Thị
trường và đạo đức
Tác
giả: TOM G. PALMER
Dịch
giả: Phạm Nguyên Trường
Hiệu
đính: Đinh Tuấn Minh
PHẦN
II
HỢP
TÁC TỰ NGUYỆN VÀ LỢI ÍCH CÁ NHÂN
Nghịch
lí của đức hạnh
Mao
Vu Thức[1]
Trong tiểu luận này, Mao Vu
Thức (茅于轼),
một nhà kinh tế học và đồng thời cũng là một doanh nhân người Trung Quốc, trình
bày kiến giải của mình về vai trò của thị trường trong việc tạo lập sự hài hòa
và hợp tác. Ông làm nổi bật lợi ích của việc tìm cách hạ giá thành và kiếm lời
do những người tham gia vào quá trình trao đổi thực hiện bằng cách so sánh hành
vi “tự tư tự lợi” với những huyền thoại mà những người phê phán chủ nghĩa tư bản
đã tạo ra. Ông đưa ra các thí dụ từ di sản văn học Trung Quốc cũng như từ kinh
nghiệm của mình (cũng là kinh nghiệm của hàng triệu người Trung Quốc trong cuộc
thí nghiệm bài trừ chủ nghĩa tư bản kinh hoàng ở nước này).
Xung
đột quyền lợi trong Vùng đất của những người quân tử
Khoảng giữa thế kỉ XVIII và
XIX một nhà văn Trung Quốc tên là Li Ruzhen đã viết một cuốn tiểu thuyết với
nhan đề Hoa trong gương (Flowers in the Mirror). Cuốn sách kể về một người tên
là Tang Ao vì bị thất bại trong công việc làm ăn cho nên đã theo người anh rể
xuất ngoại. Trong cuộc du hành này, anh ta đã đi qua nhiều nước có phong cảnh rất
kì thú. Nước đầu tiên họ đến thăm có tên là Vùng đất của những người quân tử
(The Land of Gentlemen).
Nhà kinh tế học Trung Quốc theo chủ nghĩa tự do Mao Vu Thức phát biểu tại Bắc Kinh vào ngày 9/1/2015. Tự do ngôn luận là quyền cơ bản nhất trong một xã hội, ông nói. (Ảnh chụp màn hình/unirule.org.cn)
Tất cả những người ở Vùng đất
của những người quân tử đều sẵn sàng chịu thiệt để chắc chắn làm người khác được
lợi. Chương 11 kể về một anh sai nha (Li Ruzhen cố tình sử dụng nhân vật mà người
Trung Quốc xưa từng quan niệm, lúc đó sai nha có nhiều đặc quyền đặc lợi và hay
bắt nạt dân chúng) đi mua hàng:
Sau
khi đã xem xét một số hàng hóa, anh sai nha này bảo người bán hàng: “Anh ơi,
hàng của anh tốt quá mà giá lại rẻ quá. Làm sao tôi có thể an tâm khi anh tỏ ra
hào phóng đến như thế? Nếu anh không nâng giá lên thì chúng tôi đành không mua
nữa vậy”.
Người
bán hàng đáp: “Có ông đến là chúng tôi mừng rồi. Người ta thường nói người bán
thì đẩy giá lên trời còn người mua thì hạ xuống sát đất. Giá của tôi đã cao ngất
trời rồi mà ông còn muốn tôi tăng nữa. Tôi khó mà đồng ý được. Xin ông đến cửa
hàng khác mà mua vậy”.
Sau khi nghe người bán nói
như thế, anh sai nha bảo: “Anh đã ra giá thấp cho những món hàng chất lượng cao
thế này. Thế có phải là anh bị thiệt không? Chúng ta không được lừa dối và phải
bình tĩnh. Không phải là mỗi chúng ta đều biết tính toán cả hay sao”. Sau một hồi
tranh cãi mà người bán vẫn khăng khăng không chịu nâng giá, còn anh sai nha thì
phát bực và chỉ mua một nửa số hàng đã chọn mà thôi. Nhưng người bán hàng cản
đường không cho anh ta đi ra. Đúng lúc đó thì có một ông lão đi ngang qua. Sau
khi cân nhắc tình hình, ông già này giải quyết bằng cách buộc anh cảnh sát phải
mua 80% số hàng mà anh ta đã chọn.
Tiếp theo là câu chuyện mua
bán giữa khách hàng cho rằng giá quá thấp mà chất lượng lại cao, trong khi người
bán khẳng định rằng hàng không còn tươi cho nên chỉ được coi là chất lượng bình
thường. Cuối cùng người mua chọn những món hàng có chất lượng xấu nhất. Đám
đông đứng gần đó kết án người này là “chơi không đẹp”, anh ta đành phải lấy một
nửa hàng có chất lượng cao và một nửa chất lượng thấp. Trong vụ giao dịch thứ
ba thì hai bên cãi nhau về trọng lượng và chất lượng bạc được đem ra thanh
toán. Bên trả nợ khẳng định rằng bạc của anh ta vừa kém về chất lượng vừa không
đủ cân lạng, trong khi bên được trả nợ lại nói rằng bạc có chất lượng rất cao
và đủ trọng lượng. Khi bên trả nợ đi rồi thì bên được trả nợ thấy rằng anh ta
có trách nhiệm tặng số bạc mà anh ta cho là dư cho một người ăn xin đến từ vùng
đất xa xôi.
Cuốn truyện này đặt ra hai vấn đề cần phải nghiên cứu.
Thứ nhất, khi hai bên đều từ
chối phần lợi nhuận mà họ được chia hay đều khẳng định rằng lợi nhuận của họ là
quá cao thì sẽ có tranh cãi. Đa số những cuộc tranh cãi mà chúng ta gặp trong đời
sống là do chúng ta theo đuổi quyền lợi của chính mình. Kết quả là chúng ta thường
mắc sai lầm khi cho rằng nếu chúng ta chấp nhận quyền lợi của phía bên kia thì
sẽ không còn tranh cãi. Nhưng như đã thấy, trong Vùng đất của những người quân
tử thì coi quyền lợi của phía bên kia làm cơ sở cho quyết định cũng dẫn tới
xung đột và như vậy là chúng ta phải tìm cho ra cơ sở mang tính logic cho xã hội
hài hòa và hợp tác.
Tiến thêm một bước nữa trong
công việc nghiên cứu, chúng ta phải công nhận rằng trong công việc kinh doanh của
thế giới hiện thực cả hai bên đều tìm kiếm lợi ích của riêng mình và thông qua
thương lượng về các điều khoản (trong đó có giá cả và chất lượng) để đạt được
thỏa thuận. Ngược lại, trong Vùng đất của những người quân tử thỏa thuận như thế
là bất khả thi. Trong cuốn truyện, tác giả phải đưa vào một ông già và một người
hành khất, thậm chí phải viện dẫn đến những biện pháp ép buộc mới có thể giải
quyết được xung đột[2].
Ở đây chúng ta gặp một chân lí quan trọng và sâu sắc: những cuộc đàm phán,
trong đó hai bên đều tìm kiếm lợi ích cá nhân của mình có thể đạt đến điểm cân
bằng, trong khi nếu cả hai bên đều tìm kiếm lợi ích cho phía bên kia thì họ
không bao giờ đạt được đồng thuận. Hơn thế nữa, điều đó sẽ tạo ra một xã hội suốt
ngày tranh cãi với chính mình. Sự kiện này trái ngược hẳn với kì vọng của đa số
người. Vì Vùng đất của những người quân tử không thể thiết lập được sự cân bằng
trong quan hệ của những cư dân của nó cho nên cuối cùng nó đã biến thành Vùng đất
của những kẻ trục lợi và thô lỗ. Vì Vùng đất của những người quân tử hướng tới
quyền lợi của người khác cho nên nó sinh ra những kẻ đồi bại. Trong khi những
người quân tử không thể tiến hành trao đổi được thì những kẻ trục lợi và thô lỗ
lại có thể giành được lợi thế bằng cách lạm dụng sự kiện là những người quân tử
kiếm lời bằng cách hi sinh quyền lợi của mình. Nếu cứ tiếp tục như thế mãi thì
người quân tử sẽ chết hết và sẽ chỉ còn lại bọn trục lợi và thô lỗ mà thôi.
Từ đó ta có thể thấy rằng
con người chỉ có thể hợp tác khi họ tìm kiếm lợi ích của chính mình. Đấy là nền
tảng an toàn, chỉ có dựa vào nền tảng như thế nhân loại mới có thể đấu tranh
cho một thế giới lí tưởng. Nếu nhân loại chỉ tìm kiếm lợi ích cho người khác
thì không lí tưởng nào có thể trở thành hiện thực được.
Dĩ nhiên là trong khi coi thực
tế là xuất phát điểm của mình, muốn giảm xung đột, chúng ta phải quan tâm tới
những người xung quanh và phải tìm cách ngăn chặn những ước muốn ích kỉ của
mình. Nhưng nếu muốn quyền lợi của người khác trở thành mục tiêu của mọi hành
vi của chúng ta thì nó sẽ tạo ra xung đột giống như Li Ruzhen mô tả trong tác
phầm Vùng đất của những người quân tử. Có thể có người nói rằng những tình tiết
tức cười trong đời sống ở Vùng đất của những người quân tử không thể nào xảy ra
trong thế giới hiện thực được, nhưng, như cuốn sách này dần dần làm rõ, những sự
kiện trong thế giới thực và những sự kiện ở Vùng đất của những người quân từ đều
có những nguyên do giống nhau. Nói cách khác, cả thế giới hiện thực lẫn Vùng đất
của những người quân tử đều không có nguyên lí rõ ràng về cách thức tìm kiếm lợi
ích riêng.
Động cơ của cư dân Vùng đất
của những người quân tử là gì? Trước hết chúng ta phải hỏi: “Tại sao người ta lại
muốn trao đổi?”. Dù là hàng đổi hàng sơ khai hay việc trao đổi hàng-tiền trong
xã hội hiện đại thì động cơ đằng sau nó vẫn là cải thiện hoàn cảnh của người
ta, làm cho đời sống của người ta thuận lợi hơn và tiện nghi hơn. Không có động
cơ như thế, người ta trao đổi những thứ tự mình phải khó nhọc mới làm ra được để
làm gì? Tất cả những thú vui vật chất mà chúng ta nhận được, từ cái kim sợi chỉ
cho đến tủ lạnh và TV màu đều do trao đổi mà ra. Nếu người ta không trao đổi
thì mỗi người chỉ có thể trồng được thóc và bông trên những mảnh ruộng ở nhà
quê, chỉ có thể sử dụng gạch bằng đất để xây nhà và chiến đấu với đất đai để
giành lấy tất cả những thứ cần thiết để tồn tại mà thôi. Với cách làm việc như
thế, con người chỉ có thể kéo lê đời sống như tổ tiên ta đã sống hàng chục ngàn
năm trước. Chắc chắn là chúng ta không được thưởng thức bất kì lợi ích nào của
nền văn minh hiện đại ngày nay.
Vùng đất của những người
quân tử đã có nhà nước và thị trường, điều đó chứng tỏ rằng người dân ở đấy đã
rời bỏ nền kinh tế tự cấp tực túc và đã chọn con đường trao đổi nhằm cải thiện
hoàn cảnh kinh tế của mình. Thế thì tại sao họ lại không nghĩ đến quyền lợi của
mình khi tham gia trao đổi kinh tế? Dĩ nhiên là, nếu ngay từ đầu trao đổi là để
làm giảm lợi thế của mình và tăng lợi thế của người khác thì hành vi “quân tử”
là có thể xảy ra. Nhưng mọi người tham gia trao đổi hay có kinh nghiệm về trao
đổi đều biết rằng hai bên tham gia trao đổi đều tham gia vì lợi ích của mình,
còn người nào hành động ngược lại với quyền lợi của mình trong quá trình trao đổi
là người có động cơ sai lầm.
Có
thể thiết lập được xã hội trên cơ sở các bên cùng có lợi mà không cần thương thảo
về giá cả hay không?
Trong giai đoạn khi mà cuộc
đời và sự nghiệp của Lôi Phong[3] còn được đề cao ở Trung Quốc
người ta thường thấy trên màn ảnh truyền hình một người tốt bụng và tận tụy như
Lôi Phong đang chữa nồi niêu xoong chảo cho đám đông. Người xem có thể thấy một
hàng người trước mặt anh ta, mỗi người đều cầm những món đồ cũ cần phải sửa chữa.
Những hình ảnh này là nhằm động viên mọi người làm theo người môn đệ đầy lòng từ
tâm của Lôi Phong và làm cho quần chúng chú ý đến anh ta. Nếu hàng không dài
thì bộ máy tuyên truyền không đủ sức thuyết phục. Chúng ta cũng cần ghi nhận rằng
những người xếp hàng với nồi niêu xoong chảo cần phải chữa ở đó không phải là để
học Lôi Phong mà ngược lại, để tìm kiếm lợi ích của mình trong khi người khác bị
thiệt.
Trong khi chính sách tuyên
truyền như thế có thể dạy được một số người làm việc tốt cho những người khác
thì đồng thời nó thậm chí còn dạy cho nhiều người cách tìm kiếm lợi ích từ những
người khác. Trong quá khứ người ta từng nghĩ rằng tuyên
truyền kêu gọi dân chúng làm việc nhằm phục vụ người khác mà không đòi hỏi thù
lao có thể cải thiện được đạo đức xã hội. Nhưng đây chắc chắn là một sự lầm lẫn
lớn vì những người học cách giành giật lợi ích cá nhân sẽ nhiều hơn nhiều lần số
người học cách làm việc nhằm phục vụ những người khác. Từ quan điểm lợi
ích kinh tế, việc mọi người đều có trách nhiệm phục vụ người khác là việc làm
vô nghĩa. Những người mang đồ đạc đến chữa miễn phí có thể mang cả những thứ
không đáng chữa, thậm chí có thể mang cả những thứ nhặt được từ thùng rác nữa.
Nhưng vì giá chữa những thứ đó là bằng không, thì giờ vàng ngọc dành để chữa
chúng sẽ gia tăng, cũng như sẽ gia tăng vật tư quí hiếm dùng cho việc sửa chữa
những món đồ đó. Đấy là do gánh nặng của việc sửa chữa những đồ đặc đó được đặt
lên vai người khác, chi phí cho việc sửa chữa miễn phí của chủ nhân món hàng chỉ
là thời gian chờ đợi mà thôi. Nếu xét theo quan điểm lợi ích của toàn xã hội
thì toàn bộ thời gian, công sức và vật tư dùng để sửa chữa những món đồ đó chỉ
mang lại những chiếc nồi niêu xoong chảo chẳng có lợi ích bao nhiêu. Nếu thời
gian và vật tư đó được dùng cho những hoạt động có năng suất cao hơn thì chắc
chắn là có thể tạo ra những giá trị lớn hơn cho xã hội. Từ quan điểm hiệu quả
kinh tế và thịnh vượng của cả cá nhân lẫn xã hội thì trách nhiệm và quá trình sửa
chữa không được trả công như thế có hại nhiều hơn là lợi.
Hơn thế nữa, nếu những đồ đệ
tốt bụng của Lôi Phong lại còn xếp hàng hộ những người đang cầm xoong chảo đợi
chữa thì việc giải thoát cho những người nghèo đó khỏi cả công việc xếp hàng
chán ngắt như thế có thể thậm chí làm cho hàng còn dài ra hơn. Đấy thật là một
cảnh tượng vô lí, một nhóm thì đứng xếp hàng để cho nhóm người kia không phải
làm như thế. Hệ thống trách nhiệm kiểu đó giả định rằng có một nhóm người muốn
được phục vụ như là điều kiện tiên quyết. Cái đạo đức vị tha như thế không thể
là đạo đức mang tính phổ quát được. Rõ ràng là những người ca ngợi tính ưu việt
của hệ thống mình vì mọi người mà không cần viện dẫn đến giá cả như thế đã
không suy nghĩ vấn đề một cách thấu đáo.
Trách nhiệm sửa chữa đồ dùng
cho người khác còn tạo ra hậu quả phụ mà ít ai ngờ tới. Đấy là nếu những người
từng tham gia vào việc sửa chữa bị các đồ đệ của Lôi Phong đẩy ra khỏi thương
trường thì họ sẽ mất việc và sẽ gặp nhiều khó khăn.
Tôi không bao giờ phản đối
việc học theo tấm gương của Lôi Phong trong việc giúp đỡ những người gặp khó
khăn, đấy là công việc có ích, thậm chí là cần thiết đối với xã hội. Nhưng nếu
coi việc trợ giúp người khác là trách nhiệm phải làm thì nó sẽ tạo ra sự rối rắm,
hỗn loạn và xuyên tạc tinh thần tự nguyện của Lôi Phong.
Trong xã hội của chúng ta có
những người rất yếm thế và những người căm thù cái xã hội mà theo họ là coi đồng
tiền là tất cả. Họ nghĩ rằng những người có tiền là những kẻ không thể chịu đựng
nổi và người giàu tự coi là mục hạ vô nhân, còn người nghèo là những người lo lắng
cho quyền lợi của nhân loại. Họ tin rằng tiền làm méo mó quan hệ bình thường giữa
người với người. Kết quả là họ muốn xây dựng một xã hội dựa trên tinh thần tương
trợ lẫn nhau, không cần nói đến tiền và giá cả. Đấy là xã hội, nơi người nông
dân trồng cấy mà không hề nghĩ đến công xá, nơi người công nhân dệt vải cho tất
cả mọi người, cũng không cần công xá, nơi người thợ cắt tóc làm việc miễn phí
..v. v.. Xã hội lí tưởng như thế có thể tồn tại được hay không?
Muốn trả lời chúng ta phải
quay trở lại với lí thuyết kinh tế về sự phân bố nguồn lực, mà như thế thì sẽ lạc
đề và hơi dài. Để đơn giản, xin bắt đầu bằng một thí nghiệm tưởng tượng như
sau. Hãy lấy trường hợp anh thợ cạo. Hiện nay đàn ông thường cắt tóc ba hay bốn
tuần một lần, nhưng nếu có người cắt miễn phí thì họ có thể đi cắt mỗi tuần một
lần. Tiền công cắt tóc sẽ làm cho lao động của người thợ cạo được sử dụng một
cách hữu hiệu hơn. Trên thị trường, tiền công cắt tóc phụ thuộc tỉ lệ lao động
xã hội làm trong ngành này. Nếu nhà nước giữ giá cắt tóc thấp thì số người muốn
cắt tóc gia tăng, số thợ cạo cũng gia tăng tương ứng và như vậy là số người làm
trong những ngành khác phải giảm, đấy là nói trong trường hợp lực lượng lao động
không thay đổi. Cái gì đúng trong trường hợp thợ cạo thì cũng đúng cho những
ngành nghề khác.
Trong nhiều khu vực nông
thôn ở Trung Quốc giúp đỡ miễn phí là việc bình thường. Nếu một người nào đó muốn
dựng nhà thì tất cả họ hàng và bạn bè đều đến giúp. Thường là không phải trả tiền,
chỉ phải chi phí thức ăn cho những người đến phụ giúp mà thôi. Lần sau, khi bạn
của người đã được giúp đỡ xây nhà thì anh ta cũng sẽ đến giúp miễn phí. Thợ điện
cũng thường sửa đồ điện miễn phí, chỉ cần tặng quà nhân dịp tết nhất là được.
Những vụ trao đổi phi tiền tệ như vậy không thể là đơn vị đo lường chính xác
lao động đã bỏ ra. Hậu quả là giá trị lao động không được khai thác một cách có
hiệu quả và sự phân công lao động trong xã hội cũng không được khuyến khích. Tiền
và giá có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Không được để cho
đồng tiền chiếm chỗ của những tình cảm như tình bạn và tình yêu. Nhưng như thế
cũng không có nghĩa là tình bạn và tình yêu có thể thay thế được đồng tiền.
Chúng ta không thể loại bỏ được đồng tiền chỉ vì sợ rằng nó sẽ ăn mòn những mối
ràng buộc trong quan hệ của con người với nhau. Trên thực tế, giá cả bằng tiền
là phương pháp hiện có duy nhất để ta có thể phân bố nguồn lực sao cho chúng có
thể được sử dụng một cách hữu hiệu nhất. Nếu chúng ta duy trì cả giá trị bằng
tiền lẫn tình cảm và những giá trị cao quí khác của chúng ta thì chúng ta có thể
hi vọng xây dựng được một xã hội vừa hiệu quả lại vừa nhân ái.
Sự
cân bằng quyền lợi cá nhân
Giả sử A và B phải chia hai quả táo trước khi ăn. A chạy
trước và nhặt được quả to hơn. B cáu kỉnh hỏi: “Sao anh lại có thể ích kỉ thế
nhỉ?”, A vặn lại: “Thế nếu anh nhặt trước thì anh chọn quả nào?” B đáp: “Tôi sẽ
nhặt quả nhỏ hơn”. A vừa cười vừa nói: “Tôi chả làm đúng như anh muốn là gì?”
Trong câu chuyện trên, A đã
được lợi hơn B, trong khi B theo nguyên tắc “đặt quyền lợi của người khác lên
trên quyền lợi của mình” mà A thì không. Nếu chỉ một bộ phận trong xã hội tuân
theo nguyên tắc này còn những bộ phận khác không theo thì bộ phận theo sẽ bị
thiệt, trong khi những bộ phận không theo sẽ được lợi. Nếu hiện tượng này không
được ngăn chặn thì nhất định sẽ dẫn tới xung đột. Rõ ràng là, nếu chỉ có một số
người đặt quyền lợi của người khác lên trên quyền lợi của mình thì cuối cùng hệ
thống này nhất định sẽ dẫn tới xung đột và hỗn loạn.
Nếu cả A và B đều quan tâm đến
quyền lợi của phía bên kia thì vấn đề chia hai quả táo bên trên sẽ không thể
nào giải quyết được. Nếu cả hai đều tìm cách ăn quả táo nhỏ hơn thì sẽ xuất hiện
vấn đề mới, như ta đã từng thấy trong Vùng đất của những người quân tử. Cái gì
đúng với A và B thì cũng đúng với tất cả những người khác. Nếu toàn bộ xã hội đều
tuân theo nguyên tắc làm lợi cho người khác, chỉ có một người không, thì cả xã
hội sẽ phục vụ cho người đó; xã hội như thế có thể tồn tại được, đấy là về lí
thuyết. Nhưng nếu cả người này cũng quay ra theo nguyên tắc trên thì xã hội –
như một hệ thống của sự hợp tác – sẽ không thể tồn tại được nữa. Nguyên tắc
mình vì người khác nói chung chỉ khả thi với điều kiện là những người khác sẽ
quan tâm tới quyền lợi của toàn xã hội, còn mình thì không. Nhưng trên bình diện
toàn cầu thì đấy là điều bất khả thi, đấy là nói trừ phi ta có thể buộc mặt
trăng phải quan tâm đến quyền lợi của dân chúng trên trái đất.
Lí do của sự rắc rối như thế
là vì xét một cách tổng quát thì trong xã hội không có sự phân biệt giữa “ta”
và “người”. Dĩ nhiên là đối với một anh chàng John hoặc Jane, Doe cụ thể nào đó
thì “ta” là ta, còn người là “người”, “ta’ không thể lẫn lộn với “người” được.
Nhưng từ quan điểm của xã hội thì mỗi người đều vừa là “ta” vừa là “người”. Khi
nguyên tắc “vì người trước khi vì mình” được đem ra áp dụng cho anh A thì trước
hết anh A phải suy nghĩ về sự thiệt hơn của những người khác. Nhưng khi nguyên
tắc này được anh B áp dụng thì quyền lợi của anh A lại nằm ở vị trí quan trọng
nhất. Đối với các thành viên trong cùng xã hội đó thì câu hỏi là liệu họ phải
nghĩ đến người khác trước hay những người khác phải nghĩ đến họ trước sẽ dẫn đến
rối loạn và mâu thuẫn. Vì vậy, trong bối cảnh này, nguyên tắc vị tha là không
phù hợp và mâu thuẫn, và cũng vì vậy mà không thể dùng để giải quyết nhiều vấn
đề xuất hiện trong quan hệ giữa người với người. Nhưng, dĩ nhiên điều đó cũng
không có nghĩa là tinh thần cỗ vũ cho nó không đáng được ca ngợi hay những hành
động vì người khác là không đáng ca ngợi, nhưng nó không thể tạo ra cơ sở mang
tính phổ quát để các thành viên trong xã hội theo trong khi tìm cách bảo vệ quyền
lợi của cả hai bên.
Những người đã trải qua cuộc
Đại cách mạng văn hóa vô sản hẳn còn nhớ rằng khi khẩu hiệu “Đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân và phê phán chủ nghĩa xét lại” vang lên khắp đất nước thì cũng là
lúc mà những kẻ lắm mưu mô và nhiều tham vọng lên như diều gặp gió. Thời gian
đó, đa số người dân Trung Quốc có thể thực sự tin rằng cuộc “Đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân và phê phán chủ nghĩa xét lại” có thể trở thành tiêu chuẩn xã hội
và kết quả là họ đã tìm mọi cách để chỉ trích chủ nghĩa cá nhân. Cũng trong thời
gian đó, những kẻ cơ hội đã lợi dụng khẩu hiệu này nhằm thu lợi riêng. Chúng lợi
dụng chiến dịch bài trừ bóc lột nhằm biện hộ cho việc lục soát nhà của người
khác và cướp đoạt tài sản của họ. Chúng kêu gọi người khác bài trừ chủ nghĩa cá
nhân và vì lợi ích của cách mạng mà thừa nhận là những kẻ phản bội, gián điệp
hay phản cách mạng và bằng cách đó ghi thêm cho họ những tội lỗi mới. Không cần
suy nghĩ, những kẻ cơ hội chủ nghĩa đã đẩy tha nhân vào hoàn cảnh đầy nguy hiểm
cho cuộc sống của họ, mà tất cả chỉ nhằm giành một chức vụ nào đó trong chính
quyền mà thôi. Như vậy là, chúng ta đã phân tích những vấn đề lí luận liên quan
đến nguyên tắc “mình vì mọi người”, nhưng Cách mạng văn hóa còn cho thấy mâu
thuẫn của nguyên tắc này khi nó được đem ra áp dụng vào thực tế.
Trong kí ức, Cách mạng văn
hóa đã phai mờ dần, nhưng chúng ta phải nhớ rằng lúc đó tất cả các khẩu hiệu đều
bị đem ra phê phán và kiểm soát một cách kĩ lưỡng. Nhưng hiện nay thì không thế
nữa, vì khi câu hỏi đặt ra là phải dùng nguyên tắc nào để xử lí những vấn đề xã
hội dường không còn cần thiết nữa. Chúng ta vẫn sử dụng những biện pháp tuyên
truyền cũ nhằm động viên người dân giải quyết những cuộc tranh luận, thậm chí
ngay cả tại tòa án những phương pháp lỗi thời vẫn có ảnh hưởng khá lớn.
Những độc giả đã quen lật đi
lật lại vấn đề chắc chắn sẽ có một vài câu để hỏi về vấn đề chia một cách hợp
lí nhất hai quả táo vừa nói. Nếu chúng ta đồng ý rằng “mình vì mọi người” không
thể là nguyên tắc giải quyết tốt nhất vấn đề chia hai quả táo thì có phải là
không có cách nào tốt hơn hay không? Xin nhớ rằng ở đây có một quả táo to và một
quả táo nhỏ và chỉ có hai người tham gia chia. Có thể là ngay cả những những vị
thần bất tử huyền thoại của Trung Quốc cũng thấy khó mà tìm được giải pháp thỏa
đáng?
Nhưng trong xã hội thị trường
câu hỏi hóc búa vừa nói thực ra là có thể giải quyết được. Hai người đó có thể
thảo luận xem phải giải quyết như thế nào. Ví dụ A lấy quả to hơn với thỏa thuận
là lần sau B sẽ được lấy quả to hơn hoặc nếu A lấy quả to hơn thì B sẽ được đền
bù một khoản nào đó. Món tiền do A trả sẽ giúp giải quyết vấn đề khó khăn này.
Trong nền kinh tế có sử dụng tiền tệ thì chắc chắn là hai bên sẽ áp dụng biện
pháp này. Bắt đầu bằng khoản đền bù nhỏ (ví dụ, 1 xu), số tiền sẽ được nâng dần
lên cho đến khi một bên đồng ý lấy quả táo nhỏ cùng với món tiền đền bù. Nếu số
tiền ban đầu quá nhỏ thì ta có thể cho rằng cả hai bên đều muốn lấy quả to và
trả khoản đền bù nhỏ bé kia. Nhưng khi số tiền đền bù được nâng lên thì sẽ đến
một lúc một trong hai bên đồng ý lấy quả táo nhỏ cùng với tiền đền bù. Chúng ta
có thể nói một cách chắc chắn rằng nếu hai bên đều đánh giá vấn đề một cách hữu
lí thì họ sẽ tìm ra được biện pháp giải quyết cuộc tranh luận. Và đấy cũng là
biện pháp giải quyết một cách hòa bình khi quyền lợi của các bên xung đột nhau.
Ba mươi năm sau khi Trung Quốc
cải cách và mở cửa, một lần nữa vấn đề giàu nghèo lại được gióng lên, lòng thù
hận với những người giàu có đang ngày một tăng lên. Trong giai đoạn, khi người
ta tập trung vào cuộc đấu tranh giai cấp – khởi đầu của mọi phong trào quần
chúng – thì những đau khổ của quá khứ lại được đem ra so sánh với hạnh phúc của
ngày hôm nay. Xã hội cũ bị phủ nhận và sự bóc lột trước đó được sử dụng như là
hạt giống nhằm kích động lòng hận thù của dân chúng. Khi cuộc Cách mạng văn hóa
được khởi động vào năm 1966 (một phong trào nhằm quét sạch những hiện tượng xấu
xa của hệ thống giai cấp cũ), tại nhiều khu vực con cháu của giai cấp địa chủ
đã bị chôn sống, mặc dù đa số địa chủ đã chết từ trước rồi. Không ai thoát: cả
già lẫn trẻ, thậm chí phụ nữ và trẻ con cũng không thoát. Dân chúng nói rằng phải
có lí do thì người ta mới yêu cho nên cũng phải có lí do thì người ta mới ghét.
Lòng căm thù con em của giai cấp địa chủ xuất phát từ đâu? Nó xuất phát từ lòng
tin tưởng nhiệt thành rằng hậu duệ của giai cấp địa chủ tìm cách bóc lột để tạo
dựng địa vị của chúng. Hiện nay, khoảng cách giàu nghèo còn nổi bật hơn nữa. Và,
trong khi thừa nhận có những người sử dụng các phương tiện phi pháp để làm giàu
thì trong bất kì xã hội nào khoảng cách giàu nghèo cũng là hiện tượng không thể
tránh được. Ngay cả trong các nước đã phát triển, nơi những cách làm giàu phi
pháp bị ngăn chặn một cách quyết liệt thì khoảng cách giàu nghèo vẫn là hiện tượng thường thấy.
Lí lẽ chống lưng cho lòng
căm thù những người có của là lí lẽ sai ngay từ căn cốt. Nếu một người nào đó
căm hận người giàu vì anh ta chưa giàu thì chiến lược tốt nhất mà anh ta có thể
áp dụng là trước hết hãy lật độ người giàu và đợi một thời gian khi đã giàu rồi
thì mới ủng hộ việc bảo vệ quyền của người giàu. Đối với một số nhóm người thì
đây là biện pháp hợp lí nhất. Nhưng đối với toàn xã hội thì không có cách nào
phối hợp tiến trình để cho tất cả mọi người trong xã hội cùng giàu lên với tốc
độ như nhau được. Một số người sẽ giàu trước, còn nếu ta đợi để mọi người cùng
giàu với tốc độ như nhau thì sẽ chẳng có ai giàu hết. Chống lại người giàu là
vô lí vì người nghèo chỉ có thể trở thành giàu có nếu mọi người và bất kì người
nào cũng được bảo đảm có quyền làm giàu, nếu thành quả lao động không bị xâm phạm,
và nếu quyền sở hữu được tôn trọng. Một xã hội, trong đó càng ngày càng có nhiều
người có tài sản và đồng ý rằng “làm giàu là vinh quang” thì trên thực tế có thể
làm được một cái gì đó.
Nhà khoa học Li Ming của
Trung Quốc đã viết rằng chia nhân dân thành hai nhóm “giàu” và “nghèo” là cách
phân biệt không đúng giữa hai nhóm người này. Đúng ra là phải chia thành nhóm
những người có quyền và nhóm những người không có quyền. Ý ông muốn nói là
trong xã hội hiện đại, vấn đề giàu nghèo thực chất là vấn đề quyền. Người giàu
trở thành giàu là vì họ có quyền, còn người nghèo thì không. Quyền mà ông nói tới
là quyền con người chứ không phải là đặc quyền đặc lợi. Không thể có chuyện là
tất cả các công dân đều có đặc quyền đặc lợi được. Chỉ có một nhóm thiểu số có
thể tiếp xúc với đặc quyền đặc lợi mà thôi. Nếu chúng ta muốn giải quyết vấn đề
giàu nghèo thì trước hết chúng ta phải thiết lập nhân quyền ngang nhau cho tất
cả mọi người. Phân tích của Li Minh là sâu sắc và thấu đáo.
Nguồn:
http://studentsforliberty.org/college/the-morality-of-capitalism/
[1] Mao Vu Thức là người sáng lập, đồng
thời là giám đốc Viện nghiên cứu Unirule có trụ sở tại Bắc Kinh. Ông là tác giả
của mấy cuốn sách và nhiều bài báo dành cho giới học giả cũng như dân chúng.
Ông từng giảng dạy kinh tế học tại nhiều trường đại học và là người sáng lập một
số qũy cứu tế và tổ chức tự lực phi chính phủ đầu tiên ở Trung Quốc và là một
người tranh đấu cho tự do dũng cảm nổi tiếng. Trong những năm 1950 ông từng bị
trừng phạt bằng lao động khổ sai, lưu đầy, “cải tạo” và suýt chết đói chỉ vì
nói: “Nếu không mua ở đâu được thìa dĩa thì giá thìa dĩa sẽ tăng” và “Nếu Mao
chủ tịch muốn gặp một nhà khoa học thì ai phải đến thăm ai?”. Và năm 2011, ngay
trước khi cuốn sách này được đưa đi in, ở tuổi 82, ông đã viết một luận văn được
đăng trên mạng của tờ Caixin với nhan đề: “Đưa Mao Trạch Đông trở về với hình
thức nhân văn”. Bài tiểu luận này đã mang đến cho ông những lời đe dọa chết người
và làm cho ông càng nổi tiếng hơn vì đấy chính là tiếng nói của lòng trung thực
và công lí. Mao Vu Thức là một trong những nhân vật theo tư tưởng tự do kiệt xuất
trong thế giới đương đại và là một người làm việc không mệt mỏi nhằm đưa những
tư tưởng tự do và trải nghiệm tự do đến với nhân dân Trung Quốc cũng như nhân
dân thế giới.
[2]
Người
ăn mày may mắn là người ngoài, vì nếu ông ta cũng là người sống trong Vùng đất
của những người quân tử thì cuộc cãi vã sẽ chẳng bao giờ kết thúc được.
[3] Lôi Phong
(18/12/1040-15/08/1962) là một chiến sỹ Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc trở
thành anh hùng dân tộc sau khi chết vào năm 1961 trong một tai nạn giao thông.
Phong trào “Học tập đồng chí Lôi Phong” diễn ra trong toàn quốc được khởi động
vào năm 1963, phong trào này kêu gọi nhân dân Trung Quốc theo gương phấn đấu hi
sinh của anh trong việc phục vụ Đảng cộng sản Trung Quốc và chủ nghĩa xã hội.
No comments:
Post a Comment