March 23, 2020

Chuyển hóa dân chủ: Đối thoại với các nhà lãnh đạo thế giới (kỳ 9)


Biên tập: Sergio Bitar và Abraham F. Lowenthal, Viện Quốc tế Hỗ trợ Bầu cử và Dân chủ (IDEA), Stockholm

Dịch: Phạm Nguyên Trường

Chương 2

Công cuộc chuyển hóa thành công của Chile:

Từ tình trạng phân cực gay gắt sang dân chủ ổn định (Tiếp theo)

 Kết quả hình ảnh cho Ricardo Lagos

Ricardo Lagos, Tổng thống Chile giai đoạn 2000 - 2006
Ủng hộ quốc tế

Giai đoạn dài trước khi chế độ độc tài sụp đổ cho ông thời gian để suy nghĩ lại, trong khi phải sống lưu vong, về những sự kiện đã xảy ra ở Chile và học hỏi từ kinh nghiệm của những nước khác. Các Đảng Dân chủ Xã hội châu Âu nhìn nhận liên minh mới và chiến lược của nó – lại còn được đảng Dân chủ Cơ đốc ủng hộ - như thế nào?

Tôi nhớ, khi Mitterrand nhậm chức tổng thống Pháp, tháng 5 năm 1981, ông vào Điện Pantheon với bà quả phụ Allende; bà đi bên phải ông. Tôi xin nhấn mạnh ảnh hưởng của Allende và cuộc đảo chính chống lại ông đối với cánh tả châu Âu. Nếu nói chuyện với Olaf Palme [Thụy Điển], Gerhard Schroeder [Đức], hay Tony Blair [Vương quốc Anh], họ sẽ cho bạn biết rằng họ tham gia chính trị là do những trải nghiệm của vụ đảo chính chống lại Allende. Tất cả người châu Âu mà ta gặp đều nói với bạn rằng họ thường xuống đường biểu tình ủng hộ Chile. Tôi còn nhớ, khi ở Chantilly và Bordeaux, tham gia hai cuộc họp với những đảng viên Xã hội ở nước ngoài, nơi có người Chile sống lưu vong, người ta tôn trọng, lắng nghe chúng tôi vì chúng tôi là người đang sống ở Chile. Ở đấy người ta có thể gặp những người sống ở Thụy Điển, ở Milan, ở Paris. Người ta thấy ảnh hưởng của môi trường xung quanh, những người đàn ông và đàn bà Phục hưng đến thẳng từ Italy, và những người đến từ Thụy Điển với cách tư duy của vùng Scandinavia – thật không thể tin nổi. Chưa ai viết về ảnh hưởng của cuộc sống lưu vong đối với văn hóa chính trị. Tiến trình mà các lực lượng dân chủ Chile trải qua để đạt được sự thông cảm dựa trên khung cảnh là các tư tưởng đang thay đổi, có xuất xứ từ những nguồn khác nhau.

Tôi nhớ chuyến thăm Argentina, nhân dịp lễ nhậm chức của tổng thống Alfonsín, tháng 12 năm 1983. Tôi tham dự với tư cách chủ tịch Liên minh Dân chủ vì, như tôi giải thích bên trên, tháng đó, Đảng Xã hội giữ chức chủ tịch. Valdes, Silva Cimma và Armando Jaramillo cùng đi với tôi. Chúng tôi gặp Felipe Gonzalez, thủ tướng Tây Ban Nha; Pierre Mauroy, thủ tướng Pháp; Bettino Craxi, chủ tịch hội đồng bộ trưởng Italy. Chúng tôi trình bày với họ cương lĩnh của mình: Chính phủ lâm thời, Pinochet ra đi, Hội đồng Lập hiến, hiến pháp mới và tổ chức bầu cử. Chúng tôi giải thích cương lĩnh cho Felipe Gonzalez nghe, ông nói với chúng tôi: “Đây không phải là chương trình. Với kế hoạch như thế này, các ông sẽ còn tiếp tục ở trong giới hàn lâm trong một thời gian dài nữa. Làm sao ông có thể nói chính phủ lâm thời? Pinochet sẽ ra đi ư? Và làm sao các vị có thể chỉ định chính phủ lâm thời? Giả sử các ông thành công, Pinochet nộp đơn xin từ chức, và các ông chẳng còn gì để nói. Trước khi các ông có thể làm bất kì khoản nào trong chương trình này, các ông phải ra khỏi đáy giếng đã”. Cuộc họp đó thực sự có ảnh hưởng lớn; rất sáng suốt và cực kì hữu ích.

Sau đó chúng tôi gặp Pierre Mauroy, ông này nói với chúng tôi: “Tôi coi ông là đồng chí, đồng hành trong cuộc đấu tranh, nhưng tôi không thể làm nhiều hơn để giúp các ông bởi vì mối quan hệ là giữa chính phủ với chính phủ: quyền lợi của Pháp, quyền lợi của Chile..v.v.. Tôi hết lòng giúp ông, như một người đồng chí, nhưng là thủ tướng tôi chỉ có thể làm được rất ít”. Khi không còn là thủ tướng, Mauroy gọi điện cho tôi và nói: “Bây giờ ông có thể tin tôi; khi đến Chile tôi sẽ làm việc với ông”.

Và ông đã làm như vậy trước và trong cuộc trưng cầu dân ý, đánh bại Pinochet. Chúng tôi đã học tập về hoạt động chính trị như thế đấy.

Chúng tôi còn gặp Craxi. Chúng tôi đọc diễn văn và ông nói: “Việc này rất dễ. Trước hết chúng ta cần kênh chuyển tải thông tin; sau đó, hiện chúng ta đang ở Argentina, ngày mai chúng ta sẽ đề nghị Alfonsín cho chúng ta một chỗ trong dãy Andes, bên phía Argentina. Tôi sẽ tài trợ cho một ăng-ten lớn và chúng ta sẽ phát sóng vào Chile”. Ngày hôm sau Craxi đi nói chuyện với Alfonsín, ông này tìm cách giải thích rằng khó lắp đặt ăng-ten, vì ông sắp ngừng chiến với Pinochet. Điều đó cho thấy ba não trạng rất khác nhau của ba nhà lãnh đạo chính trị.

Alfonsín là người cực kì quan trọng đối với chúng tôi. Chúng tôi đề nghị ông can thiệp với người Cuba để đảm bảo rằng bạn bè của họ ở Chile [Đảng Cộng sản] không làm những việc điên rồ, vì nếu họ cho nổ bom thì họ sẽ quét sạch chúng tôi. Và ông đã làm đúng như vậy. Ông là người đứng sau hậu trường, để giải thích cho ban lãnh đạo Cuba chiến lược nhằm đánh bại Pinochet của chúng tôi.
Kết luận, đã có cuộc tranh luận giữa những người nói về vận động xã hội và biểu tình và những người ủng hộ “tất cả các hình thức đấu tranh”, trong đó có bạo lực; chúng tôi bước vào năm 1986 trong bối cảnh như thế, chúng tôi cho rằng đấy sẽ là năm quyết định.

Đánh bại hệ thống độc tài ngay từ bên trong

Liên minh Dân chủ là bước tiến quan trọng, nhưng Pinochet và chế độ độc tài của ông ta vẫn còn khá mạnh. Làm sao các ông đưa ra được kế hoạch kết liễu chế độ độc tài? Đâu là vai trò của các tổ chức xã hội dân sự?

Chúng tôi nghĩ phải cố gắng đẩy được Pinochet ra khỏi quyền lực vào năm 1986. Nếu không, chúng tôi sẽ phải đối đầu với ông ta trong cuộc trưng cầu dân ý, dự định vào năm 1988, như được đề xuất trong hiến pháp năm 1980 của Pinochet. Cuộc trưng cầu dân ý sẽ được tổ chức để quyết định xem Pinochet có còn tiếp tục cai trị nữa hay không. Trong dự thảo hiến pháp năm 1980, Pinochet lập kế hoạch nắm quyền thêm 16 năm nữa, nhưng bộ trưởng nội vụ của ông ta, Sergio Fernandez, nói: “Ông không nghĩ rằng 16 năm là quá nhiều à? Tại sao chúng ta không tổ chức trưng cầu dân ý vào giữa giai đoạn đó? Và sau đó ông có thể tiếp tục làm thêm tám năm nữa. Ông sẽ là ứng cử viên của cuộc trưng cầu dân ý”. Và ai lẽ là người giới thiệu ông ta làm ứng cử viên? Hội đồng quân sự gồm bốn tư lệnh quân đội. “Đồng ý”, Pinochet nói, và do đó, người ta thỏa thuận rằng tám năm sau hội đồng sẽ cử Pinochet làm ứng cử viên.

Năm 1978, Aylwin giúp thành lập nhóm nghiên cứu hiến pháp, còn gọi là Nhóm 24, Manuel Sanhueza làm chủ tịch. Nhóm đó đã thảo ra được bản hiến pháp thay thế, trong khi Pinochet nói về việc soạn thảo hiến pháp mà ông áp đặt trong cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 10 năm 1980. Năm 1984, tôi đã tranh luận công khai với Aylwin. Chúng tôi tham dự buổi hội thảo do Viện nghiên cứu nhân quyền Chile (Chileno de Estudios Humanisticos) tổ chức, đây là thiết chế của Đảng Dân chủ Cơ đốc, được quĩ Konrad Adenauer Foundation hỗ trợ. Aylwin nói rằng chúng tôi phải chấp nhận bản hiến pháp của Pinochet, để sau này thay đổi nó. Ông nói rằng bản hiến pháp đó là bất hợp pháp và rằng ông sẽ tiếp tục nói như vậy cho đến chết vì nguồn gốc của nó, và ông chấp nhận rằng có những người khẳng định rằng bản hiến pháp này là hợp pháp. Ông nói rằng Pinochet không thể bắt buộc ông nói rằng bản hiến pháp đó là hợp pháp, và rằng Pinochet có quyền nói rằng nó là hợp pháp. Khác biệt giữa Pinochet và ông là Pinochet có lực lượng quân sự. Aylwin không muốn thảo luận câu hỏi là bản hiến pháp này có hợp pháp hay không, bởi vì ông tuyên bố rằng chúng tôi sẽ không bao giờ thông cảm được với nhau trong cuộc thảo luận này. Ông nói, ông hiểu rằng khi cảnh sát đưa ra tờ biên lại phạt vì chạy xe quá tốc độ thì ông chấp hành chế độ bắt đầu với bản hiến pháp của Pinochet và kết thúc với quyền đưa ra tờ biên lai phạt vì chạy quá tốc độ. Bản hiến pháp của Pinochet là thực tế đang hiện hữu, buộc phải chấp hành; vì vậy, nếu đây là tình hình thực tế thì chúng ta có thể tìm cách thay đổi bản hiến pháp đó mà không cần quan tâm tới tính hợp pháp của nó.

Tôi rất không đồng ý với ông ta về vấn đề này. Ông nhấn mạnh và nói rằng ông chấp nhận bản hiến pháp của Pinochet, mặc dù ông phản đối nó vì nó là bất hợp pháp, nhưng ông tuân thủ nó, vì nó là trật tự do vũ lực mà ra; nó là sự kiện đang hiện hữu.

Huy động xã hội

Đã có một số nỗ lực nhằm kết liễu chế độ độc tài bằng những cuộc vận động xã hội và hành động chính trị. Nói về những cuộc vận động xã hội, những cuộc biểu tình đầu tiên ở Chile xảy ra vào tháng 5 năm 1983 và được tổ chức bởi liên đoàn thợ mỏ đồng và nhà lãnh đạo công đoàn mới nổi, Rodolfo Seguel. Chúng tôi thường gặp nhau trong tòa nhà Carlos V ở trung tâm thành phố Santiago, Đảng Dân chủ Cơ đốc có văn phòng trong một công ti luật trong tòa nhà này. Chúng tôi nói với công nhân rằng họ có thể đình công, nhưng chúng tôi tin rằng ngoài họ ra, không có người nào ở Chile tham gia đình công. Ban lãnh đạo Liên minh Dân chủ chúng tôi, cùng với các nhà lãnh đạo thợ mỏ đồng, tin chắc rằng tổ chức những cuộc phản đối nhẹ nhàng hơn thì sẽ hiệu quả hơn. Lời kêu gọi biểu tình nói rằng vào ngày đã định, không nên đưa con đi học, công nhân cũng không nên ăn trưa ở nơi làm việc; nên làm việc, nhưng thật chậm thôi. Chúng tôi du nhập ý tưởng này từ Argentina, làm việc mà không để hết sức vào nó, nhưng vẫn đi làm và vẫn làm. Ở Argentina người ta gọi là “làm việc theo luật lệ”. Bạn có thể đi đến kiểm tra tiền mặt tại ngân hàng, Ví dụ, bạn mang ngân phiếu ra ngân hàng để rút tiền mặt, ngân phiếu của một tổ chức lớn mà bạn biết là có tiền, và nhân viên ngân hàng nói với bạn: “Để tôi kiểm tra xem có tiền không”, sau đó nói với bạn rằng họ nghi ngờ chữ kí. Họ thanh toán cho bạn sau khoảng 15 phút, và họ sẽ làm như thế với tất cả mọi người; đúng là điên.

Vì vậy, có người đề nghị là ban đêm chúng tôi có thể gõ nồi niêu xoong chảo. Trước đây, trong thời chính phủ Đòan kết Nhân dân, khi xảy ra thiếu hụt lương thực, thực phẩm, những người sống trong các khu vực giàu có, thiên hữu, đã làm như thế. Hôm đó, ngày 11 tháng 5 năm 1983, vào lúc tám giờ tối, từ các tòa nhà chung cư trong các khu trung lưu, ví dụ như các comuna La Reina, tiếng gõ nồi niêu, xoong chảo vang lên đinh tai nhức óc. Đó là một bất ngờ lớn, và tôi có cảm giác rằng chuyện gì đó đã xảy ra ở Chile. Pinochet đưa xe tăng ra đường phố và bỏ tù những nhà lãnh đạo kêu gọi biểu tình. Trong cuộc biểu tình sau đó, Gabriel Valdes đã in một số biểu ngữ động viên mọi người xuống đường; họ tìm được biểu ngữ và bắt ông cùng với những người khác.

Năm 1985, Hồng y Raul Silva Henriquez kính mến của của chúng tôi về hưu, và Vatican cử Hồng y Fresno làm người kế nhiệm ông. Hồng y Fresno nhận thấy sự phân cực quá lớn giữa chính phủ và phe đối lập, vì vậy ông đề nghị thành lập Hòa giải Dân tộc (National Accord) . Accord đưa cả những người đại diện cho cánh hữu và cánh tả của Liên minh Dân chủ tham gia. Luis Maira được mời tham gia; ông là thành viên Đảng Cánh tả Cơ đốc (Izquierda Cristiana) và có chân trong Phong trào Dân chủ Nhân dân (Movimiento Democratico Popular - MDP), trong khi những người đại diện của cánh hữu như Fernando Leniz, từng có chân trong nội các của Pinochet, cũng được mời tham gia. MDP là nhóm chính trị của PC (Cộng sản, PS (Đảng Xã hội) phe Almeyda, và các nhóm khác, những người ủng hộ “tất cả các hình thức đấu tranh”.

National Accord là nỗ lực nhằm tìm cho ra giải pháp chính trị được cả những người bên ngoài Liên minh Dân chủ chấp nhận. Rất quan trọng; đây là lần đầu tiên có sự phân tích những điều cần thay đổi trong hiến pháp của Pinochet, và cũng có nghĩa là mặc nhiên chấp nhận bản hiến pháp đó.
Giáo hội Công giáo có vai trò cực kì quan trọng - các nhà thờ nói chung, đặc biệt Giáo hội Công Giáo. Chúng tôi thường gặp nhau ở khu vực thờ phụng; nhà thờ là nơi an toàn. Phụ nữ cũng rất quan trọng, vì dưới khẩu hiệu “bình đẳng giới”, họ còn đòi bình đẳng trong cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài. Rồi đến tư tưởng “tự do có khuôn mặt người”, rất đúng, và đó là một yếu tố đáng kể. Không có gì phải nghi ngờ về vai trò quan trọng của các phong trào xã hội .

Năm 1986, các nhà lãnh đạo công đoàn và hội nghề nghiệp, ví dụ như hội giáo chức và hội bác sĩ lập ra tổ chức gọi là Hội nghị Công dân (Asamblea de la Civilidad), đấy cũng là tổ chức rất quan trọng. Một khi các bác sĩ tham gia thì là nghiêm trọng, rồi những người lái xe tải cũng tham gia. Tổ chức này do tiến sĩ Juan Luis Gonzalez, chủ tịch của Hội Bác sĩ (Colegio Medico) và là thành viên của Đảng Dân chủ Cơ đốc thành lập; tất cả mọi người đều tham gia.

Những bước thụt lùi
Liên minh Dân chủ còn ấp ủ kế hoạch nhằm kết liễu chế độ độc tài trong năm 1986, gọi là năm quyết định. Đã xảy ra những chuyện gì?

Năm đó đúng là năm quyết định, nhưng không phải theo cách chúng tôi nghĩ. Nhưng hóa ra là năm quyết định hơn hẳn vì vụ buôn lậu vũ khí ở Carrizal bị phát hiện, chứng tỏ rằng người ta vẫn theo đuổi “tất cả các hình thức đấu tranh” [nghĩa là, sử dụng bạo lực] nhằm lật đổ Pinochet, và rằng vụ này đã có ảnh hưởng vô cùng tệ hại. Đây là hoạt động được hỗ trợ khá tốt: một công ti đánh cá với hai chiếc tàu và một công ti khai thác mỏ khai thác khu mỏ hoang. Còn vũ khí thì được vận chuyển từ ngoài khơi vào. Hai công ti này hoạt động hợp pháp, có những người quản lí; họ bán cá, và thỉnh thoảng người ta phát hiện họ có vũ khí. Có người nói rằng thông tin xuất phát từ Peru. Cái mà mọi người đều biết là Carrizal đã bị phát hiện, và vũ khí được đưa vào trong nước trong một chiến dịch có qui mô khá lớn.

Khi nó bị phát hiện, hoàn toàn có khả năng là Mặt trận yêu nước mang tên Manuel Rodriguez (Frente Patriotico Manuel Rodriguez) quyết tâm đẩy nhanh kế hoạch B của họ - tìm cách ám sát Pinochet. Họ đã làm vào ngày 7 tháng 9 năm 1986, nhưng thất bại, vì không giết được Pinochet, mặc dù có mấy vệ sĩ thiệt mạng. Vụ ám sát được tổ chức rất bài bản, nhưng sự thất bại của nó, cộng với vụ buôn lậu vũ khí ở Carrizal, có nghĩa là năm 1986 là năm quyết định, nhưng không có lợi cho phe đối lập. Tôi bị bỏ tù, nhiều người khác cũng thế, trong đó có German Correa, đảng viên Đảng Xã hội, vẫn còn liên minh với PC (Cộng sản). Tôi hỏi ông ta là có biết vụ ám sát hay không; ông nói không biết gì. Vì vậy, tôi nói với ông ta rằng các đối tác của ông chơi không đẹp vì họ không nói với ông chuyện đó. Tôi thấy rằng ông rất tức giận. Sau ngày 7 tháng 9 năm đó, nhiều người Chile đã chết trong tay cảnh sát mật của Pinochet.

Trong Liên minh Dân chủ, chúng tôi lập ra Ủy ban Chính trị Riêng tư (Comite Politico Privado), Đảng Dân chủ Cơ đốc và Đảng Cấp tiến cử Valdes và Silva Cimma tham gia cùng với Đảng Xã hội. Chúng tôi thường gặp MDP ở những nơi do chúng tôi đưa ra để thảo luận về những hoạt động cụ thể; ví dụ, làm sao tổ chức được cuộc biểu tình tiếp theo mà không có những hành động bạo lực, không để cảnh sát lấy cớ để đàn áp, làm sao tránh được những kẻ giấu mặt, và làm thế nào đảm bảo rằng sẽ không có cảnh đốt lốp xe, chặn đường, hay những vụ gây rối khác tương tự như vậy.

Các đảng tổ chức cho cuộc trưng cầu dân ý năm 1988 - cuộc đầu phiếu có tính quyết định về việc Pinochet sẽ vẫn nắm quyền lực thêm một nhiệm kỳ nữa - như thế nào?

Chúng tôi cần phải đăng ký với các cơ quan bầu cử để tham gia cuộc trưng cầu dân ý năm 1988 về nhiệm kì tới của Pinochet. Đây là sự kiện rất quan trọng, Tòa bảo hiến quyết định rằng, để tổ chức trưng cầu dân ý, cần phải lập ra cơ quan đăng kí cử tri mới để thay thế cho cơ quan đã bị giải tán sau đảo chính quân sự; thế là cần phải đăng kí cử tri. Sau đó là thành lập Ủy ban ủng hộ bầu cử tự do và Ủy ban cánh tả ủng hộ bầu cử tự do vì phái tả Dân chủ chúng tôi không tham gia vào Uỷ ban ủng hộ bầu cử tự do. Chúng tôi phải củng cố sự hiện diện của mình và tăng cường liên minh các nhóm chính trị ủng hộ cuộc trưng cầu dân ý.

Điều 8[1] đã bị bãi bỏ, nhưng đấy là sau cuộc trưng cầu dân ý, vì vậy chúng tôi không thể hoạt động như Đảng Xã hội. Chúng tôi đăng kí Đảng vì Dân chủ. Cuối cùng, Đảng vì Dân chủ trở thành, trên thực tế, Đảng Xã hội đổi mới; bao gồm nhóm người đã ra khỏi Đảng Cấp Tiến và một nhóm những người theo chủ nghĩa tự do thuộc cánh hữu của Đảng Cộng hòa, cộng với một số nhân vật độc lập, vì Almeyda vẫn chưa đăng ký.

Lúc đó MDP, do phái Almeyda của Đảng Xã hội (PS) cùng với những nhóm tả khuynh khác lập ra, thông qua khẩu hiệu Inscripción-traición (đăng kí là phản bội). Liên minh Dân chủ không còn hay là đang trên đường giải tán, được thay thế bởi liên minh Concertación. MDP trong giai đoạn đó cũng bắt đầu thay đổi; được gọi là Cánh tả Thống nhất (Izquierda Unida) nhằm cố gắng giữ PS của Almeyda với PC (Cộng sản) và Phong trào Cách mạng cánh Tả (Movimiento de Izquierda Revolucionaria). Tôi nhớ đã đi với Arturo Valenzuela, một nhà nghiên cứu chính trị người Mỹ, đến comuna (khu phố) Renca vào ngày 15 tháng 8 năm 1987, đến khu chợ trên đường phố để bảo họ rằng họ cần phải đăng kí cử tri. Một nhóm nhỏ theo sau chúng tôi, vừa đi vừa hét inscripción-traición - họ là đảng viên PC (Cộng sản). Tôi quay lại với những người tôi biết và nói với họ rằng chúng tôi làm những việc chúng tôi có thể làm. Tôi đề nghị họ không khiêu khích chúng tôi, rằng họ nên ngồi trên vỉa hè bên kia đường, nếu họ muốn. Họ đề nghị chúng tôi gặp các đồng nghiệp của họ vào chiều hôm đó để thảo luận vấn đề đăng kí. Chúng tôi gặp nhau trong nhà thờ, các đồng chí Cộng sản đọc một bài diễn văn, giải thích vì sao đăng kí là phản bội. Khi nói, tôi hỏi họ rằng liệu họ biết con đường để Pinochet tiếp tục nắm quyền là thế nào không. Trước đây ông ta cầm quyền bằng vũ lực, nhưng bây giờ ông ta phải giành chiến thắng trong cuộc trưng cầu dân ý. Nếu chúng ta có những người theo dõi cuộc bỏ phiếu, chúng ta có thể đánh bại Pinochet, với điều kiện là người của chúng ta phải đăng kí.
Tính toán của chúng tôi như thế nào? Tám triệu người Chile có thể bỏ phiếu; Pinochet không thể nhận được hơn 40% phiếu, và tất cả những người ủng hộ ông ta sẽ đăng kí. Trên thực tế, người đầu tiên đăng kí là Augusto Pinochet. Do đó họ đã có 3,2 triệu phiếu - 40% của 8 triệu. Để giành chiến thắng, chúng tôi phải có ít nhất bảy triệu người ở Chile đăng kí. Tôi nhớ rằng có lần Ricardo Nunez tuyên bố: “Hôm nay người thứ bảy triệu đã đăng ký, chúng ta sẽ đánh bại Pinochet”. Đó là logic số học, nhưng nếu tẩy chay và nhân dân không đăng kí thì chúng tôi thua.

Và sự kiện diễn ra như sau: Đảng vì Dân chủ (Partido por la Democracia - PPD) đăng ký như một chính đảng, còn chính phủ thì chuyển Clodomiro Almeyda từ Chile Chico tới Santiago, kết tội ông theo Điều 8 của hiến pháp Pinochet. Tôi đến thăm ông ở nhà tù Capuchinos, ông nói với tôi: “Chúng tôi có tin tốt, MDP sẽ đăng ký tham gia bầu cử”. Tôi nói với ông rằng chúng ta phải thành lập đảng chính trị, chúng ta phải thành lập PPD, vì nếu chúng ta không có đảng, ai sẽ đảm bảo cuộc bầu cử và kiểm phiếu được thực hiện một cách công bằng? Chỉ có đảng Dân chủ Cơ đốc thôi sao? Các đảng cử ra những người theo dõi bỏ phiếu (apoderados de mesa), và tôi không muốn chỉ có đảng Dân chủ Cơ đốc là người theo dõi các cuộc bỏ phiếu. Tôi cũng muốn kiểm phiếu nữa. Tôi không thể thuyết phục Almeyda trở thành đảng viên PPD. Chỉ có PPD, đại diện cho cánh tả, cùng với đảng Nhân quyyền (Humanist) cử người theo dõi bầu cử tham gia kiểm phiếu mà thôi. Sau khi Pinochet thua trong cuộc trưng cầu dân ý, buộc chính phủ phải tổ chức bầu cử vào năm 1989, Almeyda và nhóm tả khuynh đó lập ra Đảng Xã hội Tả khuynh (Partido de Amplio Izquierda Socialista) để giới thiệu ứng cử viên tham gia bầu cử.

Tôi còn nhớ rõ chuyện đó, vì khi Aylwin tranh cử tổng thống, chúng tôi phát hiện ra rằng chỉ có các ứng cử viên tổng thống mới được đề cử ứng cử viên và những người theo dõi bỏ phiếu, cho nên chúng tôi xin Aylwin ủy quyền và ủy thác trách nhiệm cho người của chúng tôi. Cuối cùng, chúng tôi đã có thể có được những người như thế, vì chúng tôi có thể cử những người theo dõi các cuộc bầu cử các ứng viên thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ.

Tôi kể lại những sự kiện này để chứng minh rằng việc thành lập được liên minh Concertación là kết quả của một sự tích tụ liên tục lực lượng trong một thời gian dài, chứ không phải là quyết định đơn độc.

Xây dựng niềm tin trong phe đối lập

Phong trào đối lập phải vượt qua sự nghi kị và chính trị nội bộ chia năm sẻ bảy để làm việc cùng nhau. Đâu là những khoảnh khắc và quyết định then chốt đưa phe đối lập vào con đường cuối cùng đã dẫn tới kết quả đánh bại được Pinochet?

Đầu tiên là quyết định của Đảng Xã hội hợp tác với Đảng Dân chủ Cơ đốc, tổ chức mà nhiều người trong chúng tôi nghĩ là đã gõ cửa các doanh trại quân đội nhằm kích động cuộc đảo chính quân sự năm 1973. Tôi không nói đó là sự kiện đã xảy ra, nhưng nhiều thành viên của liên minh Thống nhất Nhân dân (Popular Unity) tin rằng Đảng Dân chủ Cơ đốc đã ủng hộ và giúp kích hoạt cuộc đảo chính quân sự. Đây là chướng ngại vật cho sự hợp tác của chúng tôi. Chúng tôi đã phải vượt qua mối ngờ vực đã ăn sâu bén rễ nhằm đạt cho bằng được mục tiêu dân chủ của chúng tôi, và chúng tôi đã làm được.

Đánh bại hệ thống độc tài ngay từ bên trong

Vấn đề thứ hai là có tham gia trưng cuộc trưng cầu dân ý hay không và, do đó, chấp nhận bản hiến pháp của Pinochet, ít nhất là trên phương diện đó, và chấp nhận tất cả những rủi ro của vụ gian lận có thể xảy ra. Quyết định này được đưa ra vào cuối năm 1986 và đầu năm 1987, sau khi những nỗ lực khác nhằm kết liễu chế độ quân sự thất bại và người ta thấy rằng cuộc trưng cầu dân ý đã cận kề.
Tháng 2 năm 1987, khi Clodomiro Almeyda [thành viên lãnh đạo Đảng Xã hội] trở về Chile, tôi cùng với người anh rể của mình là Pedro Duran đến gặp ông ở Chile Chico, một thị trấn xa xôi ở Patagonia, để nói với ông rằng cần phải đăng kí Đảng Xã hội tham gia bầu cử. Chúng tôi đến Balmaceda vào lúc nửa đêm. Chiếc xe buýt mà chúng tôi đi, ghé vào một đồn cảnh sát; họ bảo chúng tôi xuống; trong những đồn cảnh sát như thế, cảnh sát có thể hỏi cung và khám người. Chúng tôi không biết họ có buộc chúng tôi trở về Santiago hay không, vì lúc đó không có tự do đi lại.

Quyết định đăng kí vào danh sách của của Pinochet và nơi bầu cử là quyết định quan trọng, vì ai có thể tưởng tượng rằng một lúc nào đó Pinochet sẽ ra đi vì ông ta thua trong cuộc trưng cầu dân ý? Tôi nhận ra rằng để làm cho mọi việc trở nên dễ dàng hơn, tôi cần lôi kéo Almeyda, vì nếu ông tới Chile bằng con đường bí mật thì ông ta sẽ làm gì? Ông sẽ tới tòa án để không bị trục xuất. Làm như vậy là trên thực tế ông đã chấp nhận khuôn khổ thiết chế của chế độ độc tài, và ông nghĩ là trong đó khuôn khổ thiết chế đó, họ sẽ không giết ông. Thật vậy, họ bỏ tù ông và đưa ông tới nhà tù cách Santiago 1.400 km, trong khi suy nghĩ xem phải làm gì với ông. Ông là chủ tịch chính thức Đảng Xã hội, nhưng hiến pháp của Pinochet cấm Đảng Xã hội, vì vậy chính phủ phải quyết định biện pháp xử lí ông. Dễ nhất là buộc ông phải sống lưu vong ngay ở trong nước. Có thể tới và nói chuyện với ông, bởi vì ông được phép đi lại trong thị trấn nhỏ đó, nhưng ông không thể rời khỏi thị trấn đó. Đăng kí tham gia bầu cử và được sự hỗ trợ của phái Almeyda là quan trọng. Tôi không nhận được lời cam kết trong chuyến thăm đó. “Tôi cần thêm thời gian thông qua quyết định trong đảng”, ông nói với tôi.
Và quyết định thứ ba, cũng là kết quả của quyết định trước, là lập ra PPD. Năm 1987, Patricio Aylwin giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Dân chủ Cơ đốc và ông đã đưa ra hai cam kết cơ bản. Thứ nhất, ông cam kết thành lập một liên minh nhỏ, không có Đảng Xã hội, đó là đòi hỏi của Adolfo Zaldivar [một nhà lãnh đạo trong Đảng Dân chủ Cơ đốc], ông này nói rằng sẽ chỉ ủng hộ Aylwin nếu không đưa Đảng Xã hội vào liên minh. Và thứ hai, Aylwin cam kết rằng Đảng Dân chủ Cơ đốc sẽ đăng kí. Khi thấy hai điều kiện này, tôi đã nói chuyện với Aylwin và bảo ông: “Nếu ông thành lập liên minh nhỏ, thì ông sẽ là Adolfo Suarez, còn tôi sẽ là Felipe Gonzalez”. Tôi nói với ông ta theo cách đó bởi vì vừa ra khỏi cuộc họp thì Gabriel Valdes nói với tôi: “Tôi sẽ không là Adolfo Suarez để ông có thể trở thành Felipe Gonzalez; chúng ta hãy cùng nhau tham gia chính phủ vì phải áp dụng nhiều biện pháp khó khăn”. [Lúc đó, Gonzalez đang là thủ tướng Tây Ban Nha, còn Suarez là thủ tướng đầu tiên của Tây Ban Nha, sau khi Franco, và đã từ chức vào năm 1981. Quốc hội Tây Ban Nha đã bầu Leopoldo Calvo Sotelo giữ chức thủ tướng cho tới cuộc bầu cử năm 1982, khi đảng của Gonzalez, PSOE, giành thắng lớn].

Vì vậy, dù không phản đối Aylwin về liên minh nhỏ, tôi đã chất vấn ông ta về việc đăng kí đảng của ông. Nhưng tôi nói với ông rằng tôi không chấp nhận việc đó, vì không thể đăng kí được Đảng Xã hội vì hiến pháp của Pinochet cấm đảng này. Khi Aylwin nói rằng ông sẽ đăng kí đảng của mình, thì tôi đến nói chuyện với Enrique Silva của Đảng Cấp Tiến để hỏi xem ông ta sẽ làm gì. Ông nói với tôi: “Nếu đảng Dân chủ Cơ đốc đăng kí, thì tôi cũng sẽ đăng kí”. Vì vậy, tôi kêu gọi những người có đầu óc dân chủ Chile đoàn kết với Đảng Xã hội. Lúc đó, tôi đề nghị rằng chúng tôi thành lập một đảng làm cái ô, đảng PPD, đại diện cho tất cả mọi người. Vì vậy, tôi quyết định đăng ký PPD. Trong một cuộc phỏng vấn trên tờ El Mercurio ra hàng ngày, tháng 1 năm 1987, tôi nói rằng phải thành lập một đảng lớn, đảng PPD, đảng này sẽ đưa tất cả chúng tôi lại với nhau. Tôi tung ra ý tưởng đó vì chúng tôi chuẩn bị đăng kí đảng này. Aylwin nói với tôi rằng muốn giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống, ông phải nói rằng Đảng Dân chủ Cơ đốc phải đăng kí. Và ông nói thêm rằng tôi có thể yên trí là ông sẽ không làm như thế trước khi Điều 8 được bãi bỏ, vì vậy chúng tôi cũng có thể đăng kí, và nếu điều khoản đó không được bãi bỏ, chúng tôi có thể thành lập một đảng duy nhất.

Các quan chức dân sự kiểm soát lực lượng vũ trang

Chile là trường hợp chuyển hóa duy nhất, trong đó nhà cầm quyền độc tài trước đây vẫn giữ chức tổng tư lệnh Lục quân trong suốt 8 năm sau đó, đây là trở ngại lớn nhất trong việc giải quyết những vụ vi phạm nhân quyền và đưa quân đội trở về doanh trại. Có thể rút ra những bài học nào từ kinh nghiệm đối phó với các lực lượng vũ trang của ông?

Chính sách đối với quân đội phải dựa trên những nguyên tắc rõ ràng sau đây:
1. Quân đội và lực lượng vũ trang là những tổ chức thường trực của nhà nước cộng hòa, và do đó họ phải được sự ủng hộ hoàn toàn của chính quyền dân sự, dân cử, như là các tổ chức của nước cộng hòa.
2. Điều đó có nghĩa là lực lượng vũ trang được sử dụng như thế nào và khi nào thì được sử dụng - vì họ được độc quyền sử dụng vũ lực – là những vấn đề thuộc thẩm quyền của các quan chức dân sự.
3. Đổi lại, các quan chức dân sự phải cho quân đội độc quyền sử dụng vũ lực và đảm bảo rằng các nhu cầu về tài chính và kỹ thuật của họ được đáp ứng nhằm tạo điều kiện cho họ thực thi nhiệm vụ của mình là bảo vệ đất nước trước những mối đe dọa từ bên ngoài.
4. Tất cả các lợi ích hay đặc quyền đặc lợi mà giới quân sự có thể đã được nhận khi họ cai trị trong chế độ độc tài đều phải chấm dứt. Các thiết chế của nhà nước cộng hòa là tài sản của cả nước, và tất cả những khoản lợi lộc đặc biệt mà nhà độc tài ban cho quân đội đều phải chấm dứt.
5. Thậm chí quan trọng hơn là, vì các lực lượng quân sự có vũ khí, cho nên họ không được dính líu với chính trị. Cá nhân nào muốn tham gia vào chính trị đều phải ra khỏi quân đội, trở thành thường dân; lúc đó có thể đứng trước ống kính TV và tranh luận - không có vũ khí - để xem ai đúng, ai sau.
Đây là những nguyên tắc cơ bản, phải tuân thủ ngay từ đầu. Bây giờ, tôi biết nói thì dễ, nhưng lúc đó rất khó đưa thông điệp này vào ủy ban trung ương của các đảng của chúng tôi. Thật không dễ khi nhiều người muốn một số sĩ quan quân đội phải bị trừng phạt vì những vụ vi phạm nhân quyền của họ.

Khi Pinochet nhậm chức tư lệnh Lục quân vào năm 1990, người ta đã biết rằng thời hạn là cố định. Trước đây, Pinochet ra lệnh vì ông bổ nhiệm các tư lệnh Hải quân và Không quân. Khi tôi trở thành tổng thống, Pinochet đã trở về từ London, ông ta bị bắt giữ ở đấy và đang bị truy tố ở Chile vì những vụ vi phạm nhân quyền. Một hôm, mấy tuần sau lễ nhậm chức tổng thống của tôi, bốn vị tư lệnh cùng nhau đi ăn trưa ở một nhà hàng ở Santiago, như hành động thể hiện sự thống nhất và đoàn kết với Pinochet trước mặt toàn thể xã hội vậy. Tôi bực lắm, nhưng là tổng thống, tôi chưa có quyền loại bỏ họ. Vì vậy, việc đầu tiên tôi hỏi là ai trả tiền và người ta nói với tôi là chỉ huy Cảnh sát trả; tôi gọi cho chỉ huy cảnh sát; và ông ta khẳng định như vậy. Tôi nói với ông ta, và sau đó tôi nhắc lại cho từng người một: “Ông đã bao giờ trông thấy tất cả các vị tư lệnh vào Nhà Trắng chưa? Hay trông thấy ba vị chỉ huy chủ động đến gặp thủ tướng Na Uy hay Hà Lan, hay bất kỳ quốc gia dân chủ nào khác? Với buổi gặp gỡ, ăn trưa hôm nay, ông làm phương hại tới vị thế của Chile trên thế giới. Tôi sẽ không bao giờ chấp nhận một sự phô trương như vậy nữa, và lần sau tôi sẽ gọi ngay từ ban công lâu đài La Moneda để cách chức tất cả quí vị, và chúng ta sẽ thấy ai là chỉ huy ở Chile”. Và “Tôi sẽ sử dụng cơ hội này để nói cho ông biết một điều nữa, đó là ngày mà ông tự quyết định triệu tập Hội đồng An ninh Quốc gia thì ông sẽ phải tìm nơi họp, vì là tổng thống của nước cộng hòa, tôi sẽ không tham gia, và do đó các ông sẽ không họp ở La Moneda; tôi sẽ không tham gia”. Và với những cuộc trao đổi như thế, dần dần chúng tôi đã hiểu nhau. Sau đó, tôi quyết định đề nghị một tổng tư lệnh từ chức vì những vụ vi phạm nhân quyền của ông này. Ông ta không thách thức tôi, mặc dù, theo hiến pháp, tôi không có quyền bãi chức ông ta; ông ta không nói với tôi: “Ông không thể yêu cầu tôi từ chức”. Tình hình đã thay đổi, nhưng diễn ra dần từng bước. Cuối cùng, năm 2005, phe đối lập cánh hữu đã bỏ phiếu ủng hộ việc bãi bỏ qui định của hiến pháp nói rằng tổng thống không thể cách chức các vị tư lệnh trong nhiệm kì kéo dài bốn năm. Nhưng tất cả mọi người biết rằng qui định này, trên thực tế, đã là vấn đề thuộc về quá khứ.

Công lí và hòa giải

Làm sao có thể giải thích được sự kiện là Chile đạt được nhiều tiến bộ nhất về vấn đề công lí trong giai đoạn chuyển hóa, mặc dù nhà cựu độc tài vẫn là tổng tư lệnh Lục quân trong suốt tám năm?
Điều quan trọng là xác định cách thực thi công lí trong giai đoạn chuyển hóa, có xem xét tới sự kiện là nhân quyền đã bị vi phạm. Làm sao giải thích cho giới quân nhân và cho cả nhân dân nữa, rằng tìm kiếm sự thật và công lí không phải là trả thù, “Chúng ta sẽ không phủ nhận nó, để chúng ta sẽ không phải sống như thế một lần nữa”? Bạn phải nói với giới quân nhân rằng chúng ta không muốn trả thù, nhưng để đảm bảo rằng chúng ta sẽ không bao giờ phải trải qua những việc như thế một lần nữa, xin hãy đừng phủ nhận rằng việc đó đã xảy ra. Quá trình [tìm kiếm công lý và hòa giải], dẫn chúng tôi đến một cuộc trưng cầu dân ý, mà cuối cùng là cải cách bản hiến pháp của Pinochet, đôi khi tiến lên một cách chậm chạp, nhưng vẫn tiếp tục tiến lên với bước đi được duy trì liên tục.

Frei có một sáng kiến khá thành công, có tên là Mesa de Dialogo hay Bàn đối thoại (1999-2001). Bàn có bốn bên: Các tướng, do các giới chức có thẩm quyền cấp cao nhất của Lục quân làm đại diện; đối diện với họ các luật sư nhân quyền; rồi đến Giáo hội và các thiết chế đạo đức khác của đất nước; và cuối cùng là nhóm người đại diện cho các phe phái chính trị ở Chile. Bạn có thể tìm được người thuộc phái trung tâm, phái hữu và phái tả, những người không phải do các đảng phái mà do tổng thống nước cộng hòa bổ nhiệm, và cuộc đối thoại bắt đầu diễn ra xung quanh cái bàn đó. Nó bắt đầu với một cử chỉ mang tính tượng trưng. Viên tướng Lục quân đến gần luật sư Pamela Pereira, cha bà này bị mất tích, và đưa tay ra để bắt tay bà. Pereira không đưa tay ra, mà nói với ông ta: “Thưa tướng quân, tôi sẽ bắt tay ông khi cuộc đối thoại này chấm dứt”, nói cách khác, khi cuộc đối thoại này đưa ra kết luận cụ thể nào đó, chứ không phải trước đó. Cuối cùng, họ đã bắt tay nhau.

Tôi tiếp tục Mesa de Dialogo và nó đã kết thúc trong chính quyền của tôi. Sự kiện là các sĩ quan quân đội ngồi vào bàn thảo luận có nghĩa là họ nhận một số trách nhiệm. Phải mất thời gian thì mới được như thế. Những người phụ nữ thường đi tới đó, mang theo hình ảnh của những người thân yêu đã mất tích của mình.

Moises Naim, một nhà phân tích chính trị nổi tiếng của Mỹ Latin, có lần hỏi tôi: “Đâu là quyết định khó khăn nhất trong chính quyền của ông?” Khó khăn là quyết định lập bản báo cáo về tù chính trị và tra tấn, vì nó có nghĩa là quay lại quá khứ và mở chiếc hộp Pandora về những vụ vi phạm nhân quyền, 13 năm sau khi chúng tôi đã giành chiến thắng và 11 năm sau khi Aylwin lập ra Ủy ban Sự thật và Hòa giải, cơ quan điều tra những vụ chết người và những người mất tích liên quan đến chính và tung ra bảo báo cáo nhan đề Rettig Report vào năm 1991, sau này trở thành tấm gương cho Mandela. Nhưng những người đã bị tù đày vẫn tiếp tục khẳng định rằng không ai thừa nhận những sự kiện họ đã trải qua và khi người ta yêu cầu họ cung cấp hồ sơ thì hóa ra là họ đã từng là tù nhân, họ phải giải thích rằng họ là tù nhân vì những tư tưởng chính trị của mình. Cuối cùng, tôi quyết định thành lập Ủy ban Valech[2]. Đây là những quyết định khó khăn. Tôi nói với nhân dân về những kết luận của bản báo cáo về tù chính trị và tra tấn, công nhận rằng hơn 29.000 người Chile, cả đàn ông lẫn phụ nữ, đã bị tra tấn và chỉ ra những nơi giam cầm và hình thức tra tấn. Đọc báo cáo này là cuộc hành trình đi vào địa ngục. Tuy nhiên, khác với Báo cáo Rettis của Aylwin, báo cáo này không bị quân đội nghi ngờ. Bây giờ họ đã chấp nhận và tìm kiếm sự tha thứ về những việc đã xảy ra dưới chế độ quân sự.

Khi có tự do thì đòi hỏi của xã hội cũng thường tăng lên, nhưng họ có thể làm cho những bước đi ban đầu của quá trình chuyển hóa trở thành phức tạp hơn. Các phong trào xã hội Chile có trách nhiệm như thế nào? Họ có giúp ngăn chặn bớt những kì vọng để đảm bảo rằng sự thay đổi về chính trị có thể tiếp tục diễn ra?

Tôi sẽ chia sẻ với bạn một giai thoại, chứa nhiều thông điệp về quá trình chuyển hóa. Tôi ở Bộ Giáo dục, và một hôm thư ký nói với tôi rằng tôi đã nhận được một lá thư viết tay gửi từ địa điểm gần Valdivia, miền nam Chile. Đầu tiên tác giả bức thư nhắc lại rằng trong chiến dịch tranh cử, tôi đã đi qua thị trấn của bà; sau đó bà mới viết về vấn đề của mình. Bà nói: “Chúng tôi là một nhóm comuneros (tiếng Tây Ban nha: thành viên cộng đồng - ND) biết những người thân bị chế độ độc tài bắn giết chôn cất ở đâu, và bây giờ chúng tôi muốn đến gặp thẩm phán để nói với ông ta để ông ta buộc người ta phải khai quật tử thi, vì chúng tôi muốn làm lễ an táng theo nghi thức Công giáo cho người thân của mình. Nhưng, một số người trong chúng tôi nghĩ rằng không được làm việc đó vào lúc này, còn quá sớm; giới quân nhân có thể điên tiết lên và lật đổ chúng ta một lần nữa, bằng một cuộc đảo chính. Một số người khác thì lại nghĩ rằng bây giờ chúng ta đang sống trong chế độ dân chủ và chúng tôi có thể làm việc đó. Chúng tôi đã chờ đợi gần 17 năm, và chúng tôi vẫn chưa thỏa thuận được với nhau, vì chúng tôi không biết rõ những việc đang diễn ra ở trong nước, chúng tôi quyết định xin lời khuyên của ông. Chúng tôi sẽ làm những việc mà ông bảo chúng tôi phải làm”. Lá thư đó có tác động lớn đối với tôi, tôi rất cảm động.

Tôi đem bức thư đến cho Aylwin xem. Ông hỏi phải làm gì, và tôi trả lời rằng chúng ta phải bảo họ đến gặp thẩm phán. Aylwin đồng ý. Tôi cử chánh văn phòng của tới gặp và nói với họ như vậy. Và họ đã đến gặp thẩm phán, ông này ra lệnh khai quật. Người ta đào và tìm được mấy cái xương và mấy cái cúc. Quân đội đã đưa hài cốt đi từ trước rồi. Ví dụ này cho thấy rằng người ta không đòi tăng lương, như bạn có thể nghĩ, mà đòi những quyền chính trị và quyền cơ bản của con người. Tôi kể cho bạn nghe giai thoại này như một ví dụ về cả nỗi sợ hãi lẫn tinh thần trách nhiệm của các công dân Chile.

Còn tiếp.

No comments:

Post a Comment