Vũ Tường
Nguyễn Trung Kiên dịch
CHƯƠNG 1
SUY NGHĨ VỀ NHỮNG CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG, 1917 - 1930
Hồ Chí Minh, người đã trở thành biểu tượng cho chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản Việt Nam, là một trong những người Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Lenin. Sau này ông nhớ lại:
“Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tán thành theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Ở nước ta và ở Trung Quốc cũng vậy, có câu chuyện đời xưa về cái ‘cẩm nang’ đầy phép lạ thần tình. Khi người ta gặp những khó khăn lớn, người ta mở cẩm nang ra, thì thấy ngay cách giải quyết. Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái ‘cẩm nang’ thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”.[64]
Sinh ra với cái tên Nguyễn Sinh Cung (hay Côn) vào khoảng năm 1890, Hồ đã được đi học chính thức một chút từ khi còn nhỏ và trở thành một nhà hoạt động chính trị vào cuối Đại chiến thế giới lần thứ Nhất khi sống ở Pháp.[65] Con đường từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Lenin của ông là trải nghiệm chung của nhiều nhà cộng sản Việt Nam, như trường hợp của Trường Chinh. Như Hồ từng thừa nhận, có được niềm tin vào chủ nghĩa Lenin không phải là sự kết thúc mà chỉ là sự khởi đầu của một con đường mới. Phải mất nhiều thời gian và công sức ông mới nắm bắt được đầy đủ các tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Con đường cách mạng là một cuộc vật lộn về trí tuệ, hệt như cuộc vật lộn về thể chất của Nguyễn Ái Quốc (hoặc Quắc hay Kwak trong một số phiên bản), tên mà Hồ đang sử dụng vào thời điểm đó. Có thể quan sát cuộc đấu tranh tinh thần này qua các bài viết của ông: đầu tiên ông thể hiện sự hiểu biết đơn giản và máy móc về khái niệm cách mạng thế giới, nhưng dần dần ông đã bộc lộ một tri thức sâu sắc hơn.
Đến đầu thập niên 1930, Đảng Cộng sản mà Quốc đã thành lập dưới sự hướng dẫn của Quốc tế Cộng sản đã xác định được tầm nhìn rõ ràng và vững chắc về cuộc cách mạng của họ như một thành tố của cách mạng thế giới. Theo tầm nhìn này, cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: giai đoạn “dân chủ tư sản” và giai đoạn “vô sản”. Giai đoạn đầu nhằm lật đổ sự cai trị của người Pháp, tiến hành cuộc cách mạng ruộng đất, và sự hình thành của một quốc gia dựa trên một liên minh bộ ba của công nhân, nông dân và binh lính, nhưng với sự lãnh đạo độc tôn của công nhân. Giai đoạn thứ hai sẽ đưa Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thế giới quan Mác-xít – Lênin-nít thống nhất chứ không chia rẽ giữa Quốc và các đồng chí của ông. Họ đều chia sẻ một tình yêu sâu sắc đối với Liên Xô như một phòng thí nghiệm của cách mạng. Họ không nhìn thẳng vào một số vấn đề, nhưng sự bất đồng của họ phản ánh không phải là sự khác biệt trong thế giới quan của họ hoặc lòng trung thành của họ với Quốc tế Cộng sản, mà là thời điểm bắt đầu tham gia phong trào, trình độ học vấn chính thức và năng lực tiếp nhận lý thuyết của cá nhân, và khả năng tiếp cận kịp thời thông tin từ Quốc tế Cộng sản.
“TIẾN HÀNH CÁCH MẠNG QUỐC GIA TRƯỚC, SAU ĐÓ TIẾN HÀNH CÁCH MẠNG THẾ GIỚI”
Vào đầu thế kỷ XX, hệ thống thuộc địa của Pháp ở Việt Nam đã được củng cố và sắp được mở rộng nhanh chóng.[66] Trong ba thập kỷ tiếp theo, chính quyền thực dân tiếp tục xâm nhập sâu vào các làng quê Việt Nam để thực thi quyền kiểm soát và khai thác tài nguyên cho một nền kinh tế tư bản đang phát triển. Ở nhiều vùng của thuộc địa, tình trạng nông dân không có đất trở nên phổ biến hơn, và sự bóc lột của nhà nước thông qua thuế, lao động cưỡng bức và bắt giam trở nên hiệu quả hơn.
Trái ngược với bối cảnh phát triển thuộc địa ấy là việc thành lập một hệ thống trường học chính thức dạy tiếng Pháp và các môn học khác, việc sử dụng rộng rãi ngôn ngữ mẹ đẻ của Việt Nam là ‘Quốc ngữ’, và sự xuất hiện của công chúng biết đọc.[67] Tương tự như các thuộc địa khác, những xu hướng này đã thúc đẩy sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam hiện đại.[68] Trước thời khắc chuyển giao thế kỷ, vũ trụ quan đối với hầu hết người Việt Nam là không gian văn hóa Đông Á lấy Trung Quốc làm trung tâm. Những tư tưởng từ bên ngoài phạm vi đó hầu như được hấp thụ qua phương tiện ngôn ngữ và thế giới quan của Trung Quốc. Kiến thức về tiếng Pháp đã mở ra một thế giới hoàn toàn mới cho thanh niên Việt Nam từ thập niên 1920 trở về sau. Nó không chỉ mang lại những khái niệm mới mà còn liên hệ trực tiếp với các phong trào xã hội và chính trị châu Âu thời đó.
Thuật ngữ được Việt hóa, “cách mạng”, theo nghĩa hiện đại của nó, đã được du nhập vào Việt Nam từ Nhật Bản và Trung Quốc vào khoảng đầu thế kỷ,[69] nhưng không có bằng chứng nào về việc người Việt biết về Marx và Lenin trước Cách mạng Nga năm 1917.[70] Các bài báo trên báo chí tiếng Việt về cuộc cách mạng đó có thể được lấy từ các nguồn của Pháp và Trung Quốc và nhìn chung là không mấy thiện cảm. Ví dụ, tờ ‘Nam Phong’ một tạp chí song ngữ Việt/Trung, ca ngợi chính phủ Kerensky và mô tả các đối thủ của họ, bao gồm cả Lenin, là “tham nhũng” và “bán nước” cho Đức để lấy tiền. [71] Thuật ngữ “Bolshevik” được dịch sang tiếng Việt là “quá khích” [cực đoan].[72] Sau đó, trong một phân tích mở rộng về chính trị Nga, ‘Nam Phong’ đưa tin rằng đảng của Lenin ủng hộ việc sử dụng bạo lực để buộc “những nhà tư bản hùng mạnh” phải nhân nhượng nhiều quyền hơn cho người dân.[73] Đồng thời, những người Bolshevik phản đối chiến tranh, tin rằng điều đó sẽ chỉ có lợi cho các nhà tư bản. ‘Nam Phong’ chỉ trích khuynh hướng bạo lực của những người Bolshevik và sự “phản bội Đồng minh” và “làm ô nhục quốc gia (Nga)” bằng cách ký một hiệp định hòa bình với Đức-Áo”.[74]
Ngược lại, các nhà cách mạng Việt Nam lưu vong ở Pháp và miền Nam Trung Quốc đã hoan nghênh Cách mạng Nga. Tuy nhiên, họ làm vậy vì những lý do khác nhau. Đặc biệt, các nhà cách mạng lão thành của Việt Nam hy vọng có được sự hỗ trợ quân sự của Liên Xô hoặc rút ra những bài học thực tế từ cuộc Cách mạng Nga. Phan Bội Châu, nhà cách mạng lỗi lạc nhất lúc bấy giờ và là người trước đó đã từng tìm kiếm sự trợ giúp của Nhật Bản để chống Pháp, đã đến gặp quan chức Liên Xô tại Bắc Kinh vào năm 1920 để hỏi về khả năng hỗ trợ đưa sinh viên Việt Nam sang học tập tại Liên Xô. Ông mô tả thái độ của các quan chức Xô-viết là “thân thiện và trung thực”.[75] Họ hứa sẽ đài thọ mọi chi phí cho những sinh viên quan tâm với điều kiện những sinh viên đó phải tin vào chủ nghĩa cộng sản và cam kết tiến hành cách mạng ở Việt Nam sau khi tốt nghiệp. Phan Bội Châu không bộc lộ phản ứng của mình đối với lời đề nghị này nhưng sau đó đã không diễn ra cuộc tiếp xúc nào. Một năm sau, ông viết một bài báo đăng trên tạp chí quân sự Trung Quốc ca ngợi Lenin là một nhà chiến lược cách mạng tài ba.[76] Mặc dù ông ghi nhận chính phủ Xô-viết đã thành lập chính phủ đầu tiên của công nhân và nông dân [chính phủ Lao Nông], nhưng hầu như ông rất ấn tượng, không phải với chủ nghĩa cộng sản, mà với sự thành công của những người Bolshevik trong việc giành chính quyền. Phan Châu Trinh, một nhà cách mạng kỳ cựu khác cùng thế hệ với Phan Bội Châu, cũng phản ứng như vậy. Trong bức thư gửi Nguyễn Ái Quốc năm 1922, Phan Châu Trinh bày tỏ sự ngưỡng mộ chung đối với cuộc cách mạng năm 1917, nhưng với ông bài học chính từ cuộc cách mạng này là người cách mạng chỉ có thể thành công nếu hoạt động ở trong nước (chứ không phải ở nước ngoài). [77]
Cũng như Phan Bội Châu, sự quan tâm của Nguyễn Ái Quốc đối với cuộc cách mạng Bolshevik bắt nguồn từ sự ủng hộ của Lenin đối với nền độc lập thuộc địa. Không giống như Phan, Quốc cố gắng hiểu chủ nghĩa cộng sản bằng cách nghiên cứu lý thuyết và bằng cách tham gia vào phong trào cộng sản.[78] Quá trình cực đoan hóa này được ghi lại trong các bài viết của ông. Quốc rời những người xã hội chủ nghĩa để gia nhập những người cộng sản ở Pháp vào năm 1920, sau khi đọc và bị thuyết phục bởi luận cương của Lenin về vấn đề thuộc địa. Trong suốt các tác phẩm của mình vào đầu thập niên 1920, Quốc bị ám ảnh bởi chủ nghĩa thực dân và tội ác của nó đối với người dân của mình. Nhưng quan điểm của ông ngày càng trở nên quốc tế hóa và chịu ảnh hưởng bởi khái niệm Lênin-nít. [79]
Ví dụ, trong một bài báo xuất bản năm 1921, Quốc đã trích dẫn các nhà tư tưởng Trung Quốc như Khổng Tử và Mạnh Tử để lập luận rằng sẽ dễ dàng hiện thực hóa chủ nghĩa cộng sản ở châu Á hơn ở châu Âu.[80] Theo ông, việc huy động lao động và quyền sở hữu công cộng về đất đai đã phổ biến ở các xã hội châu Á từ thời cổ đại, điều này sẽ khiến họ dễ tiếp thu những tư tưởng và thể chế cộng sản hơn. Bài báo này có lẽ đơn giản được viết để gia tăng sự ủng hộ của giới cánh tả châu Âu với các cuộc cách mạng ở các thuộc địa, nhưng nó tiết lộ sự hiểu biết nông cạn của Quốc về chủ nghĩa Marx.
Tuy nhiên, đến năm sau, Quốc đã hiểu rõ hơn về học thuyết này. Giờ đây, ông đã có thể hiểu cơ sở xã hội của chủ nghĩa cộng sản và phân biệt chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa dân tộc. Ở các thuộc địa, ông phàn nàn rằng:
“người ta không hiểu đấu tranh giai cấp là gì, lực lượng giai cấp vô sản là gì cả, vì một lẽ đơn giản là ở đó không có nền kinh doanh lớn về thương nghiệp hay công nghiệp, cũng không có tổ chức công nhân. Trước con mắt người dân bản xứ, chủ nghĩa bônsêvích – danh từ này vì thường được giai cấp tư sản dùng đến luôn, nên đặc sắc hơn và mạnh nghĩa hơn – có nghĩa là: hoặc sự phá hoại tất cả, hoặc sự giải phóng khỏi ách nước ngoài. Nghĩa thứ nhất gán cho danh từ ấy làm cho quần chúng vô học và nhút nhát xa lánh chúng ta; nghĩa thứ hai thì dẫn họ đến chủ nghĩa quốc gia. Cả hai điều đó đều nguy hiểm cả”.[81]
Quá trình cực đoan hóa về trí thức được đẩy mạnh sau khi Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô vào tháng Sáu năm 1923 theo lời mời của Quốc tế Cộng sản.[82] Các tác phẩm của ông lúc này chủ yếu tập trung vào chủ đề đấu tranh giai cấp. Một trong các chủ đề yêu thích của ông là các phong trào công nhân trên khắp thế giới.[83] Ông cũng chú ý đến các vấn đề giới và chủng tộc trên tại các quốc gia.[84] Ông đã đi từ việc tố cáo chủ nghĩa thực dân đến việc phát động các cuộc tấn công rộng rãi vào “các nền văn minh” của Pháp và Hoa Kỳ.[85] Trong một bài báo có tiêu đề “Hành hình kiểu Linsơ: Một phương diện ít người biết của nền văn minh Hoa Kỳ”, Quốc đã đổ lỗi cho chủ nghĩa tư bản về chế độ nô lệ và bày tỏ tình đoàn kết với người Mỹ da đen. Bài báo bao gồm các mô tả bằng hình ảnh về một số trường hợp ‘hành hình kiểu Linsơ’, một số hình như được dịch từ các tờ báo Mỹ. Đoạn văn dưới đây, mô tả cao trào của một vụ hành hình, thể hiện tài năng viết lách nhạy bén của Quốc và cảm xúc mãnh liệt của ông về sự bất công đối với người da đen:
“Người da đen không kêu được nữa: lưỡi đã sưng phồng lên vì một thanh sắt nung đỏ gí vào. Toàn thân người ấy quằn quại như một con rắn bị đánh, dở sống, dở chết. Một nhát dao, thế là rụng một tai. Ái chà! Nó mới đen làm sao! Nó mới đáng tởm làm sao! Thế là bọn đàn bà [da trắng] rạch nát mặt người đó ra… [Sau khi họ đốt cháy thi thể của người da đen,] trên mặt đất nhày nhụa mỡ [bị đốt cháy] và [không gian tràn ngập] khói. [Để lại đằng sau] một đầu lâu đen, nát bét, bị thui cháy, không ra hình thù gì nữa, nhǎn nhó một cách đáng sợ và hình như muốn hỏi vầng dương đang lặn rằng: “Đó là [hành động] vǎn minh ư?”.[86]
Trong thời gian viết báo và tham gia các hoạt động của Quốc tế Cộng sản, Quốc cũng đã được đào tạo tại trường Đại học dành cho Người cần lao của phương Đông.[87] Chính phủ Xô-viết thành lập trường đại học này vào năm 1921 để đào tạo các thanh niên nước ngoài về chủ nghĩa cộng sản và khoa học cách mạng. Quốc đã đặc biệt ấn tượng với sự đa dạng về quốc tịch của sinh viên trong trường, phần lớn trong số đó đến từ tầng lớp lao động. [88] Trong lớp học, ông mô tả: “các thanh niên của 62 quốc gia ngồi cạnh nhau như những người anh em ”. Họ không chỉ học tập mà còn giúp đỡ công việc ở các nông trại. Họ sống thoải mái khi nhà trường trả tiền phòng, tiền ăn, quần áo và thậm chí còn cho họ một ít tiền tiêu vặt. Họ được hưởng một cuộc sống tri thức phong phú với việc tự do sử dụng thư viện và rạp chiếu phim. Mặc dù họ bị từ chối các quyền tự do chính trị ở nước mình, họ vẫn được mời tham gia quản lý trường học và thậm chí bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử địa phương, giống như các công dân Xô-viết. Quốc say sưa kêu gọi “những người anh em ở các nước bị đô hộ” so sánh “nền dân chủ tư sản” với “nền dân chủ vô sản”. [89]
Tuy nhiên, sẽ là sai lầm khi nghĩ rằng cuộc sống ở Liên Xô luôn dễ chịu đối với Quốc. Thư khố của Quốc tế Cộng sản tại Matxcơva vẫn còn lưu giữ một bức thư mà ông viết cho Bí thư Cục Phương Đông của Quốc tế Cộng sản sau khi sống chín tháng ở Moscow.[90] Bức thư yêu cầu giúp đỡ trong việc giải quyết với phòng quản lý nhà ở, nơi đe dọa sẽ đưa ông ra tòa nếu ông không trả số tiền 40 rúp và 35 kopeck mà ông bị cho là đang nợ. Quốc giải thích rằng không phải ông lơ đễnh, mà ông chỉ trả 5 rúp mỗi tháng cho tiền thuê nhà (thay vì toàn bộ tiền thuê, có lẽ như một cử chỉ phản đối?), bởi ngôi nhà ông sống quá ồn ào với bốn hoặc năm người thuê và giường ngủ đầy rệp khiến ông mất ngủ nhiều đêm.
Tuy nhiên, lũ sâu bọ đầy khó chịu, các căn hộ chật chội, và các quy tắc cứng rắn không làm giảm sự ngưỡng mộ của Quốc đối với Liên Xô. Như ông hồi tưởng lại khoảng 20 năm sau:
“Có những kẻ cho nước Nga là một địa ngục. Có những người thì bảo nước Nga là một thiên đường. Đối với [tôi], nước Nga nhất định không phải là một địa ngục, nhưng lúc bấy giờ cũng chưa phải là một thiên đường mà là một nước đang xây dựng có nhiều ưu điểm, nhưng tất nhiên chưa kịp sửa chữa hết những khuyết điểm. Đây đó, người ta còn thấy những vết thương do chiến tranh để lại như những cảnh trẻ mồ côi, thiếu nhà ở, thiếu lương thực, v.v. Song những vết thương đang được hàn gắn dần dần. Khắp nơi, người ta phấn khởi, hy sinh, hăng hái làm việc... [tôi] không quên đây là một nước đã trải bốn năm chiến tranh thế giới và một năm nội chiến... [Tôi] không quên so sánh nước Nga mà cuộc cách mạng đang tiến tới với nước Việt Nam bị nô lệ đã mấy mươi năm”.[94]
Nếu chúng ta có thể tin Quốc, ông không bị ấn tượng bởi mức độ giàu có của Liên Xô cũng như điều kiện xã hội của nó. Đúng hơn, chính lòng nhiệt thành của người dân Xô-viết và những hứa hẹn của cuộc cách mạng đã khiến ông say mê.
Khi Quốc đến miền Nam Trung Quốc vào cuối năm 1924 để làm đặc vụ cho Quốc tế Cộng sản tại Đông Nam Á, hiểu biết lý thuyết của ông đã được cải thiện nhưng vẫn còn hạn chế. Trong ba năm tiếp theo, Quốc lãnh đạo Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (sau đây gọi tắt là 'Thanh Niên'), một nhóm cách mạng do ông thành lập. Hợp tác chặt chẽ với các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), Thanh Niên đã tuyển chọn những hội viên đầu tiên trong số những người Việt Nam lưu vong và tổ chức đưa thanh niên từ trong nước sang Quảng Châu để đào tạo cách mạng.
Với tư cách là người huấn luyện, Quốc đã biên tập báo ‘Thanh Niên’ và là tác giả của cuốn sách nhỏ có tựa đề ‘Đường Kách mệnh’. Cuốn sách nhỏ này là bài phân tích lý thuyết đầu tiên và công phu nhất của Quốc cho đến thời điểm đó. Nó mở đầu bằng câu châm ngôn nổi tiếng của Lenin rằng “không có lý thuyết cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”. [92] Quốc giải thích “cách mạng” nghĩa là gì và kêu gọi người Việt Nam theo mô hình của cách mạng Nga.[93] Phân tích cách Quốc giải thích khái niệm cách mạng trong cuốn sách nhỏ này là chìa khóa để hiểu thế giới quan về chủ nghĩa Lenin vừa hình thành của ông.
Quốc sử dụng lý thuyết Marx-Lenin - như ông hiểu - để đề xuất một phương pháp phân loại bao gồm ba loại cuộc cách mạng - đó là, các cuộc cách mạng ”tư bản”, “dân tộc” và “trên cơ sở giai cấp”.[94] Theo Quốc, các cuộc cách mạng tư sản là do mâu thuẫn giữa tư bản và địa chủ; các cuộc cách mạng dân tộc là do xung đột giữa một quốc gia bị áp bức và một quốc gia áp bức; và các cuộc cách mạng trên cơ sở giai cấp là do xung đột giữa các nhà tư bản và công nhân-nông dân. Đặt cạnh nhau ba cuộc cách mạng tư sản, dân tộc và dựa trên giai cấp, Quốc tiếp tục phân biệt giữa cuộc cách mạng dân tộc và thế giới. ”Cách mạng thế giới” được định nghĩa như là sự đoàn kết của nông dân và công nhân thuộc mọi quốc gia và chủng tộc trên thế giới “để lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa tư bản, làm cho tất cả các quốc gia hạnh phúc, [và] tạo ra một thế giới đại đồng”.[93] Cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới khác nhau vì tất cả các tầng lớp xã hội đoàn kết chống lại chính quyền quốc gia đã tạo nên sự kiện trước đây, trong khi giai cấp vô sản của tất cả các quốc gia lãnh đạo sự kiện sau. Quốc tiếp tục:
“Nhưng hai cách mệnh ấy vẫn có quan hệ với nhau. Thí dụ: An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và [ngược lại nếu] công nông Pháp cách mệnh thành công, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do. Vậy nên cách mệnh An Nam với cách mệnh Pháp phải liên lạc với nhau". [96]
Một số bài báo của Quốc viết trước đó trên báo ‘Thanh Niên’ một cách máy móc coi tiến hành cách mạng dân tộc là nhiệm vụ đầu tiên của phong trào cộng sản Việt Nam và tiến hành cách mạng thế giới là nhiệm vụ thứ hai khác với nhiệm vụ thứ nhất.[97] Trong “Đường Kách Mệnh”, những gợi ý đã xuất hiện một quan điểm năng động và tinh vi hơn, hợp nhất cách mạng dân tộc với cách mạng dựa trên giai cấp và với cách mạng thế giới. Mạch tư duy vẫn trôi chảy; có lúc Quốc vẫn cố gắng phân biệt các cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng dựa trên giai cấp với cách mạng thế giới, nhưng ở những điểm khác, cách mạng thế giới được coi là một quá trình phức tạp bao gồm nhiều thành phần cả về bản chất (vấn đề dân tộc và giai cấp) và địa lý (An Nam và Pháp).
Quá trình phát triển tư tưởng này rất có ý nghĩa vì ban đầu Quốc chỉ quan tâm đến mối quan hệ thuộc địa giữa Việt Nam và Pháp, nhưng giờ đây đã tiến gần hơn đến một thế giới quan trong đó mối quan hệ đó là một phần của những mối quan hệ khác, cơ bản hơn. Sự tách biệt hoặc ngăn cách giữa các loại cách mạng khác nhau trong tâm trí ông là bằng chứng cho thấy sự chấp nhận hoàn toàn hoặc triệt để đối với thế giới quan của chủ nghĩa Marx-Lenin, trong khi sự hợp nhất của các cuộc cách mạng đó đánh dấu một bước nhảy vọt về mặt khái niệm đối với nhận thức về sự phục tùng hoàn toàn về mặt tinh thần đối với thế giới quan đó. Trong thập niên 1940, Quốc vẫn chủ trương ủng hộ tính ưu việt của cách mạng dân tộc so với cách mạng dựa trên giai cấp ở Việt Nam, nhưng lập luận đó chỉ được hình thành trên phương diện chiến thuật. Về mặt khái niệm, Quốc không còn phân biệt giữa chúng. Như sẽ thấy trong phần tiếp theo, những nhà cách mạng trẻ hơn và được giáo dục tốt hơn sẽ thực hiện các bước tiếp theo để trình bày rõ ràng sự hợp nhất khái niệm đó một cách mạnh mẽ hơn.
“CÁCH MẠNG VIỆT NAM LÀ MỘT THÀNH TỐ CỦA CÁCH MẠNG THẾ GIỚI”
Nguyễn Ái Quốc đến miền Nam Trung Quốc vào thời điểm thuận lợi. Một loạt các sự kiện đã khiến nền chính trị Việt Nam trở nên cấp tiến sâu sắc và chuẩn bị cho việc chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Trước đó vài năm, chính quyền thực dân đã thả nhiều chính trị phạm nổi tiếng như Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, những người đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống sưu thuế năm 1908 ở miền Trung Việt Nam. Những nhà lãnh đạo lớn tuổi này đã nhanh chóng phục hồi mạng lưới chống thực dân đang nằm im của họ, và sự trở lại của họ đã truyền cảm hứng cho nhiều thanh niên đang hoạt động chính trị.[98] Cơ hội cho những hoạt động như vậy mở rộng với tốc độ phát triển nhanh chóng của báo chí ở Sài Gòn vào đầu thập niên 1920 và với các cuộc bầu cử được tổ chức cho các Viên Dân Biểu. Cuộc cải cách được thực hiện bởi Alexander Varenne – Toàn quyền Đông Dương mới (1925-1928), mặc dù hạn chế, cũng đã góp phần hình thành nên bối cảnh chính trị cởi mở hơn.[99] Là một lãnh tụ của Đảng Xã hội Pháp, Varenne đã tìm cách kiềm chế sự bạo ngược của chế độ thực dân ở Đông Dương.
Ngay khi môi trường chính trị nóng lên, nó đã bị xáo trộn bởi hai sự kiện cụ thể: một là việc Phan Bội Châu bị bắt ở Trung Quốc và vụ án xử ông ở Hà Nội năm 1925, và hai là việc Phan Châu Trinh từ Pháp trở về Việt Nam và qua đời sau đó vào năm 1926. Hai sự kiện này đã làm dấy lên sự phẫn nộ lớn của quần chúng và gây ra nhiều cuộc biểu tình tự phát của sinh viên chống lại chế độ thực dân. Hàng trăm học sinh bị đuổi học vì tham gia biểu tình; nhiều người sẽ sớm tham gia các nhóm chính trị bí mật.[100]
Nhờ một môi trường tốt đẹp như vậy, ‘Thanh Niên’ đã thu hút được nhiều hội viên ở trong nước, thông qua việc truyền bá vào Việt Nam hoặc thông qua việc đào tạo trực tiếp cho những thanh niên di cư bất hợp pháp ra khỏi Việt Nam. Nhưng ‘Thanh Niên’ không phải là nguồn duy nhất của những tư tưởng cấp tiến cho các thanh niên Việt Nam. Khi Tôn Dật Tiên tổ chức lại Quốc dân Đảng Trung Quốc (Guomindang hoặc GMD) và chuẩn bị để khởi động một chiến dịch quân sự để thống nhất Trung Quốc, chủ nghĩa tam dân của ông (vốn chịu ảnh hưởng phần nào bởi các tư tưởng cộng sản) cũng đã được phổ biến tại Việt Nam. Sách báo nhập từ Pháp và Trung Quốc hoặc xuất bản ở Sài Gòn cung cấp cho người Việt Nam có trình độ ngoại ngữ những cuộc thảo luận về Marx và Lenin có hệ thống hơn nhiều so với tài liệu của ‘Thanh Niên’.[101]
Các nguồn gốc cuối cùng hình thành nên sự cấp tiến đến từ Trung Quốc và Liên Xô. Tháng 4 năm 1927, Tưởng Giới Thạch ra lệnh thảm sát những người cộng sản Trung Quốc ở Thượng Hải, giải tán Mặt trận Thống nhất giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Sự “phản bội” của Tưởng đã góp phần hình thành chính sách mới, cấp tiến hơn được quyết định tại Đại hội Thế giới lần thứ sáu và Hội nghị toàn thể lần thứ mười của Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva, lần lượt vào các năm 1928 và 1929. Tại những sự kiện này, các nhà lãnh đạo Quốc tế Cộng sản đã đưa ra lời kêu gọi những người cộng sản trên toàn thế giới tăng cường tính chất vô sản của các đảng của họ và tham gia vào cuộc đấu tranh giai cấp chống lại giai cấp tư sản.[102] Việc Tưởng quay lưng lại với những người cộng sản Trung Quốc cũng gây bất an cho các hội viên của ‘Thanh Niên’ ở miền Nam Trung Quốc. Đến giữa năm 1928, Nguyễn Ái Quốc đã sang Trung Quốc khi mà ‘Thanh Niên’ ở Quảng Châu đã suy yếu.
Các điều kiện được mô tả ở trên tại Việt Nam và nước ngoài đã kết hợp lại để dịch chuyển trọng tâm của chủ nghĩa cấp tiến từ miền Nam Trung Quốc vào Việt Nam. Đến cuối năm 1928, ở cả ba miền Việt Nam đã xuất hiện những nhóm cách mạng nhỏ. Một nhóm chính là Việt Nam Quốc dân Đảng (VNP) lấy chủ nghĩa tam dân làm nền tảng tư tưởng. Các hội viên của ‘Thanh Niên’ đã tạo ra các nhóm khác, những người hăng hái đưa phong trào lên một tầm cao mới. Sự chuyển dịch này là trái ngược giữa nhóm Tân Việt chủ yếu ở miền Trung Việt Nam và nhóm Đông Dương ở miền Bắc Việt Nam.
Tân Việt Cách mạng Đảng (gọi tắt là Tân Việt) có nguồn gốc từ Phục Việt Hội, được tổ chức vài năm trước đó bởi các chính trị phạm được thả ra từ Côn Đảo. Các nhà lãnh đạo trẻ của Phục Việt được đào tạo từ ‘Thanh Niên’ nhưng cũng chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng của Tôn Dật Tiên.[103] Theo bản tuyên ngôn của Tân Việt được soạn thảo năm 1928, nhiệm vụ của nó là “đoàn kết các đồng chí trong và ngoài [Việt Nam], lãnh đạo nông dân, công nhân và binh lính trong nước và liên kết với các nước bị áp bức khác để lật đổ chủ nghĩa đế quốc và xây dựng một nền bình đẳng mới và xã hội nhân từ.”[104] Một khi giành được quyền lực, đảng cam kết thực hiện nền chuyên chính vô sản, các quyền bình đẳng của con người cho mọi công dân, cung cấp phúc lợi cho trẻ em, người tàn tật và người già, và quyền sở hữu công cộng về đất đai và các tư liệu sản xuất khác. Đáng lưu ý hơn, bản tuyên ngôn không đề cập đến chủ nghĩa cộng sản như một mục tiêu cách mạng. Các đảng viên mới được kết nạp phải tuyên thệ trung thành “trước hồn thiêng đất Việt và quy luật tôn nghiêm của cách mạng thế giới”.[105] Rõ ràng, chương trình của Tân Việt mang tinh thần cộng sản nhưng ngôn ngữ của nó không thanh lọc hoàn toàn các khái niệm dân tộc chủ nghĩa như trường hợp của ‘Thanh Niên’.
Nhóm Đông Dương có trụ sở tại miền Bắc Việt Nam cung cấp một sự tương phản thú vị với Tân Việt. Được đào tạo bởi ‘Thanh Niên’, các đảng viên Đông Dương như Ngô Gia Tự và Trịnh Đình Cửu nhanh chóng bất đồng với sự lãnh đạo và chương trình chính trị của ‘Thanh Niên’.[106] Tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của ‘Thanh Niên’ ở Hồng Kông năm 1929, những người này đã ra khỏi cuộc họp khi đa số những người có mặt từ chối yêu cầu giải tán ‘Thanh Niên’ để thành lập một đảng cộng sản mới.[107] Sau khi trở về từ Hồng Kông, các nhà lãnh đạo Đông Dương đã thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương (sau đây gọi là ĐCSĐD).[108]
Tuyên ngôn của ĐCSĐD do Trịnh Đình Cửu soạn thảo cho thấy các nhà lãnh đạo của nó cấp tiến hơn và về mặt lý thuyết có nhiều tham vọng hơn những người đồng cấp của họ ở Tân Việt.[109] Tài liệu bắt đầu với một chương dài về lý thuyết của chủ nghĩa Marx-Lenin, mà nó khẳng định “không phải là một học thuyết bí ẩn hay sản phẩm của trí tưởng tượng của bất kỳ ai, mà là một hệ tư tưởng khoa học dựa trên các chân lý”.[110] Sau khi phân tích mâu thuẫn giai cấp trong các xã hội tư bản, các tác giả của bản tuyên ngôn cho rằng “khoảng cách giữa các giai cấp tư bản và vô sản ngày nay quá lớn nên cuộc đấu tranh giữa họ phải trở nên tàn khốc: một giai cấp phải thắng và tồn tại trong khi giai cấp kia thua và chết.”[111] Ai sẽ thắng? Nó tuyên bố tiếp: “các nước đế quốc đang xung đột và sẽ sớm gây chiến với nhau trong một cuộc chiến có sức tàn phá gấp nhiều lần cuộc chiến gần đây” (tức là Chiến tranh thế giới thứ Nhất). Đối lập với chủ nghĩa đế quốc là “phe vô sản bao gồm hàng triệu anh em vô sản ở các nước tư bản sẵn sàng giành chính quyền, hàng trăm triệu người dân thuộc địa đang kêu gọi làm cách mạng, cũng như hàng triệu anh em vô sản Xô-viết - tất cả đều liên kết trên một mặt trận do Đảng Cộng sản [Liên Xô] và Quốc tế Cộng sản lãnh đạo”. Bản tuyên ngôn kết luận, dựa trên sự cân bằng lực lượng hiện có, ngày tàn của các xã hội tư bản đã điểm.
Trong cùng bản tuyên ngôn này, các nhà lãnh đạo ĐCSĐD đã kết tội ‘Thanh Niên’ và ‘Tân Việt’ về hai tội danh. Đầu tiên, tư cách thành viên của Thanh Niên và Tân Việt là “dành cho tất cả người Việt Nam”. Các nhà lãnh đạo ĐCSĐD nhận thấy chính sách về dân tộc và đảng viên như vậy là “phi cộng sản”. Họ tin rằng chính sách đảng viên “cộng sản” chỉ nên dựa trên giai cấp. Thứ hai, nhớ lại rằng phương châm của 'Thanh Niên' trước hết là làm cách mạng dân tộc, sau đó mới làm cách mạng thế giới. ĐCSĐD lập luận rằng điều đó là sai lầm, bởi vì “cách mạng dân tộc [nhất thiết phải] là một thành tố của cách mạng thế giới”.[112] Thực hiện một cuộc cách mạng dân tộc đòi hỏi một liên minh quốc gia của tất cả các giai cấp mà không phân biệt tư bản với vô sản, và địa chủ với nông dân. Không chỉ không chính xác, phương châm đó còn là “phi cộng sản”.
Các nhà lãnh đạo ĐCSĐD cũng tin rằng cách mạng Đông Dương phải trải qua hai giai đoạn, nhưng họ xác định các giai đoạn khác nhau, cho thấy họ quen thuộc hơn với các khái niệm của chủ nghĩa Lenin. Do chủ nghĩa tư bản chưa phát triển mạnh và các thế lực phong kiến vẫn còn mạnh ở Đông Dương, các giai đoạn đó bao gồm “cuộc cách mạng dân chủ tư sản” do những người vô sản và nông dân lãnh đạo để lật đổ chủ nghĩa đế quốc và phong kiến, và một cuộc “cách mạng xã hội” tiếp theo để xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa cộng sản.[113] Công thức hai giai đoạn này xuất phát từ Lenin và hợp nhất các cuộc cách mạng dân tộc, giai cấp và thế giới trong một cơ cấu động duy nhất.[114] Tư duy nhạy bén hơn và ngôn ngữ trong bản tuyên ngôn của ĐCSĐD sáng suốt hơn so với bản “Đường Kách mệnh” của Nguyễn Ái Quốc. Cam kết với chủ nghĩa cộng sản rất chắc chắn và rõ ràng, không giống như cam kết của Tân Việt.
Mặc dù các nhà lãnh đạo ĐCSĐD rất tinh vi về mặt lý thuyết, sẽ là sai lầm nếu cho rằng họ giáo điều trong chiến thuật của mình. Trong giai đoạn “dân chủ tư sản”, họ tin rằng khẩu hiệu thích hợp nên giới hạn ở việc phân chia lại ruộng đất cho nông dân, mà chưa phải là quyền sở hữu công cộng đối với tất cả các ruộng đất.[115] Điều này dường như nhằm tối đa hóa lợi ích của nông dân trong cuộc cách mạng. Mặc dù các nhà lãnh đạo ĐCSĐD muốn Thanh Niên và Tân Việt giải tán ngay lập tức để mở đường cho một đảng cộng sản mới, nhưng họ sẵn sàng hợp tác với Việt Nam Quốc dân Đảng trong giai đoạn đầu của cuộc cách mạng.[116] Bất chấp những lời chỉ trích gay gắt đối với ‘Thanh Niên’, các nhà lãnh đạo ĐCSĐD vẫn dành sự tôn trọng nhất định đối với Nguyễn Ái Quốc.[117]
Sau khi rời Trung Quốc vào giữa năm 1927, Quốc đã dành khoảng một năm ở Liên Xô và châu Âu trước khi sang Xiêm để tổ chức phong trào cộng sản ở đó.[118] Khi đang ở Xiêm, ông nhận được tin từ một thủ lĩnh của ‘Thanh Niên’ báo về những tranh chấp giữa ‘Thanh Niên’ và ĐCSĐD.[119] Tự xưng là đại diện cho Quốc tế Cộng sản, Quốc đến Hồng Kông vào cuối năm 1929 và ngay lập tức triệu tập một cuộc họp để tạo điều kiện cho việc thống nhất tất cả các nhóm cộng sản Việt Nam có trụ sở tại Trung Quốc và Việt Nam. Tại cuộc họp diễn ra vào đầu năm 1930, các đại biểu của ĐCSĐD, Tân Việt, An Nam Cộng sản Đảng (chi bộ Thanh Niên ở miền Nam Việt Nam) và 'Thanh Niên' ở miền Nam Trung Quốc đã nhất trí thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN).
Mặc dù “cuộc họp thống nhất” này đã được coi là một mốc lịch sử của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam trong lịch sử chính thống,[120] nó đã đạt được một chút ngoài thỏa thuận giữa các nhóm để gia nhập một tổ chức mới, ĐCSVN. Các tài liệu được công bố tại cuộc họp này là những bản viết tay ngắn ngủi: biên bản cuộc họp, chương trình hành động của Đảng, điều lệ Đảng, và tuyên bố chiến lược, tất cả khoảng khoảng 10 trang, so với “tuyên ngôn” của ĐCSĐD dài 42 trang. Sự ngắn gọn này có thể phản ánh khoảng cách rất lớn giữa các nhóm về nhiều vấn đề. Cuộc họp cũng không bầu được ban lãnh đạo mới, chỉ đồng ý về quy trình đề cử một Ủy ban Trung ương sẽ được thành lập sau đó.
Một câu hỏi mà các nhà sử học chưa đặt ra là tại sao Quốc không tự nhận mình làm người đứng đầu ĐCSVN tại cuộc họp này. Với quyền hạn của mình với tư cách là đại diện Quốc tế Cộng sản và với khả năng triệu tập cuộc họp và buộc đại diện của ĐCSĐD phải thừa nhận sai lầm của mình (xem phần sau), ông hẳn đã có thể đảm nhận vị trí cao nhất nếu ông muốn. Không rõ tại sao ông không làm như vậy, nhưng Quốc là một quan chức trong bộ máy hành chính của Quốc tế Cộng sản chịu trách nhiệm về toàn bộ Đông Nam Á và rất có thể ông không muốn chịu trách nhiệm cá nhân cho ĐCSVN trừ khi được Quốc tế Cộng sản bổ nhiệm vào vị trí này.[121] Bất kể động cơ của ông là gì, điểm mấu chốt là Quốc không tìm cách nắm quyền kiểm soát cá nhân đối với ĐCSVN mặc dù ông có quyền làm như vậy. [122] Tuy nhiên, bởi không có lãnh đạo, nên ĐCSVN chỉ tồn tại trên giấy.
(còn tiếp)
*
VỀ TÁC GIẢ
Vũ Tường là Trưởng Khoa Chính trị học của Đại học Oregon (Hoa Kỳ) từ năm 2008. Ông cũng thỉnh giảng tại Đại học Princeton và Đại học Quốc gia Singapore. Nghiên cứu của ông tập trung vào các đề tài: chính trị học so sánh về sự hình thành nhà nước, các vấn đề về phát triển, chủ nghĩa dân tộc, và các cuộc cách mạng, đặc biệt là tại vùng Đông Á. Ông cũng là tác giả của cuốn ‘Paths to Development in Asia: South Korea, Vietnam, China, and Indonesia’ [Các con đường phát triển ở châu Á: Hàn Quốc, Việt Nam, Trung Quốc và Indonesia] (Cambridge University Press, 2010),
*
Nguồn: Tuong, Vu (2017). "Vietnam’s Communist Revolution: The Power and Limits of Ideology". Cambridge: Cambridge University Press.
mọi thông tin phải được kiểm chứng
ReplyDelete