May 21, 2015

Milovan Djilas - Nói chuyện với Stalin (Bài 8)

Thất vọng

1.

Tôi gặp Stalin lần thứ ba vào đầu năm 1948. Đây là cuộc gặp có ý nghĩa nhất vì nó diễn ra ngay trước cuộc xung đột giữa lãnh đạo Liên Xô và Nam Tư.

Ngay trước cuộc gặp đã xảy ra những sự kiện và thay đổi quan trọng trong quan hệ giữa Liên Xô và Nam Tư.

Quan hệ giữa Liên Xô và phương Tây đã bắt đầu có tính chất của cuộc chiến tranh lạnh và dưới hình thức quan hệ giữa hai khối.

Sự kiện có tính chất quyết định ở đây, theo tôi, là việc Liên Xô từ chối kế hoạch Marshall, cuộc nội chiến ở Hi Lạp và việc thành lập Phòng thông tin của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế gọi là Cominform.

Chỉ có Liên Xô và Nam Tư là hai nước kiên quyết từ chối tham gia kế hoạch Marshall. Nam Tư từ chối do chủ nghĩa giáo điều, còn Liên Xô thì sợ rằng sự giúp đỡ kinh tế của Mĩ sẽ làm lung lay cái đế chế vừa chiếm được bằng chiến tranh.


Tôi, trên đường tham dự đại hội Đảng cộng sản Pháp ở Strasbourg, đã tình cờ có mặt ở Paris đúng vào lúc diễn ra cuộc đàm phán giữa Molotov và các đại diện phương Tây về kế hoạch Marshall. Molotov tiếp tôi trong Đại sứ quán Liên Xô, tại đây chúng tôi đã thoả thuận sẽ phản đối kế hoạch Marshall và phê bình Đảng cộng sản Pháp vì cái gọi là “đường lối dân tộc” của họ. Molotov đặc biệt quan tâm đến thái độ của tôi đối với đại hội. Molotov nói về tờ Dân chủ mới do Duclo làm tổng biên tập, một tờ báo có nhiệm vụ thể hiện sự thống nhất quan điểm của các đảng cộng sản, như sau:

“Không phải là việc cần, không phải là việc cần làm bây giờ.”

Molotov có lưỡng lự về kế hoạch Marshall và cho rằng có thể phải đồng ý tổ chức với sự tham gia của các nước Đông Âu, nhưng chỉ với mục đích tuyên truyền, sẽ lợi dụng diễn đàn và đứng dậy bỏ ra về khi cần thiết. Tôi không thích phương án ấy lắm, nhưng nếu người Nga cố ép thì tôi sẽ đồng ý, đấy cũng là quan điểm của chính phủ tôi. Nhưng Molotov đã nhận được chỉ thị của Bộ chính trị từ Moskva rằng không được đồng ý ngay cả với việc tổ chức hội nghị.

Ngay sau khi tôi về Belgrad thì ở Moskva diễn ra hội nghị các nước Đông Âu nhằm thống nhất quan điểm về kế hoạch Marshall. Tôi được chỉ định dẫn đầu đoàn đại biểu Nam Tư. Mục đích thực sự của nó là cùng ép Tiệp Khắc vì chính phủ nước này không phản đối việc tham gia kế hoạch Marshall. Máy bay Liên Xô đã đợi sẵn ở sân bay nhưng có điện từ Moskva nói rằng không cần họp nữa vì chính phủ Tiệp đã từ bỏ quan điểm ban đầu rồi.

Phòng thông tin quốc tế (Cominform) được thành lập cũng vì lí do như thế: nhiệm vụ của nó là giải quyết các quan điểm khác với quan điểm của Moskva. Ý tưởng về việc thành lập một tổ chức có thể bảo đảm sự phối hợp và trao đổi quan điểm giữa các đảng cộng sản được bàn thảo ngay từ mùa hè năm 1946; Stalin, Tito và Dimitrov cũng đã nói chuyện đó. Nhưng vì nhiều lí do mà kế hoạch phải hoãn lại, mà lí do chủ yếu là vì các lãnh tụ Xô viết chưa quyết định được thời gian thích hợp. Mãi đến mùa thu năm 1947, kế hoạch này mới được thực hiện, không nghi ngờ gì rằng điều đó có liên quan đến việc Liên Xô từ chối kế hoạch Marshall và sự củng cố vai trò của Liên Xô trong các nước Đông Âu.

Trong cuộc hội nghị thành lập diễn ra ở miền tây Ba Lan, đây là vùng đất cũ của Đức, chỉ có hai đoàn kiên quyết đề nghị thành lập, đấy là đoàn Nam Tư và đoàn Liên Xô. Gomulka (Ba Lan –ND) phản đối, ông phát biểu thận trọng nhưng không úp mở về con đường “đi lên chủ nghĩa xã hội theo cách của Ba Lan” .

Xin nhắc lại một chuyện vui rằng Stalin đã nghĩ ra tên gọi cho tờ báo của Cominform là Vì một nền hoà bình bền vững, vì nền dân chủ nhân dân, và cho rằng các cơ quan tuyên truyền phương Tây mỗi lần trích dẫn một câu gì đó từ tờ tạp chí cũng sẽ phải nhắc lại khẩu hiệu này. Nhưng hi vọng của Stalin không thành hiện thực: tên này dài quá và mang tính tuyên truyền lộ liễu quá nên ở phương Tây người ta chỉ gọi đơn giản là “cơ quan của Cominform”. Stalin cũng là người quyết định địa điểm của Cominform. Các đoàn đại biểu đã thống nhất đặt ở Praha. Đại diện của Tiệp là Slanski ngay chiều hôm ấy phải phóng xe về Praha để tham khảo ý kiến Gottwald. Nhưng đêm đó, Gdanov và Malenkov đã nói chuyện với Stalin, ngay ở một khách sạn xa xôi hẻo lánh thế này cũng phải xin ý kiến trực tiếp của Moskva. Và vì Gottwald không thích đặt ở Praha lắm, Stalin đã ra lệnh đặt trụ sở Cominform ở Belgrad.

Có hai quá trình diễn ra song hành trong quan hệ giữa Nam Tư và Liên Xô: ngoài mặt thì là thống nhất về chính trị và tư tưởng nhưng trên thực tế thì đánh giá và hành động đã khác nhau.

Khi phái đoàn lãnh đạo cấp cao Nam Tư gồm Tito, Rankovich, Kidric, Neskovic có mặt ở Moskva vào mùa hè năm 1946, ngoài mặt, quan hệ giữa hai bên cực kì thân thiện. Stalin ôm hôn Tito rồi còn dự đoán vai trò của ông trên phạm vi toàn châu lục nữa, trong khi tỏ ra coi thường đoàn Bulgaria và Dimitrov. Nhưng chẳng bao lâu sau đã xảy ra tranh luận và bất đồng.

Những mâu thuẫn được che đậy tiếp tục phát triển. Tuy thế giới phi cộng sản không hề biết đến những mâu thuẫn ấy nhưng chúng vẫn luôn bùng phát trong các cấp lãnh đạo cao nhất của đảng. Đấy là những vụ liên quan đến việc tuyển mộ nhân viên tình báo, đặc biệt là trong bộ máy đảng và chính quyền và trong lĩnh vực tư tưởng mà chủ yếu là việc coi thường cách mạng Nam Tư từ phía Liên Xô. Các đại diện Liên Xô đã tỏ vẻ khó chịu ra mặt khi thấy Tito được ca ngợi cùng với Stalin, họ có thái độ hoàn toàn tiêu cực khi thấy Nam Tư có quan hệ độc lập và ngày càng có uy tín với các nước Đông Âu.

Chẳng mấy chốc, mâu thuẫn đã chuyển sang lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là khi người Nam Tư nhận ra rằng ngoài các quan hệ thương mại bình thường, họ không thể hi vọng vào sự giúp đỡ của Liên Xô trong việc thực hiện kế hoạch năm năm. Cảm thấy sự chống đối, Stalin nói rằng các công ty hợp doanh là không phù hợp với các nước hữu nghị anh em và hứa sẽ giúp đỡ về mọi mặt. Nhưng đồng thời các đại diện thương mại của Liên Xô lại dụng lợi thế do sự bùng nổ mâu thuẫn trong quan hệ giữa Nam Tư và các nước phương Tây và ảo tưởng của Nam Tư rằng Liên Xô là nhà nước không vị kỉ và không có ý đồ bá quyền.

Chỉ có Nam Tư và Albania là hai nước Đông Âu tự giải phóng khỏi ách phát xít và đồng thời hoàn thành cuộc cách mạng nội bộ mà không cần sự trợ giúp có tính chất quyết định của Hồng quân. Công cuộc cải tạo xã hội ở đây diễn ra sâu sắc hơn bất kì nước nào khác và Nam Tư đồng thời cũng là nước có vai trò tích cực trong việc thành lập khối Đông Âu thân Liên Xô. Cuộc nội chiến đang diễn ra ở Hi Lạp. Nam Tư bị vu là kích động và ủng hộ về mặt vật chất cho cuộc chiến tranh đó, quan hệ của nó với phương Tây và đặc biệt là Mĩ cực kì căng thẳng.

Hôm nay, nhìn lại thời đã qua, tôi có cảm tưởng rằng chính phủ Liên Xô không những chỉ quan sát một cách thích thú sự xấu đi của những mối quan hệ đó mà còn thực hiện một số bước làm cho nó trầm trọng thêm, dĩ nhiên là họ theo dõi để làm sao các bước đó không vượt ra ngoài khả năng và lợi ích của chính mình. Molotov chút nữa thì đã ôm hôn Kardelj khi nhận được tin hai máy bay Mĩ đã bị bắn rơi trên bầu trời Nam Tư nhưng đồng thời lại thuyết phục rằng không nên bắn thêm cái thứ ba. Chính phủ Liên Xô không ủng hộ một cách trực tiếp cuộc khởi nghĩa ở Hi Lạp, như vậy là đã để Nam Tư gần như đơn độc trên ghế bị cáo ở Liên hiệp quốc, nhưng cũng không có một hành động dứt khoát nào nhằm vãn hồi hoà bình cho đến khi Stalin thấy rằng việc đó có lợi cho mình.

Việc đưa Cominform về Belgrad cũng thế, mới đầu thì tưởng đấy là công nhận cách mạng Nam Tư nhưng hoá ra đằng sau nó là ý định ngầm của Liên Xô: ban lãnh đạo Nam Tư được ru ngủ trong sự tự mãn cách mạng và phải phục tùng tinh thần đoàn kết cộng sản quốc tế giả tạo; trên thực tế, điều đó nghĩa là công nhận chủ nghĩa bá quyền Liên Xô và thực hiện những đòi hỏi không bao giờ ngưng của bộ máy quan liêu Xô viết.

Xin được nói về thái độ của Stalin đối với cách mạng, cũng có nghĩa là thái độ đối với cách mạng Nam Tư.

Có nhiều ý kiến, không phải là không có cơ sở, cho rằng vào những giờ phút quyết định, Moskva đã từ chối giúp đỡ cách mạng Trung Quốc, Tây Ban Nha, Nam Tư vì Stalin là người phản đối cách mạng nói chung. Nhưng điều đó không hoàn toàn đúng. Stalin chỉ chống lại cách mạng khi cuộc cách mạng ấy vượt ra ngoài quyền lợi của nhà nước Liên Xô mà thôi. Ông đã linh cảm thấy rằng việc thành lập các trung tâm cách mạng mới bên ngoài Moskva sẽ đe doạ vị trí độc quyền trong phong trào cộng sản thế giới, điều đó đã trở thành hiện thực rồi. Cho nên ông ta chỉ ủng hộ các cuộc cách mạng khi chúng còn nằm trong vòng kiểm soát của ông, ông sẵn sàng bỏ rơi nếu chúng vượt khỏi tầm tay. Tôi cho rằng cho đến hôm nay chính sách của chính phủ Liên Xô chưa có thay đổi đáng kể về vấn đề này.

Nắm trong tay toàn bộ nguồn lực của đất nước, Stalin không thể hành động khác ngay cả ở bên ngoài lãnh thổ của nó. Kéo khái niệm tiến bộ và tự do xuống ngang với quyền lợi của một đảng chính trị ở nước mình, ông chỉ có thể hành động như chủ nhân ông tại những nước khác mà thôi. Ông chỉ còn là công việc. Ông đã trở thành nô lệ của chế độ chuyên chế và quan liêu, nô lệ của sự hẹp hòi, thiển cận và nhạt nhẽo, nghĩa là nô lệ của tất cả những điều mà ông đã buộc vào cho chính đất nước mình.

Hoàn toàn đúng khi có người nói rằng: không thể tước đoạt tự do của người khác mà không đánh mất tự do của chính mình.


2.

Tôi phải đi Moskva là vì có sự khác biệt trong chính sách giữa Nam Tư và Liên Xô về vấn đề quan hệ với Albania.

Cuối tháng 12 năm 1947, chúng tôi nhận được một bức điện nói rằng Stalin yêu cầu tôi hoặc một ủy viên nào đó trong Ban chấp hành trung ương Nam Tư phải đến Moskva để thống nhất chính sách của hai chính phủ đối trong quan hệ với Albania.

Sự khác biệt biểu hiện rõ nhất sau vụ tự sát của Spiru Naku, ủy viên Ban chấp hành trung ương Albania.

Quan hệ giữa Nam Tư và Albania phát triển trong tất cả các lĩnh vực. Nam Tư ngày càng gửi nhiều chuyên gia, thuộc đủ các ngành nghề, sang Albania. Nam Tư còn cung cấp cho Albania lương thực thực phẩm, mặc dù chính Nam Tư cũng đang thiếu thốn. Về nguyên tắc, cả hai chính phủ cùng có chung quan điểm cho rằng Albania phải hợp nhất với Nam Tư, như thế cùng một lúc sẽ giải quyết được vấn đề nhóm dân thiểu số Albania ở Nam Tư.

Các điều kiện trợ giúp của Nam Tư cho Albania có phần thuận lợi và công bằng hơn các điều kiện của chính phủ Liên Xô đối với Nam Tư. Nhưng dường như vấn đề không phải là lẽ công bằng mà là thực chất của các mối quan hệ. Một số nhà lãnh đạo Albania ngấm ngầm chống lại các mối quan hệ như thế.

Spiru Naku, một người nhỏ nhắn, yếu đuối về mặt thể lực nhưng là một trí thức sâu sắc và cực kì nhạy cảm, lúc đó đang lãnh đạo lĩnh vực kinh tế trong chính phủ Albania, là người đầu tiên công khai phản đối Nam Tư và đòi cho Albania được phát triển một cách độc lập. Quan điểm của ông gặp phải phản ứng tiêu cực không những ở Nam Tư mà còn bị phản đối ngay trong Ban chấp hành trung ương Albania. Koci Xoxe, Bộ trưởng Nội vụ, sau này bị tử hình vì tội ủng hộ Nam Tư, là người phản đối dữ dội nhất. Xuất thân là công nhân, một người cách mạng lão thành, Xoxe được coi là đảng viên trung kiên nhất, mặc dù Enver Hoxha là Tổng bí thư Đảng và là người đứng đầu chính phủ, ông này là người có học hơn và khôn ngoan hơn. Enver Hoxha cũng phê phán Naku, mặc dù không ai biết quan điểm thực sự của ông là gì. Bị kết án là theo chủ nghĩa sô vanh và bị cô lập, đứng trước nguy cơ bị khai trừ khỏi đảng, Naku đã tự bắn một viên đạn vào đầu mà không biết rằng cái chết của ông đã khơi mào cho sự căng thẳng trong quan hệ giữa Nam Tư và Albania.

Người ta đã giấu nhẹm biến cố này, chỉ mãi về sau, khi xung đột giữa Nam Tư và Albania đã trở thành công khai, Enver Hoxha mới biến Naku thành anh hùng dân tộc. Nhưng sự kiện này đã gây ra cho lãnh đạo hai bên ấn tượng rất nặng nề, những câu chữ chung chung mà người cộng sản vẫn dùng trong những trường hợp như thế như: tiểu tư sản, hèn nhát... không thể nào tẩy xoá được ấn tượng nặng nề nêu trên.

Chính phủ Liên Xô biết rõ nguyên nhân cái chết của Naku cũng như quan hệ giữa Nam Tư và Albania. Các cơ quan đại diện của Liên Xô ở Tirana phình lên nhanh chóng. Nói chung, chính phủ Albania và Nam Tư không giấu diếm Liên Xô các vấn đề của mình, mặc dù Nam Tư không tham khảo Liên Xô về các chính sách cụ thể.

Các đại diện Liên Xô càng ngày càng tỏ ra bất mãn với những công việc cụ thể do Nam Tư thực hiện tại Albania. Nhóm lãnh đạo của Enver Hoxha ngày càng tỏ ra thân mật hơn với phái đoàn Liên Xô. Lúc thì một đại diện nào đó của Liên Xô trách: Tại sao Nam Tư tổ chức các công ty hợp doanh với Albania mà không muốn thành lập các công ty như thế với Liên Xô? Có khi lại hỏi: Tại sao chúng tôi lại cử cố vấn sang giúp quân đội Albania trong khi người Liên Xô làm cố vấn cho Nam Tư? Làm sao chúng tôi có thể cố vấn cho Albania về vấn đề phát triển trong khi chính Nam Tư lại cần cố vấn nước ngoài? Tại sao một nước Nam Tư vừa nghèo vừa lạc hậu lại đi giúp Albania phát triển?

Càng ngày càng thấy rõ xu hướng của Moskva muốn thay thế vị trí của Nam Tư ở Albania. Thật là bất công đối với Nam Tư vì không phải Liên Xô sẽ hợp nhất với Albania, hơn nữa, Liên Xô cũng không phải là nước có biên giới chung với Albania. Đồng thời, người ta cũng thấy rõ xu thế ngả về Liên Xô của ban lãnh đạo cấp cao Albania, điều đó thể hiện rất rõ trong công tác tuyên truyền của họ.

Đề nghị của chính phủ Liên Xô về việc giải quyết bất đồng trong vấn đề Albania được phía Nam Tư đón nhận bằng cả hai tay nhưng cho đến nay, vẫn không rõ là tại sao Stalin lại muốn chính tôi phải đi Moskva.

Tôi nghĩ rằng có hai lí do.

Không nghi ngờ gì rằng tôi đã để lại cho ông ta ấn tượng là một người bồng bột và thẳng thắn, những người cộng sản Nam Tư cũng nghĩ rằng tôi là một người như thế. Như vậy, tôi là người phù hợp cho những cuộc đối thoại cởi mở về những vấn đề phức tạp và nhạy cảm.

Nhưng tôi còn cho rằng Stalin muốn lôi kéo tôi để gây chia rẽ và khuất phục Ban chấp hành trung ương Nam Tư. Trước đây, ông ta đã lôi kéo được Hebrang và Giuovik rồi. Nhưng Hebrang đã bị khai trừ khỏi Ban chấp hành trung ương và đang bị theo dõi vì những liên hệ mờ ám với cảnh sát Hoàng gia trước đây. Giuovik là một người lỗi lạc, nhưng mặc dù là ủy viên Ban chấp hành trung ương, ông lại không phải là người thuộc nhóm thân cận Tito từ thời thành lập Đảng và trong thời kì diễn ra cách mạng. Trong chuyến viếng thăm đến Moskva vào năm 1946, khi Tito nói rằng tôi bị bệnh đau đầu thì Stalin đã mời tôi đến nghỉ ở Krym. Tôi không đi vì sau đó, không thấy họ gửi lời mời qua sứ quán và tôi cho rằng đấy chỉ là lời nói có tính xã giao.

Tôi lên đường đi Moskva, nếu tôi nhớ không lầm, vào ngày 8 tháng 1 năm 1948 hoặc gần ngày đó với tâm trạng nửa mừng nửa lo. Tôi mừng vì được Stalin mời nhưng trong đáy sâu tâm hồn, tôi ngờ rằng đây không phải là vô tình và không phải là việc tử tế đối với Tito cũng như Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Nam Tư.

Trước khi lên đường, tôi không nhận được hướng dẫn hay chỉ thị cụ thể nào. Vì tôi nằm trong ban lãnh đạo tối cao và quan điểm chung cũng đã được xác định rồi, mà quan điểm chung lúc đó là các đại diện Liên Xô phải kiềm chế trong việc đưa ra ý kiến thiếu tế nhị liên quan đến chính sách hợp nhất giữa Nam Tư và Albania, cũng như họ không được thực thi những đường lối đặc biệt nào khác.

Nhân dịp này, một phái đoàn quân sự Nam Tư cũng lên đường đi Moskva cùng với tôi. Họ có nhiệm vụ trình bày nhu cầu trong lĩnh vực trang thiết bị quân sự và khôi phục nền công nghiệp quốc phòng. Trong đoàn đại biểu quân sự có Koca Popovic, Tổng tham mưu trưởng và Todorovic, Tổng cục trưởng tổng cục công nghiệp quốc phòng. Cvetozar Vukmanovok-Tempo, Tổng cục trưởng tổng cục chính trị cũng đi với chúng tôi để làm quen với kinh nghiệm của Hồng quân trong lĩnh vực này.

Chúng tôi đi bằng tàu hoả, mọi người đều phấn khởi, lòng tràn đầy hi vọng. Nhưng đồng thời quan điểm của chúng tôi cũng rất rõ ràng: Nam Tư phải giải quyết các vấn đề bằng lực lượng và theo cách của mình.


3.

Quan điểm này đã được nói ra ngay cả trước khi cần nói, đấy là tại bữa ăn tối trong đại sứ quán Nam Tư ở Bukarest, bữa đó Anna Pauker, bộ trưởng ngoại giao, và một số nhà hoạt động chính trị nổi tiếng của Rumania cũng có mặt.

Hôm đó, tất cả các đồng chí Nam Tư, trừ ông đại sứ Golubovic, người sau này đã vượt biên vì có cảm tình với Moskva, đều công khai nói rằng Liên Xô không thể là mô hình tuyệt đối trong công cuộc “xây dựng chủ nghĩa xã hội” vì hoàn cảnh đã thay đổi, hơn nữa, điều kiện và quan hệ trong các nước Đông Âu cũng khác nhau. Tôi để ý thấy Anna Pauker chăm chú lắng nghe nhưng bà không nói gì hoặc miễn cưỡng đồng ý với chúng tôi một vấn đề gì đó song vẫn tránh thảo luận vấn đề tế nhị này. Một đồng chí Rumania, tôi nghĩ đó là Bodnarosh, tranh luận với chúng tôi, còn một người khác, đáng tiếc là tôi đã quên tên, lại hoàn toàn đồng ý. Tôi cho rằng không nên thảo luận những vấn đề như thế vì tin rằng sẽ có người báo cáo với người Nga còn họ thì nhất định sẽ coi đó là “bài Xô”, nguồn gốc của mọi tội lỗi trên đời. Nhưng đồng thời tôi cũng không thể từ bỏ quan điểm của mình. Cho nên tôi cố gắng làm dịu bớt cuộc tranh luận bằng cách nhấn mạnh những cống hiến của Liên Xô và ý nghĩa mang tính nguyên tắc của các kinh nghiệm của Liên Xô. Nhưng điều đó có lẽ cũng chẳng mang lại lợi ích gì vì tôi lại nhấn mạnh rằng phải hiểu biết các điều kiện cụ thể mới có thể xác định được đường lối. Nói chung, sẽ có nhiều phiền toái: tôi biết rằng lãnh đạo Liên Xô không bao giờ chấp nhận chính sách “đại đồng tiểu dị” và nhượng bộ, nhất là ngay trong hàng ngũ những người cộng sản với nhau.

Lí do để phê bình thì nhiều, dù chúng tôi chỉ đi ngang qua Rumania mà thôi.

Lí do thứ nhất là quan hệ của Liên Xô với các nước Đông Âu khác: các nước này vẫn bị quân đội Liên Xô chiếm đóng trực tiếp, tài nguyên của họ thì bị khai thác bằng đủ mọi phương tiện, mà thường là thông qua các công ty hợp doanh, người Nga dùng ngay vốn của Đức mà họ tuyên bố là chiến lợi phẩm của họ, ngoài ra không có gì hết. Buôn bán với các nước này cũng khác, thường là theo các hợp đồng đặc biệt, chính phủ Liên Xô mua với giá thấp hơn mà bán thì với giá cao hơn thị trường thế giới. Chỉ có Nam Tư là ngoại lệ. Chúng tôi biết hết. Khung cảnh nghèo nàn và nhận thức được sự bất lực và phục tùng của chính quyền Rumania càng làm chúng tôi bất mãn thêm.

Nhưng điều làm chúng tôi khó chịu nhất là thói ngạo mạn của những người đại diện Liên Xô ở đây. Tôi nhớ chúng tôi đã phát hoảng khi thấy viên tư lệnh ủy ban quân quản Xô Viết ở Iassy nói:

“Cái vùng Iassy này, bẩn ơi là bẩn! Rumania toàn một lũ trộm cắp!”

Ông ta còn nhắc lại lời của Ehrenburg và Vyshinsky về thói ăn hối lộ và trộm cắp ở Rumania như sau:

“Đấy không phải là một dân tộc, đấy là một nghề!”

Iassy, đặc biệt là vào mùa đông năm ấy, quả thật rất bẩn, là khu vực bỏ hoang của vùng Ban-căng, chỉ có những người ở đây mới nhận thấy vẻ đẹp của nó trong những quả đồi, những khu vườn và ruộng bậc thang trải dài tít tắp mà thôi. Nhưng chúng tôi cũng biết rằng các thị trấn của Liên Xô cũng chẳng có gì tốt hơn, nếu không nói là còn xấu hơn. Tuy nhiên, điều làm chúng tôi bực nhất là thói tự cao tự đại “của chủng tộc thượng đẳng” và sự khệnh khạng nước lớn ở những người đại diện Liên Xô. Thái độ tôn trọng, ân cần đối với chúng tôi không chỉ làm nổi bật thêm sự khinh miệt người Rumania mà còn làm chúng tôi thêm tự hào về sự độc lập của mình, buộc chúng tôi phải suy nghĩ một cách độc lập hơn.

Chúng tôi đã coi những thái độ và quan điểm như thế là “có thể xảy ra trong chế độ xã hội chủ nghĩa” vì người Nga là “như thế”, họ là những người lạc hậu, bị cách li với thế giới bên ngoài, truyền thống cách mạng đã nguội lạnh rồi.

Chúng tôi ngáp dài ở Iassy mấy tiếng đồng hồ, cho đến khi xe lửa Liên Xô có toa dành riêng cho khách của chính phủ tới đón, đại uý Kozlovski, chuyên gia về Nam Tư trong các cơ quan an ninh Liên Xô đã đợi sẵn. Nhưng lần này, anh ta không được tự nhiên, vui vẻ như trước, dĩ nhiên là không phải vì trước mặt anh ta là các bộ trưởng và tướng lĩnh. Có một cái gì đó khó nắm bắt, khó giải thích, một thái độ xã giao lạnh lùng đã xuất hiện trong quan hệ giữa chúng tôi và các “đồng chí" Liên Xô.

Chúng tôi tìm đủ mọi từ ngữ cay độc để chế giễu cái toa tầu mặc dù nó có đủ thứ tiện nghi, thức ăn ngon và thái độ tận tụy của nhân viên nhà tầu. Những cái tay nắm bằng đồng to đùng, quá nhiều đồ trang trí cổ, chiếc bồn cầu cao đến mức chân không chạm đất, tất cả đều rất khôi hài. Có phải đấy là cách thể hiện sự vĩ đại và sức mạnh của quốc gia? Nhưng buồn cười nhất là người phụ trách cái toa tầu sang trọng không khác gì thời Sa hoàng này lại mang theo một cái lồng có mấy con gà ngay trong buồng ngủ của anh ta. Lương ít, quần áo tồi tàn, anh ta phàn nàn với chúng tôi:

“Biết làm thế nào được, các đồng chí ơi, công nhân thì phải xoay đủ cách thôi, nhà đông con, chật vật lắm.”

Mặc dù xe lửa Nam Tư cũng không đúng giờ lắm nhưng không ai phải quá lo lắng chuyện chậm tầu như ở đây. “Sẽ tới”, một anh nhân viên bảo chúng tôi như thế.

Nước Nga dường như cố khẳng định tính chất cố hữu của tâm hồn từng con người và cả dân tộc bằng cách gồng mình lên chống lại sự tất bật của quá trình công nghiệp hoá và sức mạnh của bộ máy công quyền.

Ukraine và Nga, tuyết phủ đến tận mái nhà, khắp nơi vẫn là khung cảnh hoang tàn thời chiến với những nhà ga bị cháy, lán gỗ, những người đàn bà trùm khăn, đi ủng dọn dẹp đường phố, ăn thì chỉ có nước sôi và bánh mì đen.

Chỉ có Kiev là tương đối sạch và đẹp. Dù đêm đã che mất khung cảnh sông Dnepr và những cánh đồng ngoại vi như đã trộn lẫn với bầu trời thì Kiev vẫn làm tôi nhớ đến Belgrad, một thành phố Belgrad của tương lai, với cả triệu dân, một thành phố đã được xây dựng lại bằng tình yêu thương và sự cẩn thận cần thiết. Nhưng chúng tôi dừng lại ở Kiev không lâu. Không có nhà lãnh đạo nào của Ukraine ra đón chúng tôi cả. Chẳng bao lâu sau, chúng tôi lại lên đường, chúng tôi lao vào bóng đêm trắng xoá vì tuyết và đen ngòm vì buồn, chỉ có toa của chúng tôi là có điện, có đủ thứ tiện nghi, có thừa đồ ăn thức uống giữa cái nghèo và cảnh đổ nát trải dài mênh mông, bất tận.


4.

Vừa đến Moskva được vài tiếng đồng hồ, khi chúng tôi còn đang tay bắt mặt mừng, nói chuyện với Vladimir Popovic, đại sứ Nam Tư, thì chuông điện thoại reo: Bộ ngoại giao Liên Xô hỏi tôi có mệt không, Stalin muốn gặp tôi ngay chiều hôm đó. Sự vội vàng như thế là bất bình thường, những người cộng sản ngoại quốc luôn luôn phải chầu chực nên họ thường kháo nhau: Đến Moskva thì dễ nhưng về thì khó. Ngay cả nếu tôi có bị mệt, mà tôi mệt thật, thì tôi cũng phải đón nhận lời mời của Stalin bằng cả hai tay; tất cả các thành viên trong đoàn đều tỏ vẻ ngạc nhiên, có cả ghen tị nữa, Koca Popovic và Todorovic nhắc nhở tôi là đừng quên mục đích của họ, mặc dù trên suốt chuyến đi tôi đã tìm hiểu rất kĩ nhu cầu của họ rồi.

Tôi rất mừng vì được gặp Stalin, nhưng đồng thời cũng suy nghĩ rất lung về lí do của sự vội vã này. Đêm đó, tôi bị chi phối bởi cảm giác mừng lo lẫn lộn như thế trong suốt buổi gặp với Stalin và các nhà lãnh đạo Liên Xô khác.

Như mọi khi, khoảng chín giờ tối thì có xe đưa tôi vào Điện Kremli. Stalin, Molotov và Zhdanov đã đợi sẵn, tôi biết Zhdanov là ủy viên Bộ chính trị, phụ trách quan hệ với các đảng cộng sản quốc tế.

Chào hỏi xong, Stalin vào việc ngay:

“Ở Albania các ủy viên Ban chấp hành trung ương tự bắn vào đầu! Không tốt, rất không tốt!”

Tôi bắt đầu giải thích: Spiru Naku chống lại mối quan hệ giữa Albania và Nam Tư, ông ta tự tách ra khỏi Ban chấp hành trung ương. Nhưng tôi chưa nói hết thì Stalin đã bất ngờ nói:

“Chúng tôi không có quyền lợi gì đặc biệt ở Albania cả. Chúng tôi đồng ý để Nam Tư nuốt Albania!”, vừa nói ông vừa co những ngón tay của bàn tay phải lại rồi đưa lên miệng làm bộ như đang nuốt vậy.

Tôi vô cùng ngạc nhiên, gần như cứng lưỡi vì cách thể hiện và động tác của ông, nhưng tôi không biết điều đó có thể hiện trên nét mặt không vì tôi cố gắng biến câu đó thành một lời nói đùa và coi đấy là cách thể hiện tư tưởng bình thường, có phần thô nhưng đầy hình ảnh của Stalin. Tôi lại bắt đầu giải thích: chúng tôi không muốn nuốt mà là liên kết!

Nhưng Molotov đã nói chen vào:

“Thì thế là nuốt đấy!”

Còn Stalin thì vừa lặp lại động tác vừa nói:

“Đúng, đúng, nuốt. Nhưng chúng tôi đồng ý: các đồng chí phải nuốt Albania, càng nhanh càng tốt.”

Mặc dù cách nói như thế, không khí có vẻ rất chân thành và cực kì hữu nghị. Ngay Molotov cũng nói một cách vui vẻ, nhã nhặn, một điều hiếm thấy xưa nay.

Tôi luôn xem xét vấn đề xích lại gần nhau và hợp nhất với Albania với lòng chân thành và tình cảm cách mạng. Cũng như nhiều người khác, tôi cho rằng việc hợp nhất, nếu được ban lãnh đạo Albania tự nguyện, không chỉ đem lại cho Nam Tư và Albania những lợi ích trực tiếp mà còn đồng thời chấm dứt mối thâm thù và xung đột truyền thống giữa người Serb và người Albania nữa. Theo tôi, còn một điều quan trọng nữa, đấy là khả năng liên kết của nhóm người thiểu số Albania ở Nam Tư vào nước Albania thuộc liên bang Nam Tư - Albania. Mọi giải pháp khác cho vấn đề người thiểu số Albania ở Nam Tư, tôi nghĩ, đều không thực tế bởi vì chuyển giao lãnh thổ Nam Tư có người Albania sinh sống cho Albania sẽ gặp phải sự chống đối quyết liệt ngay trong Đảng cộng sản Nam Tư.

Tôi, lúc đó cũng như hiện nay, không thể bác bỏ quyền tự nhiên của người Albania trong việc liên kết với chính quốc của họ, hơn nữa, tôi còn đòi cho người Nam Tư cũng được quyền như thế, thí dụ, trong giai đoạn hiện nay là người Nam Tư sinh sống ở Ý. Thêm vào đó, tôi còn có tình cảm đặc biệt đối với nước Albania và người Albania: người Albania, nhất là ở phía bắc, có tính cách và nếp sống giống người Trernogornưi, đồng bào của tôi. Sinh lực và ý chí bảo vệ bản sắc của họ cao đến mức khó dân tộc nào trên thế giới sánh kịp.

Tất nhiên là tôi không nghĩ đến việc từ bỏ quan đểm của lãnh đạo nước mình và đồng ý với Stalin nhưng câu nói của Stalin lập tức tạo ra trong lòng tôi hai ý: Thứ nhất, chính sách của Nam Tư ở Albania chưa thực sự tốt. Thứ hai, Liên Xô đã nuốt các nước vùng Ban-tích, nhận xét của Molotov đã nói thẳng ra như thế.

Hai ý đó hoà quyện với nhau thành một cảm giác nặng nề.

Có thể chính sách của Nam Tư đối với Albania có gì đó không rõ ràng và không nhất quán, tôi nghĩ, nhưng dù sao cũng không thể nào gọi là “nuốt” được. Trong đầu tôi chợt nảy ra ý nghĩ rằng chính sách đối với Albania không phù hợp với nguyện vọng của những người cộng sản Albania, mà một người cộng sản như tôi lại được xem như người phản ánh ý chí của nhân dân Albania. Tại sao Naku lại tự sát? Ông ta là cộng sản, là người mác-xít chứ đâu phải “tiểu tư sản” hay “dân tộc chủ nghĩa”? Nếu người Albania, cũng như chúng tôi, muốn có một nước độc lập với Liên Xô thì sao? Nếu lợi dụng sự cách li và nghèo khó của Albania để tiến hành hợp nhất trái với nguyện vọng của nhân dân, có dẫn đến những khó khăn và xung đột không thể khắc phục được hay không? Người Albania là một chủng tộc lâu đời và có bản sắc riêng nhưng họ lại là một quốc gia tương đối mới, vì vậy, tình cảm dân tộc chủ nghĩa của họ còn rất cao. Liệu họ có coi hợp nhất là đánh mất độc lập, mất bản sắc không?

Tôi liên kết ý nghĩ thứ hai, về việc Liên Xô nuốt các nước Ban-tích, với ý nghĩ thứ nhất và nhắc đi nhắc lại với mình như sau: Người Nam Tư chúng ta không thể hợp nhất theo kiểu đó, ta không có quyền làm như thế. Còn nguy cơ về việc một nước đế quốc nào đó, như Đức chẳng hạn, xâm lược Albania và sử dụng làm bàn đạp chống Nam Tư là không thể xảy ra.

Nhưng Satlin đã hỏi:

“Theo đồng chí thì Hoxha là người thế nào?”

Tôi tránh trả lời trực tiếp, nhưng Stalin đã nói đúng như ban lãnh đạo Nam Tư nhận định:

“Ông ta là người tiểu tư sản, có xu hướng dân tộc chủ nghĩa phải không? Chúng tôi nhận định như thế đấy. Người kiên định nhất là Xoxe có phải không?’’

Tôi trả lời khẳng định ý kiến của ông.

Stalin kết thúc câu chuyện, kéo dài chưa đến mười phút, về Albania như sau:

“Chúng ta không có bất đồng nào cả. Đồng chí thay mặt chính phủ Liên Xô soạn một bức điện nói về chuyện đó để gửi cho Tito và ngày mai đưa cho tôi xem”.

Sợ không hiểu rõ, tôi phải hỏi lại. Stalin trả lời rằng tôi phải thay mặt chính phủ Liên Xô soạn một bức điện gửi chính phủ Nam Tư.

Đầu tiên, tôi nghĩ rằng đấy là sự thể hiện sự tin cậy tuyệt đối đối với tôi và mức độ đồng thuận cao nhất với chính sách của Nam Tư ở Albania. Nhưng ngày hôm sau, khi soạn thảo bức điện, tôi chợt nghĩ rằng một lúc nào đó, nó có thể được sử dụng để chống lại chính phủ của chúng tôi cho nên tôi viết ngắn và cực kì thận trọng, nội dung như sau:

“Hôm qua, Djilas đã đến Moskva, cuộc họp được tổ chức ngay sau đó cho thấy sự nhất trí hoàn toàn giữa chính phủ Liên Xô và chính phủ Nam Tư về vấn đề Albania”.

Bức điện này chưa bao giờ được gửi nhưng cũng chưa bao giờ được sử dụng để chống lại chính phủ Nam Tư trong cuộc xung đột sau đó giữa Moskva và Belgrad.

Cuộc nói chuyện còn kéo dài thêm một lúc nữa xung quanh những vấn đề không quan trọng như đặt Cominform ở Belgrad, cơ quan ngôn luận của Cominform, sức khỏe của Tito và các vấn đề khác đại loại như vậy.

Lựa chọn lúc thích hợp, tôi đặt vấn đề về trang bị cho quân đội Nam Tư và công nghiệp quốc phòng. Tôi nói rõ rằng chúng tôi hay gặp trở ngại với các đại diện phía Liên Xô, họ từ chối giúp đỡ, khi thì việc này, khi thì việc khác, lấy cớ rằng đấy là “bí mật quân sự”. Stalin đứng dậy và gào lên:

“Chúng tôi không giấu các đồng chí bất cứ chuyện gì. Các đồng chí là nước xã hội chủ nghĩa anh em, chúng tôi không giấu bất cứ bí mật quân sự nào”.

Sau đó ông đi lại phía bàn viết, gọi điện cho Bulganin và hạ lệnh:

“Ở đây đang có mấy người Nam Tư, có đoàn đại biểu Nam Tư, phải nghe họ nói ngay bây giờ”.

Cuộc nói chuyện ở Điện Kremli kéo dài chừng nửa giờ, sau đó chúng tôi đến nhà nghỉ của Stalin ăn tối.

Chúng tôi ngồi vào xe của Stalin, có cảm tưởng như đây chính là cái xe tôi đã cùng Molotov đi hồi năm 1945. Zhdanov ngồi ghế sau, bên phải tôi, còn phía trước là Stalin và Molotov. Lúc đang đi, Stalin thắp một cái đèn nhỏ trên tấm chắn đằng trước, bên dưới cái đèn có một chiếc đồng hồ đeo tay, lúc đó gần mười giờ đêm. Tôi nhìn thấy lưng ông đã so lại, cái gáy xương xẩu và lớp da nhăn nheo bên trên chiếc cổ áo nguyên soái là cứng. Tôi chợt nghĩ: đây là một trong những người có quyền lực nhất trong thời đại chúng ta, còn bên cạnh là những cộng sự gần gũi nhất của ông ta, nếu bây giờ có một quả bom nổ tung xe chúng tôi ra từng mảnh thì thảm hoạ này sẽ giật gân đến mức nào! Nhưng đấy chỉ là ý nghĩ không tốt bất chợt, nó xảy ra bất ngờ đến nỗi chính tôi cũng phát hoảng và tôi lại nhìn thấy trong Stalin hình ảnh một người suốt đời nghĩ đến thắng lợi và hạnh phúc của toàn thể những người cộng sản.

Trong khi chờ những người khác, Stalin, Zhdanov và tôi đứng gần tấm bản đồ thế giới treo trong phòng lớn. Tôi lại nhìn vào Stalingrad, được khoanh bằng bút chì màu xanh, Stalin lại nhận ra sự chú ý của tôi và tôi cũng thấy rằng ông cảm thấy thích. Zhdanov cũng bắt được ánh mắt của chúng tôi, ông ta nhận xét ngay:

“Khởi đầu chiến dịch Stalingrad.”

Nhưng Stalin không nói gì.

Theo tôi nhớ thì Stalin bắt đầu tìm trên bản đồ thành phố vì thành phố này cần phải đổi tên thành Kaliningrad, trong khi tìm như thế, chúng tôi bắt gặp những địa danh gần Leningrad vẫn còn mang tên Đức như dưới thời nữ hoàng Ekaterina. Stalin tỏ vẻ không thích, ông bảo Zhdanov:

“Đổi tên! Thật là không ra gì, đến giờ mà vẫn còn mang tên Đức!”

Zhdanov lấy sổ tay và một cái bút chì ra ghi chỉ đạo của Stalin.

Sau đó, tôi và Molotov đi vào toilet bên dưới tầng hầm ngôi nhà, ở đây có mấy cầu tiêu và bồn tiểu. Vừa đi, Molotov vừa kéo phéc-mơ-tuya và bình luận:

“Chúng tôi gọi như thế này là xuất rồi mới nhập.”

Mặc dù tôi đã phải ngồi tù nhiều năm, trong tù thì không còn gì xấu hổ nữa, nhưng tôi vẫn ngượng nên sau khi vào cầu tiêu tôi đóng cửa lại.

Sau đó, chúng tôi lên phòng ăn, Stalin, Malenkov, Beria, Zhdanov và Voznesensky đã đợi sẵn.

Zhdanov và Voznesensky là những người tôi mới gặp lần đầu.


Đã đăng trên http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=7514&rb=0202


No comments:

Post a Comment