5.
Zhdanov không cao lớn lắm, bộ râu màu hạt dẻ được cắt tỉa
cẩn thận, trán cao, mũi nhọn và mặt đỏ như có bệnh. Zhdanov là người có học vấn
cao và trong Bộ chính trị, ông được coi là một trí thức lớn. Mặc dù ông nổi tiếng
là người thiển cận và lí thuyết suông nhưng tôi cho rằng ông là người có hiểu
biết rộng. Ông ta biết mỗi thứ một ít, ngay cả nhạc ông cũng biết, nhưng tôi
nghĩ ông không nắm sâu bất cứ lĩnh vực nào, đấy là người thu lượm kiến thức từ
những lĩnh vực khác nhau nhờ thông qua sách báo mác-xít. Phải nói thêm rằng ông
ta thuộc loại trí thức vô liêm sỉ, cho nên càng đáng ghét vì đằng sau vẻ ngoài
trí thức đó là một nhà độc tài “đại lượng” đối với các văn nghệ sĩ. Đây là thời
kì “nghị quyết” của Ban chấp hành trung ương về các vấn đề văn học nghệ thuật,
nghĩa là thời kì của những cuộc tấn công quyết liệt vào quyền tự do tối thiểu
trong việc lựa chọn đề tài và hình thức biểu hiện còn giữ được hoặc vừa tuột khỏi
sự kiểm soát của bộ máy quan liêu của Đảng trong thời gian chiến tranh vừa qua.
Tôi nhớ hôm đó, Zhdanov có kể một câu chuyện thuộc loại tiếu lâm mới. Sau khi
ông viết bài phê phán, nhà văn Zoshchenko ở Leningrad đã bị tịch thu tất cả tem
phiếu, chỉ sau khi Moskva can thiệp người ta mới trả lại cho nhà văn.
Voznesenski là Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch nhà nước, lúc đó
chỉ ngoài bốn mươi, một người Nga chính hiệu, bắp thịt cuồn cuộn, trán cao, tóc
vàng và xoăn tít. Có cảm tưởng đấy là một người cẩn trọng, có văn hoá và kín
đáo, ít nói nhưng nội tâm lúc nào cũng vui vẻ. Trong thời gian chiến tranh, tôi
đã đọc một cuốn sách về kinh tế do ông viết, tôi cho rằng tác giả là một người
tận tâm và luôn trăn trở, sau này cuốn sách bị người ta phê phán, còn
Voznesenski thì bị giết, không hiểu vì lí do gì.
Tôi biết rõ người anh của Voznesenski, một giáo sư đại học,
lúc đó vừa được cử làm Bộ trưởng Giáo dục Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Liên bang
Nga.
Trong kì đại hội toàn Slav ở Belgrad mùa đông năm 1946,
tôi đã có một cuộc thảo luận rất thú vị với ông Voznesenski anh. Chúng tôi đồng
ý với nhau rằng lí thuyết “chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” được chính thức
công nhận thực ra là một lí thuyết hẹp hòi và phiến diện. Chúng tôi cùng cho rằng
trong chủ nghĩa xã hội, đúng hơn là chủ nghĩa cộng sản, sau khi các nước xã hội
chủ nghĩa mới được thành lập đã xuất hiện những hiện tượng mới và trong chủ
nghĩa tư bản cũng đã diễn ra những thay đổi chưa hề được nghiên cứu về mặt lí
thuyết. Có khả năng là mái đầu đẹp và thông thái của ông cũng đã bị rơi trong
những cuộc thanh trừng điên cuồng sau đó.
Bữa tối bắt đầu bằng việc có người, tôi nghĩ là chính
Stalin, đề nghị từng người nói xem lúc đó là âm mấy độ, sai một độ thì phải phạt
uống một li. May là tôi đã xem hàn thử biểu trong khách sạn, tôi chỉ việc cộng
thêm vài độ vì biết rằng ban đêm lạnh hơn nên sai có một độ. Tôi nhớ Beria đoán
sai ba độ nhưng ông ta bảo mình cố tình làm thế để được uống thêm rượu.
Chứng kiến cách bắt đầu bữa ăn như thế, tôi chợt nghĩ: những
con người sống hoàn toàn biệt lập như thế này có thể nghĩ ra những lí do còn vô
nghĩa hơn để chuốc nhau, thí dụ nhà ăn dài mấy bước chân hay bàn ăn dài mấy
gang tay. Ai biết được, có thể họ làm thế đấy! Việc dùng nhiệt độ để xác định số
rượu phải uống gây cho tôi cảm giác rằng ban lãnh đạo tối cao Liên Xô đang sống
một cuộc đời biệt lập, trống rỗng và vô nghĩa; thế mà họ vẫn thường tụ tập xung
quanh vị lãnh tụ già nua và đang đóng một trong những vai quyết định nhất đối với
số phận của nhân loại. Tôi bỗng nhớ câu chuyện Peter Đại đế, ông cũng tổ chức
ăn uống với thuộc hạ đến mức say không biết gì và họ đã quyết định số phận của
nước Nga, của nhân dân Nga tại những bữa tiệc tùng như thế này đấy.
Cảm giác đấy là một cuộc sống trống rỗng cứ bám lấy tôi,
nó trở đi trở lại trong suốt bữa ăn, tôi đã làm mọi cách để cố quên đi mà không
được. Vẻ già nua kèm theo những dấu hiệu của sự suy giảm trí nhớ của Stalin
càng làm cho cảm giác này nặng nề thêm. Lòng kính trọng và tình yêu đối với ông
mà tôi vẫn giữ trong lòng cũng không thể nào xua tan được cảm giác đó.
Sự suy yếu của ông chứa đựng một cái gì đó vừa quái gở vừa
bi đát.
Nhưng bi đát thì không hiển hiện, chỉ có những ý nghĩ của
tôi rằng ngay cả một con người vĩ đại như thế này rồi cũng phải hoại diệt là
nhuốm màu bi đát mà thôi. Song sự quái gở thì hiện ra trong từng giây phút một.
Trước đây, Stalin đã thích nhậu nhẹt nhưng bây giờ, ông
ta tham ăn đến nỗi như sợ hết phần. Có điều ông uống ít hơn, thận trọng hơn,
cân nhắc từng giọt, để giữ sức khỏe.
Cách tư duy của ông thay đổi còn rõ rệt hơn. Ông rất thích
nhắc lại thời trai trẻ, thời đi đày ở Sibiri, thời niên thiếu ở Caucasus, ông
thường so sánh những điều mới mẻ với một cái gì đó trong quá khứ bằng cách nói:
“Vâng, tôi nhớ, chuyện xảy ra thế này…”
Không thể tưởng tượng được là ông đã thay đổi nhiều như
thế trong vòng có hai ba năm. Lần gần đây nhất tôi gặp ông là năm 1945, khi đó
ông vẫn còn nhanh nhẹn, suy nghĩ còn độc đáo, minh mẫn, hóm hỉnh. Nhưng đấy là
thời chiến, có thể Stalin đã cống hiến tất cả sức lực của mình, đã đạt đến giới
hạn cuối cùng. Bây giờ, ông phá lên cười khi nghe những câu nói đùa vô nghĩa,
vô duyên; ông không những không hiểu ý nghĩa chính trị của câu chuyện tiếu lâm
của tôi, rằng ông đã tỏ ra khôn ngoan hơn Churchill và Roosevelt, mà theo tôi
còn tỏ vẻ tự ái, tôi còn nhận ra sự bối rối, phân vân trên mặt của những người
có mặt.
Chỉ có một thứ không thay đổi: gay gắt, mãnh liệt, đa
nghi với mọi bất đồng. Ông ngắt lời ngay cả Molotov, có cảm giác quan hệ giữa
hai người khá căng thẳng. Tất cả đều a dua, ai cũng tránh né trước khi ông nói
ý kiến của mình, rồi tất cả lại vội vàng phụ hoạ theo.
Cũng như mọi khi, câu chuyện chuyển hết đề tài này sang đề
tài khác.
Stalin bỗng nói về bom nguyên tử:
“Cái này mạnh đấy, mạnh lắm!”
Trên nét mặt ông hiện rõ vẻ thán phục, rõ ràng là ông
không thể an tâm cho đến khi nắm được “cái này”. Nhưng ông không nói liệu Liên
Xô đã nắm được chưa hay vẫn còn đang trong giai đoạn chuẩn bị.
Thế mà sau đó khoảng một tháng, Dimitrov có nói với tôi
và Kardel trong cuộc gặp ở Moskva rằng người Nga đã có bom nguyên tử, mà còn tốt
hơn quả của Mĩ thả xuống Hiroshima nữa kia. Có lẽ không hẳn như thế, tôi nghĩ
người Nga mới chế tạo được một quả bom nguyên tử mà thôi. Nhưng câu chuyện là
như vậy, tôi chỉ xin ghi lại.
Đêm đó, cũng như sau này, trong cuộc gặp với đoàn đại biểu
Bulgaria, Stalin nói rằng nước Đức sẽ bị chia cắt:
“Phương Tây sẽ xây dựng ở Tây Đức, còn chúng ta sẽ xây dựng
ở Đông Đức nhà nước của mình!”
Ý tưởng của ông là mới nhưng có thể hiểu được, nó xuất
phát từ chính sách của Liên Xô đối với Đông Âu và phương Tây. Điều khó hiểu đối
với tôi là tuyên bố của Stalin và các nhà lãnh đạo Lịên Xô với đoàn đại biểu
Bulgaria và Nam Tư vào mùa hè năm 1946 rằng toàn bộ nước Đức sẽ là của chúng
ta, nghĩa là trở thành nước Đức Xô viết, nước Đức cộng sản. Khi tôi hỏi một người
cùng có mặt hôm đó: “Người Nga sẽ làm việc đó như thế nào”, thì được trả lời:
“Tôi cũng không biết nữa!”
Tôi nghĩ rằng ngay những người tuyên bố như thế cũng
không biết họ sẽ làm thế nào, thực ra họ vẫn còn say men chiến thắng và đang hi
vọng vào sự sụp đổ về mặt kinh tế của phương Tây.
Bất ngờ vào cuối bữa ăn, Stalin bỗng hỏi tôi vì sao trong
Đảng cộng sản Nam Tư lại có ít người Do Thái và tại sao họ lại không có vai trò
gì đáng kể như vậy? Tôi cố gắng giải thích:
“Ở Nam Tư nói chung có ít người Do Thái và phần lớn họ
thuộc tầng lớp trung lưu”. Tôi nói thêm: “Người cộng sản gốc Do Thái nổi tiếng
nhất là Piade, nhưng ông coi mình là người Serbi hơn là người Do Thái”.
Stalin bắt đầu nhớ lại:
“Piade, người tầm thước,
đeo kính phải không? Vâng, tôi nhớ, tôi đã gặp anh ta rồi. Nhiệm vụ của anh ta
là gì?”
“Anh ta là ủy viên trung
ương, vào đảng lâu rồi, đã dịch Tư bản luận’’’, tôi giải thích.
“Trong Ban chấp hành
trung ương của chúng tôi không có Do Thái!”, ông ta cắt ngang rồi phá lên cười
một cách đầy khiêu khích: “Đồng chí là người bài Do Thái! Vâng, đồng chí Djilas
là người bài Do Thái!”
Tôi hiểu câu nói và tiếng
cười của Stalin một cách hoàn toàn ngược lại, điều đó chỉ chứng tỏ ông ta là
người bài Do Thái và để tôi nói lên quan điểm của mình về người Do Thái, đặc biệt
là Do Thái trong phong trào cộng sản. Tôi không nói gì và cũng phá lên cười, việc
đó với tôi không khó vì tôi không bao giờ bài Do Thái, còn đối với tôi, cộng sản
chỉ có hai loại, tốt và xấu. Nhưng rồi chính Stalin đã bỏ qua đề tài hóc búa đó
sau khi cảm thấy hài lòng với lời khiêu khích đạo đức giả của mình. Bên trái
tôi là Molotov, ít nói, còn bên phải là Zhdanov, thao thao bất tuyệt suốt bữa
ăn. Ông ta kể về những cuộc tiếp xúc với người Phần Lan và tỏ ra hài lòng về sự
chính xác của họ trong việc bồi thường chiến phí.
“Tất cả đều chính xác và
đúng hẹn, bao bì tuyệt đẹp, chất lượng tốt.”
Rồi ông ta kết luận:
“Chúng ta đã sai lầm vì
không chiếm luôn nước đó, nếu chúng ta làm thế thì mọi việc đã xong rồi.”
Stalin:
“Đúng, đấy là một sai lầm,
chúng ta cứ lo bọn Mĩ, nhưng một ngón tay họ cũng không động đâu.”
Molotov:
“Ôi, Phần Lan, khó nhằn
lắm!”
Lúc đó, Zhdanov đang chuẩn
bị hội nghị với các nhạc sĩ và nghị định về âm nhạc. Ông thích nhạc kịch nên
nhân tiện hỏi tôi:
“Ở Nam Tư có nhà hát nhạc
kịch không?”
Ngạc nhiên vì câu hỏi,
tôi trả lời:
“Ở Nam Tư có chín nhà
hát biểu diễn nhạc kịch!”, và nghĩ: họ biết về Nam Tư quá ít. Rõ ràng là họ chỉ
quan tâm đến nó như một địa danh.
Chỉ có một mình Zhdanov
uống nước cam. Ông ta bảo là bị bệnh tim. Tôi hỏi:
“Bệnh này có thể có những
hậu quả gì?”
Ông ta mỉm cười rồi trả
lời một cách khôi hài:
“Tôi có thể chết bất đắc
kì tử mà cũng có thể còn sống rất lâu.”
Rõ ràng là ông ta dễ bị
kích động, hệ thần kinh của ông ta rất nhạy cảm.
Một kế hoạch mới vừa được
thông qua, Stalin nhấn mạnh, tuy không nói với một người cụ thể nào, rằng phải
tăng lương cho tầng lớp giáo viên. Sau đó, ông quay sang phía tôi và bảo:
“Các giáo viên của chúng
tôi đều rất giỏi, nhưng lương lại thấp quá, cần phải có biện pháp chứ.”
Tất cả mọi người đều tán
thành và tôi cay đắng nhớ lại rằng lương của giáo chức ở Nam Tư cũng thấp, điều
kiện sống lại chẳng ra gì, nhưng tôi không làm sao giúp đỡ được.
Voznesenski không nói
câu nào, ông ta giữ thái độ như một người em út ngồi giữa các đại ca. Chỉ có một
lần Stalin hỏi trực tiếp ông ta:
“Có thể phân bổ ngoài kế
hoạch kinh phí để xây dựng kênh đào Volga Đông được không? Vấn đề này quan trọng
lắm! Chúng ta phải tìm kinh phí! Đây là vấn đề cực kì quan trọng; trong trường
hợp xảy ra chiến tranh, chúng ta có thể bị đẩy khỏi biển Đen, hải quân của
chúng ta hiện nay yếu, mà sẽ còn yếu trong một thời gian dài nữa. Tàu bè của
chúng ta sẽ ra sao? Hãy nghĩ xem, nếu trong chiến dịch Stalingrad, chúng ta điều
được hạm đội biển Đen đến sông Volga thì tốt biết mấy! Kênh đào này có vị trí
quan trọng bậc nhất đấy, quan trọng bậc nhất đấy.”
Voznesenski đồng ý phải
tìm kinh phí rồi lấy giấy bút ra ghi.
Từ lâu, tôi đã suy nghĩ
hai vấn đề có tính cách riêng tư, tôi muốn tham khảo ý kiến Stalin.
Vấn đề thứ nhất thuộc
lĩnh vực lí luận: trong sách báo mác-xít cũng như sách báo khác, tôi không tìm
thấy sự khác nhau giữa hai từ “nhân dân” và “dân tộc”. Stalin từ lâu đã được
coi là chuyên gia về vấn đề dân tộc, tôi đem ra hỏi và nói thêm rằng ông không
giải thích chuyện đó trong bài báo viết về vấn đề dân tộc. Bài báo này được
đăng từ hồi trước chiến tranh thế giới thứ nhất và từ đó đến nay, vẫn được coi
là thể hiện được quan điểm bolshevik về vấn đề dân tộc [1] .
Molotov lập tức chen
ngang:
“Nhân dân và dân tộc
cũng là một thôi.”
“Nhảm nhí! Đây là hai
khái niệm khác nhau!”, Stalin bắt đầu giải thích: “Dân tộc là sản phẩm của chủ
nghĩa tư bản với những đặc tính nhất định, còn nhân dân là những người lao động
của một dân tộc nhất định, nghĩa là những người lao động với một ngôn ngữ, văn
hoá và những thói quen chung.”
Còn về cuốn sách Chủ nghĩa Mác và vấn đề dân tộc của mình
thì ông nhận xét như sau:
“Đấy là quan điểm của
Ilich, chính Ilich đã hiệu đính đấy.”
Câu hỏi thứ hai liên
quan đến Dostoievski. Ngay từ khi còn rất trẻ tôi đã coi Dostoievski là nhà văn
lớn nhất trong thời đại chúng ta và không thể hiểu vì sao những người mác-xít lại
công kích ông. Stalin trả lời một cách đơn giản:
“Một nhà văn vĩ đại và một
tên phản động vĩ đại. Chúng tôi không in vì ông ta gây ảnh hưởng xấu cho giới
trẻ. Nhưng ông là một nhà văn vĩ đại!”
Chúng tôi chuyển sang thảo
luận vể Gorki. Tôi nói rằng Cuộc đời của
Klim Samgin là cuốn sách có giá trị nhất cả về phương pháp sáng tác cũng
như chiều sâu của cuộc cách mạng Nga. Nhưng Stalin không đồng ý, ông bỏ qua
phương pháp sáng tác:
“Không, những tác phẩm
hay nhất là những tác phẩm được viết trước đó: Thành phố Okurov, các truyện ngắn, Foma Gordeyev. Còn về hình tượng cách mạng trong Klim Samgin thì ở
đấy rất ít cách mạng, chỉ có một đảng viên bolshevik, tên là gì ấy nhỉ:
Liutikov hay Liutov?”
Tôi nhắc:
“Kutuzov, Liutov là nhân
vật khác.”
Stalin tiếp tục:
“Ờ, Kutuzov! Trong tác phẩm này, cách mạng được mô tả đơn
điệu và không đầy đủ, còn từ quan điểm văn học thì các tác phẩm trước đó có giá
trị hơn”.
Rõ ràng là tôi và Stalin không hiểu được nhau, chúng tôi
không có cùng quan điểm thẩm mĩ, mặc dù trước đây, tôi đã từng được nghe quan
điểm của các nhà văn lớn, họ cũng coi các tác phẩm mà Stalin vừa nói là những
tác phẩm tuyệt vời nhất của Gorki.
Nói về văn học Xô viết đương đại, tôi cũng như hầu hết
người nước ngoài đều nhắc đến Sholokhov.
Nhưng Stalin bảo:
“Bây giờ có những người khá hơn”, rồi ông nói tên hai người,
có một phụ nữ, mà tôi chưa nghe bao giờ.
Tôi không tham gia thảo luận tác phẩm Đội cận vệ thanh niên của Phadeev, lúc
đó người ta đã phê bình tác phẩm này vì các nhân vật thiếu tính đảng. Nhận xét
của tôi hoàn toàn ngược lại: công thức, thiếu chiếu sâu, nhạt nhẽo. Lịch sử triết
học của Aleksandrov cũng thế.
Zhdanov kể lại nhận xét của Stalin về thơ tình của K.
Simonov: “Chỉ cần in hai tập: một tập cho cô ta và một tập cho anh ta!”, vừa
nói xong, Stalin đã khục khục cười làm tất cả mọi người cùng phá lên cười theo.
Dĩ nhiên là bữa đó Beria cũng nói những chuyện tục tĩu
như thường lệ. Đấy là lúc họ bắt tôi uống rượu ngâm ớt. Beria vừa cười nhăn nhở
vừa nói rằng loại rượu này có hại cho tuyến sinh dục bằng những từ thô tục nhất.
Trong khi đó, Stalin nhìn chằm chằm vào tôi, sẵn sàng nổ ra một tràng cười. Khi
thấy tôi nhăn nhó thì ông cũng tỏ ra nghiêm túc theo.
Ngay khi chưa có chuyện này, tôi đã bị ám ảnh bởi ý nghĩ
về sự giống nhau đến kinh ngạc giữa Beria và tay cảnh sát Hoàng gia ở Belgrad
tên là Vukovic, bây giờ thì cảm giác đó mạnh đến nỗi tôi cảm thấy như mình đang
bị những bàn tay dày và ẩm của Vukovic - Beria bóp chặt lấy vậy.
Nhưng điều cảm thấy rõ ràng nhất chính là không khí bao
trùm bữa ăn kéo dài suốt sáu giờ đồng hồ này, nó không phụ thuộc vào những câu
chuyện được nói, thậm chí còn trái ngược với những điều được nói ra ở đây. Đằng
sau tất cả những câu chuyện ấy là một cái gì đó quan trọng hơn, một cái cần phải
nói ra nhưng không ai biết bắt đầu như thế nào hoặc không ai dám nói ra chuyện
đó. Sự gượng gạo của câu chuyện và đề tài càng làm cho cái điều được che giấu
kia trở thành như nghe được, như sờ mó được vậy. Trong thâm tâm, tôi đã nhận thức
được nội dung của nó: đấy là việc chỉ trích Tito và Ban chấp hành trung ương
Nam Tư đồng nghĩa với việc lôi kéo tôi đứng về phía chính phủ Liên Xô. Tích cực
nhất là Zhdanov, không phải là những đề nghị cụ thể mà bằng một thái độ cởi mở
và thân mật đặc biệt trong khi nói chuyện với tôi. Còn Beria thì quan sát tôi bằng
đôi mắt lim dim, xanh như mắt ếch, vẻ tự mãn luôn hiện diện trên môi. Nhưng
trên tất cả là Stalin, lúc nào cũng chăm chú, khoan thai và lạnh lùng.
Khoảng lặng giữa các câu chuyện ngày càng dài hơn, sự
căng thẳng trong tôi cũng như xung quanh tôi cũng ngày một tăng thêm. Tôi nhanh
chóng xác định được chiến thuật phòng thủ, có thể chiến thuật này đã được chuẩn
bị một cách vô thức trong tôi từ trước rồi, bằng cách nói rằng tôi không nhìn
thấy sự bất đồng giữa lãnh đạo Nam Tư và Liên Xô, rằng mục đích của họ là một
và những điều tương tự như thế. Sự kháng cự cứ lớn dần trong tôi một cách ngấm
ngầm, bướng bỉnh, mặc dù trước đây tôi cũng không cảm thấy một sự dao động nào.
Tôi hiểu rằng mình có thể chuyển từ phòng ngự sang phản công nếu Stalin và những
người khác buộc tôi đứng trước một tình thế lưỡng nan, nghĩa là sự lựa chọn giữa
họ và lương tâm, trong trường hợp này là giữa họ và đảng tôi, giữa Liên Xô và
Nam Tư. Với mục đích chuẩn bị sẵn thái độ của mình, tôi, làm như vô tình, đã nhắc
đến Tito và Ban chấp hành trung ương một cách khéo léo sao cho những người kia
không thể bắt đầu câu chuyện của họ được.
Họ không đạt được mục đích dù Stalin đã cố gắng gợi lại
những mối quan hệ thân tình, mang tính cá nhân. Sau khi nhắc lại lời mời năm
1946 thông qua Tito, ông hỏi:
“Tại sao đồng chí không đến Krym? Tại sao đồng chí lại từ
chối lời mời của tôi?”
Tôi đã chờ đợi câu hỏi này nhưng vẫn cảm thấy hơi ngạc
nhiên là Stalin chưa quên. Tôi giải thích:
“Tôi chờ đợi lời mời thông qua sứ quán Liên Xô, tôi thấy
tự mình đòi hỏi, làm phiền thì không hay.”
“Không, vớ vẩn, làm gì có chuyện làm phiền ở đây. Đồng
chí không thích tới thì có!”, vừa nói, Stalin vừa nhìn tôi với ánh mắt dò xét.
Nhưng tôi đã thu mình lại, tỏ ra lạnh lùng và ít nói hẳn.
Không có gì xảy ra cả. Stalin và nhóm người đầy mưu mô,
tính toán một cách lạnh lùng – tôi cảm thấy họ là những người như thế - chắc chắn
đã nhận thấy sự phản kháng của tôi. Chính tôi cũng muốn như thế. Tôi cố tình
tránh, còn họ thì cũng không dám khiêu khích làm cho tôi phải phản đối ra mặt.
Tất nhiên, họ nghĩ rằng không cần vội vã và vì vậy chưa làm gì sai. Nhưng tôi
đã nhận ra trò bỉ ổi này và nhận thấy sức mạnh tiềm ẩn trong con người mình, một
sức mạnh tôi chưa hề biết tới nhưng đủ sức giúp tôi chối bỏ ngay cả cái điều
cho đến lúc đó vốn là lí tưởng sống của tôi.
Kết thúc bữa ăn, Stalin nâng cốc:
“Xin nâng cốc tưởng nhớ Vladimir Ilich, lãnh tụ và người
thầy của tất cả chúng ta!”
Tất cả chúng tôi đều đứng dậy và yên lặng uống cạn li, tất
cả đều đã ngà ngà say, chẳng ai nhớ gì, riêng Stalin có vẻ cảm động, nét mặt vừa
trịnh trọng vừa đượm vẻ u buồn.
Chúng tôi đứng lên, nhưng trước khi chia tay, Stalin lại
mở một cái máy hát to đùng. Ông cố nhảy vài vòng, có thể thấy là ông biết nhịp
điệu, nhưng chỉ một lúc, đã thấy ông ngưng lại và nói một cách chán chường:
“Chúng ta đang già đi, tôi đã là một ông lão mất rồi!”
Nhưng các trợ thủ, nếu không muốn nói là các quí tộc,
thuyết phục ông:
“Đâu có, thưa đồng chí! Đồng chí trông còn săn chắc lắm,
dáng còn nhanh nhẹn lắm, ở tuổi của đồng chí…”
Sau đó, Stalin đưa vào một đĩa khác, lần này bên cạnh tiếng
ngân nga của một giọng nữ cao là tiếng chó tru, sủa inh ỏi. Ông phá lên cười một
cách khoái trá, sau khi nhận thấy vẻ ngạc nhiên và khó chịu trên mặt tôi, ông
giải thích như có ý xin lỗi:
“Không, dù sao thì cũng có sáng tạo đấy chứ, sáng tạo
quá!”
Những người khác còn ở lại sau khi tôi đã lên xe, nhưng tất
cả đều đã chuẩn bị lên đường, thực ra cũng chẳng còn gì để nói nữa. Tất cả mọi
chuyện đều được nói hết trong bữa ăn rồi, tất cả, chỉ trừ cái chuyện vốn là mục
đích của bữa ăn tối vừa qua.
6.
Chưa đầy hai ngày sau, chúng tôi đã được gọi đến Bộ Tổng
tham mưu để trình bày nguyện vọng của mình.
Ngay từ lúc ngồi trên tàu, tôi đã nói với Koca Popovic và
M. Todorovich rằng ước mong của họ có vẻ xa vời và không thực tế. Tôi hoàn toàn
không tưởng tượng được rằng người Nga có thể đồng ý khôi phục nền công nghiệp
quốc phòng trong khi họ không thực sự muốn giúp khôi phục nền công nghiệp dân sự
của chúng ta. Việc họ cho chúng ta hạm đội hải quân trong khi chính họ cũng
không có còn khó tưởng tượng hơn. Lập luận rằng hạm đội của Liên Xô hay của Nam
Tư ở biển Adriatic không phải là quan trọng vì hai nước đều là thành viên của
thế giới cộng sản thống nhất, theo tôi, là không có sức thuyết phục vì trong khối
này đã có rạn nứt, chưa nói đến tính đa nghi của Liên Xô, họ không tin bất cứ
cái gì nằm ngoài tầm với của họ, chưa nói đến việc họ công khai bảo vệ trước hết
quyền lợi của đất nước mình. Nhưng những nguyện vọng này đã được thảo luận kĩ
và thông qua ở Belgrad rồi, tôi phải có trách nhiệm ủng hộ.
Bulganin điều khiển cuộc họp, xung quanh là các chuyên
viên quân sự cấp cao, trong đó có cả nguyên soái Vasilevski, Tổng tham mưu trưởng.
Đầu tiên tôi trình bày những nét chính về nhu cầu của
chúng tôi, rồi để Todorovich và Popovich đi vào giải thích chi tiết.
Các đại diện Liên Xô không phát biểu gì, họ hỏi kĩ và ghi
chép tất.
Chúng tôi rời Bộ Tổng tham mưu, một ngôi nhà kiểu cách, rẻ
tiền, được che đậy bằng những đồ nội thất xa hoa, những chiếc rèm loè loẹt và vật
dụng mạ vàng, với tâm trạng hài lòng và tin rằng vấn đề đã được khởi động, công
việc cụ thể sẽ thực sự bắt đầu trong một thời gian tới.
Đúng như thế, chẳng bao lâu sau, Todorovich và Popovic được
mời tham gia mấy cuộc họp. Nhưng rồi mọi sự bỗng giẫm chân tại chỗ và các đại
diện Liên Xô nói bóng gió với chúng tôi rằng “có một số phức tạp”, cần phải chờ.
Chúng tôi hiểu là đã có chuyện giữa Moskva và Belgrad,
chuyện gì thì chúng tôi không biết, nhưng không thể nói rằng chúng tôi đã bị bất
ngờ. Dù thế nào thì việc kéo dài các cuộc thương lượng cũng chỉ làm cho chúng
tôi càng thêm bất mãn đối với hiện thực của xã hội Liên Xô và quan điểm của
Moskva đối với Belgrad mà thôi. Hơn nữa, chúng tôi coi như bị thất nghiệp và phải
giết thời gian trong các bữa liên hoan và các nhà hát ở Moskva, tuy cũ nhưng phải
nói khó có nơi nào vượt qua được.
Không một công dân Liên Xô nào dám đến thăm chúng tôi vì
mặc dù chúng tôi đến từ một nước xã hội chủ nghĩa nhưng là người nước ngoài,
công dân Liên Xô không dám tiếp xúc với những người như thế. Tất cả các tiếp
xúc của chúng tôi đều qua con đường công vụ: Bộ Ngoại giao và Ban chấp hành
trung ương. Chúng tôi cảm thấy khó chịu và bị xúc phạm, ở Nam Tư không có những
hạn chế kiểu đó, đối với các công dân và cán bộ Liên Xô thì lại càng không.
Chuyện này càng làm chúng tôi bất mãn thêm.
Sự bất mãn của chúng tôi chưa có tính chất khái quát,
nhưng có rất nhiều thí dụ thực tế. Vukmanovich-Tempo nói công khai về những thiếu
sót trong các nhà tập thể dành cho bộ đội. Để cho đỡ buồn, tôi và Koca Popovic
xin chuyển sang một phòng chung trong khách sạn Moskva nhưng người ta nói phải
đợi “thợ điện” sửa, chúng tôi hiểu là anh ta đang lắp máy nghe trộm. Mặc dù
Moskva là khách sạn mới và là khách sạn lớn nhất nhưng không có một cái gì ở
đây hoạt động đúng chức năng cả: phòng thì lạnh, vòi nước thì chảy suốt ngày, bồn
tắm mặc dù được nhập từ Đông Đức nhưng không dùng được vì nước thải chảy ngay
xuống nền nhà. Phòng tắm không có chìa khoá, Koca Popovic khẳng định rằng người
kiến trúc sư đã biết là thế nào chìa khoá cũng bị mất và đã để bồn rửa mặt cạnh
cửa ra vào để có thể dùng chân chặn lại. Tôi thường nhớ lại thời ở khách sạn
Metropol vào năm 1944, đấy là một khách sạn cũ nhưng mọi thứ đều hoạt động rất
tốt, các nhân viên phục vụ có tuổi đều nói tiếng Anh hay tiếng Pháp, rất ý tứ,
lịch sự.
Một hôm, tôi nghe có tiếng thở mạnh trong nhà tắm. Hoá ra
có hai công nhân, một người đứng dưới công kênh người kia để anh ta sửa ống nước
phía trên trần.
“Các anh làm gì thế”, tôi hỏi, “sao không mang thang đến?”
Hai người công nhân phàn nàn:
“Nói bao nhiêu lần rồi, có ăn thua gì đâu; cứ hễ có hỏng
hóc là chúng tôi lại khổ thế này đấy.”
Đi dạo vài vòng xung quanh, chúng tôi thấy “người đẹp
Moskva” đa phần vẫn là vùng nông thôn lạc hậu, hoang vu và được xây dựng chưa
đâu vào đâu. Anh lái xe tên là Panov, tôi có quan hệ rất thân mật với anh ta và
đã gửi từ Nam Tư cho anh một chiếc đồng hồ đeo tay, không thể nào tin rằng New
York và Paris có nhiều ô tô hơn Moskva, mặc dù anh không che giấu thái độ bất
mãn với chất lượng ô tô do Liên Xô sản xuất.
Chúng tôi được dẫn đi xem quan tài của các Sa hoàng trong
Điện Kremli, cô hướng dẫn viên du lịch đầy tinh thần ái quốc đã nói “các Sa
hoàng của chúng ta”. Ưu thế của người Nga được đem ra trưng bày một cách lộ liễu,
đầy vẻ khôi hài một cách bệnh hoạn.
Như vậy là khắp mọi nơi, trên từng bước chân đều hiện rõ
những khía cạnh chưa được biết tới ở đất nước Liên Xô: lạc hậu, cục mịch,
sô-vanh nước lớn, và dĩ nhiên là những cố gắng đầy tinh thần anh dũng nhằm khắc
phục các nhược điểm đó cũng như khuất phục dòng chảy bình thường của cuộc sống.
Biết rằng trong những hộp sọ rắn chắc của các nhà lãnh đạo
và các tổ chức chính trị Liên Xô, mọi lời nhận xét có tính phê phán đều bị coi
là quan điểm bài Xô cho nên chúng tôi, tuy không hẹn trước, đều co cụm lại với
nhau. Vì chúng tôi đến đây với một sứ mệnh chính trị nên chúng tôi bắt đầu chỉ
cho nhau thấy những cử chỉ “vụng về” hoặc những lời nói thiếu thận trọng. Sự
cách li bắt đầu mang tính tổ chức. Tôi nhớ vì sợ có thiết bị nghe trộm, chúng
tôi đã bắt đầu thận trọng trong việc nói năng trong khách sạn, trong phòng làm
việc và khi nói chuyện thì mở radio thật to.
Các đại diện Liên Xô chắc chắn đã nhận thấy chuyện đó. Sự
căng thẳng và nghi kị ngày một gia tăng.
Thi hài Lenin được đưa trở về trong thời gian này, thời
chiến người ta đem ông đi giấu ở đâu đó. Chúng tôi đến viếng ông vào buổi sáng.
Việc viếng cũng không có gì đặc biệt nếu nó không tạo ra trong tôi và những người
khác một sự phản kháng mà đến lúc đó chúng tôi chưa hề biết tới.
Trong khi bước chậm rãi vào lăng, tôi nhận thấy những bà
nông dân choàng khăn làm dấu thánh giá, như thể họ đang đến gần tượng Chúa vậy.
Mà chính tôi cũng có cảm giác bí hiểm, một cảm giác đã quên từ thuở thiếu thời.
Hơn thế nữa, tất cả đều được sắp đặt để tạo ra trong người ta cảm giác như thế:
các khối đá cẩm thạch, hàng vệ binh im lặng, nguồn ánh sáng bí ẩn bên trên và
thi hài Lenin, đã khô và trắng như vôi với vài sợi tóc như được cấy vào đầu. Dù
rất kính trọng thiên tài của Lenin, tôi vẫn thấy một cái gì đó phi tự nhiên và
cái chính là những cuộc tụ tập bí hiểm xung quanh thi hài ông là trái với chủ
nghĩa duy vật, chủ nghĩa Lenin.
Ngay cả dù rất bận, chúng tôi vẫn muốn đi thăm Leningrad,
hiện thân của cái đẹp và cách mạng. Tôi đã ghé thăm Zhdanov nhờ ông giúp đỡ,
ông vui vẻ nhận lời. Cuộc nói chuyện chỉ kéo dài chưa đến mười phút. Nhưng ông
cũng không quên hỏi tôi nghĩ thế nào về tuyên bố của Dimitrov trên tờ Sự thật
(ngày 21 tháng 1 năm 1948) khi ông ở Bucarest, trong chuyến đi, ông đã tuyên bố
ủng hộ việc phối hợp kế hoạch và thành lập hải quan chung giữa giữa Bulgaria và
Rumania. Tôi bảo rằng tôi không thích tuyên bố đó: quan hệ của Bulgaria -
Rumania sẽ trở thành biệt lập và quá sớm. Zhdanov cũng không hài lòng dù không
nói lí do, nhưng rồi chẳng bao lâu người ta cũng biết vì sao, tôi sẽ nói cụ thể
hơn trong những đoạn sau.
Khoảng thời gian này, đại diện của Bộ Ngoại thương Nam Tư
là Bogdan Srnobrnhia cũng có mặt ở Moskva; vì không thể giải quyết một số vấn đề
quan trọng với các cơ quan Liên Xô nên ông ta nài nỉ tôi cùng đi gặp Mikoian, Bộ
trưởng Ngoại thương.
Mikoian tiếp chúng tôi một cách lạnh lùng, không giấu vẻ
sốt ruột. Một trong những vấn đề cần thảo luận là chúng tôi muốn người Nga trả
lại những toa tầu hoả mà họ đã lấy từ các vùng chiếm đóng cũ, đằng nào họ cũng
không sử dụng được vì đường ray của chúng tôi rộng hơn.
“Thế các đồng chí nghĩ thế nào, điều kiện hoàn trả ra
sao, giá bao nhiêu?”, Mikoian hỏi.
Tôi đáp:
“Các đồng chí tặng cho chúng tôi.”
Ông ta trả lời ngắn gọn:
“Tôi không quan tâm đến tặng phẩm, tôi quan tâm đến vấn đề
thương mại.”
Tôi và Srnobrnhia nói đến khan họng về việc sửa lại hợp đồng
mua phim của Liên Xô, vừa thiếu bình đẳng vừa bất lợi cho Nam Tư, cũng vô ích.
Lấy cớ các nước Đông Âu khác sẽ coi đây là tiền lệ, Mikoian từ chối xem xét vấn
đề ngay từ đầu.
Nhưng vừa bàn đến mỏ đồng của Nam Tư là lời lẽ của ông ta
thay đổi ngay, ông ta đề nghị trả cho chúng tôi bằng bất cứ ngoại tệ hay hàng
hoá nào, mà trả trước, số lượng không hạn chế.
Thế là chúng tôi chẳng thu được gì, chỉ kéo dài những cuộc
đàm phán vô ích và vô bổ. Sự việc đã rõ: các bánh xe hướng về nước Nam Tư của cỗ
máy Liên Xô đã bị người ta phanh lại rồi.
Chuyến đi Leningrad có làm cho tâm hồn thanh thản hơn.
Trước khi thăm Leningrad, tôi tin rằng sự hi sinh và chủ
nghĩa anh hùng của các tỉnh khởi nghĩa và các chiến sĩ du kích Nam Tư là cao cả
nhất, không ai có thể vượt qua được. Nhưng Leningrad đã vượt Nam Tư, có thể
không chỉ về mặt anh hùng mà còn về tinh thần hi sinh của cả một tập thể nữa.
Trong một thành phố có một triệu dân, bị cắt rời khỏi hậu phương, không có
lương thực và nhiên liệu, lại thường xuyên bị máy bay và pháo binh bắn phá, chỉ
trong mùa đông 1941-1942 đã có 300 ngàn người chết vì đói và rét, người ta ăn cả
thịt người, nhưng ý nghĩ đầu hàng chưa bao giờ hiện diện. Bức tranh chung là
như thế.
Nhưng chỉ khi chúng tôi va chạm với thực tế, với những
trường hợp hi sinh và anh hùng, với những con người bằng da bằng thịt cụ thể,
những người đã thực hiện hoặc chứng kiến những hành động anh dũng đó, chúng tôi
mới cảm thấy hết sự vĩ đại của bản anh hùng ca Leningrad, mới thấy hết khả năng
vô cùng tận của con người, của nhân dân Nga khi nền tảng tinh thần, nền tảng
nhà nước của họ bị tấn công.
Cuộc gặp gỡ với những người lãnh đạo Leningrad càng làm
cho lòng cảm phục của chúng tôi thêm ấm áp tình người. Đa số họ là những người
lao động động bình thường và có học vấn, họ không chỉ gánh trên vai mà mang cả
trong tim sự vĩ đại bi hùng của thành phố. Nhưng cuộc sống của họ khá đơn điệu
và họ rất mừng khi được gặp những người từ những vùng đất khác, những nền văn hoá
khác. Chúng tôi, những người có số phận tương đối giống nhau, đã tìm được tiếng
nói chung một cách nhanh chóng và dễ dàng. Và mặc dù không nghĩ đến chuyện phê
phán lãnh đạo Liên Xô trước mặt họ, chúng tôi cũng nhận ra rằng những người này
có quan niệm về thành phố và đời sống của các công dân ở đây một cách tự nhiên
và có tình hơn là những người ở Moskva.
Tôi nghĩ rằng sẽ dễ dàng tìm được tiếng nói chung về
chính trị với họ hơn vì đã tìm được lòng cảm thông ấm áp tình người nơi họ.
Thực lòng, hai năm sau đó, tôi hoàn toàn không ngạc nhiên
khi biết rằng họ đã không thoát khỏi chiếc cối xay thịt người của chế độ toàn
trị, đơn giản vì họ đã dám là những con người thực sự.
Trong chuyến đi Leningrad buồn vui lẫn lộn này, dù sao
cũng còn một vết đen, đấy là người đồng hành của chúng tôi tên là Lesakov. Lúc
đó, ở Liên Xô, có thể bắt gặp những viên chức xuất thân từ công nhân và tầng lớp
cùng khổ. Nhìn vào trình độ học vấn và cách cư xử, ta có thể nghĩ rằng Lesakov
xuất thân từ công nhân. Điều đó cũng không có gì là xấu nếu như anh ta không cố
tình che giấu và không đòi hỏi một cách lộ liễu những cái vượt quá tầm của anh
ta. Sự thật là anh ta đã leo lên không phải bằng sức lực và trí tuệ của mình mà
do người ta kéo lên, người ta đưa vào bộ máy của Ban chấp hành trung ương và
giao cho phụ trách các vấn đề về Nam Tư. Anh ta đóng một lúc hai vai, vừa là
cán bộ đảng vừa là nhân viên tình báo; khi đóng vai cán bộ đảng anh ta lại tiến
hành thu thập thông tin về Đảng cộng sản Nam Tư và những người lãnh đạo của nó,
nhưng cách làm phải nói là khá vụng.
Người tầm thước, mặt chữ điền với những chiếc răng nhọn
màu vàng xỉn, chiếc cà vạt vắt chéo một bên, áo sơ mi tuột ra ngoài quần, lúc
nào cũng sợ bị cho là thiếu văn hoá, nếu là một người lao động bình thường, nều
không giữ chức vụ quan trọng đến thế, nếu không gọi chúng tôi, chủ yếu là tôi đến
thảo luận những chuyện chán phèo thì Lesakov có thể được coi là đáng yêu. Anh
ta khoe rằng “đồng chí Zhdanov đã đuổi hết bọn Do Thái khỏi Ban chấp hành trung
ương!”, nhưng đồng thời cũng lại ca ngợi Bộ chính trị Hungaria, lúc đó gồm toàn
người Do Thái nhập cư. Tôi nghĩ rằng theo quan điểm của ban lãnh đạo Liên Xô,
dù họ có che giấu thái độ bài Do Thái, thì người Do Thái nắm quyền ở Hungaria lại
càng tốt, nhất là khi những người này không có nguồn gốc Hung, họ càng phụ thuộc
vào Liên Xô hơn.
Tôi đã được nghe và nhận thấy rằng ở Liên Xô, khi người
ta muốn loại một người mà không có lí do rõ ràng thì họ thường cho các nhân
viên mật vụ rỉ tai tuyên truyền một chuyện đê mạt nào đó. Lesakov “bí mật” kể
cho tôi nghe rằng nguyên soái Zhukov bị hạ bệ vì đã ăn cắp nhiều tài sản có giá
trị ở Berlin. “Đồng chí Stalin không chịu nổi những kẻ vô đạo đức!”, anh ta bảo
thế. Còn tướng Antonov, Tổng tham mưu trưởng “thì hoá ra có nguồn gốc Do
Thái!”.
Rõ ràng là tuy có hạn chế về trí tuệ, Lesakov biết rất rõ
quan hệ trong Ban chấp hành trung ương Nam Tư và phương pháp làm việc của nó.
“Không có một đảng ở Đông Âu nào”, anh ta nói, “lại có tứ nhân bang hoạt động hữu
hiệu như ở Nam Tư”.
Anh ta không nói tên tứ nhân bang, nhưng tôi biết đấy là
Tito, Kardelj, Rankovic và tôi. Tôi chợt nghĩ: đối với những người lãnh đạo
Liên Xô, tứ nhân bang này cũng là một trong những “củ lạc” chăng?
[1]Bài báo của I. V. Stalin “Chủ nghĩa Mác và vấn đề dân
tộc” được đăng trên tạp chí Giáo dục vào năm 1913 (chú thích của biên tập viên
bản tiếng Nga)
Đã đăng trên http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=7527&rb=0306
No comments:
Post a Comment