April 10, 2018

Khi sống còn khổ hơn chết (2)

Phần 1

Haider Javed Warraich

Phạm Nguyên Trường dịch từ When life is a fate worse than death

Tại sao có quá nhiều bác sĩ phản đối việc giúp bệnh nhân chết? Là bác sĩ đang hành nghề, Haider Javed Warraich đã chứng kiến cả hai phía trong cuộc tranh luận đầy mỏi mệt này

Một cuộc biểu tình ủng hộ quyền được chết ở London năm 2015. Ảnh: Rob Stothard/Getty Images.

Trong khi trường hợp của Karen Quinlan cung cấp cho chúng ta tiền lệ đầu tiên về việc người giám hộ thay mặt cho bệnh nhân – nếu bệnh nhân trước đó đã từng thể hiện mong muốn như thế – đề nghị chấm dứt chữa trị, thì tháng 4 năm 1989 tình hình lại nóng lên. Nó không diễn ra trong phòng xử án, mà trong một đơn vị chăm sóc đặc biệt cho trẻ em, khi Rudy Linares rút ra một khẩu súng lục Magnum 357 đã nạp đạn ngay bên cạnh giường ngủ của con mình.

Tám tháng trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng này, một ngày đáng lẽ là bình thường đã trở thành thảm cảnh. Samuel, đứa con 15 tháng tuổi của Rudy, trong một bữa tiệc sinh nhật đã vô tình nuốt một quả bóng và bắt đầu nghẹt thở. Rudy đã tìm mọi cách để cứu con. Khi Samuel bắt đầu trắng bệch ra, Rudy ôm bé vào lòng và chạy đến trạm cứu hỏa gần nhất, vừa chạy vừa hét: “Cứu tôi! Cứu tôi! Con tôi sắp chết!” Mặc dù Samuel đã được cứu sống, nhưng não của cậu bé không thể hồi phục được và cậu phải sống đời sống thực vật kéo dài.

Sau nhiều tháng chịu đựng, Rudy đề nghị các bác sĩ ngắt các thiết bị giúp duy trì cuộc sống cho Samuel. Họ đồng ý, nhưng luật sư của bệnh viện lại cảnh báo họ là không được làm thế; ông này nói rằng họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Thời gian cứ thế trôi, sự thất vọng của Rudy đã chuyển thành tuyệt vọng và sau đó thì trở thành giận dữ. Khi bệnh viện gửi cho Rudy tin nhắn nói rằng họ đã chuyển Samuel đến cơ sở điều dưỡng, một cảm xúc nào đó bên trong anh ta đã bùng nổ và anh ta mang súng tới bệnh viện. Khi lôi khẩu súng lục ra, anh ta tuyên bố: “Tôi không định làm hại ai. Tôi chỉ muốn để con trai tôi được chết”.

Rudy giật cái ống ra khỏi cổ họng con trai mình. Chỉ vài giây sau, Samuel đã trở nên bất động, nhưng Rudy vẫn ôm chặt con trong ít nhất 20 phút. Một bác sĩ đưa ống nghe lên ngực cậu bé để xác nhận rằng tim của Samuel thực sự đã ngừng đập. Cuối cùng, Rudy bỏ súng, bị bắt và bị buộc tội giết người.

Trong tòa án của công luận, Rudy là người anh hùng. Bệnh viện cũng như tòa án đều không muốn trừng phạt anh ta, mặc dù anh ta đã rơi vào vùng xám của luật pháp. Bồi thẩm đoàn cũng vậy. Và trong khi Rudy không phải là ví dụ hoàn hảo trong việc nhấn mạnh khía cạnh đạo đức của việc ngưng những phương pháp điều trị nhằm duy trì cuộc sống – anh đã bị bắt nhiều lần vì tội bạo hành và chỉ hai tuần sau khi tuyên bố là không phạm tội giết người, anh ta đã suýt chết sau khi uống quá liều Pentachlorophenol (PCP), cocaine và rượu – thì dù sao anh ta cũng đã làm được nhiều thứ hơn hầu hết các nhà đạo đức sinh học trong việc nhấn mạnh vai trò của công nghệ đối với việc duy trì cuộc sống cho người bệnh giai đoạn cuối.

Vào cuối những năm 1980 là thời kỳ người Mỹ nổi dậy chống lại những thứ máy móc duy trì cuộc sống trong các bệnh viện và nhà dưỡng lão. Một bác sĩ đã nắm bắt được tâm trạng của thời đại khi ông viết: “duy trì cuộc sống” trở thành “cái chết kéo dài”; “bệnh nhân không hồi phục được, nhưng cũng không chết. Thay vào đó, họ trở thành những tù nhân của công nghệ”.

Quyền của người dân trong việc bỏ hay tiếp tục những biện pháp điều trị nhằm duy trì cuộc sống được đưa lên tòa án tối cao. Lần này là một cô gái trẻ bị tách khỏi đời sống trước đây của mình – Nancy Cruzan, cô đang phải chiến đấu cho quyền được chết cũng diễn ra trên sân khấu quốc gia.

Lần đầu tiên Nancy chết là vào tháng 1 năm 1983, chiếc xe của cô mất lái trên một con đường vắng vẻ và lao xuống một cái mương đầy nước. Các nhân viên y tế đã đến hiện trường và làm hô hấp nhân tạo cho cô. Nhưng trong khi tim của cô đập trở lại sau 15 phút, thì cơ thể cô lại không bao giờ thực sự hồi sinh. Cô rơi vào đời sống thực vật kéo dài và không bao giờ tỉnh lại được.

Sau bốn năm trong một nhà dưỡng lão ở Missouri, cha mẹ cô làm đơn xin được rút ống dẫn thức ăn cho cô, nhưng hóa ra mọi việc không dễ dàng. Trong khi cha mẹ cô trình bày rằng trong các cuộc trò chuyện trước đây, cô đã nói là không muốn sống đời sống thực vật, nhưng nhà nước lại đòi bằng chứng cụ thể hơn. Toà án tối cao bang Missouri tuyên bố rằng trong khi Nancy có quyền từ chối chữa trị, người khác lại không có quyền quyết định thay cho cô.

Có hàng triệu người đồng cảm với gia đình Cruzans, trong đó có một người có con gái cũng đang bị hôn mê. Người này viết: “Trong suốt cuộc đời của con gái mình, tôi đã có nhiều quyết định để dẫn dắt cháu vào tuổi trưởng thành và bây giờ, khi cháu không có khả năng tự quyết định, thì nhà nước lại muốn thay thế cha của cháu”.

Ông này còn viết thêm: “Vào phòng của cháu chẳng khác gì vào phòng tang lễ… Nếu Rudy Linares, người đã ngăn không cho các nhân viên y tế ở một bệnh viện ở Chicago, và viên cảnh sát có súng, để anh ta có thể ‘cứu’ đứa con đang hấp hối của mình khỏi cái máy trợ thở, thì có phải là khôn ngoan hơn hẳn các tòa án của chúng ta hay không?”

Trong một quyết định quan trọng, tòa án tuyên bố rằng đưa thức ăn và nước vào người một cách nhân tạo là biện pháp điều trị y học. Trong vụ này, họ đã gặp những người chống đối cứng rắn, đấy là những người khẳng định rằng việc rút ống dẫn thức ăn và nước uống là tội sát nhân.

“Ngay cả một con chó ở Missouri cũng không thể bị chết đói một cách hợp pháp”, Reverend Joseph Foreman, một nhà vận động ủng hộ quyền sống (đây là phong trào chống phá thai – ND) ở Atlanta nói. Những người biểu tình này không chỉ nhiều lần đưa vấn đề này ra tòa, mà họ thậm chí đã xông vào cơ sở y tế đang nuôi Nancy nhằm gắn lại ống dẫn thức ăn cho cô.

Mặc dù vậy, cuối cùng, tòa án đã công nhận lời khai của các đồng nghiệp trước đây của Nancy Cruzan. Những người này nói rằng cô không muốn sống đời sống thực vật, và tòa án cho phép gia đình Cruzan tháo ống cung cấp thức ăn ra. Khoảng hai tuần sau, Nancy kết thúc cái chết kéo dài và đau đớn, sau gần tám năm.

Trong khi xã hội, tòa án và các bác sĩ bình thản chấp nhận việc chấm dứt chữa trị, thì điều thú vị cần ghi nhận là, không có sự phân biệt rõ ràng giữa những biện pháp mang tính thụ động hay gần như thụ động để làm cho người bị bệnh nan y chết và các những biện pháp có tính chủ động hơn.

Trong khi, là bác sỹ, chúng tôi có những quan niệm rõ ràng và ngay thẳng trong suy nghĩ để chúng tôi có thể hoàn thành nhiệm vụ và làm việc của mình thì sự thật lại mù mờ hơn hẳn. Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi đã biết thêm nhiều điều về bản thân mình. Ngạc nhiên nhất là tôi nhận ra rằng mình đã đi đến kết luận rằng chúng tôi phải làm nhiều hơn để thảo luận và giúp đỡ các bệnh nhân giai đoạn cuối được quyền yêu cầu và có phương tiện nhằm chấm dứt những đau khổ của họ, với sự giúp đỡ của bác sĩ.

Trong khi mỗi cuộc đời đều là duy nhất, cái chết bao giờ cũng là sự chấm dứt, đau đớn và, nói chung, chẳng ai thích. Hầu hết những người tự tử không muốn sống nữa chứ không phải là muốn chết. Tất cả các bệnh nhân giai đoạn cuối cũng thế, cho đến nay, tôi chưa thấy bệnh nhân nào nói một cách rõ ràng là muốn chết chỉ vì chết. Dù sao, sống bao giờ cũng được đánh giá cao hơn khi người ta cố gắng rời bỏ nó.

Một số người nói rằng y học hiện đại đã làm nhiều việc nhằm kéo dài cái chết chứ không phải là kéo dài cuộc sống có ý nghĩa. Trong khi tôi không đồng ý với khái niệm này, thì có rất nhiều bệnh nhân đã chết sau khi trải qua giai đoạn suy nhược và đau khổ kéo dài. Khi y tá và bác sĩ nhìn vào những bệnh nhân này, họ thường nghĩ rằng những người đó có chất sống thấp hơn hẳn so với bệnh nhân tự nghĩ. Đấy không phải là điều đáng ngạc nhiên, vì bệnh nhân thường thích ứng với những bất tiện đi kèm với bệnh tật của họ. Đại đa số người bệnh đều muốn làm mọi thứ trong điều kiện có thể chấp nhận được nhằm kéo dài cuộc sống càng lâu càng tốt.

Trong một ít trường hợp đau khổ và bi kịch, cuộc sống được coi là đau khổ và tuyệt vọng. Những bệnh nan y, cho dù đó là ung thư hay xơ gan, làm mất bản chất chân chính của đời sống của bệnh nhân. Lúc đó, các bác sĩ có thể giúp họ giảm bớt đau đớn với nhiều mức độ khác nhau. Các bác sĩ hoặc y tá chăm sóc bệnh nhân giai đoạn cuối có thể phát thuốc giảm đau, thuốc benzodiazepin để bớt lo âu và thuốc chống nôn. Dù rằng những loại thuốc này còn lâu mới hoàn hảo. Thuốc giảm đau làm người ta buồn ngủ, loạng choạng và lẫn trí, và mặc dù những loại thuốc này có thể giảm đau, nhưng cũng thường xuyên gây ảnh hưởng đến hoạt động của bệnh nhân.

Các loại thuốc giảm đau cũng gây ra những tác động riêng: Vừa nhìn thấy các loại thuốc giảm đau là cơ thể lập tức phản ứng bằng cách gia tăng số cơ quan cảm nhận trong các neuron thần kinh, nghĩa là ngày càng cần liều lượng cao hơn.

Càng gần giai đoạn cuối thì càng cần những biện pháp can thiệp mạnh hơn. Trong năm cuối đời, một phần ba người Mỹ phải phẫu thuật, trong đó, một phần năm phải phẫu thuật trong tháng cuối cùng của cuộc đời.

Do những vụ phẫu thuật này được thực hiện khi người ta đã gần chết, không chắc được là những vụ mổ xẻ đó có mang lại bất kỳ lợi ích nào hay không. Một phần năm bệnh nhân cũng trải qua những biện pháp can thiệp nhằm duy trì cuộc sống như dùng tới máy trợ thở, hô hấp nhân tạo và bơm thức ăn trong sáu tháng cuối cùng của cuộc đời.

Khi số bệnh nhân nhập viện, số vụ can thiệp y tế và các đơn thuốc cứ tăng dần, tăng dần và dường như cơn bão này sẽ không bao giờ giảm, thì người ta cũng nhận thức được rằng sóng thần cũng chẳng còn gì mà phá nữa. Phần lớn những bệnh nhân này hay người nhà của họ lúc đó quyết định ngưng các biện pháp nhằm duy trì cuộc sống, vì cuối cùng họ chấp nhận chấm dứt cuộc chiến quá mệt mỏi và kéo dài quá lâu rồi.

Ngày xưa, giai đoạn cuối người ta thường nằm trên giường sau một cơn bạo bệnh, ngắn và nhanh. Ngày nay, cái chết trên thực tế thường diễn ra như sau: Người bị bệnh, cảm thấy đỡ hơn, nhưng không bao giờ trở lại như cũ, ngày càng có nhiều chẩn đoán và biện pháp điều trị, cho tới khi rõ ràng (thường là khá muộn) là có can thiệp nữa cũng chẳng cải thiện được gì.

Quá trình điều trị kéo dài và đôi khi là tràn lan có thể có ý nghĩa đối với đại đa số bệnh nhân. Nhưng đối với một số ít người quyết định không kéo dài đời sống theo cách này thì một số bang ở Mỹ đã tạo ra những biện pháp và đưa ra các quy định nhằm giúp họ kiểm soát việc chấm dứt đời sống bằng cách chết với sự giúp đỡ của nhân viên y tế. Đối với phần lớn những người chọn cách này, nếu đấy không phải là kết thúc có hậu thì cũng là kết thúc mà họ mong muốn.

Tại sao các bác sĩ lại là những người chống đối mạnh mẽ nhất việc trợ tử?

Các bác sĩ được đào tạo để trị bệnh. Các bác sĩ được đào tạo nhiều năm, nhiều tháng, nhiều ngày một cách nghiêm túc để tìm cách chữa triệu chứng hay tái tạo cân bằng điện giải của một người nào đó hoặc cắt một khối u hay mở một mạch máu. Bệnh nhân và gia đình của họ cảm thấy khó tới mức nào khi quyết định chấm dứt cuộc sống thì các bác sĩ cũng không bao giờ sẵn sàng làm những việc mà họ không được đào tạo.

Đối với nhiều bác sĩ, việc giúp người ta chết còn có rủi ro là họ đang gửi thông điệp lẫn lộn cho các bệnh nhân. Các bác sĩ cho rằng niềm tin là nền tảng của mối quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân, và cho các bác sĩ quyền giết người có thể làm thay đổi quan niệm của bệnh nhân khi thấy bác sĩ đến gần mình vào ban đêm.

Sự thật là, nhiều người, cả người bình thường và lẫn những người làm trong ngành y đã chấp nhận những hành động rất gần với việc giúp bệnh nhân nan y chết, nếu không nói là không thể phân biệt được.

Đối với các bác sĩ, cho uống thuốc ngủ cho đến chết, để mất nước đến chết, thậm chí ngưng những biện pháp chăm sóc bất thường hay ngưng các phương pháp điều trị nhằm kéo dài đời sống khác hẳn với việc giúp bệnh nhân chết, nhưng đối với những người bình thường thì sự khác biệt là không rõ ràng. Dù có làm xáo trộn vấn đề thế nào chăng nữa, thì bệnh nhân cũng không có quyền quyết định cách thức mình chết mà do những người được uỷ quyền và bác sĩ quyết định, mà những người này lại không thể nào biết được sở thích của bệnh nhân.

Trong quá trình học tập, tôi được dạy rằng đạo đức nghề nghiệp của chúng tôi được hình thành bằng cách tôn trọng người bệnh. Nhưng sau khi nói chuyện với các bệnh nhân, các bác sĩ, y tá, hộ lý và các nhà nghiên cứu, và suy ngẫm về những việc diễn ra hàng ngày, thì tôi hiểu rõ rằng phần lớn những gì được coi là tiêu chuẩn trong việc chăm sóc bệnh nhân giai đoạn cuối là có ích. Đó là sự tiến triển của công nghệ và kỹ thuật y tế đã thúc đẩy cuộc đối thoại, trong khi bệnh nhân và thậm chí cả các bác sĩ tìm cách giữ nguyên.

"Euthanasia” trong tiếng Hy Lạp nghĩa là “giúp người bệnh chết”. Ảnh: Pinterest.

Trung tâm của cuộc thảo luận và chưa được giải quyết là định nghĩa về việc gây hại. Chủ đề trung tâm mà những người chống việc trợ tử đưa ra là châm ngôn đã có từ lâu: “Không được làm hại”. Nhưng hại là gì? Bệnh nhân được điều trị nhưng họ không muốn thì có phải là họ bị làm hại hay không? Các biện pháp chữa trị quá vô ích có phải là hại không? Cái chết kéo quá dài, mà người ta không muốn sống nữa có phải là hại không? Và, có lẽ quan trọng nhất là, cái chết mà người ta có thể không muốn có làm hại không?

Khi người Hy Lạp cổ đại tạo ra từ “euthanasia” (giúp người bệnh chết), là họ đã tìm cách trả lời câu hỏi mà chúng ta vẫn còn phải vật lộn: Chết là gì? Đấy có lẽ là câu hỏi quan trọng và khó khăn nhất mà chúng ta từng gặp, nói cho cùng, làm sao mà mất mát lớn nhất là cuộc sống lại có thể coi là tốt? Tương tự như một cỗ máy có tổ chức, người bệnh chiến đấu kiên cường không phải để ngăn ngừa cái chết, mà để sống một cách có thể chịu đựng được. Đây là những câu hỏi cấp bách nhất của thời đại chúng ta: Người bệnh muốn chấm dứt cuộc sống như thế nào và phải làm gì để giúp họ toại nguyện. Nhưng mặc cho tất cả tiến bộ mà chúng đã đạt được, chúng ta vẫn chưa giải quyết được một cách trọn vẹn những câu hỏi này.



Đây là trích đoạn từ tác phẩm Modern Death: How Medicine Changed the End of Life của Haider Javed Warraich, do Duckworth xuất bản.

Đã đăng trên Luật Khoa Tạp Chí

1 comment: