản ngã phóng chiếu ra ngoài. Nhận
ra rằng hạnh phúc là kết quả của tầng ý thức (con người mà người đó trở thành) chứ
không phải là của cải hay trải nghiệm.
Bằng cách xác nhận thiện
nghiệp không nhìn thấy được, những sự kiện hoặc hoàn cảnh khó chịu có thể trở
thành hữu ích. Có thể coi chúng là hoàn trả nợ nghiệp. Kết quả là, luôn luôn
tha thứ cho mình, nhưng chấp nhận rằng, có lẽ do không thể nhớ lại được, mình
đã từng là thủ phạm chứ không phải là nạn nhân là cách hành xử tốt. Khi đã hiểu
rõ hoàn toàn, cuộc đời của con người được coi là mang lại lợi ích tối ưu cho
quá trình phát triển nhận thức của cá nhân cũng như của toàn nhân loại.
Ý định tâm linh có thể có
sức mạnh nhờ kiên nhẫn, thỉnh cầu, kiên trì, cầu nguyện, phó thác và khiêm nhường
sâu sắc. Sự thật và Thực tại sẽ tự bộc lộ mà không cần nỗ lực khi những trở ngại
được loại bỏ. Nên tránh những phương pháp tâm linh giả tạo, chẳng hạn như “huấn
luyện bay lên”, thần chú, tư thế, kỹ thuật thở cưỡng bức và những biện pháp
nhân tạo khác. (Ghi chú pranayama [kiểm soát hơi thở] có điểm hiệu chỉnh 190).
Năng lượng tâm linh hay
kundalini tự xuất hiện như là kết quả của sự dâng hiến tâm linh, tận tâm và tiến
hóa tâm linh. Chấp nhận rằng mình đang bị số phận tâm linh lôi luốn chứ bị quá
khứ thúc đẩy theo lối nhân quả. Như vậy là, đệ tử tâm linh phản ứng trước tiếng
gọi bên trong do Đại ngã dàn xếp, cuốn hút đệ tử đến với số phận trong tương
lai của họ.
Quá trình tiến hóa tâm
linh là cam kết trọn đời và một lối sống, theo đó thế giới và tất cả mọi trải
nghiệm đều phục vụ cho ý định tâm linh. Không có sứ mệnh nào cao hơn quyết định
trở thành tôi tớ Chúa. Cùng với quá trình tiến bộ tâm linh, mỗi bước thăng tiến
đều có vai trò quan trọng ngang nhau vì, có thể nói, đấy chỉ là loại bỏ một
viên gạch mà cả một bức tường sụp đổ, và cái dường như không thể lại trở thành
có thể.
Trước sau gì, cái dường
như là kỳ diệu cũng có thể bắt đầu xuất hiện theo lối tự phát. Quan trọng là nhận
ra rằng những hiện tượng này không phải do chính mình hay tự ngã của mình làm, và
rằng chúng không phải là “sức mạnh” mang tính ma thuật nào đó. Những sự kiện kỳ
diệu chỉ đơn giản là hiện thực hóa tiềm năng, nó sẽ xuất hiện khi có điều kiện
thích hợp. Một trong những điều kiện là năng lượng của tầng ý thức cao. Từ tầng
ý thức thậm chí còn cao hơn, sẽ trở nên rõ ràng rằng tất cả các hiện tượng đều thực
sự xảy ra một cách tự phát, đấy là kết quả của quá trình tiến hóa của chính vũ
trụ, và do đó, không chỉ đời sống là hoàn hảo tại bất kỳ thời điểm nào, mà nó
còn là sự mặc khải liên tục trong đó người đó là người tham gia/người quan sát.
Khi bản ngã đang trong
quá trình gom lại và hòa tan vào Đại ngã, có thể có những giai đoạn và khoảng
thời gian, khi người ta cảm thấy mình có thể sắp chết. Đó chỉ là một cảm giác
sai lầm của bản ngã, bản ngã có thể phải chết, và do đó, sẽ an toàn khi phó
thác cho hiện tượng này. Đây cũng là thời điểm để từ bỏ việc sợ cái chết thể
xác. Cơ thể sẽ hoặc là đi hoặc sẽ không đi nữa. Trên thực tế, tùy chọn này
không dành cho tự ngã cá nhân mà chỉ dành cho Đại ngã.
Ở tầng cao hơn, năng lượng
có thể xuất hiện, năng lượng này liên quan với nghiệp chướng, mà người ta không
thể nhớ được hay thỏa thuận đã bị quên. Giải pháp cho mọi bế tắc hay nghi ngờ bao
giờ cũng là phó thác sâu sắc cho Ý Chúa.
Tự phê bình hay nghĩ rằng
mình “nên” tiến xa hơn nữa chẳng mang lại lợi ích gì. Quá trình tiến hóa tâm
linh diễn ra không theo quy luật nào và đôi khi thấy nó diễn ra chậm chạp, có lúc
lại thấy dường như dẫm chân tại chỗ. Phải nhận ra rằng mặc cảm tội lỗi là ham
mê mang tính ái kỷ. Có thể có những khoảng thời gian buồn chán kéo dài, dường
như không có gì tiến triển hết. Đó là mưu mẹo; “thời gian buồn chán, kéo dài” là
hiện tượng đang xảy ra như thể nó là
cuộc sát hạch về lòng quyết tâm. Có thể vượt qua những giai đoạn này bằng cách siêu
việt mong muốn của bản ngã tâm linh tìm kiếm lợi ích thông qua “tiến bộ”. Do
đó, chính thất vọng là dấu hiệu của việc tìm cách kiểm soát những thứ thực ra
là không thể kiểm soát được.
Nên nhớ rằng “những người
chờ đợi cũng đang phụng sự”. Thậm chí có những giai đoạn kéo dài nhiều năm mà dường
như không có tiến bộ nào, có thể đột nhiên có những bước tiến rất nhanh và rất lớn,
thậm chí có thể nhanh và lớn hơn hẳn điều mà người ta kỳ vọng.
Bước tiến như thế có thể
dẫn tới những trạng thái như niềm vui, phúc lạc hay thậm chí là mê ly, và người
ta không còn có thể hoạt động trong thế gian này được nữa. Đạt đến những trạng
thái này có thể buộc người ta phải thay đổi cách sống. Người ta cũng có thể
phát hiện ra rằng tìm cách giải thích với gia đình hoặc bạn bè có thể là vô
ích, và quá trình chuyển hóa phải được thực hiện cùng với lòng từ bi đối với
quan điểm của những người kia. Buồn cười là những nhận xét đầy vẻ châm biếm của
họ: “Anh ấy (cô ấy) chắc là bị điên” là một sự kiện ngược đời, vì tự ngã tâm
trí “suy nghĩ”, nhưng ngược lại, Đại ngã âm thầm “biết”.
Cũng cần nhớ rằng bản
ngã và đời sống vật lý của con người là phù du, số phận của linh hồn nằm ngoài
thời gian. Vì vậy, quyết định có nghĩa là từ bỏ cái nhỏ hơn để giành được cái lớn
hơn. Mặc cho sự phản đối của người thân, bạn bè, các công sự trong kinh doanh,
hầu hết những người đó đều cảm nhận được bằng trực giác ý nghĩa của phản ứng
trước lời kêu gọi cao cấp hơn.
Lối sống
tâm linh
Đây là lĩnh mà rất nhiều
đệ tử thắc mắc và cảm thấy không chắc chắn. Cam kết tâm linh mở ra một số lựa
chọn thay thế, ví dụ như:
1. Từ bỏ thế gian và
gia nhập một cộng đồng tâm linh, đạo tràng hoặc khu vực ẩn dật nào đó. Những tổ
chức thường được liên kết với một tỏ chức tôn giáo hoặc tổ chức tâm linh chính
thức nào đó, và một số thậm chí có thể yêu cầu đệ tử phát nguyện hoặc tham gia
các nghi lễ nhập môn. Một số dòng tu chính thức tuân theo học thuyết của giáo hội,
và do đó, có thể yêu cầu thừa nhận cam kết.
Một số khu ẩn dật nhấn
mạnh việc ẩn cư một mình và thiền định, có những giai đoạn nhịn ăn hoặc tránh
tiếp xúc với thế giới bằng giác quan. Những tổ chức chính thức khác nhấn mạnh
các hoạt động tâm linh theo nhóm, trong đó có làm việc, thờ phượng, đọc sách, đối
thoại và chia sẻ trong nhóm. Chỉ giữ lại những thứ cần thiết tối thiểu, thường thì
tài sản của mỗi người đều cống hiến cho cả
nhóm. Phải từ bỏ tất cả của cải và những ràng buộc, thường thì những cuộc viếng
thăm cũng bị hạn chế.
Các nhóm tôn giáo có thể
phải tuân thủ những hạn chế liên quan tới giáo lý của giáo hội. Ngoài ra, bản
ngã tâm linh còn thích thú với những hiện tượng làm cho mình trở thành đặc biệt
như đầu trọc, quần áo, và những thứ tương tự khác. Tương tự như bất kỳ quá
trình theo đuổi tâm linh nào, quan trọng là phải hiệu chỉnh tầng ý thức của
nhóm hoặc tổ chức cũng như học thuyết và biện pháp tu tập chính thức của nó.
2. Các khóa tu cung cấp
cho người ta những hoàn cảnh thuận lợi trong thời gian ngắn và thường được một
tổ chức nào đó tài trợ hoặc có người lãnh đạo khóa tu, cả hai đều cần được hiệu
chỉnh tầng ý thức.
3. Thực hành tâm linh
trong cuộc sống đời thường về nhiều mặt thực chất là cách tiếp cận thuận lợi nhất
và mang lại nhiều lợi ích nhất. (Tuyên bố này có điểm hiệu chỉnh là đúng). Nhiều
người nhận thấy rằng trong sạch và thánh thiện khi sống ở một chỗ an toàn, cách
ly khỏi thế gian là một chuyện, nhưng giữ vững cam kết trong cái thế giới đầy những
cám dỗ và mâu thuẫn này lại là chuyện hoàn toàn
khác.
Tiến bộ tâm linh diễn
ra theo giai đoạn. Khởi đầu, người ta học và nghiện cứu các thực tại tâm linh. Sau
đó là thực hành và áp dụng giáo lý vào tất cả các khía cạnh của đời sống, và cuối
cùng, người đó trở thành giáo lý. Bằng cách dâng hiến, cuộc sống của người đó trở
thành lời cầu nguyện. Bằng tận tâm, cam kết và thực hành, các khái niệm tâm
linh trở thành hiện thực được trải nghiệm. (Một đệ tử đã trưởng thành nói: “Làm
sao tôi có thể tha thứ cho kẻ thù của mình khi tôi không còn kẻ thù nữa?”)
Công việc thường làm
trong cuộc sống hàng ngày là ngồi thiền vào buổi sáng và buổi tối. Những buổi
thiền tập này ban đầu có thể kéo dài từ 20 đến 30 phút và kéo dài mỗi lần thành
một giờ hoặc hơn. Mặc dù một câu thần chú ngắn hoặc tụng kinh có thể giúp đi
vào thiền định, nhưng tự nó là chưa đủ và, nếu làm đọc quá nhiều lần có thể chỉ
dẫn đến thay đổi trạng thái của ý thức. Các đồ tế lễ như chuông, bộ gõ, âm nhạc,
nhang, cờ, dầu, nến và các dụng cụ khác thì cũng thế. Vì vậy, lời khuyên là nên
hiệu chỉnh tầng của bài kinh hoặc câu thần chú. Những câu thần chú “bí mật”, đặc
biệt là những câu thần chú được người ta rao bán, thì không có gì đặc biệt và những
sản phẩm được bán thường chỉ có điểm hiệu chỉnh ở tầng 290.
Mỗi ngày chọn một bài
hoặc một khái niệm tâm linh làm chủ đề quán chiếu là việc làm hữu ích. Đây là cách
đưa toàn bộ ngày hôm đó và trải nghiệm về nó vào bối cảnh mới. Ví dụ, có thể chọn
một bài từ A Course in Miracles, một bước trong chương trình mười hai bước,
một bài Thánh thi, hoặc một tiền đề tâm linh cơ bản, chẳng hạn như phó thác, khiêm
tốn, hoặc buông bỏ kiểm soát hoặc mong muốn đạt được lợi ích. Khi làm đi làm lại
trong một khoảng thời gian, việc này sẽ được kết hợp vào tính cách của người đó
và trở thành mối quan tâm của ngưới đó, rồi người đó tự nhiên trở thành nhân từ,
yêu thương đối với toàn bộ đời sống trong tất cả những biểu hiện của nó, và nhận
thức được sự hoàn hảo và vẻ đẹp trong từng khoảnh khắc.
Kết hợp vào đời sống
hàng ngày, việc tu tập tâm linh có thể trở thành hình thức thường xuyên buông bỏ
ý chí, rồi sau đó sẽ trở thành người chứng kiến và quan sát phi nỗ lực. Sau đó
người ta sẽ phát hiện ra rằng những khả năng này là phẩm chất của ý thức, chứ
không còn mang tính cá nhân nữa.
4. Chú tâm tâm linh,
tương tự như “khuynh hướng tư duy” (mind set[1]), qua đó
quá trình lý tâm linh trở thành ưu tiên. Cuối cùng, vọng tưởng về một “tôi’
riêng biệt, tách biệt đang “thực hiện” quá trình xử lý biến mất. Sau đó người
ta sẽ chứng kiến hiện tượng này là tự nó diễn ra theo lối tự phát.
Một cách nhanh chóng để
đạt đến trạng thái phi nỗ lực này là kỹ thuật khá đơn giản: thôi chống lại tri
giác/trải nghiệm về quãng thời gian hoặc khoảng thời gian. Đây là kỹ thuật quá đơn
giản nhưng đầy sức mạnh, và phần thưởng là sự giải thoát một cách đột ngột khỏi
áp lực “thời gian” diễn ra một cách thường xuyên, nhưng ta thường không nhận thức
được, áp lực thời gian tô màu và đưa trải nghiệm đời sống trần thế vào bối cảnh.
Phá vỡ sự thống trị của vọng tưởng về thời gian là công việc có thể thực hiện
được. Sau đó người ta sẽ phát hiện được rằng thời gian là phóng chiếu từ ý thức
và chỉ là hệ thống niềm tin, từ đó bản ngã “theo dõi thời gian” quá trình chứng
kiến các hiện tượng xuất hiện. Thoát khỏi sự thống trị của thời gian, thì sẽ có
cảm giác tự do và niềm vui bên trong cực kỳ lớn. (Lý thuyết lượng tử cũng cho rằng
thời gian là phóng chiếu từ ý thức con người chứ không phải phẩm chất bẩm sinh của
vũ trụ [Lynds, 2003]).
Chặng
cuối
Khi các điều kiện, trong
đó có khuynh hướng tư duy, ý định và dâng hiến, là thuận lợi, có thể xuất hiện
quyết định từ bỏ mọi thứ trên thế gian này và liên tục, tương tự như tia laser,
tập trung vào việc từ bỏ khía cạnh người nhận thức/người trải nghiệm của bản
ngã. Quá trình này nhanh chóng đưa người ta vượt lên khỏi tâm trí để đến với
“lưỡi dao xử lý” của người trải nghiệm (xem I: Reality and Subjectivity).
Cạnh 'bộ xử lý' này là vị trí thực tế của ý thức thông thường về cái ‘tôi’, và
nó tạo ra độ trễ 1/10.000 giây giữa thực tại (thế giới như nó đang là; khái niệm
res extensa của
Descartes) và thế giới như nó được nhận thức hoặc được trải nghiệm (res cogitans hay res interna của Descartes). Sự tách biệt như thế là mấu chốt và nơi
trú ẩn của vọng tưởng của tự gã về tính
nhị nguyên, nó che mờ sự hiểu biết về Thực tại của tính Bất nhị (Đại ngã). Siêu
việt vọng tưởng về tự ngã cá nhân, riêng biệt, thì sẽ xuất hiện Ánh sáng Rực rỡ
và Nhất thể của Đại ngã, nhớ đó toàn bộ sự sống, dù được biểu thị là chủ quan
hay khách quan, sẽ được đưa vào bối cảnh mới thành Nhất thể.
Sau đó
Tiếp tục trong cơ thể vật
lý có thể diễn ra hoặc không diễn ra, vì tính chất bên trong của các trạng thái
ý thức cực kỳ cao và quá trình phát triển tâm linh là nhận thức về một lời mời
gọi cho phép rời khỏi cơ thể vật lý (tầng 600). Dù người đó tiếp tục ở lại trong
cơ thể thì đấy cũng không còn là kết quả của ý chí cá nhân nữa. Trong thực tế,
trạng thái ý thức cao đòi hỏi từ bỏ thế gian. Điều này có thể làm cho người đó
phải sống cô độc và thích nghi với trạng thái mới hoặc hoàn cảnh đã thay thế cho
nhận thức trước đây về bản sắc cá nhân với niềm tin nhị nguyên của nó về quan hệ
nhân quả và về tự ngã cá nhân tách biệt như là tác nhân tạo ra quan hệ nhân quả.
Cái thay thế là trạng thái hoặc điều kiện tự trị chứ không phải là”con người”. Bản
sắc cá nhân bị giới hạn biến mất và tự ngã được được thay thế bằng cái Toàn thể
của Đại ngã.
Có thể lúc đầu sẽ diễn
ra giai đoạn “sốc Thần thánh”, tâm trí nín lặng và hoạt động diễn ta một cách tự
chủ, không có ý định của ý chí hay theo đuổi mục tiêu như đã từng xảy ra trước
đó. Chính điều kiện chỉ đơn giản “là” và do đó đã là toàn thể và trọn vẹn. Người
đó cũng thấy cơ thể đang hành động một cách tự chủ, tự phát và phải mất một thời
gian mới có quen với sự kiện là mọi người, dường như hơi kỳ quặc, vẫn tiếp tục gọi
cơ thể là “anh”.
Việc rút lui khỏi thế
gian có thể xảy ra, có thể là vĩnh viễn hoặc có thể kéo dài nhiều năm trước khi
một hình thức hoạt động nào đó xuất hiện. Phải học lại ý thức về vị trí cũng
như những nhu cầu cần thiết của đời sống thể xác. Người đó dường như không thấy
đói và có thể không ăn trong mấy ngày. Người đó có thể ngạc nhiên khi thấy thi
thể của mình được phản chiếu trong cái gương. Muốn trở lại với thế gian, cần
thiết phải học lại các chức năng của con người thông qua “cá tính”, tương tự
như diễn viên tự phát giao tiếp với thế giới và đánh thức trí nhớ còn sót lại để
hành xử theo cách mà thế gian cho là phù hợp. Vì vậy, có giai đoạn định hướng lại,
nhắm vào thế giới bình thường của con người.
Ra ngoài thời gian,
không còn quan tâm tới việc cơ thể được trù liệu sẽ sống được bao lâu nữa. Cơ hội
ra đi sẽ xuất hiện theo định kỳ, nó là lời mời gọi khá kỳ quặc, và đồng thời, người
đó chỉ chứng kiến là liệu nó sẽ ra đi hay không.
Vượt lên tuyến tính,
trong thực tại bất nhị phi tuyến tính của Đại ngã, không còn động cơ hay mục
tiêu trần thế nào nữa, cũng không còn kịch bản nào để theo nữa. Lúc đó hoạt động
có thể mở ra, nhưng không được coi là quan trọng hay có mục đích hoặc giá trị
nào đó; hoạt động là không quan trọng, vì không còn bất kỳ động cơ cá nhân nào
nữa. Tất cả đều phụ thuộc, có ích cho và là hậu quả của Mệnh lệnh của Thần tính
và Ý muốn của Thiên Chúa. Do đó, xuất hiện câu cảm thán: “Vinh danh Thiên Chúa
trên các tầng trời!”
Thảo
luận
Hỏi: Chương trình giảng dạy nghe có vẻ nghiêm khắc vì không có những cạm
bẫy tôn giáo và thần bí.
Trả lời: Chương trình được trình bày nhằm phục vụ cho người thực sự tìm kiếm
Chứng ngộ. “Con đường thẳng và hẹp” và “đừng lãng phí thời gian” có nghĩa là phải
bỏ qua sức hấp dẫn của trò giải trí không chỉ vì sự thật mà còn vì đây là cách
làm có tính thực dụng. Theo đuổi điều huyền bí sai lầm, những lĩnh vực huyền hoặc
của tưởng tượng tâm linh cũng như những kẻ mạo danh có sức cuốn hút bản ngã tâm
linh nhưng dẫn đến kết thúc chết chóc có thể kéo dái hàng chục năm. Tuy nhiên, chúng
thực sự là những trò giải trí thường xuyên che giấu những cạm bẫy trước những
người thiếu cảnh giác. Ví dụ, một thực thể “ở thế giới bên kia” có thể hiệu chỉnh
được và người ta phát hiện được rằng có bản ngã tâm linh tự củng cố bằng cách lôi
kéo thêm đệ tử và kiểm soát họ.
Những đệ tử giai đoạn đầu
thường nhầm lẫn giữa trạng thái huyền bí và đã thay đổi của ý thức (New-Age-ism)
với trạng thái tâm linh thực sự. Vì vậy, tốt nhất là nên nghi ngờ tất cả các vị
thày có những đồ trang trí màu mè và quyến rũ người ta cải đạo.
Hỏi: Một số nhận định trong tác phẩm của ông không thực sự trùng khớp với
Phật giáo cổ điển.
Trả lời: Đó là sai lầm của nhận thức cũng như giáo dục. Vì lợi ích của đệ
tử, Đức Phật dạy trí tuệ mà không dùng thuật ngữ “Chúa” vì thuật ngữ này bị hiểu
lầm quá mức. “Phật tánh” là bản chất của Đại ngã và ý thức/nhận thức thuần túy.
Về bản chất nó không đồng nhất với nội dung, tuy nhiên bao hàm toàn bộ bối cảnh.
Ngoài ra, kiến thức của đệ tử về Phật giáo chủ yếu mang tính sư phạm và truyền
thống. Thuật ngữ “người thày” có điểm hiệu chỉnh 650. Có rất nhiều vị thày Phật
giáo có kiến thức nhưng chưa hoàn toàn là người chứng ngộ như vậy, mặc dù một số
đã có trải nghiệm satori (ngộ) trong
một giai đoạn nào đó.
Hãy lưu ý rằng, ngay cả
Giáo hoàng cũng hiểu sai Phật giáo, theo nghĩa là, sự rụt rè của ông là do quan
điểm sai lầm, cho rằng thuật ngữ “tự tánh” ám chỉ bản ngã tự ngã nhỏ bé (và do
đó là ái kỷ) chứ không phải là Đại ngã (với chữ “Đ” viết hoa).
Hỏi: Những mô tả của ông về các trạng thái tâm linh cao cấp là của người
thứ ba. Tại sao thế?
Trả lời: Những hiện tượng được mô tả không mang tính cá nhân và do đó, được
gọi là “điều kiện” hay “trạng thái” tự tồn tại. Không có “người” nào là người
giác ngộ. Ý thức về “tôi” (I) hoặc “anh” hay “tôi” (me) được thay thế bằng trạng
thái tự tồn tại không có định xứ cụ thể hay đặc điểm tuyến tính. Nó giống như bầu
trời đang tỏa sáng mà không có vị trí, ranh giới, thời gian, khởi đầu, hay kết
thúc. Điều kiện không “làm” bất cứ việc gì hoặc “là nguyên nhân” của bất cứ cái
gì. Các hiện tượng được nhìn thấy là phù du, không có quan hệ nhân quả mang
tính cá nhân hay thực tế có thực ở bên trong.
Thượng đế/Phật tánh đang là và như vậy là trọn vẹn. Vì vậy,
nó không “làm” bất cứ việc gì hoặc “đi” bất cứ đâu, cũng không có thời gian theo
dõi “thời lượng”. “Lúc này” và “mãi mãi” là một.
Hỏi: Bối cảnh tổng thể của nỗ lực tâm linh phải như thế nào?
Trả lời: Phụng sự vị tha vì tình yêu đối với muôn loài. Muốn Chứng ngộ thì
phụng sự Thiên Chúa và đồng bào của mình. Tỉnh giác và điều chính cho hòa hợp với
vẻ đẹp bẩm sinh của tất cả những thứ đang tồn tại. Nhìn thấy sức quyến rũ và kỳ
lạ của ngay cả những cái mà thế giới coi là già nua, tàn tạ và xấu xí.
Hỏi: Làm có thể tạo ra những điều kiện thuận lợi cho tiến bộ?
Trả lời: Đấy là thái độ tò mò tự nhiên. Lựa chọn sẽ dẫn đến các khuynh hướng,
rồi trở thành khuynh hướng tư duy quen thuộc. Trong từng khoảnh khắc là tất cả
những yếu tố cần thiết tự hiện thực hoá. Nhìn vào bản chất chứ không chỉ là hình
thức bên ngoài. Mọi thứ đều hoàn hảo nếu được nhìn như nó thực sự đang là. Mọi
thứ đều đúng như “đáng lẽ phải là”, dù nó sáng bóng và mới hay bị rỉ sét và đầy
bụi. Tránh các tính từ vì tất cả các tính từ đều là phóng chiếu, là hạn chế của
tư duy. Sau này, người ta thậm chí có thể bỏ các trạng từ vì không có cái gì thực
sự “đang làm” bất cứ cái gì; nó bẩm sinh đang
là. Quá độ là hiện tượng bắt nguồn từ bên trong người quan sát, người đó nhìn
thấy trình tự như là một động từ. Nếu được nhìn thấy trong chưa đầy 1/10.000 giây,
mọi thứ dường như đứng yên.
Hỏi: Nếu tôi từ bỏ bản sắc cá nhân, liệu tôi có trở thành “Không”?
Trả lời: Không. Vượt trên vọng tưởng tưởng về Hư vô là Toàn thể. Đại ngã
là vô biên vô tế, không có khởi đầu hay kết thúc. Nó nằm ngoài thời gian và
không phụ thuộc vào điều kiện. Đại ngã gần gũi hơn với Thực tại của người đó
hơn tự ngã. Người ta không thể đánh mất danh tính thực sự của mình hoặc trở
thành “không”, vì, trên thực tế, một người nằm trong tổng thể của Mọi thứ, Toàn
thể và Mãi mãi.
Vấn đề “Hư Không”
(Void) (dường như là Hư vô (nothingness) có điểm mức hiệu chỉnh 850) được bàn chi
tiết trong Chương 18 tác phẩm Transcending the Levels of Consciousness. Void
là hậu quả của việc phủ nhận tình yêu như là Thực tại vì lẫn lộn tình yêu có điều
kiện (chấp trước) như là một khía cạnh của bản ngã với Tình yêu Thần thánh, vốn
là phẩm chất nội tại của Chúa. Vượt trên vọng tưởng về sự trống rỗng là sự viên
mãn của sự hoàn thành, tương tự như Tỏa sáng cốt lõi, nó là tổng thể và không
thể nhầm lẫn được. Vì Thần tính là Cội nguồn bẩm sinh nên không thể “bị lạm dụng”
hoặc “bị mất”, Thần tính thừa nhận và tuyên bố là chính nó. (Tuyên bố này có điểm
hiệu chỉnh 1.000)
Vượt ra ngoài phi tuyến
tính, thì dường như Hư vô (Notingness) lại là Toàn thể, nó là mặc khải của Thần
tính như là Tình yêu vô biên vô tế - mạnh mẽ, dịu dàng và không thể cưỡng lại
được như là Ánh sáng của Bản chất của Toàn bộ Tồn tại. Nó sâu sắc, không thể nhầm
lẫn, hiển nhiên và bao gồm tất cả.
Hỏi: Thế giới lúc đó sẽ như thế nào?
Trả lời: Bản chất của Thần tính tỏa sáng như là Ánh hào quang từ sự Hoàn hảo
của Tất cả Tạo vật như là phẩm chất của sự tồn tại của chính nó. Sự xuất hiện
liên tục sẽ dẫn đến việc chứng kiến hiện tượng như là tự chủ và tự phát triển
vượt ra ngoài thời gian, nằm ngoài quan hệ nhân quả, hay thậm chí quá trình. Tiềm
năng mở ra như là hiện tượng thực tế.
Tất cả những điều vừa
nói được người ta biết một cách tự động, đấy là do sự Hòa hợp của Hiện hữu/Tồn
tại. Sự hoàn hảo của Tất cả những cái đang Tồn tại tỏa ra Vẻ đẹp tinh tế, Cân bằng
hoàn hảo và Hài hòa, qua đó Hoàn hảo hiển lộ như là Hoàn hảo hơn, đấy là do quá
trình mở ra theo lối tiến hóa. Không có “ở
đây” cũng không có “ở đó”; không có “lúc này” cũng không có “lúc đó”. Khi đã trọn
vẹn thì không còn câu hỏi nào cần phải trả lời vì Tất cả đều là Hiển nhiên. Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời!
[1] Mindset là niềm tin định hướng
cách chúng ta xử lý và đối mặt các tình huống trong cuộc sống – ND.
Sáng hôm nay đẹp trời nên bác Trường đã upload chương cuối của cuốn sách sớm quá. Cháu rất là vui vì được đọc bài mới xuất sắc như mọi khi này ạ.
ReplyDelete