December 21, 2024

HOÀ TAN BẢN NGÃ, NHẬN RA ĐẠI NGÃ (2)

 HOÀ TAN BẢN NGÃ, NHẬN RA ĐẠI NGà

DAVID HAWKINS, M.D., Ph. D. 

Phạm  Nguyên Trường dịch 


2

 BẢN CHẤT CỦA “TÂM TRÍ” 

Thường thì “tâm trí” được dùng thay thế cho “bản ngã”, nó là đơn vị xử lý, bản ngã được đồng nhất với nó. Cuối cùng, tương tự như bản ngã, chính tâm trí cũng chỉ là một khái niệm. Tiến sĩ Hawkins giải thích:“Bằng trải nghiệm, người ta chỉ có thể nói rằng những suy nghĩ, cảm xúc, hình ảnh và ký ức xuất hiện trong nhận thức của một người là một quá trình diễn ra bất tận.” Và chúng ta gọi quá trình bất tận này là “tâm trí.” Khi hiểu được bản chất thực sự của tâm trí, người ta sẽ trở nên ít bị ảnh hưởng bởi tác động của hoạt động bên trong của nó và có vị thế tốt hơn nhằm siêu việt sự đồng nhất với nó.

Tương tự như cơ thể, tâm trí không phải là tự ngã thực sự của một người, và tương tự như cơ thể, về cơ bản, nó là phi cá nhân. Nó có những suy nghĩ, nhưng những suy nghĩ này không phải là sản phẩm của tự ngã. Ngay cả khi một người không muốn có tâm trí, thì họ cũng có tâm trí. Không có lựa chọn nào trong vấn đề này; tâm trí bị áp đặt và bị ép lên một người mà người đó không yêu cầu. Sự kiện là có tâm trí, nó là áp đặt không tự nguyện, giúp nhận ra rằng đó không phải là sự lựa chọn hay quyết định cá nhân.

***

Mọi tách biệt dường như đều là sản phẩm của tư duy. Cần thấy rằng tâm trí luôn trải nghiệm một quan điểm nào đó.

***

Có thể so sánh thiết kế của tâm trí con người với thiết kế của máy tính, trong đó não là phần cứng có khả năng chạy bất kỳ chương trình phần mềm nào được đưa vào. Theo thiết kế, phần cứng không có khả năng tự bảo vệ mình trước những thông tin sai; do đó, tâm trí sẽ tin vào bất kỳ chương trình phần mềm nào mà xã hội đã lập trình cho nó, vì nó không có bất kỳ biện pháp bảo vệ nào. Tâm trí con người, do cơ cấu bẩm sinh của nó, là ngây thơ, và mù quáng trước những hạn chế của chính mình và cả tin một cách ngây thơ. Mọi người đều là nạn nhân của sự vô minh và hạn chế của bản ngã của con người.

***

Tâm trí của con người không có khả năng phân biệt thật giả. Nếu không như thế, thì lịch sử đã không có chiến tranh, không có các vấn đề xã hội, không có vô minh hay nghèo đói. Mọi người sẽ đều là những người chứng ngộ, và ý thức của nhân loại sẽ không giữ mãi ở tầng 190 (tầng kiêu hãnh, dưới tầng chính trực 200) trên Bản đồ Ý thức, hết thế kỷ này sang thế kỷ khác.

***

Do tri giác nhị nguyên, tâm trí không thể phân biệt được biểu tượng trừu tượng với thực tại. Con đường dẫn đến sai lầm là rộng mở và mời gọi, và ý kiến ​​​​được đưa ra, vì tâm trí không có cơ chế bẩm sinh để phân biệt thật giả. Do quá trình xử lý nhị nguyên trong tâm trí, nó đã xây dựng được khả năng kìm nén và phủ nhận để có thể loại bỏ những trở ngại nhằm vươn tới mục tiêu của mình. Tâm trí phát hiện ra rằng nó có thể phủ nhận quyền sở hữu phía mà nó không mong muốn của cặp đối lập và phóng chiếu nó ra thế gian. Do đó, đã sinh ra không chỉ chính trị mà cả các cơ chế tâm lý mà ai cũng biết là phân chia, đàn áp, phủ nhận và phóng chiếu. Khả năng này hóa ra là cơ chế có thể làm chết người ở chỗ ngay cả khi phải đối mặt với những kết quả khủng khiếp, bản ngã vẫn không ngừng theo đuổi chính những sai lầm đó. Hàng triệu người đã chết trong mỗi thế hệ trong suốt chiều dài của lịch sử và tiếp tục như thế ngay trong thế giới hiện nay.

***

Ngoài những chuyện nhỏ nhặt, mang tính cá nhân, tâm trí không được thiết lập để dễ dàng học hỏi từ những sai lầm của mình.

Người ta không bị “buộc” phải cảm thấy oán hận bởi một ký ức tiêu cực, cũng không phải tin vào một suy nghĩ đầy sợ hãi về tương lai. Chúng chỉ là những lựa chọn. Tâm trí giống như một chiếc tivi đang hoạt động trên nhiều kênh khác nhau để lựa chọn, và người ta không phải tuân theo bất kỳ sự cám dỗ cụ thể nào của suy nghĩ. Người ta có thể rơi vào cám dỗ cảm thấy thương hại bản thân mình, hoặc cảm thấy tức giận hay lo lắng. Hấp dẫn bí mật của tất cả những lựa chọn này là chúng mang lại phần thưởng hoặc thỏa mãn bí mật ở bên trong, đó là nguồn gốc của sự hấp dẫn của những suy nghĩ trong tâm trí.

***

Hiển nhiên là: tâm trí hoàn toàn không đáng tin. Thực ra là không thể dựa vào tâm trí. Nó không thể nhất quán, và hiệu suất của nó cũng không ổn định, mà rất thất thường. Nó quên mang chìa khóa tới văn phòng, quên số điện thoại và địa chỉ, và là nguồn gốc của thất vọng hoặc phiền toái. Tâm trí bị ô nhiễm bởi cảm xúc, tình cảm, định kiến, điểm mù, phủ nhận, phóng chiếu, hoang tưởng, ám ảnh sợ hãi, sợ hãi, hối tiếc, mặc cảm tội lỗi, lo lắng và bồn chồn; cùng với những bóng ma đáng sợ như đói nghèo, tuổi già, bệnh tật, chết, thất bại, từ chối, mất mát và thảm họa.

Ngoài tất cả những điều vừa nói, tâm trí còn bị lập trình một cách ngây thơ và sai lầm bởi bộ máy tuyên truyền, khẩu hiệu chính trị, giáo điều tôn giáo và giáo điều xã hội bất tận, và thường xuyên bóp méo các sự kiện—chưa nói đến xuyên tạc, sai lầm, phán đoán sai và thông tin sai. Trên hết, khiếm khuyết chính của tâm trí không chỉ là nội dung, thường là không liên quan hoặc sai lầm, mà còn sự kiện là nó không có bất cứ phương tiện nào để phân biệt thật giả. Nó chỉ là một bàn cờ để cho người ta chơi mà thôi.

***

Khiêm tốn có giá trị lớn hơn là tích lũy thông tin. Trừ khi một người đã trải nghiệm hoàn toàn và trọn vẹn hiện diện của Thiên Chúa trong Toàn thể tuyệt đối, tuyệt vời của Ngài, thì có thể cho rằng người đó thực sự không biết gì và tất cả những cái gọi là kiến ​​thức tích lũy được thực ra chỉ là thăm dò mà thôi. Bất cứ cái gì bên trong tuyên bố rằng “Tôi biết” đều chứng tỏ rằng tuyên bố đó sai là do chính tuyên bố đó, nếu không thì nó đã không đưa ra tuyên bố như thế.

***

Suy nghĩ là do thiếu thốn; mục đích của nó là đạt được. Trong toàn vẹn, thì không còn thiếu thốn. Tất cả đều trọn vẹn, toàn bộ và toàn vẹn. Không có gì để suy nghĩ, cũng không có động cơ nào để suy nghĩ. Không có bất cứ câu hỏi nào, và không tìm kiếm hay cần bất cứ câu trả lời nào nữa. Toàn vẹn là trọn vẹn, viên mãn hoàn toàn, không có cái gì không hoàn thiện để xử lý nữa.

***

Niềm tin là yếu tố quyết định cái mà người ta trải nghiệm. Không có “nguyên nhân” bên ngoài nào hết. Người ta khám phá ra những phần thưởng bí mật thu được từ những phóng chiếu bí mật nhưng vô thức. Có thể khám phá được những chương trình cơ bản của một người bằng cách viết ra danh sách những bất bình và đau khổ của người đó và sau đó chỉ cần biến chúng thành những ngược lại.

***

Suy nghĩ là tự diễn ra, không có cái gì hoặc người nào là nguyên nhân hết.

***

Về mặt chức năng, tâm trí là nhị nguyên và do đó, thiết lập quá trình xử lý riêng biệt dựa trên các định vị tùy tiện, những giả định mà hoàn toàn không có thực tại nào hết. Do đó, do thiết kế, tâm trí có khiếm khuyết cơ bản, như Descartes chỉ ra, là nó không thể phân biệt res cogitans với res extensa (tức là hoạt động trong tâm trí về cái dường như chỉ là biểu hiện bên ngoài của thế gian chứ không phải thế giới thực). Do đó, tâm trí nhầm lẫn các phóng chiếu của chính mình và nhầm tưởng rằng chúng tồn tại độc lập, ở bên ngoài—trong khi trên thực tế, không có cái gì như thế tồn tại hết.

***

Tâm trí truyền đạt lại các hiện tượng trong 1/10.000 giây; do đó, tâm trí giống như bộ phận phát lại của máy ghi âm. Khi giao diện của tâm trí giữa các hiện tượng và trải nghiệm tan rã, thì sự khác biệt là khá rõ rệt.

***

Tâm trí hoạt động như một bộ xử lý dữ liệu đồng thời cả ở bên trong lẫn bên ngoài. Nó phân loại, sắp xếp, đặt ưu tiên, đưa vào bối cảnh mới và cùng lúc giải thích như thể nó sử dụng một cách nhất quán các ngân hàng bộ nhớ, các trung tâm cảm xúc và những phản ứng có điều kiện và tương quan của chúng. Tất cả những điều trên đều được sắp xếp theo bối cảnh với các bản năng cảm xúc/động vật được sắp xếp, bác bỏ, chấp nhận hoặc sửa đổi.

Ngoài ra, sự phức tạp này đồng thời còn chịu sự chi phối của các tùy chọn, lựa chọn và ý chí. Các tùy chọn và lựa chọn liên quan đến ý nghĩa và giá trị nói chung—và chúng còn chịu ảnh hưởng và chi phối của trường ý thức tổng thể, bao gồm tất cả, có các tầng nhất quán và thay đổi của lực lượng bên trong liên quan đến tầng ý thức cũng bị ảnh hưởng bởi các khuynh hướng nghiệp lực. Đồng thời, tâm trí đánh giá mức độ của sự thật mang tính tương đối, độ tin cậy của thông tin, sự phù hợp và khả năng hành động trong các giới hạn của hành vi xã hội nhiều tầng nhiếu lớp, trong đó có các nguyên tắc đạo đức, luân lý, xã hội và tôn giáo.

***

Tâm trí giống như một đơn vị xử lý vô cùng phức tạp, nó xử lý dữ liệu cả ở bên trong và bên ngoài.

***

Tâm trí ngây thơ cho rằng chính “tôi” thực sự đang tìm kiếm sự thật vì nó cho rằng bản ngã/tự ngã của nó là tác giả chính và duy nhất của ý định, cũng như hành động, và do đó, là người phán xét thực tại.

***

Người ta đồng nhất với cơ thể của mình vì tâm trí của người đó đang trải nghiệm cơ thể của mình.

***

Điểm cuối của công cuộc nghiên cứu trí tuệ dẫn tới kết luận hiển nhiên rằng, tâm trí và trí tuệ đều có khiếm khuyết cố hữu và do đó, không có khả năng vươn tới sự thật tuyệt đối.

***

Hỏi: Cái gì làm cho suy nghĩ trở thành hiện tượng dai dẳng như thế?

Trả lời: Tất cả nội dung của tâm trí đều là chấp trước, và nền tảng là chấp trước vào tự ngã và bám víu vào những thứ được cho là cội nguồn của khả năng sống còn cũng như hạnh phúc. Đó cũng là nhận dạng của người đó. Trong thực tại, cội nguồn của hạnh phúc là Đại ngã, chứ không phải tự ngã (bản ngã).

***

Suy nghĩ là một thiết bị xử lý có giá trị thực dụng to lớn; nó cho rằng mình biết dữ liệu, nhưng thực ra nó không có khả năng biết bẩm sinh. Niềm tin tạo ra một “người biết” tưởng tượng ở bên trong, và người đó trở thành “tôi” (me). Tương tự như thế, nó tạo ra người làm việc tưởng tượng, người hành động và một người suy nghĩ tưởng tượng về những suy nghĩ.

***

Mỗi suy nghĩ thực sự nảy sinh từ hư vô, hoặc trường năng lượng tĩnh lặng của tâm trí, và không phải, như người ta giả định, là do một suy nghĩ trước đó tạo ra.

***

Nghiên cứu về ý thức khẳng định rằng khoảng 99% “tâm trí” là tĩnh lặng và chỉ có 1% là đang xử lý hình ảnh mà thôi. Tự ngã của người quan sát thực ra là bị thôi miên bởi 1% hoạt động và đồng nhất với nó là “tôi” (me)—nó không biết 99% tĩnh lặng của trường vì nó không nhìn thấy được và không có hình tướng.

***

Một khi những suy nghĩ hay cảm xúc được dán nhãn là “của tôi,” thì chúng như được phép màu ban cho sự toàn tri mặc định và tính hợp lý tuyệt đối tự cho là đúng..

***

Ý nghĩ, ý tưởng và khái niệm có giá trị thực dụng và hữu ích đối với thế gian; nhưng khi từ bỏ thế gian, chúng trở thành hành lý dư thừa và chẳng có giá trị gì.

***

Thông qua tự kiểm tra và chú tâm vào bên trong, người ta có thể khám phá ra rằng tất cả các trạng thái ý thức đều là kết quả của lựa chọn. Chúng hoàn toàn không phải là những điều chắc chắn không thể thay đổi được, mà chúng được quyết định bởi những yếu tố hoàn toàn không thể kiểm soát được. Có thể khám phá được hiện tượng này bằng cách kiểm tra cách thức hoạt động của tâm trí.

***

Khiếm khuyết chính hiện nay, cũng như từ trước đến nay, là thiết kế của tâm trí con người làm cho nó, về bản chất, là không có khả năng phân biệt thật giả. Khiếm khuyết di truyền quan trọng nhất này là gốc rễ của mọi đau khổ và tai ương của con người.

***

Bản ngã/tâm trí cho rằng và tin rằng nhận thức và cách diễn giải của nó về những trải nghiệm của cuộc đời là “thực” và do đó là “đúng”. Nó cũng tin - bằng cách phóng chiếu – rằng những người khác cũng nhìn nhận, suy nghĩ và cảm nhận giống mình – nếu họ không như vậy, thì họ lầm lẫn và vì thế là sai. Do đó, nhận thức củng cố việc kiểm soát của mình bằng cách hiện thực hóa (hành động biến một ý tưởng trừu tượng thành một thực thể cụ thể - ND) và các giả định.

***

Khuynh hướng nhị nguyên của tâm trí ngăn cản, không cho người ta nhận ra Nhất thể của Thực tại hoặc Tự Chứng ngộ vì hệ thống niềm tin nhị nguyên được thể hiện trong ngôn ngữ giả định rằng “cái này” gây ra “cái kia”. Do đó, nó đồng thời và tự động coi mình là người “làm việc” riêng biệt (và được đánh giá bằng đạo đức). Hệ thống xử lý theo lối nhị nguyên trong tâm trí như thế củng cố các định vị của bản ngã, và đến lượt mình, nó tạo ra “vọng tưởng về những mặt đối lập”, chắn ngang cánh cổng dẫn đến chứng ngộ.

***

Mặc dù tâm trí con người thích tin rằng nó “tất nhiên” dâng hiến cho sự thật, nhưng trong thực tại, cái mà nó thực sự tìm kiếm là xác nhận những điều nó đã tin. Bản ngã vốn kiêu hãnh và không hoan nghênh mặc khải nói rằng nhiều niềm tin của nó chỉ là vọng tưởng của tri giác mà thôi.

***

Tâm trí con người cho rằng hệ thống niềm tin có nhiều người theo là bằng chứng của sự thật, và tất nhiên, lịch sử đầy rẫy những ví dụ rõ ràng là ngược lại. (ví dụ, xin mời đọc cuốn sách Extraordinary Popular Delusions and the Madness of Crowds của Charles Mackay).

***

Cũng giống như “tôi” (I) vật lý ghi lại hình ảnh và vật thể như một chiếc máy ảnh, tâm trí là “tôi” của tự ngã, nó duy trì vọng tưởng về một bản sắc cá nhân độc đáo, riêng biệt, được coi là nguồn gốc của suy nghĩ, ý định, khao khát, v.v. Khi từ bỏ vọng tưởng ái kỷ này, thì rõ ràng là tất cả các khía cạnh của đời sống mà người ta cho là mang tính cá nhân thực ra lại là những sự kiện tự chủ và tự phát.

***

Tất cả các cảm xúc tiêu cực đều sống rất lâu vì chúng nhận được phần thưởng bí mật. Khi “nhựa sống của bản ngã” bị suy giảm, suy nghĩ có xu hướng giảm dần rồi biến mất. Sau đó, tâm trí có xu hướng trở thành “trống rỗng”, nó làm cho người ta sợ buồn chán. Khi quan sát, ta thấy rõ rằng tâm trí đang bận rộn dự đoán tương lai (sợ hãi); bám víu vào quá khứ (hối tiếc, hận thù, mặc cảm tội lỗi); hoặc thưởng thức quá khứ để tìm kiếm niềm vui bằng cách phát lại. Do đó, tâm trí trở thành tâm điểm của giải trí khi nó “làm” một việc gì đó.

***

Vì ý thức là vô hình tướng và không có nội dung, nên nó có thể nhận ra hình tướng. Chỉ có thể nhận ra suy nghĩ nếu nó di chuyển trong trường không có suy nghĩ. Do đó, bối cảnh của tâm trí là sự im lặng của trường ý thức. Đến lượt mình, ý thức là một trường năng lượng tiềm tàng, có thể nhận biết được vì nó được chiếu sáng bởi ánh sáng của nhận thức, mà đấy là Đại ngã.

***

Tâm trí chỉ có thông tin và trí tưởng tượng về bất cứ điều gì; nó không thể thực sự “biết” vì biết là trở thành cái được biết. Mọi thứ khác chỉ là suy đoán và giả định. Khi siêu việt được tâm trí, lúc đó sẽ không còn gì để hỏi nữa. Cái đã trọn vẹn thì không thiếu bất cứ thứ gì, và sự trọn vẹn đó là hiển nhiên trong Toàn thể của nó..

***

Mặc dù tự ngã cá nhân thích nghĩ rằng những ý nghĩ đang diễn ra trong tâm trí là “ý nghĩ của tôi,” nhưng thực ra chúng chỉ là “những ý nghĩ” giữ thế thượng phong ở một tầng ý thức nhất định.

***

Ý nghĩ tự nghĩ; chúng hoàn toàn không cần bạn, giống như cơ thể tự hoạt động mà thôi.

***

Thực tại của tâm trí là hư cấu. Với nhận thức đó, tâm trí mất quyền thống trị của mình như là trọng tài của thực tại. Qua con mắt của bản ngã, đời sống là kính vạn hoa đầy những thứ hấp dẫn và ghê tởm, sợ hãi và thú vui thoáng qua làm thay đổi ý thức.

***

Nếu quan sát kỹ những việc tâm trí của mình thực sự đang làm, bạn sẽ thấy rằng nó luôn cố gắng nhằm “vượt lên” thời điểm kế tiếp. Vào khoảnh khắc tiếp theo (khoảng 1/10.000 giây), những sự kiện mà người ta đang trải nghiệm (họ không bao giờ trải nghiệm thực tại) là diễn giải thực tại của bản ngã. Giống như hệ thống âm thanh, có bộ phận giám sát. Khi bạn ghi lại một chương trình, bộ phận giám sát sẽ truyền âm thanh vào tai bạn. Bạn nghe được những âm thanh vừa được ghi lại cách đây một phần giây, nhưng bạn không nghe chương trình; bạn đang nghe những gì vừa được ghi lại.

Hầu hết mọi người đều trải nghiệm băng ghi hình bản ngã diễn giải các sự kiện. Họ không trải nghiệm các sự kiện như chúng đang diễn ra trong thực tại; họ đang trải nghiệm diễn giải của bản ngã.

***

Suy nghĩ có nguồn gốc vị kỷ, và chức năng chính của nó là bình luận. Trừ khi được yêu cầu, suy nghĩ là phù phiếm: một quá trình bất tận của ý kiến, hợp lý hoá, tái xử lý, đánh giá và phán xét tinh tế, bằng cách đó những suy nghĩ được đánh giá cao hoặc quan trọng vì chúng là “của tôi”. Bản ngã say mê câu chuyện cuộc đời của nó và nhân vật trung tâm của nó.

***

Sự kiện là tâm trí của con người, nếu không được giúp đỡ, thì sẽ không thể phân biệt thật giả, đấy là do cơ cấu và thiết kế bẩm sinh của chính nó là khám phá làm cho người ta kinh ngạc đến mức có thể so sánh với với khám phá của Copernicus đã tạo ra cú sốc văn hóa vào thế kỷ XVI. Bởi vì chỉ riêng một sự thật này đã trái ngược với suy nghĩ của tâm trí bình thường rồi, cho nên nó có thể sẽ không được những người kiếm lời bằng những lời lẽ nguỵ biện tinh vi và vọng tưởng.

 


No comments:

Post a Comment