Nguyễn
Đình Hách dịch
(tiếp theo và hết)
Và lòng sùng kính thậm chí còn tinh tế hơn tình yêu. Chính sự
tồn tại của vị guru là sự giao tiếp. Những điều nà vị đó liên tục gửi đi là
những thông điệp, chúng phải được nắm bắt, được biết, được giải mã và được hiểu
bởi ý thức sùng kính. Những cử chỉ đó, những điệu bộ sống động đó là một loại
ngôn ngữ.
Khi mối
quan hệ trở nên chín chắn thì sự giao tiếp còn sâu sắc hơn. Khi môn đệ đã nở
hoa thành tính môn đệ, và anh ta hoàn toàn hiểu ý nghĩa những lời nói và cử chỉ
của vị guru thì anh ta trở nên trưởng thành. Thế rồi không có những cử chỉ,
không có những biểu hiện ngôn mà vẫn có thể có sự giao tiếp thầm lặng. Sự giao
tiếp ngoại cảm này là bí mật của mối
quan hệ. Đó là chìa khóa bí mật nhất của mối giao cảm giữa vị guru và người môn
đệ. Chỉ khi điều này trở thành điều có thể thì người môn đệ mới được chấp nhận.
Thế rồi không có vấn đề về thời gian và không gian. Thế rồi dù người môn đệ ở
bất kỳ đâu thì nhiều điều cũng có thể được giao tiếp với anh ta.
Tất cả
những điều đó phải được chờ đợi trong kiên nhẫn. Đó là sự chờ đợi sâu sắc. Về
việc thụ giáo tâm linh thì bạn không bao giờ phải vội vã, bởi vì tâm trí vội vã
không thể đi quá sâu, nó không thể tĩnh lặng như vậy được. Người môn đệ không
nên vội vã biết, anh ta nên chờ đợi thời điểm thích hợp - tin tưởng, chờ đợi và
chuẩn bị chính mình.
Ở phương
Tây họ không bao giờ hiểu tại sao người môn đệ nên phục vụ vị guru. “Tại sao
anh ta lại là người phục vụ?” Họ không biết rằng phục vụ là một cách để giao
cảm. Khi người môn đệ phục vụ vị guru, khi anh ta chờ đợi và phục vụ thì sự
phân chia bị bỏ rơi - anh ta trở thành một với vị guru. Bây giờ cơ thể của vị
guru và cơ thể của anh ta không phải là hai. Anh ta cảm nhận cái đau của vị
guru, cảm nhận bệnh tật của vị guru. Anh ta cũng cảm nhận niềm vui, sự nhập
định của vị guru. Dần dần anh ta trở nên hoàn toàn thu hút tới vị guru. Thông
qua sự thu hút tới cơ thể của vị guru mà anh ta trở thành một với vị đó. Về mặt
tâm linh, bạn không thể trở thành một nếu bạn không thể trở nên thân mật và là
một với cơ thể; cơ thể là nền tảng.
Người môn
đệ liên tục phục vụ vị guru và không bao giờ hỏi bất kỳ câu hỏi nào. Đây là
điều kỳ diệu! Anh ta sẽ không nói, “Dạy cho tôi điều này hoặc điều kia”, bởi vì
thậm chí nói điều này cũng là không tin tưởng vào vị guru. Khi có thời điểm
thích hợp anh ta sẽ được nói cho biết; khi thời điểm thích hợp anh ta sẽ được
dạy. Nếu thời điểm chưa thích hợp thì anh ta sẽ phải chờ. Đôi khi anh ta sẽ
phải chờ đợi trong nhiều năm - thậm chí là ở thời nay. Hai mươi năm có thể trôi
qua và anh ta sẽ vẫn chờ. Có thể anh ta ra đi lúc còn thanh xuân và bây giờ đã
về già - nhưng vẫn chờ! Chính sự chờ đợi này, sự kiên nhẫn này lại tạo ra hoàn
cảnh để người môn đệ và vị guru không phải là hai; họ là một. Ở thời điểm họ trở thành một, những gì không thể biểu đạt cũng có thể được biểu đạt.
Wittgenstein đã nói ở đâu đó rằng những gì không thể được nói thì có thể
được chỉ ra. Nói không cần kiên nhẫn, nhưng sự chỉ ra cần rất kiên nhẫn. Nếu
tôi muốn nói một cái gì đó với bạn thì tôi có thể nói tại chính thời điểm này.
Sự kiên nhẫn của bạn, sự chuẩn bị của bạn là không cần thiết. Tôi có thể nói
điều đó và bạn có thể nghe. Tôi không thể chỉ nó cho bạn nếu bạn không có khả
năng để nhìn.
Về cơ bản vị guru đang không nói bất kỳ điều gì mà đang cố chỉ ra một
cái gì đó; và nếu người môn đệ nhận biết thì nhiều điều trở nên rõ ràng mà
không có sự can thiệp nào. Nhiều điều luôn rõ ràng nhưng tâm trí lại bối rối -
và tâm trí bối rối lại làm xáo trộn nhiều điều. Tâm trí bạn không thể làm méo
mó những điều trần tục quá nhiều, bởi vì chúng quá khách quan đến mức chúng
không phụ thuộc vào tâm trí bạn. Nhưng tâm linh lại rất chủ quan, nó phụ thuộc
rất nhiều vào cách nhìn của bạn đến mức tâm trí bối rối có thể hiểu sai và làm
mọi thứ bị hủy hoại.
Sự hủy hoại xuất hiện từ kiến thức chồng chất trong quá khứ của chúng
ta. Tâm trí đã biết và đã tích lũy quá nhiều đến mức nó xuất hiện và làm xáo trộn
mọi thứ; cái cũ đã xen vào giữa.
Những gì bạn tình cờ biết phải không được diễn giải. Mọi thứ mới phải
được nhìn bởi tâm trí mới. Nếu con người có thể đặt kiến thức này sang một bên
và nhìn trực tiếp, nhìn tức thì vào mọi điều như vậy thì những điều đó luôn rõ
ràng. Tồn tại quá thanh khiết và rõ ràng, mọi thứ đều rõ ràng như pha lê, đó là
một sự kỳ diệu, làm sao tâm trí con người lại bối rối về nó. Sự bối rối này
xuất hiện thông qua sự diễn giải; nó xuất hiện từ việc sử dụng tất cả những thứ
đã biết để hiểu cái thứ còn chưa biết.
Nếu chúng
ta có thể hoàn toàn nhận biết bất kỳ điều gì mới được trình bày cho bạn, nếu
chúng ta có thể trở nên đón nhận và nhận biết sự hiện diện của nó, thì nó sẽ đi
vào tim. Những gì tôi đang nói có thể biểu hiện vô lý, nhưng đó là sự thật. Tâm
trí không bao giờ nhận biết, chỉ trái tim nhận biết. Trung tâm nhận biết không
bao giờ là tâm trí, nó luôn là trái tim. Trái tim luôn tinh khiết, tươi mới và
nguyên sơ; nó không bao giờ chịu đựng gánh nặng quá khứ. Nhưng tâm trí chưa bao
giờ là nguyên sơ, nó chưa bao giờ mới; nó luôn cũ. Nó luôn là của quá khứ, nó
luôn là vô nghĩa - sự chất đống những kinh nghiệm vô nghĩa. Cho nên bất kỳ khi
nào tâm trí vận hành thì bạn luôn hiểu sai - buộc phải là như vậy. Nhưng khi nó
không vận hành - khi nó yên lặng, khi nó tĩnh, tuyệt đối không tồn tại, chỉ khi
đó mới có nhận biết - khoảng trống được tạo ra và ô cửa tới trái tim được mở
ra.
Trái tim
hiểu mà không có bất kỳ sự diễn giải nào; sự hiểu của nó là trực tiếp và tức
thì. Bạn hiểu - bạn BIẾT, “điều này là như vậy”. Việc đặt tâm trí ra sang một
bên này tôi gọi là thiền. Nếu bạn có thể nhìn thấy nhiều điều bởi trái tim, nếu
bạn có thể liên hệ với tồn tại thông qua trái tim, thì bạn đang trong thiền;
nhưng nếu bạn đang luôn sống thông qua tâm trí thì bạn sẽ không bao giờ trong
thiền.
Có thể nói
rằng trái tim là khả năng đặc biệt cho thiền, và tâm trí là khả năng hoạt động
chống lại thiền; và hai điều đó không thể hoạt động đồng thời. Nếu tâm trí đang
hoạt động thì trái tim không thể. Nó đi
xa bởi vì nó không được cần đến; nó đi ngủ. Chỉ khi tâm trí không hoạt động thì
trái tim mới xuất hiện trên bề mặt để thở, để nhìn. Nó xuất hiện chỉ khi tâm
trí không cần đến, khi tâm trí đã bị bỏ đi. Và thời điểm mà trái tim xuất hiện
trong mối liên hệ với tồn tại thì bạn cảm nhận được niềm vui, phúc lành. Mọi
thứ đều trở nên linh thiêng. Đó là điều linh thiêng, và bạn biết nó.
Khi trái
tim trong mối liên hệ với thế gian thì thế gian là linh thiêng; khi tâm trí
trong mối liên hệ với thế gian thì thế gian là trần tục. Tâm trí không thể biết
bất kỳ điều gì trên vật chất, và trái tim không thể biết bất kỳ điều gì dưới
tinh thần. Chính vì vậy những người định hướng-trái tim đã từng nói rằng thế
gian là không thực, là ảo ảnh; nó là maya - chỉ là một sự biểu hiện kỳ diệu. Có
một lý do cho câu nói như vậy: bởi vì trái tim không thể xuống thấp hơn tinh
thần, nó không bao giờ có thể biết vật chất. Thế giới vật chất trở thành ảo
ảnh, không thực, mơ - dường như nó không tồn tại.
Người định
hướng-tâm trí đã từ chối tâm linh. Họ nói rằng đó là giấc mơ, là hư cấu, không
thể tìm thấy ở đâu. Với họ chỉ có vật chất tồn tại; không có gì là tâm linh:
tâm linh là ảo ảnh, hão huyền, ngớ ngẩn. Nietzsche đã nói ở đâu đó rằng, “Có
những người đã nói rằng Jesus là một thiên tài, một người thông thái. Nhưng tôi
muốn nói rằng ông ấy là một kể ngốc”.
Người
phương Đông có xu hướng tình cảm, nghiêng về trái tim; người phương Tây có xu
hướng lý trí, nghiêng về cái đầu. Tâm trí phương Tây đã có khả năng tạo ra dinh
thự khoa học vĩ đại nhưng tâm trí phương Đông thì không thể - làm sao bạn có
thể sáng tạo khoa học bởi tính hồn nhiên? Đó là điều không thể. Cho nên phương
Đông đã sống phi khoa học.
Nhưng
phương Tây chưa bao giờ có thể biết thiền là gì. Nhiều nhất họ chỉ có thể cầu
nguyện. Nhưng cầu nguyện thì không giá trị. Bạn chỉ có thể cầu nguyện bằng tâm
trí; bạn có thể không ngừng lặp lại các công thức. Nếu không có tâm trí thì
người cầu nguyện sẽ trở nên tĩnh lặng. Bạn sẽ không có khả năng cầu nguyện - sẽ
không có ngôn ngữ nào. Với trái tim bạn chỉ có thể là cầu nguyện.
Ở phương
Tây, họ không thể phát triển khoa học tâm linh, họ không thể phát triển thiền.
Họ biến thiền thành sự tập trung chú ý hoặc tư duy sâu lắng - cả hai đều không
đúng - và họ đã bị lỡ giá trị. Tập trung chú ý là quá trình tinh thần. Khi tâm
trí cố tập trung và toàn bộ quá trình nghĩ được hội tụ thì nó trở thành tư
tưởng. Đó không phải là vấn đề của trái tim.
Thiền
không phải là sự tập trung hoặc tư duy sâu lắng. Nó là sống phi tinh thần, phi
tâm trí. Nó trở thành mối liên hệ với thế gian mà không bị tâm trí xen vào.
Thời điểm mà tâm trí vắng mặt thì không còn rào cản giữa bạn và tồn tại, giữa
bạn và điều linh thiêng, bởi vì trái tim không thể vẽ nên những đường biên, nó
không thể xác định. Bằng việc xác định nhiều điều mà tâm trí tạo ra những rào
cản, những đường biên, những biên giới. Nhưng với trái tim tồn tại trở nên phi
biên giới. Bạn không kết thúc ở đâu, và không có ai bắt đầu ở nơi đâu. Bạn ở
mọi nơi, cùng với toàn bộ tồn tại.
Trái tim
không thể cảm nhận sự đối ngẫu - đối ngẫu là một sự sáng tạo tinh thần. Tâm trí
thực hiện chia, phân tích; nó không thể hoạt động mà không có sự chia. Chính vì
vậy mà khoa học không ngừng phân tích phân tử, nguyên tử, điện tử: chia tồn tại
thành những phần nhỏ hơn. Càng có nhiều phần chia nhỏ thì nó càng thoải mái
hơn, bởi vì sau đó tồn tại trở nên được xác định rõ hơn; nó có thể thao túng,
có thể biết dễ dàng hơn. Nhưng tồn tại càng trở nên mênh mông hơn, vô hạn hơn
và vĩ đại hơn thì tâm trí càng cảm nhận nỗi sợ hãi nhiều hơn. Tâm trí không thể
xác định tồn tại - tồn tại trở nên huyền bí.
Phương
pháp khoa học để giải quyết một vấn đề huyền bí là phân tích - phân tích một
vấn đề và tháo gỡ điều huyền bí nữa. Nếu toàn bộ thế giới có thể được phân tích
thì hẳn không còn điều huyền bí nữa. Nhưng điều huyền bí vẫn giữ nguyên không
được giải quyết, bởi vì để làm sáng tỏ nó cần phải có sự tổng hợp.
Bỏ rơi mọi
sự xác định, bỏ rơi những đường biên, và mọi thứ trở nên huyền bí. Thế rồi bạn
là một với điều huyền bí; thế rồi mọi thứ đều linh thiêng. Đó là giải pháp duy
nhất và con đường duy nhất để nhận biết tồn tại. Hãy bỏ rơi những định nghĩa
khoa học, và một thế giới không những định nghĩa, không những đường biên, trở
thành tồn tại: cái toàn bộ được kết hợp, cái đồng nhất hữu cơ, cái nhất thể
được kết tinh. Cái nhất thể này - cảm nhận nó, nhận biết nó, sống với nó - đó
là điều tôi ngụ ý về Thượng Đế.
Thiền là
con đường để biết Thượng Đế. Tâm trí là con đường để biết vật chất. Tâm trí và
thiền là hoàn toàn đối nghịch - những bình diện khác nhau. Bạn không thể có cả
hai con đường. Bạn có thể chạm tới tâm trí nhưng thời điểm đó trái tim sẽ không
hoạt động. Bạn có thể chạm tới trái tim, nhưng thời điểm đó tâm trí sẽ không
hoạt động. Bạn có thể sử dụng cả hai, nhưng không đồng thời: chúng là những đối
cực.
Không
thiền, mọi thứ là có lý và cũng là vô lý bởi vì nó là vô nghĩa. Với thiền, mọi
thứ là vô lý nhưng lại ý nghĩa. Thời điểm sống ý nghĩa, thì cuộc sống tồn tại.
Khi nó vô nghĩa, khi nó được hiểu một cách hợp lý nhưng vô nghĩa, thì nó không
tồn tại. Nó chỉ có thể như xác chết. Đây là nghịch lý: với tâm trí bạn có thể
hiểu nhưng lại mất ý nghĩa; với trái tim, bạn không thể hiểu nhưng ý nghĩa được
nhận biết, được cảm nhận, được nhận ra.
Với tâm
trí mọi thứ có thể được phân loại và kiểm soát, nhưng thông qua nó bạn trở nên
bị vô hiệu, và kết cục là không có gì huyền bí. Khi mà tâm trí đã hiểu mọi thứ
thì không còn gì ngoài tự sát, bởi vì không ai có thể sống mà không có điều
huyền bí. Sự sống càng huyền bí thì nó càng đáng sống.
Tôi giáo
là biết điều huyền bí và vẫn không hủy hoại nó. Con đường tôn giáo để là rất
khác - đó không phải là logic hoặc không phải là lý trí; nó tuyệt đối mới mẻ.
Nhưng tâm trí của chúng ta trở nên không thoải mái với nó bởi vì chúng ta quá
ám ảnh với lý trí. Phần rất nhỏ bé này của tâm trí, lý trí, đã trở thành toàn
bộ của chúng ta, của tất cả chúng ta.
Cuộc sống
không phải là lý trí; nó cơ bản là phi lý - và sự phi lý này của cuộc sống và
tồn tại là điều huyền bí. Nếu mọi thứ trở nên huyền bí với bạn, thì bạn ở đây
và bây giờ cùng đấng linh thiêng. Với thiền, điều huyền bí được làm sống lại:
bạn lại có được mối liên hệ với điều huyền bí.
Thiền
thuộc về trái tim, và trái tim có những phương pháp riêng để hiểu những gì là
tuyệt đối khác với lý trí, tuyệt đối khác với tâm trí. Tôi muốn tất cả các bạn
biết nhiều hơn về trái tim.
Mối quan
hệ guru / môn đệ là một sự thấu hiểu của trái tim. Phương Đông có quá nhiều chìa
khóa bí mật, nhưng thậm chí chỉ một chìa cũng đủ, bởi vì một chìa cũng có thể
mở hàng nghìn, hàng nghìn ổ khóa. Mối quan hệ giữa vị guru và người môn đệ là
một chìa như vậy.
No comments:
Post a Comment