Đôi lời phi lộ: Đây là cuốn sách do mỗ dịch, vừa
được Nhà xuất bản Tri thức phát hành
Khi độc giả cầm trên tay ấn bản tiếng Việt này, tác phẩm Ảnh hưởng của sức mạnh trên
biển đối với lịch sử, 1660-1783 đã
có hơn 120 năm tuổi. Tuy vậy, nó vẫn tỏ ra là một trong những tác phẩm có ảnh
hưởng nhất đến tư duy chiến lược hải quân trên thế giới. Điều này càng có ý
nghĩa hơn đối với một nước như Việt Nam ngày nay, nhất là trong giai đoạn, khi
chúng ta phải đối mặt với những thách thức đang lớn lên mỗi ngày trên Biển
Đông. Mặc dù tác phẩm này nói nhiều về những cuộc hải chiến và tư duy hải quân,
nhưng thông điệp từ cuốn sách này lại rất có ích cho các nhà lãnh đạo quốc gia
muốn hoạch định chiến lược biển của mình một cách tổng thể.
Khi tác phẩm này ra đời vào năm
1890, nước Anh đang thống trị trên các đại dương, và hải quân Mỹ chưa thực sự
là một thế lực có thể cạnh tranh được với họ. Tác giả A.T. Mahan cũng qua đời
khi chiến tranh Thế giới thứ I vừa kết thúc được vài tháng và chưa kịp chứng
kiến sự oai hùng của hải quân Mỹ sau thế chiến tiếp theo. Vậy mà, 100 năm trước
khi ông hoàn thành bản thảo cuốn sách này, nước Mỹ từng không có hải quân trong
một thập niên và tình trạng thê thảm đến mức tàu buôn của họ liên tục bị hải
tặc tấn công. Cuộc Nội chiến 1861 - 1865 đã dạy cho nước Mỹ một bài học rất rõ
ràng rằng, sức mạnh vượt trội nằm trong tay của những người làm chủ được mặt
biển. Trên thực tế, nước Mỹ cũng chỉ có thể trở thành siêu cường nhờ nắm được
sức mạnh của đại dương.
Là một sĩ quan hải quân từng
phục vụ trong cuộc Nội chiến 1861 - 1865, và sau này trở thành thuyền trưởng
một tàu chiến Mỹ, A.T. Mahan đã viết về lịch sử từ năm 1660 đến năm 1783 của
các quốc gia ven bờ Bắc Đại Tây Dương, dưới góc nhìn riêng của mình. Ở đó, trật
tự giữa các quốc gia được định đoạt trên mặt biển và bước ngoặt lịch sử được
xác lập thông qua những cuộc hải chiến. Trong tác phẩm của mình, A.T. Mahan lần
lượt miêu tả sự trỗi dậy và những thăng trầm của các đế chế hải quân châu Âu
như Hà Lan, Tây Ban Nha, Anh, Pháp, không những chỉ qua những cuộc chiến tranh
ở châu Âu mà còn ở Bắc Mỹ, trong việc tranh giành các lợi ích lớn lao ở châu
lục mới này. Điều đó có nghĩa là, đằng sau sức mạnh hải quân và các cuộc hải
chiến là sự thúc đẩy mạnh mẽ của các tham vọng thương mại. A.T. Mahan thậm chí
còn cho rằng, thương mại là điểm tựa quan trọng nhất của các lực lượng hải
quân, và sự tồn tại của hải quân chỉ chính đáng khi nó bảo vệ được những lợi
ích thương mại tương xứng.
Những con tàu của nước Anh và
Hà Lan đã ra khơi với một tâm thế không có đường lui, bởi họ sẽ chết đói nếu cứ
bám vào những vùng đất nghèo nàn của họ. Lý do này cũng có thể dùng để lý giải
cho vai trò quan trọng của kinh tế biển đối với dân cư ở miền Trung Việt Nam,
vốn không thể khai thác được gì nhiều từ dải đất liền hẹp và bị chia cắt mạnh
bởi đồi núi. Trong khi đó, trong một thời gian dài, nước Pháp đã không chú
trọng vào hải quân, bởi họ tìm thấy rất nhiều lợi ích trên đất liền và gần như
không có nhu cầu ra khơi xa.
Sự phát triển của các ngành kinh
tế biển, đặc biệt là vận tải biển, đến một lúc nào đó, cần sự hỗ trợ của hải
quân trước các nguy cơ trên biển, mà chủ yếu là sự tấn công của các lực lượng
bên ngoài. Ngược lại, kinh tế biển cũng là chỗ dựa vững chắc về nguồn lực, đặc
biệt là tài chính, để duy trì lực lượng hải quân. Tính gắn bó hữu cơ này giữa
kinh tế và hải quân phải là nền tảng cho bất kỳ một chiến lược biển hiệu quả
nào. Trong cuốn sách này, A. T. Mahan từng đặt ra cho người Mỹ một câu hỏi: Sự
tồn tại của hải quân có ý nghĩa gì khi mà hàng hóa của nước Mỹ lại do tàu nước
ngoài chuyên chở?
Tuy vậy, trong các tham số tham
gia vào việc định đoạt tư duy chiến lược biển của các quốc gia, ngoài những yếu
tố tự nhiên như vị trí địa lý, điều kiện vật chất, quy mô lãnh thổ và đặc điểm
của người dân, còn có vai trò mang ý nghĩa quyết định của nhà nước.
Vua Louis XIV, người trị vì
nước Pháp từ năm 1661 đến năm 1715, đã không đánh giá một cách chính xác vai
trò của mối liên hệ hữu cơ giữa kinh tế và hải quân. Ông mê tàu chiến, nhưng
lại bỏ rơi ngành vận tải biển và những ngành kinh tế biển khác; đồng thời, theo
đuổi chính sách mở rộng lãnh thổ trên đất liền. Kết quả là, vào cuối triều đại
của ông, nước Pháp đã bị Anh và Hà Lan gạt ra khỏi “cuộc chơi” trên mặt biển.
Không có một hạm đội lớn nào của ông ra khơi trong những năm chiến tranh liên
miên đó. Ngược lại, các triều đại của Hoàng gia Anh lại rất kiên trì với các
mục tiêu kinh tế biển và trở thành siêu cường số một trên thế giới trong hàng
trăm năm, với hệ thống thuộc địa trên khắp thế giới. Nhờ các đoàn tàu buôn đầy
tham vọng mà “mặt trời đã không bao giờ lặn trên đất nước Anh”.
Trong tác phẩm của mình, A.T.
Mahan cũng đưa ra những phân tích liên quan đến sự khác biệt về sức mạnh trên
biển giữa các quốc gia tự do và chuyên chế. Ông cho rằng, các thể chế tự do
luôn có cách tiếp cận hiệu quả nhất trong việc phát triển những tiềm lực kinh
tế biển và hải quân quốc gia, nơi các nhà buôn được tự do phát huy mọi năng lực
thương mại của mình và sau đó đóng góp trở lại cho ngân khố. Nước Anh là ví dụ
điển hình của thể chế tự do này.
Các thể chế chuyên chế cũng có
thể đạt được sự phát triển rực rõ đó, nếu họ có các nhà lãnh đạo đủ thông minh
và độc đoán, đủ sức ép nhân dân của họ đi theo một lộ trình, vươn tới những mục
tiêu mà các thể chế tự do phải mất nhiều thời gian hơn mới đạt được. Tuy vậy,
sức mạnh đó có duy trì được trong suốt cuộc đời nhà độc tài hay sau khi nhà độc
tài đó qua đời hay không lại là chuyện khác. Bản thân vua Louis XIV cũng đã đạt
được sức mạnh đáng nể về hải quân một cách độc đoán và duy ý chí, dựa trên ngân
sách quốc gia chứ không phải hầu bao của những người đi biển. Kết quả là lực
lượng hải quân trông có vẻ hùng hậu đó lại chỉ là một gã khổng lồ chân đất sét
và nhanh chóng gục ngã trước thể chế tự do của nước Anh.
Ngày nay, cuộc chơi biển trên
thế giới đã phát triển đến mức một quốc gia không có biển như Thụy Sỹ cũng trở
thành cường quốc vận tải biển. Bài toán đặt ra cho một nước có 3.260 km đường
bờ biển như Việt Nam thực ra là một bài toán rất cũ. Chúng ta sẽ phát triển
theo hướng nào khi đã cơ bản khai thác cạn kiệt những tài nguyên trên đất liền?
Câu trả lời gần như chỉ có một. Điều rất rõ ràng là tương lai thịnh vượng của
Việt Nam không còn nằm trên rừng nữa, bởi rừng đã hết vàng.
Lựa chọn những học thuyết, cơ
sở lí luận nào để hoạch định chiến lược biển là việc không dễ dàng. Những món
nợ khổng lồ của hai tập đoàn kinh tế biển Vinashin và Vinalines, sự manh mún
của các cảng biển, cuộc vật lộn của những ngư dân ra khơi trên những chiếc tàu
bằng gỗ và sức mạnh hải quân không thể nói là mạnh của Việt Nam đã cho chúng ta
những bài học lớn về tư duy chiến lược biển. Rõ ràng, vai trò có tính chất trụ
cột của nhà nước đối với sức mạnh trên biển của một quốc gia mà A.T. Mahan đã
chỉ ra không chỉ đúng với các nước Âu, Mỹ. Cuốn sách này có trở thành một tham
chiếu lí luận cho các chiến lược biển của Việt Nam hay không, sẽ phụ thuộc
nhiều vào sự tìm hiểu và ý chí chính trị của các nhà lãnh đạo. Theo thời gian,
cách “chơi” trên biển có thể khác đi, nhưng bản chất của nó dường như không
thay đổi. Những bài học lịch sử trong cuốn sách này sẽ giúp cho chúng ta có một
tư duy đầy đủ hơn về thế giới mà chúng ta đang và sẽ trải qua, nơi Việt Nam
buộc phải lựa chọn cho mình một hệ thống thái độ hết sức rõ ràng trước sự hình
thành của một trật tự chiến lược mới mà trọng tâm của nó là Châu Á - Thái Bình
Dương.
No comments:
Post a Comment