Richard Pipes
Phạm Nguyên Trường dịch
V.
Thế giới Thứ ba
Mỗi nước cộng sản, mỗi đảng cộng sản đếu có lịch
sử riêng của mình, có những đặc trưng khu vực và địa phương của mình, nhưng bao
giờ cũng có thể nhận thấy rằng bằng cách này hay cách khác họ đều đi theo khuôn
mẫu được hình thành ở Moskva vào tháng 11 năm 1917. Có mối liên hệ thân thuộc
như thế là vì các đảng này có chung một mã di truyền cộng sản[1].
Cái mối liên hệ thân thuộc, được nhắc tới trong
đoạn trích dẫn bên trên, là do, ở tất cả những nước đó, chủ nghĩa cộng sản đều
xuất hiện nhờ một trong hai con đường: hoặc là do quân đội Liên Xô áp đặt (Đông
Âu) hoặc nhờ vào sự trợ giúp của Liên Xô, đấy là các nước với nền văn hoá chính
trị (thiếu truyền thống tư hữu và chế độ pháp quyền, di sản của chế độ chuyên
chế v.v…) cũng như cấu trúc xã hội (tuyệt đại đa số là nông dân, giai cấp trung
lưu chưa phát triển) tương tự như nước Nga trước năm 1917. Mặc dù về lý luận,
chủ thuyết cộng sản được xây dựng cho các xã hội công nghiệp tiên tiến, trên
thực tế, nó lại chỉ bén rễ trong các nước nông nghiệp lạc hậu. Và vì thế, ở
những nước này, nó phải đi theo một khuôn mẫu sẵn có.
Đặc điểm của chủ nghĩa Marx-Lenin mà những nước này chọn là: 1) lãnh đạo bởi một đảng, đảng độc quyền, được xây dựng theo mô hình quân đội và đòi hỏi các thành viên phải tuyệt đối tuân thủ; 2) chế độ không bị bất kì hạn chế nào; 3) bãi bỏ tư hữu phương tiện sản xuất và cùng với nó là quốc hữu hoá tất cả nhân tài, vật lực của quốc gia; 4) coi thường quyền con người. Các chế độ này cho rằng đảng của họ là đảng bách chiến bách thắng, biết tuốt, luôn luôn đúng và không chấp nhận bất kì hạn chế quyền lực nào. Hiện thân của đảng là lãnh tụ, ông ta được coi là một vị thánh.
Nhiều
người cho rằng nghèo đói sinh ra cộng sản. Trên thực tế, hoàn toàn ngược lại:
các nước nghèo không lựa chọn chủ nghĩa cộng sản. Chưa ở đâu có chuyện đa số
người nghèo, thậm chí đa số nói chung, ủng hộ chuyển giao quyền lực cho cộng
sản. Nói đúng ra, các nước nghèo không đủ khả năng chống lại những vụ cưỡng
đoạt quyền lực của cộng sản vì các nước này không có các thiết chế đủ sức ngăn
chặn những kẻ độc tài háo danh, như các nước giàu có và tiến bộ hơn. Không có
các thiết chế bảo đảm cho sự giàu có, đặc biệt là quyền tư hữu và chế độ pháp
quyền, các nước này sẽ nằm mãi trong tình trạng đói nghèo và dễ bị những nhà
cầm quyền độc tài cả phía tả lẫn phía hữu khuynh đảo. Nói như lời một nhà
nghiên cứu chế độ ở Campuchia, một trong những chế độ cộng sản cực đoan nhất mà
ta đã biết, thì “việc thiếu vắng các
cơ cấu đủ sức liên kết dân chúng, cộng với việc những người cầm quyền thường
xuyên thay đổi đã tạo điều kiện cho sự lạm dụng quyền lực một cách thái quá”[2].
Như vậy là các tác nhân đó, mà trước hết là tình trạng vô luật pháp, đã kìm hãm
đất nước trong vòng nghèo đói, đã tạo điều kiện cho các vụ đảo chính của cộng
sản.
Các tác
nhân nói trên còn tạo ra những hậu quả khác nữa. Từ xa xưa, ở phương Đông việc
không tồn tại quyền tư hữu ruộng đất có nghĩa là chỉ có một cách làm giàu duy
nhất, đấy là được người cầm quyền ưu ái. Các chức vụ trong bộ máy nhà nước
không được coi là cống hiến mà là phương tiện làm giàu. Dĩ nhiên là, vì vậy mà
có chân trong chính quyền cộng sản, một chính quyền nắm trong tay toàn bộ quyền
lực và tài nguyên, được coi là phương tiện chủ yếu để bảo đảm cho mình vị trí
xã hội cũng như sự sung túc (Điều này, dĩ nhiên là đúng với cả nước Nga nữa).
______________________
Trong những
năm đầu thế kỷ XX, những người xã hội chủ nghĩa ở châu Âu không thể hiểu được
vì sao chủ nghĩa tư bản không sụp đổ, theo như dự đoán của Marx và Engels.
Những người xét lại đã giải quyết được vấn đề bằng cách công nhận rằng ở đây
Marx và Engels đã lầm lẫn. Nhưng, đối với những người Marxist chính thống, đây
là giải pháp không thể chấp nhận được, vì lý thuyết của họ được coi là khoa
học, không chấp nhận bất kì sự lệch lạc hoặc ngoại lệ nào, nó chỉ có thể tồn
tại hay sụp đổ như một toàn thể bất khả phân.
Đối diện
với vấn đề như thế, Lenin đã sử dụng tác phẩm Imperilism (Chủ nghĩa đế quốc- 1902) của nhà kinh tế học người Anh, J. A. Hobson,
trong đó, việc xâm chiếm thuộc địa được lý giải như là kết quả của việc chinh
phục những thị trường mới cho hàng hóa và tư bản. Lenin phát triển luận điểm
này trong tác phẩm Imperialism, the
Highest Stage of Capitalism (Chủ
nghĩa đế quốc – giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (1916-1917),
trong đó, ông ta chứng minh rằng các nước thuộc địa đóng vai trò quan trọng
trong việc cứu chủ nghĩa tư bản vì nó giúp giữ cho nền kinh tế bệnh hoạn đứng
vững và tạo điều kiện cho các nhà tư sản mua chuộc công nhân. Vì vậy, cuộc tấn
công vào lãnh địa của các cường quốc sẽ là một phần quan trọng của chiến lược
cách mạng đương thời.
Khó khăn
là ở chỗ, các nước thuộc địa và nửa thuộc địa Á, Phi và Mỹ Latin có rất ít hoặc
hoàn toàn không có nền công nghiệp và cũng không thể có giai cấp công nhân công
nghiệp. Do hoàn cảnh khó khăn như thế, cho nên khi cần thổi bùng ngọn lửa cách
mạng trong những nước không có cơ sở công nghiệp, Lenin đã sử dụng cương lĩnh
do ông ta đề ra cho Đại hội II Quốc tế Cộng sản với hai tiền đề sau đây: 1) các
nước này có điều kiện tiến thẳng từ chế độ “phong kiến” lên chủ nghĩa xã hội,
không qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa; 2) trong cuộc đấu tranh chống đế quốc,
những người cộng sản hoạt động ở những nước đó có thể liên kết (tạm thời, dĩ
nhiên) với “giai cấp tư sản dân tộc”.
Những đề
xuất của Lenin đã gặp phải sự chống đối quyết liệt của một số đoàn đại biếu
Quốc tế Cộng sản, đối với họ, tư sản dân tộc cũng đáng ghét chẳng khác gì bọn
đế quốc nước ngoài. Nhưng Lenin kiên quyết bảo vệ ý kiến của mình và cuối cùng
Quốc tế thông qua phương châm gọi là các cuộc chiến tranh “giải phóng dân tộc”,
trong đó những người cộng sản, vừa bảo vệ quan điểm riêng của mình vừa liên kết
với các lực luợng chống đế quốc khác để tiến hành cuộc đấu tranh vì sự nghiệp
chung của dân tộc.
Trên thực
tế chính sách này luôn gặp thất bại: không những không lợi dụng được những
nguời theo chủ nghĩa quốc gia mà chính những người cộng sản lại rơi vào hoàn
cảnh bị người ta lợi dụng.
Trong những năm 1918-1919, quân đội đồng minh chiếm đóng vùng Tây Anatolia và thành phố Constantinople, thủ đô của đế chế Ottoman, một đồng minh của nước Đức bại trận trong Thế chiến I. Phong trào do Mustafa Kemal Pasa (Atatürk) lãnh đạo xiển dương mục đích giải phóng dân tộc. Năm 1920, Kemal đề nghị Moskva hợp tác trong cuộc đấu tranh chống các nước chiếm đóng. Moskva tỏ ý sẵn sàng và năm 1921 đã kí với ông ta Hiệp ước hữu nghị, các bên cam kết tiến hành đấu tranh chống “chủ nghĩa đế quốc”. Moskva, theo đúng tinh thần của Quốc tế, lại tiến hành song song việc hợp tác này với các hoạt động lật đổ. Những tài liệu vừa được giải mật từ kho lưu trữ của Đảng Cộng sản Liên Xô chứng tỏ rằng Moskva đã bí mật chuẩn bị âm mưu lật đổ phe quốc gia ngay trong thời kì tình cảm của hai bên vẫn còn nồng thắm. Bản chỉ thị do Lenin soạn vào năm 1920 có đoạn viết:
Trong những năm 1918-1919, quân đội đồng minh chiếm đóng vùng Tây Anatolia và thành phố Constantinople, thủ đô của đế chế Ottoman, một đồng minh của nước Đức bại trận trong Thế chiến I. Phong trào do Mustafa Kemal Pasa (Atatürk) lãnh đạo xiển dương mục đích giải phóng dân tộc. Năm 1920, Kemal đề nghị Moskva hợp tác trong cuộc đấu tranh chống các nước chiếm đóng. Moskva tỏ ý sẵn sàng và năm 1921 đã kí với ông ta Hiệp ước hữu nghị, các bên cam kết tiến hành đấu tranh chống “chủ nghĩa đế quốc”. Moskva, theo đúng tinh thần của Quốc tế, lại tiến hành song song việc hợp tác này với các hoạt động lật đổ. Những tài liệu vừa được giải mật từ kho lưu trữ của Đảng Cộng sản Liên Xô chứng tỏ rằng Moskva đã bí mật chuẩn bị âm mưu lật đổ phe quốc gia ngay trong thời kì tình cảm của hai bên vẫn còn nồng thắm. Bản chỉ thị do Lenin soạn vào năm 1920 có đoạn viết:
Chớ có tin bọn theo Kemal; không được
chuyển khí giới cho họ; tăng cường tuyên truyền về Liên Xô cho người Thổ Nhĩ Kì
và chuẩn bị một đảng theo đường lối Xô Viết mạnh và có khả năng giành chiến
thắng ở Thổ Nhĩ Kì[3].
Về phần
mình, Kemal rất phấn khởi khi nhận được sự giúp đỡ của Liên Xô và đã có ý định
xây dựng nhà nước độc đảng theo mô hình của Liên Xô, nhưng dứt khoát không chấp
nhận cộng sản trên đất nước Thổ Nhĩ Kì. Phái viên của Quốc tế Cộng sản và những
người đồng chí của ông ta đã bị giết sau khi Đảng Cộng sản Thổ Nhĩ Kì được
thành lập vừa đúng hai tháng, chắc chắn có bàn tay của những người theo Kemal
trong vụ sát hại này.
Ở Trung
Quốc, chính sách của Liên Xô còn bị tổn thất nặng nề hơn rất nhiều. Đối với Quốc
tế Cộng sản, Trung Quốc là nước có vai trò cực kì quan trọng và cũng tạo cho
người ta nhiều hy vọng. Các nước châu Âu và Nhật Bản đã tìm mọi cách để bóc lột
đất nước đông dân nhất thế giới này. Việc bóc lột như thế là miếng đất màu mỡ
cho tinh thần bài ngoại: lòng căm thù người ngoại quốc thỉnh thoảng lại bùng phát
thành những cuộc bạo động. Tôn Trung Sơn, lãnh tụ Quốc dân Đảng, cầm quyền ở
Trung Quốc sau những năm 1911-1912, rất khâm phục Liên Xô vì nước này đã rũ bỏ
được ách nô dịch ngoại quốc về kinh tế và chính trị. Tuy vẫn là nước nông
nghiệp, Trung Quốc đã có đội ngũ công nhân, chủ yếu là trong lĩnh vực công
nghiệp nhẹ ở Thượng Hải. Lenin đặt rất nhiều hy vọng vào Trung Quốc, ông ta
từng nói với các nhà ngoại giao đến từ Bắc Kinh rằng, “cuối cùng, cách mạng
Trung Quốc… sẽ lật đổ chủ nghĩa đế quốc thế giới”.
Tưởng
Giới Thạch, người được đưa lên lãnh đạo Quốc dân Đảng trong những năm 1920,
cũng rất thán phục Liên Xô và đã nhiệt tình chào đón các đoàn “cố vấn” từ
Moskva đang tràn vào Trung Quốc. Đảng Cộng sản Trung Quốc, được thành lập theo
lệnh từ Moskva vào năm 1921, gồm phần lớn là những người có học và sinh viên,
vẫn giữ được tính độc lập như Quốc tế Cộng sản đòi hỏi, nhưng từ năm 1923 trở
đi nhiều đảng viên đã ra nhập Quốc dân Đảng. Họ làm như thế là theo chỉ đạo về
việc thành lập mặt trận phản đế của Moskva. Đề nghị của Moskva về việc cung cấp
cho Quốc dân Đảng các cố vấn kinh tế và quân sự cũng nhằm mục đích đó. Tuy
nhiên, giữa hai bên đã tích tụ nhiều mâu thuẫn, đặc biệt là từ năm 1925, tức là
sau khi Tôn Trung Sơn tạ thế và quyền lực tập trung vào tay Tưởng Giới Thạch.
Tháng 4 năm 1927, Tưởng Giới Thạch khai trừ tất cả đảng viên cộng sản, rồi sau
đó thủ tiêu hàng ngàn người.
Sau những
sự kiện như thế, Stalin dứt khoát kết luận rằng, thuần hoá chủ nghĩa dân tộc
trong các nước thuộc Thế giới Thứ ba và lái hoạt động của nó theo hướng có lợi
cho chủ nghĩa cộng sản là việc làm vô ích. Tại Hội nghị IV, Quốc tế Cộng sản đã
đoạn tuyệt với đường lối ủng hộ “giai cấp tư sản dân tộc”. Từ đấy cho đến ngày
Stalin chết, tức là trong vòng 25 năm, Liên Xô đã giảm hẳn hoạt động trong các
nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Liên Xô chấm dứt hợp tác với “giai cấp tư sản”
Thế giới Thứ ba, coi nó là “tay sai” của các nước đế quốc và giữ quan điểm như
thế ngay cả khi các nước này đã giành được độc lập. Cuốn Great Soviet Encyclopedia (Bách
khoa Toàn thư Lớn) của Liên Xô, xuất bản năm 1953, thậm chí còn gọi Mahatma
Gandhi là “gián điệp của đế quốc Anh”. Trong khi đó, Liên Xô lại coi các đảng
cộng sản, cả công khai lẫn bí mật, cả đảng lớn lẫn đảng nhỏ, là chỗ dựa của
mình. Năm 1948, theo lời xúi bẩy của Moskva, cộng sản tại ở loạt nước Đông Nam
Á như Miến Điện, Malaysia, Indonesia, Philippines đã vùng dậy, nhưng tất cả đều
bị đàn áp. Cộng sản chỉ thành công ở Đông Dương (Việt Nam), năm 1954, quân du
kích địa phương đã đuổi được quân đội Pháp ra khỏi miền Bắc Việt Nam. Khi
Stalin còn sống, chính sách đối ngoại của Liên Xô tập trung chủ yếu vào việc
tăng cường sức mạnh kinh tế và quân sự và gây chia rẽ giữa các siêu cường.
_________________
Nhìn bên
ngoài thì chiến thắng của cộng sản Trung Quốc, năm 1949, và việc họ chiếm được
toàn bộ đại lục là chiến thắng vô cùng to lớn của chủ nghĩa cộng sản. Chỉ bằng
một cú như thế, phong trào cộng sản đã lôi kéo vào hàng ngũ của mình một nửa tỉ
người, tức là tăng gần gấp đôi số người sống dưới chính thể cộng sản. Nhưng hoá
ra đây là một chiến thắng rất đáng ngờ; cái giá phải trả là sự thống nhất của
chính phong trào cộng sản: Chẳng bao lâu sau, nước Trung Hoa đỏ đã đi theo con
đường riêng, tạo ra sự chia rẽ nghiêm trọng cho phong trào. Một lần nữa tinh
thần dân tộc đã thắng lòng trung thành với quyền lợi giai cấp.
Tháng 10
năm 1927, những người cộng sản còn sống sót sau vụ đàn áp của Tưởng Giới Thạch
đã rút lui về vùng nông thôn hẻo lánh. Mao Trạch Đông, một trong những lãnh tụ
cộng sản còn lại, đã ẩn mình suốt hai mươi năm sau đó để chuyên tâm vào việc
xây dựng lực lượng du kích. Năm 1931, cộng sản tuyên bố thành lập nước Cộng hoà
Xô Viết Trung Hoa. Cả lúc đó, cũng như trong Thế chiến II về sau, Stalin chưa
bao giờ công khai phát biểu ủng hộ nước cộng hoà này. Ông ta quan tâm đến quyền
lợi của Liên Xô ở vùng Viễn đông hơn là việc truyền bá chủ nghĩa cộng sản, tức
là Liên Xô cần một nước Trung Hoa mạnh, đủ sức ngăn chặn được Nhật Bản. Quốc
dân Đảng dường như phù hợp với vai trò này hơn và vì vậy Stalin quyết định ủng
hộ về vật chất cho Tưởng Giới Thạch. Sau này, Stalin buộc phải sử dụng kinh
nghiệm quan hệ với Đảng Cộng sản Nam Tư; năm 1948 dưới sự lãnh đạo của Josip
Broz Tito đảng này đã không chịu thực hiện các chỉ thị và sau đó thì đoạn tuyệt
hoàn toàn với Moskva. Sợ rằng Trung Quốc sẽ là một “Nam Tư” mới, Stalin mới
thuyết phục Mao Trạch Đông thoả hiệp với Tưởng Giới Thạch. Mao Trạch Đông phớt
lờ lời khuyên này và tiếp tục chỉ huy đội quân nông dân tiến hành đấu tranh vũ
trang nhằm giành quyền lực trên toàn cõi Trung Hoa.
Stalin
tiếp tục bảo trợ Mao ngay cả sau khi ông này đã làm chủ hoàn toàn Trung Quốc.
Mao cần sự trợ giúp của Liên Xô cả về kinh tế lẫn quân sự đến mức ông ta phải
đè nén lòng kiêu hãnh của mình trong một thời gian dài, buộc phải công nhận vai
trò lãnh đạo của Liên Xô, cũng như coi Liên Xô là hình mẫu đáng phải theo. Thái
độ của Mao chỉ thay đổi sau khi Khrushchev lên cầm quyền, vì ông ta cho rằng
những người kế nhiệm Stalin đã phản bội sự nghiệp chung. Năm 1959, quan hệ giữa
Bắc Kinh và Moskva đã gần đi đến chỗ tan vỡ, chủ yếu là vì Moskva từ chối cung
cấp công nghệ hạt nhân cho Bắc Kinh. Năm sau, Khrushchev đơn phương rút hết các
chuyên gia về nước.
Chẳng bao
lâu sau Mao đã tự sáng tác ra phiên bản chủ nghĩa Marx độc đáo của chính mình.
Theo lời một chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực này: “những giá trị chủ yếu” mà tư
tưởng Mao bảo vệ là “hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa Marx”, điều đó chỉ chứng tỏ
“sự uyển chuyển vô bờ bến của bất kì học thuyết nào, miễn là nó có giá trị về
mặt lịch sử”[4]. Về
tất cả mọi vấn đề, Mao đều cho Marx “trồng cây chuối” tất. Ông ta không dựa vào
giai cấp công nhân công nghiệp, không coi họ là động lực của cách mạng mà lại
phong cho nông dân vai trò đó: ông ta khẳng định rằng vai trò cách mạng không
thuộc về châu Âu (trong đó có Nga) mà thuộc về nhân dân các nước Á, Phi và Mỹ
Latin. Ông ta cũng bác bỏ luận điểm của Marx nói rằng “không phải ý thức quyết
định đời sống mà là đời sống quyết định ý thức”[5],
nghĩa là tư tưởng và tình cảm của con người phụ thuộc vào điều kiện vật chất
của họ. Ngược lại, Mao khẳng định rằng hành vi của con người là do tư tưởng mà
ra: chủ nghĩa Marx coi “yếu tố khách quan” giữ vai trò quan trọng. thì Mao lại
cho rằng đấy là khái niệm “tư sản”. Yếu tố khách quan không thể cản trở quần
chúng một khi họ đã quyết tâm. Kiến thức chứa đựng mầm mống của cái ác vì nó
làm cho người ta dao động, đọc nhiều là có hại. Không phải sự thay đổi các điều
kiện kinh tế và xã hội mà chính sự thay đổi “thượng tầng” văn hoá và tri thức
sẽ cho phép hình thành xã hội mới và con người mới. Đây là chủ nghĩa xét lại
đặc biệt: nếu chủ nghĩa xét lại phương Tây, xuất hiện sau Eduard Bernstein, cố
gắng làm cái việc sửa chữa chủ nghĩa Marx, làm cho nó phù hợp với hiện thực thì
chủ nghĩa xét lại của Mao lại cho rằng tốt nhất là đừng để ý đến hiện thực.
Việc đưa
ra những tư tưởng phi chính thống như thế đã dẫn đến mâu thuẫn với Moskva. Đại
hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua đường lối hoà hoãn với phương Tây và
tuyên bố rằng chiến tranh không còn là điều kiện cần trong cuộc đấu tranh vì lý
tưởng cộng sản trên toàn thế giới nữa, vì chính thế giới đang tiến về phía chủ
nghĩa cộng sản mà không một lực lượng nào có thể cản trở được. Mao không chấp
nhận đường lối này, ông ta cho rằng Liên Xô đã có tên lửa xuyên lục địa, đủ sức
thực hiện chiến lược tiến công phương Tây. Tương tự như Lenin, Mao cho rằng
chiến tranh là tất yếu. Ông ta bác bỏ học thuyết của Khrushchev, theo đó, chủ
nghĩa cộng sản sẽ chiến thắng bằng con đường nghị trường mà không phải dùng vũ
lực. Mao đề cao bạo lực. (“Chiến tranh là hình thức đấu tranh và giải quyết mâu
thuẫn cao nhất”, “Súng đẻ ra chính quyền.”)[6]
Mao cũng
bác bỏ luận điểm cho rằng vũ khí hạt nhân đã đặt dấu chấm hết cho việc coi
chiến tranh là một hành động chính trị. Ông ta còn chế nhạo vũ khí nguyên tử và
gọi nó là “con hổ giấy mà bọn phản
động Mỹ dùng để doạ dẫm nhân dân. Cỏ vẻ khủng khiếp, nhưng trên thực tế chẳng
có gì khủng khiếp hết”[7].
Ông ta còn coi chính sách kí thoả ước về việc kiểm soát vũ khí, bắt đầu từ năm
1968, là phản bội; ông ta cũng rất bất mãn với quan điểm cho rằng chiến tranh
nhiệt hạch sẽ tiêu diệt sự sống trên trái đất. Ông ta từng viết với một thái độ
vô tâm đáng kinh ngạc như sau:
Trong trường hợp xấu nhất, một nửa nhân
loại sẽ bị tiêu diệt, chỉ còn một nửa sống sót, nhưng chủ nghĩa đế quốc sẽ bị
tiêu diệt hoàn toàn và cả thế giới sẽ trở thành xã hội chủ nghĩa; sau mấy năm
sẽ lại có hai tỉ bảy trăm triệu người, mà có thể còn nhiều hơn nữa kia[8].
Trung
thành với đường lối của Stalin, Mao bác bỏ chiến lược ủng hộ các chế độ được
thiết lập ở các thuộc địa cũ như chính phủ Neru ở Ấn Độ hay Naser ở Ai-Cập.
Nhưng
nguyên nhân sâu xa của mâu thuẫn, từng bùng phát thành vụ đụng độ quân sự trên
biên giới Xô-Trung, vẫn không phải là những bất đồng về đường lối chiến lược và
chiến thuật, mà là vấn đề bá quyền trong phong trào cộng sản quốc tế. Moskva
luôn khẳng định rằng họ đương nhiên là lãnh tụ của phong trào, việc này đã được
chính thức ghi trong điều lệ Quốc tế Cộng sản từ năm 1920 và họ sẽ không bao
giờ từ bỏ. Năm 1956, phát biểu vo ở Warsaw, Khrushchev cho biết rằng, Stalin đã
nói với Mao là Moskva phải có tiếng nói cuối cùng trong các vấn đề liên quan
đến phong trào cộng sản quốc tế. Từ năm 1956 trở đi, Mao không chấp nhận luật
chơi đó vì cho rằng, như đã nói bên trên, những người kế nhiệm Stalin là những
kẻ phản bội chủ nghĩa Marx-Lenin. Ông ta tự coi mình chẳng những ngang hàng mà
còn đứng cao hơn những người cầm quyền ở Moskva. Thậm chí, ngay cả khi chưa nắm
được trọn quyền lực ở Trung Quốc, ông ta cũng đã tự đưa mình vào hàng ngũ tác
gia của học thuyết Marxist, dành cho các nước ngoài phương Tây, nơi các cuộc
cách mạng sẽ do nông dân thực hiện. Năm 1945, một trong những đồ đệ của ông ta
đã khẳng định: “Thành tựu vĩ đại nhất của Mao Trạch Đông là đã cải biến chủ
nghĩa Marx, một học thuyết của phương Tây và gắn cho nó hình thức của châu Á”,
nhằm động viên một khối lượng quần chúng to lớn, những người cũng sống trong
các điều kiện như nhân dân Trung Quốc. Sau này, trong nỗ lực đẩy Liên Xô ra
khỏi châu Phi, Bắc Kinh còn viện đến cả yếu tố sắc tộc và nói rằng người Nga là
dân “da trắng” cho nên không thể hiểu được dân phương Đông và châu Phi. Ở Trung
Quốc, Mao được coi là nhà tiên tri. Năm 1966, Trung Quốc cho xuất bản cuốn sách
nhan đề: The Brilliance of Mao
Tse-tung’s Thoughts Illuminates the Whole World (Ánh sáng tư tưởng Mao
Trạch Đông toả khắp hoàn cầu). Như vậy là, “cuộc tranh luận về chiến
lược cách mạng … đã trở thành mầm mống cho cuộc đấu tranh giành quyền lực trong
phong trào cộng sản quốc tế”[9].
Đụng độ
Xô-Trung đã cho người ta thấy cái khuyết tật căn bản và không thể nào sửa chữa
được của phong trào cộng sản quốc tế. Nó cho thấy rằng cộng sản các nước sẵn
sàng chấp nhận vai trò lãnh đạo của Moskva khi họ chưa tìm được chỗ dựa vững
chắc ở trong nước, khi họ còn phụ thuộc vào sự giúp đỡ về kinh tế và quân sự từ
Moskva. Nhưng, trong hoàn cảnh như thế, họ vẫn là những kẻ bất lực, những kẻ
đứng bên lề đời sống của đất nước. Còn khi họ đã có chỗ dựa ở trong nước, như
Nam Tư và Trung Quốc, khi họ trở thành lực lượng chính trị độc lập, nghĩa là có
giá trị đối với phong trào cộng sản quốc tế thì họ không còn thích nghe theo
chỉ đạo của người Nga hay công nhận quyền lợi của Liên Xô là tối thượng nữa.
Kết quả là xảy ra mâu thuẫn: cộng sản các nước càng thành công, càng trở thành
lực lượng độc lập thì Moskva càng khó điều khiển hơn. Moskva buộc phải quyết
định giữa bảo vệ quyền lợi của mình hay bảo vệ quyền lợi của phong trào cộng
sản quốc tế. Nếu ban lãnh đạo Liên Xô thực sự muốn khuyếch trương chủ nghĩa
cộng sản thì nó phải từ bỏ vai trò lãnh đạo và từ bỏ lý luận cho rằng quyền lợi
của Liên Xô và quyền lợi của chủ nghĩa cộng sản chỉ là một. Nhưng nếu làm như
thế, phong trào sẽ tan ra thành từng mảnh và bị các lực li tâm khống chế, kết
quả là, sẽ đánh mất chủ nghĩa tập trung cứng rắn, nghĩa là mất cái mà Lenin coi
là thành tựu quan trọng nhất của chế độ.
_________________
Chiến
lược ủng hộ các lực lượng chống đế quốc thuộc Thế giới Thứ ba mà những người kế
nhiệm Stalin sử dụng trong những năm 1950 dường như dễ trở thành hiện thực hơn
là ba mươi năm trước, vì sau Thế chiến II, các nước đế quốc đã trao trả độc lập
cho phần lớn các nước thuộc địa của mình. Trong số đó, có một số nước đông dân
như Ấn Độ, Indonesia và Ai Cập. Đứng đầu các nước này là các nhà chính trị chưa
có kinh nghiệm, những chưa có tiền; họ coi độc lập chính trị chỉ là bước đầu
tiên trên con đường dẫn tới độc lập thực sự, muốn thế, phải có độc lập về kinh
tế. Họ ngưỡng mộ Liên Xô vì nước này đã thoát ra khỏi tình trạng lạc hậu và nắm
trong tay sức mạnh đáng kể về mặt công nghiệp; họ muốn bắt chước và nồng nhiệt
chào đón các chuyên gia cũng như sự trợ giúp từ Moskva. Trong một số trường
hợp, các nhà độc tài háo danh còn coi Liên Xô là sự bảo đảm cho quyền lực của
mình: tuyên bố là nước “xã hội chủ nghĩa” để đổi lấy sự trợ giúp về tình báo và
quân sự của khối cộng sản nhằm chống lại các kẻ thù bên trong và bên ngoài.
Từ năm
1956, Moskva tiến hành những hoạt động tích cực trong Thế giới Thứ ba nhằm tạo
ra một liên minh, bài phương Tây và đặc biệt là Mỹ, bao trùm một nửa dân số thế
giới. Họ đã sử dụng nhiều phương tiện khác nhau. Ở Ấn Độ, họ đã tài trợ cho một
nhà máy gang thép cực kì lớn, được xây dựng dưới dự lãnh đạo của các kĩ sư Liên
Xô; họ còn xây dựng các nhà máy điện, nhà máy làm bánh mì. Ở Ai Cập, họ đã giúp
xây dựng đập thuỷ điện Aswan, tạo điều kiện cho việc điều tiết mực nước sông
Nile. Đấy là những việc làm trái ngược hẳn với thái độ “vụ lợi” của các nước tư
bản phương Tây. Moskva còn vũ trang cho Ai Cập trong cuộc chiến tranh chống lại
Israel, vũ tranh cho Ethiopia chống lại Somalia. Trong mọi trường hợp, sự giúp
đỡ bao giờ cũng đi kèm với các “cố vấn” Liên Xô và đấy chính là cách mà Moskva
thiết lập sự hiện diện của mình trên khắp thế giới. Trợ giúp sinh ra phụ thuộc
về kinh tế và đấy cũng là con đường dẫn tới phụ thuộc về chính trị.
Nhưng
cuối cùng, chính sách đầy tham vọng và tốn kém đó cũng chỉ mang về những kết
quả cực kì khiêm tốn. Liên Xô không có đủ nguồn lực kinh tế để có thể đóng được
vai trò phù hợp với chính sách mới của nó đối với các nước thuộc Thế giới Thứ
ba. Moskva lao vào hết nước này đến nước khác, từ Trung Cận Đông tới châu Phi,
hòng chiếm lĩnh chân không quyền lực; giành cho các nước này sự trợ giúp cả về
kinh tế lẫn quân sự để rồi phải đối mặt với sự phát triển không lường trước
được của các sự kiện dẫn đến việc thủ tiêu nước đồng minh, hay đồng minh suy
nghĩ lại và thay đổi thái độ. Có ai đó đã nói rằng, không thể mua được các thủ
lĩnh thuộc Thế giới Thứ ba, chỉ có thể vay tạm được họ mà thôi.
Hoạt động
của Moskva trong Thế giới Thứ ba đã gây ra hậu quả quan trọng là nó đã làm cho
phương Tây lo ngại và làm cho chiến tranh lạnh càng căng thẳng thêm.
[2] Francois Ponchaud in Karl D. Jackson, ed., Cambodia
1975-1978: Rendezvous with Death (Princeton, 1989), tr. 152
[3] Richard Pipes, ed. The Unknown Lenin (Lenin chưa được biết tới) (New Haven, conn., 1996), trang 121
[4] Leszek Kolakowski, Main Current in
Marxism (Dòng chủ lưu trong chủ nghĩa Marx), vol, III (Oxford, 1978), trang
495, 521
[5] Marx and Engels, “The
German Ideology” (Hệ tư tưởng Đức), Toàn tập, Tập V, trang 37
[6] Quotation from Chairman Mao Tse-tung (Trước
tác của Chủ tịch Mao Trạch Đông) New York, 1968, 32-33
[7] Ibid, trang 77
[8] Stuart Scham, Mao Tse-tung (Mao Trạch Đông), Marmondsworth, U.K., 1966, trang 291
[9] Donald S. Zagoria, The
Sino-Soviet Conflict, 1956-1961 (Xung độ Xô Trung, 1956-1961), New York, 1964,
trang 385
No comments:
Post a Comment