April 26, 2011

B. A. Kistiakovski - Trí thức và nhận thức pháp quyền (Phần 1).


Pháp quyền không thể đặt bên cạnh các giá trị về tinh thần như chân lí khoa học, sự tận thiện về đạo đức hay kinh bổn của tôn giáo. Nó chỉ có ý nghĩa tương đối, nội dung của nó một phần nào đó được quyết định bởi những điều kiện kinh tế và xã hội luôn luôn biến đổi. Ý nghĩa tương đối của pháp quyền đã tạo cớ cho một số lí thuyết gia đánh giá nó quá thấp. Một số người cho rằng pháp luật chỉ có giá trị tối thiếu về đạo đức, một số khác lại cho rằng cưỡng chế, nghĩa là bạo lực, là thành tố không thể tách rời của pháp luật. Nếu đúng là như thế thì chẳng có cơ sở nào để chê trách giới trí thức của chúng ta trong việc coi thường pháp quyền hết. Giới trí thức của chúng ta luôn hướng tới những lí tưởng tuyệt đối và trên đường đi của mình nó có thể bỏ qua cái giá trị thứ cấp này. 


Nhưng văn hoá tinh thần bao gồm không chỉ một loại giá trị. Các đặc điểm mang tính hình thức của hoạt động trí tuệ và hoạt động ý chí là thành phần chủ yếu của văn hoá tinh thần. Mà trong các giá trị mang tính hình thức thì pháp quyền, một hình thức phát triển hoàn hảo nhất và gần như có thể cảm nhận được một cách cụ thể nhất, đóng vai trò quan trọng nhất. Pháp luật đưa người ta vào khuôn phép nhanh hơn là tư duy lô gich và phương pháp luận hay những biện pháp rèn luyện ý chí một cách có hệ thống khác. Điều quan trọng là, khác với những hệ thống kỉ luật mang tính cá nhân nói trên, pháp luật là hệ thống mang tính xã hội và lại là hệ thống xã hội duy nhất ép người ta vào kỉ luật. Kỉ luật xã hội chỉ có thể được hình thành nhờ pháp luật; xã hội có kỉ cương và xã hội có trật tự pháp luật phát triển là những khái niệm tương đồng.

Nhìn theo cách đó thì nội dung của pháp quyền đã có một ý nghĩa khác. Nội dung chủ yếu và quan trọng nhất của pháp quyền chính là tự do. Nói cho ngay, đấy là tự do ngoại tại, tự do tương đối, được qui định bởi môi trường xã hội. Nhưng tự do nội tại, tự do tinh thần, tư do có tính bền vững hơn, lại chỉ có thể hiện hữu khi có sự hiện hữu của tự do ngoại tại, cái sau là trường học tuyệt vời cho cái trước.

Nếu coi pháp luật là phương tiện buộc người ta phải tuân thủ kỉ cương một cách toàn diện và tìm hiểu vai trò của nó trong sự phát triển tinh thần của giới trí thức Nga thì ta sẽ có một kết quả rất đáng thất vọng. Giới trí thức Nga bao gồm những người không có kỉ luật, cả về mặt cá nhân lẫn xã hội. Và điều này lại liên quan đến sự kiện là giới trí thức Nga không tôn trọng pháp luật, không nhận thấy giá trị của nó; pháp luật là giá trị văn hoá bị coi thường hơn cả. Trong những điều kiện như thế, giới trí thức của chúng ta không thể có nhận thức pháp quyền vững chắc, ngược lại, nhận thức pháp quyền nằm ở vị trí kém phát triển nhất.

I.

Nhận thức pháp quyền của giới trí thức chỉ có thể phát triển cùng với việc nghiên các tư tưởng pháp quyền trong văn học. Việc nghiên cứu như thế cũng đồng thời là chỉ dấu mức độ giác ngộ pháp luật của chúng ta. Hoạt động miệt mài của nhận thức, của tư duy, dù theo bất kì hướng nào, bao giờ cũng được thể hiện trong văn học. Chúng ta phải tìm trước hết trong văn học những bằng chứng về nhận thức pháp quyền của chúng ta. Nhưng ở đây chúng ta sẽ gặp một sự kiện lạ lùng như sau: nền văn học “phong phú” trong quá khứ không hề có một luận văn hay bài tiểu luận nào nói về pháp quyền có thể tạo được giá trị xã hội hết. Tác phẩm nghiên cứu mang tính hàn lâm thì dĩ nhiên là có, nhưng đấy chỉ là dành cho các chuyên gia mà thôi. Chúng ta không quan tâm đến các tác phẩm như thế; chúng ta chỉ quan tâm đến các trước tác có ý nghĩa xã hội; ở đây chẳng có một tác phẩm nào đủ sức khuấy động được nhận thức pháp quyền của giới trí thức. Có thể nói rằng trong quá khứ đã không có bất cứ tư tưởng pháp quyền nào, như được thể hiện trong lĩnh vực văn học, tham gia vào quá trình phát triển về mặt tư tưởng của giới trí thức. Và hiện nay, trong tập hợp các tư tưởng tạo ra thế giới quan của giới trí thức, tư tưởng pháp quyền cũng chẳng có vai trò gì. Văn học chính là người làm chứng cho cái chỗ thiếu sót trong nhận thức xã hội đó của chúng ta.

Về mặt này thì sự phát triển của chúng ta khác hẳn với sự phát triển của các dân tộc văn minh khác! Trong các giai đoạn tương ứng, ta thấy người Anh, một mặt, có Hobbes[1] với các tác phẩm như Bàn về người công dânLeviathan và Filmer với Người gia trưởng hay là quyền lực tự nhiên của vua chúa[2], còn bên kia là các tác phẩm của Milton[3] nhằm bảo vệ tự do phát biểu và tự do ngôn luận, những bài văn đả kích của Lilburne[4] và các tư tưởng pháp quyền của những người gọi là “cào bằng” (levellers). Giai đoạn phát triển vũ bão nhất trong lịch sử Anh cũng đã tạo ra những tư tưởng pháp quyền đối chọi nhau. Nhưng những tư tưởng này không loại trừ nhau và đến một lúc nào đó đã hình thành một sự thoả hiệp trong tác phẩm Hai khảo luận về chính quyền của Locke[5].

Nội dung tư tưởng của Pháp thế kỉ XVIII không chỉ giới hạn bởi các phát minh trong lĩnh vực tự nhiên và các hệ thống triết lí tự nhiên. Ngược lại, phần lớn hành trang tư tưởng ngự trị trong đầu óc người Pháp thời Khai sáng chắc chắn là được lấy từ Bàn về tinh thần pháp luật của Montesquieu[6] và Bàn về Khế ước xã hội của Rousseau[7]. Đây thực sự là những tư tưởng pháp quyền; thậm chí tư tưởng về khế ước xã hội mà giữa thế kỉ XIX người ta đã giải thích không đúng theo nghĩa xã hội học; định nghĩa về cội nguồn của tổ chức xã hội cũng chủ yếu là tư tưởng pháp quyền, nó qui định tiêu chuẩn tối thượng cho việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Tư tưởng pháp quyền cũng đóng vai trò không nhỏ trong quá trình phát triển về mặt tinh thần của nước Đức. Ở đây, đến cuối thế kỉ XVIII đã định hình một truyền thống vững chắc có nguồn gốc từ nhiều thế kỉ nhờ những người như Althusius[8], Pufendorf[9],  Thomasius[10], Wolff[11]. Cuối cùng, ngay trước giai đoạn lập hiến, đồng thời cũng là giai đoạn phát triển nhất của nền văn hoá tinh thần Đức, pháp quyền đã được công nhận là thành phần không thể tách rời của nền văn hoá đó. Chỉ xin nhớ lại ba đại diện của nền triết học cổ điển Đức là Kant[12], Fichte[13] và Hegel[14], cả ba ông này đều dành cho pháp quyền vị trí quan trọng trong hệ thồng triết học của mình. Trong hệ thống của Hegel, triết lí pháp quyền đã chiếm vị trí cực kì đặc biệt vì ông đã trình bày nó ngay sau lô gích học hoặc bản thể luận, tuy triết học lịch sử, triết học nghệ thuật và ngay cả triết học tôn giáo vẫn chưa được ông chắp bút và chỉ được in theo những ghi chép của những thính giả của ông sau khi ông đã tạ thế. Nhiều triết gia khác, như Herbart[15], Krause[16], Fries[17] ..v..v.. đã có đóng góp vào triết học pháp quyền. Nửa đấu thế kỉ XIX Triết học pháp quyền chắc chắn là tên gọi hay gặp nhất trong số sách viết về triết học ở Đức. Bên cạnh đó, ngay trong những năm 20 của thế kỉ XIX đã diễn ra cuộc tranh luận nổi tiếng giữa Thibaut[18]Savigny[19] “về sứ mệnh lập pháp và luật học của thời đại chúng ta”. Cuộc tranh luận hoàn toàn mang tính pháp lí này đã có ảnh hưởng văn hoá rất sâu sắc; nó thu hút sự quan tâm của tất cả tầng lớp có học và góp phần tích cực vào việc đánh thức nhận thức pháp quyền của tầng lớp này. Nếu cuộc tranh luận này đặt dấu chấm hết cho tư tưởng pháp quyền tự nhiên thì nó cũng đồng thời dẫn đến chiến thắng của trường phái pháp quyền mới – pháp quyền lịch sử. Trường phái này đã cho xuất bản một tác phẩm tuyệt vời của Puchta[20] lấy tên là Tập quán pháp. Tác phẩm này gắn bó chặt chẽ với quá trình phát triển của trường phái pháp quyền mới của người Đức, những người nghiên cứu và bảo vệ các thiết chế pháp luật Đức chống lại pháp quyền La Mã. Ông Beseler[21], một môn đồ của trường phái này, trong tác phẩm Quyền của dân chúng và quyền của luật sư đã làm nổi bật hơn cả Puchta trong tác phẩm Tập quán pháp, vai trò nhận thức pháp luật của dân chúng.
Chưa từng có hiện tượng nào tương tự như thế trong quá trình phát triển của giới trí thức ở nước ta. Trong tất cả các trường đại học tổng hợp ở nước ta đều có khoa luật; một số khoa đã tồn tại được hơn một trăm năm; ở nước ta còn có trên nửa tá trường đại học luật nữa. Tổng cộng, trên toàn nước Nga có gần một trăm năm mươi khoa luật cả thảy. Nhưng không có khoa nào xuất bản được một cuốn sách hay thậm chí một tiểu luận có ý nghĩa xã hội rộng lớn và có ảnh hưởng đối với nhận thức pháp lí của giới trí thức. Trong sách báo về pháp luật của chúng ta thậm chí không thể tìm được một bài báo, trong đó lần đầu tiên nêu ra được tư tưởng pháp quyền, dù không sâu sắc nhưng chính xác và đầy tinh thần chiến đấu như tác phẩm Cuộc đấu tranh cho luật pháp của Ihering[22] chẳng hạn. Cả Tritrerin[23] lẫn Soloviev[24] đều không tạo được một cái gì đáng kể trong tư tưởng pháp quyền. Ngay cả những cái có giá trị của họ thì cũng gần như vô bổ: ảnh hưởng của họ đối với trí thức gần như bằng không; tư tưởng pháp quyền của họ lại được ít người hưởng ứng hơn cả. Thời gian gần đây ở nước ta người ta còn đưa ra tư tưởng phục hồi pháp quyền tự nhiên và tư tưởng pháp quyền trực cảm. Nói về ảnh hưởng của chúng đối với sự phát triển xã hội của chúng ta lúc này là hơi sớm. Nhưng cho đến nay, chưa thấy có cơ sở nào để nghĩ rằng chúng sẽ có ý nghĩa xã hội rộng rãi. Trên thực tế, đâu là diện mạo và đâu là công thức xác định, tức là những thứ tạo cho tư tưởng tính uyển chuyển và giúp cho sự truyền bá của chúng? Tác phẩm, thông qua các tư tưởng này nhằm đánh thức nhận thức pháp quyền của giới trí thức đang nằm ở đâu? Tác phẩm Tinh thần luật phápKhế ước xã hội của chúng ta đang nằm ở đâu?

Người ta có thể bảo rằng dân Nga bước lên con đường lịch sử muộn hơn các dân tộc khác cho nên chúng ta không cần phải tự tìm kiếm tư tưởng tự do và quyền cá nhân, trật tự luật pháp, chế độ lập hiến, tất cả các tư tưởng này đã được phát biểu, được phát triển một cách chi tiết, được đưa vào cuộc sống từ lâu rồi, chúng ta chỉ việc mượn về là đủ. Nếu đúng là như thế thì dù sao chúng ta cũng phải thể nghiệm được các tư tưởng đó; vay mượn không thôi thì chưa đủ, một lúc nào đó trong cuộc đời ta phải sống hết mình với nó; một tư tưởng dù có cũ đến đâu thì với người đang thể nghiệm lần đầu nó cũng vẫn luôn luôn là mới; nó hoàn thành công việc sáng tạo trong nhận thức của người đó, nó đồng hoá và chuyển hoá cùng với những thành tố khác của nhận thức; nó thúc đây người ta hoạt động, hành động; trong khi đó nhận thức pháp quyền của giới trí thức Nga chưa hề bị cuốn hút trọn vẹn bởi tư tưởng về quyền cá nhân và nhà nước pháp quyền, giới trí thức của chúng ta chưa từng trải nghiệm các tư tưởng này. Nhưng thực chất lại không phải như thế. Không thể có những tư tưởng duy nhất, độc nhất về tự do cá nhân, nhà nước pháp quyền, chế độ lập hiến giống nhau cho mọi dân tộc và mọi thời đại, cũng không có chủ nghĩa tư bản cũng như bất kì tổ chức kinh tế hay xã hội giống nhau cho tất cả các nước. Tất cả các tư tưởng pháp quyền trong nhận thức của mỗi dân tộc cũng sẽ có sắc thái và dáng vẻ riêng của mình.

II.

Sự yếu kém trong nhận thức pháp quyền của giới trí thức Nga và sự thờ ơ đối với các tư tưởng pháp quyền là kết quả của thói xấu thâm căn cố đế: không hề có bất kì trật tự luật pháp nào trong đời sống thường nhật của người Nga. Nhân việc này, Gersen[25] ngay từ những năm 50 của thế kỉ trước (thế kỉ XIX – ND) đã viết: “Thiếu sự bảo đảm về pháp lí từ bao đời nay đã đè nặng lên đời sống của người dân và trở thành một kiểu trường học cho chính họ. Sự bất công quá đáng của một nửa điều luật đã dạy dân chúng căm thù nửa còn lại; người ta phục tùng nó như phục tùng sức mạnh vậy thôi. Sự bất bình đẳng trước pháp luật đã giết chết tinh thần tôn trọng pháp luật. Người Nga, dù có chức tước gì đi chăng nữa, cũng tìm cách tránh né hoặc vi phạm pháp luật nếu có thể làm như thế mà không bị trừng phạt; chính phủ cũng hành động hệt như vậy”. Sau khi đã nêu ra đặc điểm chẳng lấy gì làm hay ho của sự vô tổ chức về mặt pháp luật của chúng ta như thế thì chính Gersen, một trí thức Nga chân chính, lại nói thêm: “Hiện nay thì đây là điều nặng nề và đáng buồn. nhưng đối với tương lai thì lại là một ưu điểm lớn. Vì nó cho thấy rằng, ở Nga, phía sau cái chính phủ hữu hình không hề có một lí tưởng nào, không có một chính phủ vô hình, không có sự tôn trọng trật tự hiện hành”.

Như vậy là Gersen cho rằng cái khiếm khuyết căn bản này của đời sống xã hội Nga lại có một ưu điểm. Đây là ý kiến không chỉ của riêng Gersen mà là của cả nhóm người thuộc giai đoạn những năm bốn mươi, mà chủ yếu là những người thân Slav. Những người này cho rằng sự yếu kém của các hình thức pháp luật ngoại tại, thậm chí hoàn toàn không có trật tự pháp luật ngoại tại lại là mặt mạnh chứ không phải là mặt yếu. Thí dụ, lúc đó K. S. Aksakov[26] từng khẳng định rằng trong khi “người phương Tây” đi theo “con đường của sự thật ngoại tại, con đường của chính phủ” thì người Nga đi theo “con đường của sự thật nội tại”. Vì vậy mà ở Nga quan hệ giữa thần dân và Hoàng đế, nhất là giai đoạn trước Petr[27], được xây dựng trên sự tin tưởng lẫn nhau và ước muốn chân thành về lợi ích cho cả hai bên. “Nhưng”, ông giả định, “người ta sẽ bảo chúng ta: nhân dân hay chính quyền có thể phản bội. Cần phải có bảo đảm!”. Và ông đã trả lời: “Không cần bảo đảm! Bảo đảm là xấu. Nơi nào cần bảo đảm thì nơi đó không còn gì là tốt lành nữa; thà chết còn hơn là sống cuộc sống không còn cái tốt, phải dùng cái xấu để bảo vệ”. Sự phủ nhận tính tất yếu của những bảo đảm về mặt pháp luật, thậm chí coi những bảo đảm như thế là xấu đã thúc giục B. N. Almazov[28], một nhà thơ trào phúng, cho K. S. Aksakov đọc một bài thơ có bắt đầu như sau:  

Vì những nguyên nhân nội tại
Chúng ta không có
Tư tưởng luật pháp lành mạnh,
Con đẻ của quỉ sứ.
Tâm hồn rộng mở của người Nga
Lí tưởng của chúng ta
Không thể chui vào những hình thức chật hẹp
Của các nguyên tắc pháp luật….

Bài thơ này, có hơi thổi phồng, về thực chất đã nói đúng quan niệm của K. S. Aksakov và những người thân Slav khác. 

Sẽ là sai lầm khi cho rằng thái độ coi thường ý nghĩa của các nguyên tắc pháp luật đối với đời sống xã hội chỉ là đặc trưng của những người thân Slav. Ở những người thân Slav điều này được thể hiện dưới hình thức quyết liệt nhất và được các hậu duệ của họ đưa đến mức cực đoan nhất, thí dụ ông K. N. Leontiev[29] gần như đã ca ngợi người Nga vì họ không có “tính trung thực sách vở” như những người tư sản Tây Âu. Nhưng chúng ta biết rằng Gersen nhận thấy việc không có trật tự pháp luật lại là ưu thế của chúng ta. Và phải công nhận rằng không nhận thức được ý nghĩa của các tiêu chuẩn pháp lí đối với đời sống xã hội là đặc điểm chung của giới trí thức của chúng ta…



III.

Cơ sở của trật tự pháp luật bền vững là quyền tự do cá nhân và sự bất khả xâm phạm của cá nhân con người. Dường như giới trí thức Nga có đầy đủ lí do để quan tâm đến các quyền của cá nhân. Từ xa xưa, ở nước ta người ta đã công nhận rằng toàn bộ sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào việc là cá nhân có vị trí như thế nào. Vì vậy ngay cả việc thay đổi các xu hướng xã hội cũng được thể hiện bằng việc thay đổi công thức nói về cá nhân. Người ta đưa ra hết công thức này đến công thức khác: người có tư duy phê phán, có ý thức, phát triển toàn diện, có tinh thần cách mạng, có đạo đức, có đức tin tôn giáo, tự hoàn thiện. Có cả những xu hướng ngược lại, đấy là những xu hướng muốn hoà tan cá nhân vào quyền lợi xã hội, tuyên bố cá nhân là quantité negligeable[30] và bảo vệ con người của cộng đồng. Cuối cùng, thời gian gần tư tưởng của Nietzsche[31], của Stirner[32] và chủ nghĩa vô chính phủ đã đưa ra những khẩu hiệu mới về con người cá nhân tự cấp tự túc, con người ích kỉ và con người siêu nhân. Thật khó có lĩnh vực nào được khảo sát kĩ lưỡng và toàn diện như lí tưởng về nhân cách và có thể cho rằng chẳng còn gì mà nghiên cứu nữa. Nhưng chính chúng ta lại khẳng định một lỗ hổng cực kì to lớn, vì nhận thức xã hội của chúng ta chưa từng đưa ra lí lưởng về nhân cách pháp luật. Cả hai khía cạnh của lí tưởng này: con người được pháp luật đưa vào kỉ cương và bằng một trật tự pháp luật ổn định và con người được phú cho tất cả các quyền và được tự do sử dụng các quyền đó, là những khái niệm xa lạ với nhận thức của giới trí thức của chúng ta.

Một loạt các sự kiện cho thấy lời khẳng định trên là đúng. Các lãnh tụ tinh thần của giới trí thức Nga đã nhiều lần hoặc hoàn toàn coi thường các quyền lợi về pháp luật của cá nhân hoặc có thái độ thù địch với các quyền lợi đó. Thí dụ, một trong những luật gia kiêm tư tưởng gia nổi tiếng của chúng ta là K. D. Kavelin[33] đã quan tâm rất nhiều đến vấn đề cá nhân nói chung: trong bài báo Khảo sát đời sống pháp luật của nước Nga cổ đại trên tờ Người đương thời in năm 1847, ông đã ghi nhận lần đầu tiên rằng trong lịch sử thiết chế pháp luật Nga, cá nhân đã bị gia đình, làng xóm và nhà nước che lấp và chẳng có một qui định pháp luật nào; sau đó, từ cuối những năm 60 (thế kỉ XIX- ND) ông chuyển sang nghiên cứu các vấn đề tâm lí và đức dục với hi vọng sẽ tìm được trong lí giải mang tính lí thuyết quan hệ giữa cá nhân và xã hội phương tiện giải quyết một cách đúng đắn tất cả các vấn đề cấp bách của xã hội. Nhưng điều này cũng không ngăn cản ông, ngay trong giai đoạn quyết liệt nhất hồi đầu những năm 60, khi lần đầu tiên câu hỏi về việc hoàn thành cuộc cải cách của Aleksander II[34], tỏ thái độ bàng quan không thể tưởng tượng nổi đối với việc bảo đảm các quyền của cá nhân. Trong cuốn sách mỏng dấu tên in ở Berlin năm 1862 và nhất là trong thư từ trao đổi với Gersen, ông đã kịch liệt phê phán các dự thảo hiến pháp do các hội nghị quí tộc thời đó đưa ra; ông cho rằng quí tộc sẽ là đại diện của nhân dân và chính phủ nhân dân sẽ gồm toàn quí tộc và vì vậy sẽ dẫn đến sự thống trị của quí tộc. Ông đã phủ nhận chế độ lập hiến nhân danh khát vọng dân chủ, nhưng như thế là ông đã coi thường giá trị pháp lí của nó. Đối với K. D. Kavelin, như ông nói trong bức thư, dường như không tồn tại cái mà chúng ta coi là chân lí không thể tranh cãi, đấy là tư do và quyền bất khả xâm phạm của cá nhân chỉ có thể được thực hiện dưới chính thể lập hiến vì nói chung tư tưởng về cuộc đấu tranh cho quyền cá nhân là hoàn toàn xa lạ đối với ông.

Trong những năm 70 (thế kỉ XIX – ND) thái độ bàng quan đối với các quyền cá nhân, đôi khi còn chuyển hoá thành thái độ thù địch, không những đã gia tăng mà còn được biện hộ về mặt lí thuyết nữa. N. K. Mikhailovski[35], chắc chắn là người đại diện nổi bật nhất của giai đoạn này, thay mặt cho thế hệ mình, đưa ra một câu trả lời điển hình rõ ràng và chính xác cho câu hỏi mà chúng ta quan tâm. Ông tuyên bố thẳng thừng rằng “tự do là một ý tưởng vĩ đại và đầy cám dỗ, nhưng chúng ta không thích tự do nếu nó, giống như ở châu Âu, chỉ làm gia tăng món nợ kéo dài hàng thế kỉ của chúng ta đối với nhân dân” và nói thêm: “tôi biết chắc rằng mình đã thể hiện được một tư tưởng thân thiết nhất và chân thành nhất của thời đại chúng ta, cái tư tưởng đã tạo cho những năm 70 diện mạo điển hình và vì nó mà những năm 70 đã tạo ra số lượng nạn nhân khủng khiếp, không thể nào đếm hết được[36]”. Sự phủ nhận chế độ pháp quyền đã được nâng thành hệ thống có căn cứ xác định và phát triển. Mikhailovski biện hộ cho hệ thống này như sau: “Là những người có thái độ hoài nghi đối với nguyên tắc tự do, chúng ta sẵn sàng không tranh giành bất cứ quyền nào cho mình, ngay cả những điều sơ đẳng nhất mà ngày xưa người ta gọi là quyền tự nhiên, chứ không chỉ đặc quyền đặc lợi, chuyện này thì chẳng có gì để nói. Chúng ta hoàn toàn chấp nhận sự thô lậu của luật pháp và chịu đựng mọi tai ương hoạn nạn. Tất nhiên sự từ bỏ này, có thể nói, mang tính cao thượng vì có ai đưa cho chúng ta cái gì ngoài sự thô lậu đâu, nhưng tôi nói về tâm trạng mà cái tâm trạng này đã đạt đến mức giới hạn, thậm chí không thể tưởng tượng nổi, lịch sử đã cho thấy như thế. ‘Mặc kệ họ đánh, nông dân bị đánh là đáng lắm’, có thể thể hiện cái tâm trạng đó một cách gần đúng, ở mức độ quá quắt nhất của nó. Tất cả chỉ để nhằm một cơ hội, cái cơ hội mà chúng ta đã để cả tâm trí vào, mà cụ thể là cơ hội chuyển trực tiếp sang một trật tự cao hơn, tốt hơn, bỏ qua giai đoạn trung gian của tiến trình phát triển ở châu Âu, tức là bỏ qua giai đoạn nhà nước tư bản. Chúng ta tin rằng nước Nga có thể thiết lập cho mình một con đường lịch sử mới, khác hẳn với châu Âu, mà đối với chúng ta thì điều quan trọng không phải là một con đường mang tính dân tộc nào đó mà là con đường tốt đẹp, và chúng ta công nhận là tốt đẹp khi đấy là con đường cải tạo một cách tự giác và thực tế diện mạo dân tộc cho phù hợp với quyền lợi của nhân dân[37]”.

Đấy là những luận điểm chủ yếu của thế giới quan dân tuý, liên quan đến các vấn đề pháp quyền. Mikhailovski và những người thuộc thế hệ ông từ chối quyền tự do chính trị và chế độ lập hiến để nhắm tới cơ hội để đưa một cách trực tiếp nước Nga sang chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng toàn bộ cái học thuyết xã hội học này lại được xây dựng trên sự mù tịt về bản chất của chế độ lập hiến. Kavelin phản đối các dự án hiến pháp vì vào thời của ông, đại diện của nhân dân hoá ra lại là đại diện của quí tộc, còn Mikhailovski phản đối chế độ lập hiến vì cho rằng đấy là nhà nước tư bản. Do sự yếu kém của nhận thức pháp quyền cố hữu của giới trí thức của chúng ta mà cả hai ông đều chỉ chú ý đến khía cạnh xã hội của chế độ lập hiến mà không nhận thấy tính chất pháp quyền của nó, bản chất của nó trước hết là nhà nước pháp quyền. Mà tính chất pháp quyền của nhà nước hiến định được thể hiện rõ nhất trong việc bảo vệ cá nhân, bảo vệ quyền bất khả xâm phạm và tự do của cá nhân.

Còn 1 kì
Nguồn: Những cột mốc (Vekhi) – 1909.

Đã đăng trong tập tiểu luận Về trí thức Nga, Nhà xuất bản trí thức, Trang 73-111, Hà Nội, 2009.


B. A. Kistiakovski (1869-1920) là nhà triết gia, luật học và xã hội học nổi tiếng, đảng viên Đảng dân chủ lập hiến. Kiến thức về pháp luật Nga của ông sâu sắc đến mức Max Weber đã chọn ông làm cố vấn khi viết về các đảng phái chính trị ở Nga. Bài Trí thức và nhận thức pháp quyền được đăng trong Những cột mốc, xuất bản lần đầu năm 1909.



[1] Thomas Hobbes (1588-1679), triết gia và chính khách người Anh
[2] Sir Robert Filmer (1588-1653), lí thuyết gia chính trị; tác phẩm Patriacha, or the Natural Power of Kinhgs nói tới ở đây xuất bản năm 1680.
[3] John Milton (1608 – 1674), nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng người Anh.

[4] John Lilburne (1615-1657), nhà hoạt động chính trị người Anh.

[5] John Locke (1632-1704), một trong những triết gia vĩ đại nhất của châu Âu thế kỉ XVII, tác phẩm Two Treatises of Government (Hai khảo luận về chính quyền) xuất bản năm 1689, trong đó Khảo luận thứ hai về chính quyền. Chính quyền dân sự đã được Lê Tuấn Huy dịch, nhà xuất bản trí thức ấn hành năm 2006. 
[6] Montesquieu (1689-1755), người tiên phong trong phong trào Khai sáng Pháp thế kỉ XVIII. Tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật được Hoàng Thanh Đạm dịch, nhà xuất bản Lý luận chính trị ấn hành năm 2004
[7] Jean-Jacque Rousseau (1789-1794), tác phẩm Bàn về Khế ước xã hội được Hoàng Thanh Đạm dịch, nhà xuất bản Lý luận chính trị ấn hành năm 2004

[8] Johannes Althusius (1557-1638), triết gia người Đức.
[9] Pufendorf Samuel (1632-1694), luật sư nổi tiếng người Đức
[10] Thomasius Christian (1655-1728), triết gia người Đức
[11] Christian Wolff (1679-1754), tư tưởng gia người Đức
[12] Kant E. (1724-1804), ông tổ của nền triết học cổ điển Đức.

[13] Johann Gottlieb Fichte (1762 – 1814), triết gia nổi tiếng người Đức.
[14] Hegel G. (1770-1831), triết gia người Đức, ông tổ của phép biện chứng.
[15] Iohann Friedrich Herbart (1776-1841), triết học, nhà tâm lí học và giáo dục học nổi tiếng người Đức.
[16] Christian Friedrich Krause (1781-1832), triết gia người Đức. 
[17] Jakob Friedrich Fries (1773-1843), triết gia người Đức.

[18] Thibaut (1772-1840), luật gia nổi tiếng người Đức
[19] Savigny Friedrich Karl (1814-1875), luật gia nổi tiếng người Đức.
[20] Puchta  (1798-1846), luật gia nổi tiếng người Đức.
[21] Beseler (1809-1888), luật gia và chính trị gia nổi tiếng người Đức

[22] von Ihering (1818-1892), luật gia nổi tiếng người Đức
[23] Tritrerin G. V. (1828-1804), luật sư, triết gia và nhà sử học nổi tiếng người Nga.
[24] Vl. Soloviev (1853-1900), nhà thơ và triết gia nổi tiếng người Nga.
[25] Gersen A. I. (1812-1870), nhà triết học, nhà chính luận và nhà văn nổi tiếng người Nga.

[26] K. S. Aksakov (1817-1860), nhà chính luận, nhà sử học, nhà ngôn ngữ học, nhà thơ Nga.

[27] Petr (1672-1720), thường gọi là Petr Đại đế.

[28] B. N. Almazov (1827-1876), nhà phê bình văn học, nhà thơ trào phúng Nga.

[29] Leontiev K. N. (1831-1891), triết gia tôn giáo người Nga.

[30] Không có giá trị đáng kể - Tiếng Pháp, ND.
[31] Nietzsche F. (1844-1900), triết gia vĩ đại người Đức.
[32] Max Stirner, tên thật là  Johann Kaspar Schmidt (1806-1858), triết gia người Đức.

[33] K. D. Kavelin (1818-1885), nhà sử học, nhà xã hội học và luật học nổi tiếng người Nga.

[34] Aleksander II (1818-1881), hoàng đế Nga từ năm 1885. Bị những người dân tuý ám sát.

[35] N. K. Mikhailovski (1842-1904), nhà xã hội học, nhà báo và nhà phê bình văn học Nga, lí thuyết gia của phong trào dân tuý.
[36] Xem Mikhailovski N. K. Toàn tập, tập IV, trang 949.

[37] Tác phẩm đã dẫn, trang 952.

No comments:

Post a Comment