CÁC NHÀ VÔ ĐỊCH ẨN DANH CỦA THẾ KỈ XXI
CHIẾN LƯỢC DẪN TỚI THÀNH CÔNG CỦA NHỮNG CÔNG TI
ẨN DANH HÀNG ĐẦU THẾ GIỚI
HERMANN SIMON
CÁC NHÀ VÔ ĐỊCH ẨN DANH CỦA THẾ KỈ XXI
CHIẾN LƯỢC DẪN TỚI THÀNH CÔNG CỦA NHỮNG CÔNG TI
ẨN DANH HÀNG ĐẦU THẾ GIỚI
NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC
Chương 2
Vai trò của Đức trong nhà nước
toàn cầu
Đức có vai trò cực kì đặc biệt trong nhà nước toàn cầu. Trong một số khía cạnh
của toàn cầu hóa, Đức bỏ xa một số nước lớn. Năm 1986, giáo sư Theodore Levitt,
một đạo
sư trong lĩnh vực marketing, đang dạy tại trường Harvard Business School, hỏi
tôi vì sao Đức luôn luôn là nước dẫn đầu bảng tổng sắp về xuất khẩu trên thế giới.
Trước đó ba năm, ông đã phổ biến thuật ngữ “toàn cầu hóa”
trong một bài báo có tính đột phá trên tờ Harvard
Business Review.[1]
Ông muốn tìm hiểu vì sao một nước tương đối nhỏ trên thế giới lại có thể thành
công đến như thế trong việc xuất khẩu sản phẩm của họ. Nói cho cùng, Đức chỉ
chiếm 1,2% dân số thế giới và chỉ tạo được khoảng 5% tổng sản phẩm của toàn thế
giới (GDP) mà thôi. Tôi gặp Giáo sư Levitt vào năm 1986, cũng là năm Đức vượt Mỹ
và trở thành nhà xuất khẩu hàng đầu thế giới. Đến nay tình hình cũng chưa có
thay đổi nhiều. Trong 25 năm qua, thì 10 năm Đức chiếm vị trí số 1 về xuất khẩu.
Mỹ, với nền kinh tế lớn gấp bốn lần Đức, giữ vị trí cao nhất 13 lần, gần đây nhất
là năm 2002. Trung Quốc leo lên vị trí số 1 năm 2009 và có vẻ như sẽ giữ được vị
trí này trong tương lai gần. Nhật Bản, nước vốn giữ vị trí thứ ba trong nhiều
năm, và là nước xuất khẩu được nhiều người ngưỡng mộ, từ năm 2004 đã không còn
nằm trong nhóm ba nước hàng đầu. “Một trong những cỗ máy xuất khẩu vĩ đại nhất
đã hết hơi”, tờ Wall Street Journal
bình luận như thế năm 2011, kể từ năm 1980 đây là lần đầu tiên cán cân thương mại
của Nhật Bản trượt qua vạch đỏ.[2]
Đức vẫn vững vàng
Bức tranh còn ấn tượng hơn khi so sánh xuất khẩu trên đầu người. Nhưng so
sánh những nước lớn bé khác nhau sẽ không có nhiều ý nghĩa. Lí do thật là đơn
giản. Hãy tưởng tượng một nước chỉ có một người, và người đó xuất khẩu tất cả
những gì sản xuất được. Xuất khẩu trên đầu người đúng bằng GDP của nước đó. Nói
cách khác, chỉ tiêu xuất khẩu và nhập khẩu của nước đó đều bằng 100%. Mặt khác,
nếu cả trái đất là một nước thì xuất khẩu trên đầu người của nó sẽ bằng không.
Nghĩa là nước lớn đương nhiên có xuất khẩu trên đầu người nhỏ hơn.[3] Vì vậy mà hình 2.1 (xuất khẩu trên đầu người
năm 2010) chỉ bao gồm những nước với hơn 40 triệu dân và có lượng hàng hóa xuất
khẩu đáng kể. Ví dụ, Ấn Độ không được đưa vào vì xuất khẩu trên đầu người của
nước này chỉ có 183 USD, thua xa những nước được xem xét. Phần trên của đồ thị
cho thấy giá trị xuất khẩu tuyệt đối trên đầu người; phần dưới là hệ số khác biệt
về quy mô dân số, được hiệu chỉnh bằng phương pháp hồi quy tuyến tính.[4] Đường hồi
quy tạo ra “tiêu chuẩn thực nghiệm”. Sai lệch so với tiêu chuẩn được chỉ rõ ở
phần dưới của hình 2.1. Nó là chỉ dấu có ý nghĩa của khả năng xuất khẩu của đất
nước.
Hình 2.1: Xuất khẩu trên đầu người của một số nước vào năm 2010.
Phần trên: Giá trị tuyệt đối. Phần dưới: sai lệch đã được hiệu chỉnh theo quy
mô dân số
Vị trí nhô ra của Đức là cực kì ấn tượng. Mặc dù
Hàn Quốc, Pháp và
Tại sao Đức phải xuất khẩu
Người nghe ở bên ngoài nước Đức tỏ ra ngạc nhiên khi tôi trình bày các số
liệu trên hình 2.1. Thành tích xuất khẩu nổi bật của Đức chưa được nhiều người
nước ngoài biết đến. Và nó đã tạo ra phản ứng mạnh. Sau vụ khủng hoảng tài
chính, đã xuất hiện những lời yêu cầu, đòi Đức phải kiềm chế xuất khẩu cho
ngang bằng với các lân bang ở châu Âu và Mỹ. Nước này bị lên án là xuất khẩu
quá nhiều và gây ra sự mất cân đối kinh tế. Chẳng khác gì dọa nạt đồng nghiệp
vì anh ta làm việc tích cực hơn và thành công hơn những người khác trong nhóm.
Theo Adam Posen, cộng tác viên của Viện Kinh tế quốc tế ở
Đây là lời khuyên mà trong bất kì hoàn cảnh nào Đức và các công ti của nước
này cũng không được theo. Trước hết, các chuyên gia này dường như không biết rằng
nhà xuất khẩu chính của Đức không phải là nhà nước (khác với một số nước với lượng
vũ khí xuất khẩu rất lớn và các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước) mà là các
công ti tư nhân, đặc biệt là những công ti vừa và nhỏ và các nhà vô địch ẩn
danh. Tất cả công việc những công ti này làm là tìm khách hàng trên khắp thế giới,
tức là tìm những người muốn mua sản phẩm của họ và sẵn sàng trả tiền - ngay cả
nếu giá cả của Đức bị coi là cao. Sau khi đã hiểu được điều đó, liệu còn có ai
nghiêm túc đề nghị chính phủ ở
Nếu người Đức muốn giữ được mức sống cao thì họ phải tiếp tục xuất khẩu,
không còn lựa chọn nào khác.[1]
Đương nhiên, sẽ là tuyệt vời nếu tiêu thụ và dịch vụ trong nước đóng góp mạnh
hơn vào sự tăng trưởng của Đức, nhưng đây dường như chỉ mãi là ước muốn mà
thôi. Dân số đang già đi và đang giảm đi nhanh chóng của Đức chắc chắn ít tiêu
thụ hơn những xã hội trẻ và đang phát triển. Các sáng kiến của chính phủ chẳng
thay đổi được gì nhiều trong chuyện này, và với khoản nợ công của Đức hiện nay,
tôi cho rằng sẽ là phi lí khi đòi hỏi nước này chi tiêu nhiều hơn.
Luận cứ thẳng thắn thứ hai nhằm ủng hộ cho sự cần thiết phải tiếp tục tập
trung vào xuất khẩu của Đức là cơ cấu công nghiệp không được mềm dẻo. Phần lớn
các công ti của Đức đều chuyên vào một số sản phẩm và thị trường nhất định. Điều
này càng đặc biệt đúng đối với các nhà vô địch ẩn danh - và đấy là một trong những
lí do làm cho sản phẩm của Đức đạt được đẳng cấp quốc tế. Chỉ có tập trung vào
một số sản phẩm và chuyên môn hóa mới dẫn tới đẳng cấp quốc tế. Nhưng chuyên
môn hóa hẹp lại khó tiêu thụ tại thị trường nội địa. Nhiều công ti Đức, trong
đó phần lớn là các nhà vô địch ẩn danh, chỉ phục vụ các thị trường riêng của
mình. Cách duy nhất làm cho thị trường đủ rộng là bán sản phẩm của họ trên khắp
thế giới. Chú tâm và toàn cầu hóa là hai trụ cột không thể tách rời trong chiến
lược toàn cầu của các công ti Đức. Hàng xuất khẩu thường đóng góp hơn 80% doanh
thu phản ánh điều đó. Muốn giữ cho lực lượng lao động có việc làm và mức sống
cao, Đức không có lựa chọn nào khác ngoài việc bám vào phương châm đã được kiểm
nghiệm: “Xuất khẩu, còn gì nữa?” Điều thú vị là một số nước hay những công ti tập
trung chủ yếu vào xuất khẩu khác cũng có tình hình tương tự như thế. Ông
Jeffrey Immelt, giám đốc điều hành viết trong báo cáo năm 2011 của General
Electric như sau: “Năm 2012, chúng tôi sẽ bán 140 turbine khí hạng nặng, không
đến 5 chiếc sẽ được bán ở Mỹ. Vì vậy chúng tôi phải bán ở 120 nước, chúng tôi
phải xây dựng năng lực toàn cầu, chúng tôi phải xuất khẩu. Trong thập kỉ vừa
qua, xuất khẩu của chúng tôi đã tăng gấp hơn hai lần, tạo ra hàng ngàn chỗ làm
việc lương cao ở Mỹ. Chúng tôi luôn nằm trong số những nhà xuất khẩu hàng đầu của
Mỹ.”[2]
Thay vì nói với Đức là cần phải giảm lượng hàng xuất khẩu, các nước khác cần
phải cải thiện khả năng cạnh tranh và thành tích xuất khẩu của họ. Đặc biệt là
những nước lân bang phía
Vì vậy, trong tương lai các công ti Đức sẽ phải tiếp tục tập trung vào xuất
khẩu. Cơ cấu của nền kinh tế Đức được xây dựng để phục vụ thị trường nước
ngoài. Muốn phát đạt, các nhà vô địch ẩn danh của nước này phải đáp ứng nhu cầu
của thị trường thế giới. Cơ cấu hiện tại ở Đức có cội nguồn từ quá khứ, một số
trường hợp từ thế kỉ XIX. Họ không thể thay đổi một cách nhanh chóng, ngay cả
khi nhà nước và lĩnh vực kinh doanh muốn như thế.
Vì sao Đức lại thành công đến
thế trong lĩnh vực xuất khẩu?
Chắc chắn là mọi người đã hỏi tôi câu này hàng
ngàn lần rồi. Không có câu trả lời đơn giản vì không có một nguyên nhân duy nhất.[3] Nhưng rõ
ràng là thành tích xuất khẩu của Đức trước hết không phải do những công ti khổng
lồ của nó. Năm 2010 Mỹ có 133 công ti lọt vào danh sách Fortune Global 500, Nhật Bản có 68 công ti, gấp đôi con số 34 của Đức. Ngay
Pháp cũng có 35 công ti lọt vào danh sách này. Pháp có nhiều công ti nằm trong
danh sách Fortune Global 500, đồng thời là những công ti hàng đầu trên thị trường
thế giới - với doanh thu trung bình hơn 2,6 tỉ USD.[4] Ở Đức
có tương đối ít các công ti quốc tế lớn. Một công trình nghiên cứu gần đây cho
thấy chỉ có bốn công ti của Đức được xếp vào hàng 100 công ti có giá trị nhất
thế giới. Đấy là: Siemens (xếp thứ 55), SAP (xếp thứ 79), Volkswagen (xếp thứ
85), và BASF (xếp thứ 92).[5]
Như vậy là, so với toàn thế giới, Đức chỉ có vai trò tương đối nhỏ. Hình 2.2
minh họa quan hệ giữa số công ti lớn và khối lượng hàng xuất khẩu của một số nước.
Hệ số xác định giữa số công ti trong danh sách Fortune Global 500 và xuất khẩu
là 48,38%. Nói cách khác, số công ti chỉ giải thích chưa được một nửa sự dao động
trong xuất khẩu mà thôi.
Hình 2.2: Số công ti trong danh sách Fortune Global 500 và xuất
khẩu theo từng nước
Các nước đã phát triển cao đều có những công ti hoạt động trên phạm vi toàn
cầu với lượng hàng hóa xuất khẩu rất lớn - nhiều công ti hơn là Đức. Thế thì tại
sao các nước này lại yếu về xuất khẩu?
Những buổi nói chuyện của tôi với giáo sư Levitt từ năm 1986 và nhiều năm
nghiên cứu sau đó khẳng định đi khẳng định lại rằng thành tựu của Đức trong
lĩnh vực xuất khẩu là do các công ti vừa và nhỏ. Không phải công ti vừa và nhỏ
nào cũng là nhà xuất khẩu thành công, nhưng bất cứ người nào tương đối thành thạo
trong lĩnh vực kinh tế học cũng sẽ nói cho bạn biết rằng có rất nhiều công ti của
Đức trong lĩnh vực kinh doanh là những công ti hàng đầu trên thị trường châu Âu
và thị trường thế giới. Không nghi ngờ gì rằng những công ti hàng đầu thế giới
này đã có những đóng góp to lớn vào việc ổn định và củng cố thành tích xuất khẩu
của Đức và rằng những công ti này đang dẫn dắt nền kinh tế Đức. Trong suốt 25
năm qua chưa có thay đổi gì nhiều. Các công ti nhỏ và vừa hiện đang có vai trò
to lớn chưa từng có trong quá trình toàn cầu hóa hơn bất kì giai đoạn nào khác.
Chúng tôi tìm được tất cả 1.506 nhà vô địch ẩn danh trong các nước nói tiếng
Đức (trừ Nam Tyrolia và Tổng phía Đông của Bỉ). Đấy là 55,1% các nhà vô địch ẩn
danh trên khắp thế giới mà chúng tôi tìm được cho đến nay. Mặc dù các nước nói
tiếng Đức có chưa đến 100 triệu dân, chỉ chiếm 1,5% dân số thế giới, nhưng họ lại
có nhiều công ti quy mô vừa đứng đầu thị trường thế giới hơn tất cả các nước
khác cộng lại. Một khám phá gây ngạc nhiên khác là Đức, Thụy Sĩ, Áo và
Luxembourg có số lượng các nhà vô địch ẩn danh trên 1 triệu dân tương tự nhau
(khoảng từ 14 đến 16). Các nước vùng
Những nước lớn như
Cần phải thận trọng với những số liệu thống kê trên hình 2.3. Bộ sưu tập
các nhà vô địch ẩn danh ở Đức chắc chắn là đầy đủ hơn so với những nơi khác.
Nhưng cần phải ghi nhận rằng, nhiều nhà nghiên cứu ở những nước khác cũng đã
nghiên cứu các nhà vô địch ẩn danh với những mức độ khác nhau.[1]
Số liệu về Mỹ cần phải được xử lí một cách thận trọng nhất, nhưng xu hướng
chung là đúng và những công trình nghiên cứu trong tương lai sẽ không tạo ra
thay đổi cơ bản. Số liệu thu thập được xác nhận giả thuyết cho rằng thành tích
xuất khẩu nổi bật và ổn định của các nước nói tiếng Đức là do các nhà vô địch ẩn
danh.
Tại sao Đức lại có nhiều nhà
vô địch ẩn danh đến thế?
Câu hỏi này dẫn chúng ta đến một câu hỏi khác: Vì sao Đức lại có nhiều nhà
vô địch ẩn danh đến thế? Một lần nữa, không có câu trả lời đơn giản, nhưng
chúng tôi xin đưa ra một số giả thuyết có thể giúp giải thích vấn đề.
Một tập hợp của những quốc gia nhỏ
bé (Địa phương chủ nghĩa rải rác khắp nơi)
Khác với Pháp hay Nhật Bản, đến tận cuối thế kỉ XIX, Đức chưa phải là một
quốc gia mà chỉ là một tập hợp những quốc gia nhỏ bé. Các công ti muốn phát triển
phải quốc tế hóa một cách nhanh chóng, không có lựa chọn nào khác. Nhà sản xuất
ở
Tôi thường gặp các nhà quản lí ở những nước lớn có thái độ lưỡng lự trước
việc quốc tế hóa hay sự cần thiết của quốc tế hóa. Đây là thái độ thường gặp
trong các công ti quy mô vừa ở Mỹ. Nhiều công ti trong số đó chỉ kinh doanh
trên thị trường nội địa, mặc dù họ có sản phẩm cạnh tranh và bí quyết công nghệ
tuyệt vời. Khi được hỏi tại sao không vươn ra thị trường thế giới, câu trả lời
thường thấy là: Thị trường Mỹ đã đủ lớn rồi, tại sao phải đi ra ngoài cho xa?
Trên bình diện quốc tế, mọi thứ đều phức tạp hơn rất nhiều và không thành thạo
ngoại ngữ làm cho nhiều công ti cứ bám mãi vào thị trường nội địa. Tôi cũng gặp
những luận cứ như thế ở Pháp, Nhật Bản và cả Trung Quốc nữa. Ít thấy thái độ
thu mình lại như thế ở Đức, Áo hay Thụy Sĩ; đấy là những nước mà ai cũng phải
tìm cách giữ cho bằng được một miếng bánh ở ngoại quốc. Các nhà vô địch ẩn danh
và hàng xuất khẩu của họ phát đạt trên mảnh đất màu mỡ này.
Nghề truyền thống
Nhiều khu vực ở Đức có những nghề truyền thống mà
các doanh nghiệp hiện nay vẫn dựa vào. Đồng hồ được sản xuất ở khu vực
Ở miền Bắc Đức, sự quy tụ đáng chú ý của 39 công ti xung quanh Göttingen có
nguồn gốc từ một nghề truyền thống khác, mà cụ thể là khoa học đo lường. Mật độ
dày đặc của các chuyên gia trong lĩnh vực này có nguồn gốc từ Đại học tổng hợp
Göttingen, trường phái toán học của đại học này đã từng dẫn đầu thế giới suốt
hàng trăm năm. Có thể coi một số công ti là hậu duệ của nhà toán học nổi tiếng
Carl Friedrich Gauss (1777-1855).[6]
Đức có một số khu vực với những nghề truyền thống còn ảnh hưởng đến tận ngày
nay. Theo ông Edward Krubasik, cựu giám đốc hãng Siemens, thì: “Đức sử dụng
công nghệ có cơ sở từ thời Trung cổ để trở thành người thành công trong thế kỉ
XXI.” Còn ông Peter Renner, trưởng phòng giám sát của hãng Dolphin Technology,
một chuyên gia khác trong công nghệ đo lường, tuyên bố: “Đức vẫn là một phòng
kĩ thuật lớn.” Một số thứ thực ra vẫn chưa thay đổi.
Cạnh tranh quyết liệt
Theo mô hình cạnh tranh kim cương thừa của Michael Porter nhằm giành lợi thế
cạnh tranh của các dân tộc thì tinh thần cạnh tranh mạnh mẽ ở trong nước là
nhân tố quan trọng trong khả năng cạnh tranh quốc tế của đất nước. Mô hình này
bao gồm nhân tố sản xuất, khả năng cạnh tranh, nhu cầu và công nghiệp phụ trợ
trong một nước cụ thể.[7]
Giả định quan trọng nhất của Porter là mỗi thành tố này đều có đóng góp vào
thành tích của một ngành hay một công ti, nhưng khả năng cạnh tranh đóng vai trò
chính. Ông tuyên bố như sau: “Khám phá có tính thực nghiệm quan trọng nhất từ
công trình nghiên cứu của chúng tôi là sự kết hợp giữa sự ganh đua quyết liệt ở
trong nước và quá trình tạo ra và giữ vững lợi thế cạnh tranh trong một ngành
công nghiệp. Những quốc gia hàng đầu thế giới thường có nhiều đối thủ cạnh
tranh mạnh mẽ ở trong nước.”[8]
Cạnh tranh trong phần lớn các lĩnh vực ở Đức là rất khốc liệt. Đây có lẽ là một
trong những lí do vì sao các công ti Đức thường có lợi nhuận thấp - so với thế
giới - trong một thời gian dài.[9]
Và các nhà vô địch ẩn danh minh họa cho điều kiện của Porter rằng, muốn tạo được
một công ti hàng đầu thế giới thì mỗi ngành cần phải có mấy công ti có sức cạnh
tranh mạnh mẽ. Một phần ba các nhà vô địch ẩn danh nói rằng các đối thủ cạnh
tranh mạnh mẽ nhất của họ nằm ở Đức. Sự cạnh tranh khắc nghiệp ở trong nước là
nhân tố chính thúc đẩy sức cạnh tranh của các công ti Đức.
Cụm công nghiệp
Chúng tôi tìm thấy hàng chục cụm công nghiệp ở
các nước nói tiếng Đức. Một số có truyền thống lâu đời, như “thành phố dao cạo”
ở Solingen, trung tâm vòng bi ở Schweinfurt, “công nghệ khóa” ở Velber và cụm
các nhà sản xuất bút chì ở Nuremberg. Các cụm khác, như cụm quạt máy ở
Hohenlohe, cụm phích nước ở Wertheim, cụm giao diện ở Eastern Westphalia, cụm
vi điện tử ở Southwest và cụm năng lượng gió ở vùng Bắc Đức, là những cụm mới xuất
hiện sau này. Sự phân bố trong toàn quốc các cụm công nghiệp ở Đức là khá phong
phú và đa dạng, đấy là so với phần lớn những nước khác. Hình 2.4 cho thấy vị
trí của một số cụm. Đa số các công ti trong những cụm này là những nhà vô địch ẩn
danh.
Hình 2.4: Một số cụm công nghiệp trong các nước nói tiếng Đức
Chúng tôi tìm được nhiều cụm công nghiệp ở các nước
nói tiếng Đức. Dường như những cụm này đã khuyến khích sự xuất hiện và thành
công của các nhà vô địch ẩn danh và sẽ tiếp tục làm như thế trong tương lai.
Cụm doanh nghiệp
Ngoài các cụm công nghiệp, chúng tôi còn tìm được cái mà tôi gọi là cụm doanh
nghiệp. Đấy là nơi tập trung của một số nhà vô địch ẩn danh thuộc những ngành
công nghiệp khác nhau. Windhagen, một ngôi làng ở Rhineland với dân số 4.260
người, nhưng lại có tới ba công ti hàng đầu thị trường thế giới: Wirtgen chuyên
sản xuất máy sửa đường ô tô, JK Group chuyên sản xuất giường tắm nắng, và
Geutebrück chuyên sản xuất hệ thống kiểm tra. Ba công ti này không có gì chung
về thị trường hay công nghệ cho nên không tạo ra được một cụm công nghiệp.
Neutraubling, một thị trấn nhỏ ở miền Nam Đức với dân số 12.808 người, lại có
công ti Krones, chuyên sản xuất hệ thống đóng chai hàng đầu thế giới; và
Zippel, nhà sản xuất hàng đầu thế giới trong lĩnh vực thiết bị nấu bia loại nhỏ
và máy làm sạch loại lớn dùng trong công nghiệp, và Micron, hàng đầu thế giới về
các thiết bị kiểm soát điện tử cho bộ phận kích hoạt các túi khí. Chúng tôi còn
thấy mức độ tập trung cao của các nhà vô địch ẩn danh trong và xung quanh thị
trấn Künzelsau. Hai công ti bán buôn thiết bị lắp ráp lớn nhất thế giới là
Würth và Berner đều có trụ sở ở đây cùng với những công ti đứng đầu thị trường
thế giới và thị trường châu Âu khác. Trong đó có Ziehl-Abegg chuyên về quạt, R.
Stahl chuyên về thiết bị chống nổ và Veigel, một trong những nhà sản xuất hàng
đầu thế giới trong lĩnh vưc thiết bị dạy lái xe và thiết bị cho những người lái
xe khuyết tật. Künzelsau chỉ có 14.822 dân, nhưng tinh thần của nó thì rõ ràng
là có lợi cho việc hình thành các nhà vô địch ẩn danh. Một cụm các nhà vô địch ẩn
danh nữa nằm ở Haiger,
Chúng tôi tìm thấy một cụm đáng chú ý của các nhà vô địch ẩn danh ở Verden
an der Aller, gần
Có thể tìm được các cụm doanh nghiệp trong những hoàn cảnh khác nhau. Thế
giới tuổi thơ của tôi được hình thành từ một ngôi làng rất nhỏ với bảy gia đình
nông dân, những người đã tạo ra năm doanh nhân thành đạt chỉ trong một thế hệ.
Hằng ngày trẻ em từ ngôi làng này phải đi bộ đến trường học ở thị trấn cách nhà
năm cây số. Điều đó có thể đã giúp nuôi dưỡng hai đặc điểm quyết định của doanh
nhân: tính kiên trì và tình yêu tự do. Người nhiều tuổi nhất trong năm doanh
nhân đó đã lập ra một nhà máy sản xuất trục các-đăng mang lại lợi nhuận lớn. Điều
đó đã động viên những người hàng xóm, tuy rằng họ làm trong những lĩnh vực khác
như công nghệ lạnh, máy văn phòng và xe đạp. Rõ ràng là cụm doanh nghiệp có thể
xuất hiện ngay cả trong những làng nhỏ nhất. Khác với cụm công nghiệp, nhân tố
thống nhất không phải là lĩnh vực hoạt động mà là mạng lưới xã hội khuyến khích
người ta noi theo tấm gương của một người thành đạt nào đó và tự mình trở thành
một nhà vô địch ẩn danh. Tôi đã nghe nhiều người nói về tấm gương và hiệu quả của
nó. Sự gần gũi về không gian và xã hội củng cố thêm hiệu quả có sức động viên
này, cùng với câu nói: “Hàng xóm làm được thì tôi cũng làm được.” Như vậy là,
nhiều nhà vô địch ẩn danh ở các nước nói tiếng Đức có thể trở thành “lồng ấp”
cho những công ti hàng đầu thế giới trong tương lai. Lĩnh vực hoạt động có thể
có vai trò, nhưng ảnh hưởng thì có thể vượt qua biên giới của nghề nghiệp. Hiệu
ứng này có tác dụng mạnh nhất trong những khu vực có nhiều nhà vô địch ẩn danh,
ngay cả khi họ hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau. Vô địch ẩn danh có
tính lan truyền.
Phân bố theo khu vực
Tại nhiều nước, chúng tôi đã tìm được một trung tâm đô thị duy nhất với mức
độ tập trung cao giới chuyên môn, kinh doanh và hành chính. Ví dụ như
Hình 2.5: Phân bố của các
nhà vô địch ẩn danh ở Đức, Thụy Sĩ và Áo
Các nhà vô địch ẩn danh ở Đức không phân bố một cách hoàn toàn đồng đều,
nhưng họ phân bố rộng hơn so với những nước khác. Một số khu vực có những cụm lớn
của riêng mình. Hình 2.6 là danh sách các nhà vô địch ẩn danh có căn cứ ở các
bang của Đức, Thụy Sĩ, Áo và
Bất kì bang nào ở Đức, nhất là những bang lớn, chúng tôi cũng đều tìm thấy
các nhà vô địch ẩn danh. Đông Đức, khu vực của Cộng hòa dân chủ Đức trước đây,
vẫn còn tương đối ít, nhưng đây là điều không đáng ngạc nhiên nếu biết rằng nước
Đức mới thống nhất cách đây 20 năm - khoảng thời gian còn ngắn cho việc vươn
lên vị trí dẫn đầu châu Âu hay thế giới. 45 nhà vô địch ẩn danh của Đông Đức chắc
chắn là một sự khởi đầu tuyệt vời. So với các nước khác, dường như Đức giỏi hơn
trong việc huy động người tài trên một khu vực rộng lớn và giữ họ ở đó chứ
không dồn tất cả các chuyên gia vào thủ đô. Việc phân bố một cách rải rác, phi
tập trung những bàn tay khéo léo và những người có kiến thức như thế là sức mạnh
to lớn và nguyên nhân cực kì quan trọng làm cho Đức có nhiều nhà vô địch ẩn
danh và thành tích xuất khẩu xuất sắc. Ở Thụy Sĩ và Áo các nhà vô địch ẩn danh
cũng rải đều trên khắp cả nước.
Cơ sở sản xuất vững chắc
Trước khi khủng hoảng tài chính xảy ra, Đức thường bị phê phán và thậm chí
chế nhạo là quá phụ thuộc vào lĩnh vực sản xuất và chậm trễ trong việc trở
thành nền kinh tế dịch vụ. Đúng là từ xa xưa doanh thu từ lĩnh vực sản xuất của
Đức vẫn cao hơn so với các nước phát triển cao khác - nhưng cuộc khủng hoảng đã
bịt miệng mọi lời phê phán. Những nước như Anh, Pháp và Mỹ hiện đang lấy làm tiếc
là đã quá chú ý vào lĩnh vực dịch vụ và coi thường các ngành công nghiệp chế tạo.
Cựu Tổng thống Pháp, ông Nicolas Sarkozy, liên tục biện hộ cho mô hình Đức. Củng
cố cơ sở sản xuất cũng là đề mục thường xuyên trong chương trình nghị sự của Tổng
thống Mỹ Barack Obama và Thủ tướng Anh David Cameron. Sự giảm sút của Nhật Bản -
như một quốc gia xuất khẩu - chủ yếu cũng là do cơ sở chế tạo của họ yếu.
Lĩnh vực chế tạo là trụ cột quan trọng của thành tích xuất khẩu. Hình 2.7
cho thấy sự phụ thuộc của cán cân thương mại và đóng góp của khu vực chế tạo
vào GDP.[2]
Cán cân thương mại cho ta biết đất nước xuất nhiều hơn nhập bao nhiêu.
Hình 2.7: Đóng góp của lĩnh vực chế tạo vào GDP và cán cân
thương mại của một số nước
Tỉ số tương quan giữa (hệ số a trong phương trình Y= aX, Y là cán cân
thương mại, X là đóng góp của lĩnh vực chế tạo vào GDP, tính theo phần trăm -
ND) đóng góp của lĩnh vực chế tạo vào GDP (tính theo phần trăm) và cán ân
thương mại là 0,79. Đây là điều rất có ý nghĩa. Về mặt này, Đức có thể là cổ hủ,
nhưng họ đã thành công. Đầu tư của họ lớn hơn hẳn các nước khác, đặc biệt là đầu
tư của các công ti nhỏ. Ví dụ, năm 2002, một công trình nghiên cứu trên bình diện
quốc tế về các công ti quy mô vừa do GE Capital thực hiện đã phát hiện ra rằng
các công ti quy mô vừa (Mittelstand)
của Đức đầu tư gần gấp đôi các công ti vừa và nhỏ ở Anh và Pháp.[1]
Vì vậy, bảo vệ cơ sở chế tạo của Đức vẫn là vấn đề cốt tử - nhưng sẽ không dễ
dàng chút nào. Toàn cầu hóa nghĩa là thuê sản xuất ở bên ngoài phần lớn quá
trình sản xuất và chuỗi giá trị cho những thị trường đang phát triển nhanh
chóng mà ta nhắm tới. Dường như trong lĩnh vực này, các nhà vô địch ẩn danh
khéo léo hơn những công ti lớn. Trong mười năm gần đây, các công ti vừa và nhỏ
của Đức đã gia tăng được lực lượng lao động của họ ở cả trong lẫn ngoài nước,
cùng với sự gia tăng lớn nhất thị trường của họ ở bên ngoài. Đa phần những công
ti lớn hơn cũng gia tăng đáng kể số nhân viên ở nước ngoài, nhưng ở Đức, lực lượng
lao động của họ lại co lại. Tạo ra sự cân đối giữa hai xu hướng này là thách thức
lớn mà Đức tiếp tục phải đối mặt.
Chế tạo có ảnh hưởng đối với thành tích xuất khẩu và việc làm khác hẳn với
lĩnh vực dịch vụ. Điều này góp phần giải thích sự khác nhau về xuất khẩu giữa
Pháp, Mỹ và Đức. Nhiều công ti của Pháp và Mỹ là những nhà cung cấp dịch vụ, tức
là những công ti tạo ra phần lớn giá trị - và việc làm - không phải tại thị trường
trong nước mà ở bất kì nơi nào trên thế giới, miễn là ở đấy có khách hàng. Các
tập đoàn của Pháp, như các hãng bán lẻ Carrefour và Auchan, tập đoàn khách sạn
Accor, nhà cung cấp năng lượng Veolia, các công ti xây dựng Bouygues và Vinci
và người khổng lồ trong lĩnh vực truyền thông Vivendi là những công ti thuộc loại
này. Những công ti lớn nhất của Pháp, tức là những công ti có nhiều chi nhánh
hàng đầu thế giới hơn Đức, còn bao gồm rất nhiều ngân hàng và công ti bảo hiểm
(Axa, BNP Paribas, Crédit Agricole, Société Générale, Groupe BPCE, CNP
Assurances and Groupama, tất cả đều có tên trong danh sách Fortune Global 500),
phần lớn lực lượng lao động của họ là ở nước ngoài. Ở Mỹ tình hình cũng tương tự
như thế, nhiều công ti của nước này cũng tạo được phần lớn giá trị ở thị trường
bên ngoài. Chuỗi thức ăn nhanh như McDonald’s, Burger King và Starbucks, chuỗi
khách sạn như Hilton, Sheraton và Marriott, cũng như khá nhiều nhà cung cấp dịch
vụ tài chính đều nằm trong nhóm này. Điều làm họ khác biệt với những công ti chế
tạo là nơi họ thuê mướn lực lượng lao động. Các nhà sản xuất bảo đảm công ăn việc
làm bằng cách sản xuất ở trong nước và xuất khẩu ra khắp thế giới. Vì vậy mà Đức
phải làm tất cả mọi việc có thể để giữ vững cơ sở sản xuất mạnh mẽ của họ.
Khả năng sáng tạo nổi bật
Những nước nói tiếng Đức thường không được coi là đối thủ nặng kí trong lĩnh vực sáng tạo - và trên thực tế họ đúng là những người như thế. Đúng là có ít công ti Đức là những nhà vô địch về cải tiến trong những lĩnh vực như công nghệ thông tin, internet hay công nghệ gien. Những công ti hàng đầu trong lĩnh vực này thường có nguồn gốc từ Mỹ, đôi khi từ Nhật Bản và có lúc từ Trung Quốc. Ví dụ, trong mấy năm vừa qua công ti Huawei của Trung Quốc xin cấp nhiều bằng phát minh hơn bất cứ công ti nào khác. Nhưng bây giờ chúng tôi sẽ dùng số bằng sáng chế do Văn phòng sáng chế châu Âu (EPO) cấp trong năm 2010 để minh họa và thảo luận sức sáng tạo của Đức. Tất nhiên là chỉ số này không bao trùm tất cả các khía cạnh, nhưng kết quả thật là ấn tượng. Hình 2.8 cho thấy số bằng sáng chế được EPO cấp cho các ứng viên ở một số nước châu Âu. Cũng trong năm 2010, EPO cấp 12.506 bằng sáng chế cho người Mỹ và 10.580 bằng sáng chế cho người Nhật.
Hình 2.8: Số bằng sáng chế do EPO cấp năm 2010
Đức là nước đứng đầu không thể chối cãi về số lượng tuyệt đối bằng sáng chế,
nhưng Thụy Sĩ là nước đứng đầu về số bằng sáng chế tính trên một triệu người. Sự
khác biệt giữa các nước châu Âu thật là to lớn. Số bằng sáng chế của Đức (tính
trên một triệu dân) gấp hơn hai lần Pháp, gấp bốn lần
Gia tăng chi phí cho một đơn
vị lao động
Chi phí cho một đơn vị lao động thể hiện tương quan giữa tiền công lao động
và năng suất. Người ta thường khẳng định rằng sự gia tăng theo hướng thuận lợi
của chi phí cho một đơn vị lao động đã làm cho xuất khẩu của Đức tăng vọt trong
thập niên vừa qua. Khó phủ nhận được luận cứ này. Hình 2.9 cho thấy chi phí cho
một đơn vị lao động ở Đức chỉ gia tăng ở mức vừa phải trong thời gian từ năm
2002 đến năm 2010 - ngoại trừ giai đoạn khủng hoảng 2009 - và năm năm trong
giai đoạn chín năm vừa nói thực ra là đã giảm.
Hình 2.9: Gia tăng chi phí cho một đơn vị lao động ở Đức từ năm
2002 đến năm 2010
Sự gia tăng như thế trái ngược hẳn với mức tăng nhanh chóng chi phí cho một
đơn vị lao động, nhất là ở châu Âu. Từ khi sử dụng đồng Euro, trong khu vực sử
dụng đồng Euro chi phí cho một đơn vị lao động đã tăng 21,7%, ở Pháp tăng tới
26,0% - nhưng ở Đức chỉ tăng 6,3%.[1]
Kết quả là khả năng cạnh tranh của các công ti Đức, sau khi bị sụt giảm trong mấy
năm trước đó, đã được cải thiện một cách đáng kể. Đức không còn bị coi là “con
bệnh của châu Âu” nữa. Nhưng mức độ gia tăng chi phí cho một đơn vị lao động của
họ đã bị nhiều người ở cả trong nước lẫn nước ngoài phê phán. Các tổ chức công
đoàn khẳng định rằng gia tăng như thế là nguyên nhân làm cho sức mua ở trong nước
yếu và chuyện này nhất định phải thay đổi. Thách thức đối với Đức là phải giữ
được khả năng cạnh tranh trên bình diện quốc tế, đồng thời không làm hại đến sức
mua ở trong nước. Số người có việc làm ở Đức đã gia tăng nhờ chi phí cho một
đơn vị lao động phát triển một cách thuận lợi và bảo đảm được sự bùng nổ của xuất
khẩu.
Sản xuất ở Đức
Nhãn hiệu “Sản xuất ở Đức” (Made in Germany) là do Anh buộc Đức phải làm
vào năm 1887 để chứng tỏ là sản phẩm nước ngoài, tức là sản phẩm lúc đó bị coi
là kém chất lượng hơn sản phẩm ở trong nước. Những người khởi xướng việc này
không ngờ rằng sau đó Đức sẽ trở thành nước sản xuất ra những món hàng chất lượng
cao nhất. Theo Michael Hüther, Giám đốc Viện nghiên cứu kinh tế Đức, thì: “Sức
mạnh xuất khẩu của nền công nghiệp Đức trước hết là do chất lượng sản phẩm của
họ.”[2]
Với danh tiếng xuất sắc của nhãn hiệu “Sản xuất ở Đức” như thế, những cố gắng của
EU nhằm xóa bỏ nhãn hiệu xuất xứ của quốc gia và thay bằng “Sản xuất ở châu Âu”
(Made in Europe) sẽ còn gặp nhiều khó khăn. Không nghi ngờ gì rằng chất lượng
cao và nhãn hàng hóa do Đức sản xuất là nhân tố chủ yếu tạo nên thành tích xuất
khẩu lâu dài của nước này.
Hệ thống dạy nghề
Công trình nghiên cứu, do Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) công
bố vào tháng 9 năm 2010, khảo sát hệ thống dạy nghề tại 17 nước. Kết luận được
đưa ra là về phương diện này Đức là nước mạnh. Bà Annette Schavan, Bộ trưởng Bộ
giáo dục và nghiên cứu liên bang nhận xét: “Đào tạo nghề là ngọn cờ đầu trong nền
giáo dục Đức.” Hệ thống dạy nghề là một trong những hòn đá tảng quan trọng nhất
của chất lượng sản phẩm và năng suất lao động của các công ti Đức. Không nước
nào có nhiều công nhân khéo tay hay chất lượng cao đến như thế. Trình độ chuyên
môn vững chắc trong những ngành đòi hỏi tay nghề và trong giới học thuật đều
quan trọng như nhau. Sản phẩm càng quan trọng thì đòi hỏi về trình độ lại càng
cấp bách. Trong nhà nước toàn cầu, vấn đề quan trọng nhất không chỉ là đào tạo
người ở Đức mà còn phải đạt được cùng trình độ như thế ở các thị trường mà họ
nhắm tới nữa. Điều này dường như không phải là bất khả thi. Hệ thống dạy nghề của
Đức đã nổi tiếng ở cả trong cũng như ngoài nước. Barbara Fabian, người chịu
trách nhiệm về chính sách giáo dục và đào tạo của Liên hiệp các phòng công nghiệp
và thương mại Đức tại văn phòng EU ở Brussels, tuyên bố: “Khắp thế giới người
ta đều cần dạy nghề từ nước Đức.” Từ những chuyến du ngoạn vòng quanh thế giới
của mình, tôi biết rằng nói thế là đúng. Mỗi lần ghé thăm các công ti hay phòng
thương mại Đức ở nước ngoài tôi đều thấy rằng dạy nghề là vấn đề quan trọng nhất
đối với họ. Động lực đằng sau số lượng đầy ấn tượng và quy mô của những sáng kiến
trong lĩnh vực dạy nghề dựa trên mô hình của Đức
là các công ti Đức cần công nhân lành nghề đã được đào tạo theo tiêu chuẩn Đức.
Không thể tìm được công nhân như thế ở những nước khác - còn giải pháp nào tốt
hơn là công ti tự đào tạo cho mình? Để làm được như thế, phần lớn các công ti đều
liên kết với các công ti Đức khác (nhiều khi là các nhà vô địch ẩn danh) hay với
các phòng thương mại Đức, tức là những cơ sở tích cực hỗ trợ cho việc đào tạo
như thế.
Hệ thống dạy nghề của Đức có tiềm năng tự trở thành một món hàng xuất khẩu.
Tại sao các công ti Đức không biến sản phẩm này thành thương hiệu toàn cầu? Tiềm
năng phát triển của những nhà cung cấp dịch vụ đầy tham vọng như TÜV, Dekra,
Bertelsmann, Cơ quan hợp tác kĩ thuật Đức (GTZ), các nhà xuất bản, các tổ chức
tư vấn, và những công ti tương tự là rất lớn. Năm 2012, Bertelsmann đã thiết lập
một đơn vị kinh doanh mới chuyên về dạy nghề.[3] Lí tưởng
nhất là các công ti khác cũng làm như thế. Khi chương trình đào tạo đã được
thương mại hóa trên toàn thế giới, tại sao hệ thống đào tạo nghề vừa học vừa
làm (dual system of vocational training) không theo gương Bertelsmann? Hợp tác
công-tư là một lựa chọn, các công ti tư nhân là lựa chọn khác. Phần lớn chi phí
sẽ do người sử dụng lao động chứ không phải người lao động chi trả. Internet có
thể trở thành trợ thủ đắc lực và hiệu quả cho những sáng kiến mang tầm quốc tế
kiểu như vậy. Nhưng công ti có kiếm được tiền bằng cách đào tạo hay không? Tôi
không có câu trả lời khẳng định cho câu hỏi này, nhưng điều đó cũng không cản
trở họ thử làm. Với chương trình đào tạo của mình, các công ti Đức có thể thành
công không chỉ trong lĩnh vực xuất khẩu mà còn trong những lĩnh vực hoạt động
khác trên toàn thế giới. Thậm chí chúng ta có thể còn được chứng kiến sự xuất
hiện của một số nhà vô địch ẩn danh mới trong lĩnh vực này.
Vị trí địa chiến lược trung
tâm
Một nguyên nhân nữa làm cho Đức giữ được địa vị dẫn đầu trong lĩnh vực xuất
khẩu là vị trí địa chiến lược của họ. Ở giữa trung tâm châu Âu có lợi thế hơn hẳn
Mỹ hay châu Á, tuy không lớn hơn hẳn so với các nước Tây Âu. Các nước nói tiếng
Đức là những nước duy nhất nằm ở trung tâm về mặt địa chiến lược không chỉ của
châu Âu mà của toàn thế giới nữa. Trong ngôn ngữ toàn cầu, không phải Trung Quốc
mà Đức và các lân bang của nó mới là “vương quốc trung tâm”.
Thông tin liên lạc trong nhà nước toàn cầu sẽ còn phát triển hơn nữa. Càng
ngày người ta sẽ càng làm việc cùng nhau, chia sẻ kiến thức và ý tưởng với những
đối tác ở xa nhiều hơn. Hiện nay các công ti đã đưa các dự án phát triển ngao
du cùng với ánh mặt trời trên khắp thế giới nhằm đẩy nhanh tiến trình đổi mới.
Các trung tâm liên lạc được thiết lập ở những nước xa xôi. Mặt trời luôn luôn
hiện diện ở một nơi nào đó, và người ta lợi dụng triệt để việc này.
Cơ sở hạ tầng của hệ thống thông tin toàn cầu tạo điều kiện cho tất cả những
điều vừa nói trở thành khả thi đã được hoàn thiện đến mức mà cách đây vài năm
không ai có thể tưởng tượng nổi. Viễn thông, Internet và du lịch bằng máy bay tạo
điều kiện cho chúng ta tiếp cận với những khu vực xa xôi nhất thế giới. Fax,
e-mail và thư thoại (voicemail) làm cho thông tin liên lạc không đồng bộ (ý nói
gửi và nhận ở những thời điểm khác nhau - ND) trở thành khả thi, các văn phòng
không cần phải làm việc cùng một lúc như trước nữa. Chi phí cho liên lạc viễn
thông là không đáng kể. Điều đó có nghĩa là lợi thế của phân công lao động có
thể được khai thác ở quy mô chưa từng có trước đây. Khoảng cách, thời gian, sự
khác biệt, các đường biên giới đã mất ý nghĩa truyền thống của chúng. Nhiều người
tin rằng khoảng cách và khác biệt về thời gian sẽ không còn là trở ngại nữa.
Tuy nhiên, thái độ phấn chấn đó không phải là quá sớm, mà là hoàn toàn sai.
Càng ngày những rào cản về mặt vật chất và trên thực tế đối với toàn cầu hóa
càng trở nên rõ ràng hơn. Một số là do những hoàn cảnh không thể nào thay đổi
được. Thế giới không phải là mặt phẳng, nó vẫn là một quả địa cầu. Ngày, đêm,
múi giờ chưa biến mất và cũng sẽ không biến mất. Khả năng thích nghi của con
người với khoảng cách và sự khác biệt về thời gian cũng có giới hạn. Trong phần
lớn các doanh nghiệp, vẫn cần có một số trao đổi thông tin trực tiếp giữa các
cá nhân với nhau. Trao đổi điện thoại thường xuyên có thể trở thành gánh nặng nếu
khác biệt về thời gian giữa hai địa điểm là 11 hay 12 giờ. Từ năm 1960, tức là
năm máy bay phản lực chở khách được đưa vào sử dụng, tốc độ di chuyển trên đường
dài vẫn chưa gia tăng đáng kể. Thời đại của những chiếc máy bay siêu thanh - dù
chỉ bay trên một vài tuyến đường - đã qua từ lâu rồi. Du lịch bằng máy bay siêu
thanh với giá chấp nhận được vẫn chỉ là ảo tưởng. Tàu hỏa siêu tốc không được sử
dụng cho những chuyến đi xuyên lục địa và trong tương lai cũng vẫn sẽ như thế.
Những sân bay đông đúc, thời gian chờ đợi trên không và trên mặt đất, những cuộc
kiểm tra an ninh nghiêm ngặt và những cuộc đình công không báo trước làm cho những
chuyến đi thậm chí còn mệt mỏi và năng nề hơn. Trong tương lai xu hướng này có
lẽ sẽ còn tiếp tục.
Tình hình như thế tạo ra áp lực lớn đối với những người tham gia vào trò
chơi toàn cầu. Phó giám đốc điều hành một nhà sản xuất ô tô lớn của Đức có lần
đã nói với tôi về những chuyến đi xuyên lục địa và ảnh hưởng tiêu cực của chúng
đối với sức khỏe của ông. Giám đốc điều hành công ti chuyên cung cấp hàng điện
tử thì phàn nàn về những chuyến đi bất tận của ông tới những khách hàng ở Nhật
Bản và thung lũng Silicon (
Hình 2.10: Khác biệt về thời gian và thời gian bay giữa các
trung tâm của thế giới (tình bằng giờ)
Do “tính chất tam giác” của trái đất mà các nước nói tiếng Đức và lân bang
của họ là khu vực duy nhất ở bắc bán cầu có thể gọi điện tới toàn bộ khu vực
Á-Âu (kể cả Nhật Bản) và Mỹ (kể cả vùng bờ Tây) ngoài giờ làm việc một chút (9
tiếng đồng hồ). Lục địa Á-Âu, khu vực Transatlantica (từ Tây Âu đến vùng bờ Tây
của Mỹ) và Thái Bình Dương là ba cạnh của tam giác đó. Tây Âu nằm đúng ở giữa
hai “cạnh đất liền” của tam giác. Ngược lại, liên lạc giữa
Vùng bờ Tây của Mỹ cũng có vị trí tương tự. Trong khi Tokyo và Hồng Công
cách Los Angeles tám múi giờ thì New Delhi, Moscow và Dubai cách từ 10 đến 12
múi giờ. Mặc dù thông tin liên lạc không đồng bộ đã nói ở trên (thư từ, fax,
e-mail, thư thoại) làm nhẹ đi sự khác biệt về thời gian, nhưng không hoàn toàn
thay thế được thông tin liên lạc hai chiều, trực tiếp và đồng bộ (điện thoại, hội
nghị video, và thuyết trình từ xa với phần hỏi đáp).
Châu Âu còn có ưu thế về mặt địa chiến lược trong cả lĩnh vực du lịch. Có
thể bay từ Frankfurt,
Vị trí địa chiến lược của các nước nói tiếng Đức là lí do chính giải thích
vì sao nhiều công ti hàng đầu thế giới có nguồn gốc từ khu vực này. Tiếp cận với
thị trường thế giới dễ hơn hẳn so với những khu vực khác trên quả địa cầu. Với
sự kiện không thể nào thay đồi được như thế, sẽ có lí khi nghĩ rằng ngày càng
có nhiều công ti trên thế giới đặt cơ sở sản xuất ở Tây Âu. Tôi đã nhìn thấy một
số người làm như thế. Ông Verns Harnish, một nhà tư vấn và hùng biện, khá thân
với tôi, đã chuyển từ Bờ Đông của Mỹ sang châu Âu vì cho rằng kinh doanh từ đây
dễ hơn nhiều. Nhưng chính sách kinh tế bóp nghẹt chứ không khuyến khích có thể
trở thành rào cản đối với ưu thế của Tây Âu.
Đức nằm ở trung tâm châu Âu. Từ Frankfurt,
Rõ ràng là nhiều công ti Đức đang lợi dụng vị trí địa chiến lược để nâng
cao vị thế của mình. Toàn cầu hóa còn tiếp tục thì lợi ích của vị trí trung tâm
càng rõ ràng hơn. Thiên nhiên đã ban tặng cho Đức vị trí thuận lợi về mặt địa
chiến lược. Nhiệm vụ của người Đức bây giờ là tận dụng được càng nhiều càng tốt.
Tinh thần quốc tế
Kinh doanh quốc tế luôn luôn mở rộng những chân trời văn hóa. Đó vừa là tiền
đề vừa là hậu quả của quá trình quốc tế hóa công việc kinh doanh. Đây là những
kinh nghiệm có nguồn gốc từ thời của những người Phoenician (thế kỉ XIII trước
công nguyên - ND) và Marco Polo (1254-1324) và đã từng lặp đi lặp lại nhiều lần
trong lịch sử. Anton Fugger, đế chế thương mại của ông trài dài khắp thế giới
mà con người từng biết trong thế kỉ XVI, đã nói: “Ngôn ngữ tuyệt với nhất là
ngôn ngữ của khách hàng.” Những doanh nhân thành công trên thương trường quốc tế
bao giờ cũng là những người tinh tế, những người nói được tiếng nước ngoài và
hiểu được nền văn hóa của những dân tộc khác.
Hiện nay những khía cạnh này còn quan trọng hơn bất kì giai đoạn nào khác
trong quá khứ và đặt ra vấn đề: Giới kinh doanh ở Đức và các nước nói tiếng Đức
làm việc này như thế nào? Với bốn ngôn ngữ, Thụy Sĩ có ưu thế tự nhiên về tinh
thần quốc tế trong văn hóa và não trạng.
Người ở các nước châu Âu có trình độ ngoại ngữ rất khác nhau. Hình 2.11 cho
thấy tỉ lệ những người nói được tiếng Anh, Đức và Pháp ở một số nước.
Hình 2.11: Trình độ ngoại ngữ ở một số nước châu Âu[1]
Các nước vùng
Du lịch ra nước ngoài thúc đẩy một hình thức khác của
toàn cầu hóa về mặt não trạng. Không được đánh giá thấp tầm quan trọng của nó.
Người Đức hay du lịch ra nước ngoài hơn cả. Mỗi năm có 2,7 triệu khách du lịch
Pháp ở qua đêm tại Đức, trong khi đó có đến 21 triệu khách du lịch Đức qua đêm
tại Pháp - gấp gần 8 lần. Các nước khác cũng có tình trạng tương tự.[1]
Người đã đi du lịch nước ngoài thường sẵn sàng làm việc ở ngoại quốc hơn là người
lao động chưa ra nước ngoài bao giờ. Bất kì người nào đã từng chứng kiến người
lao động chưa ra nước ngoài bao giờ lúng túng như thế nào khi được bổ nhiệm chức
vụ ở nước ngoài đều có thể khẳng định điều này.
Số người lao động Đức sẵn sàng làm việc ở nước ngoài
tương đối đông. Cách đây mấy năm ông Reinhard Wirtgen, người sáng lập và cựu
giám đốc điều hành công ti Wirtgen, hàng đầu trong lĩnh vực máy sửa chữa đường
ô tô, đã nói với tôi: “Tôi thường cần một đội có thể đưa đến bất kì nơi nào
trên thế giới ngay lập tức. Hiện nay chúng tôi có nhiều người sẵn sàng ra nước
ngoài làm việc. Nghĩa là chúng tôi có thể thành lập đội trong một thời gian ngắn,
dù là làm ở
Khi còn là sinh viên, kinh nghiệm quốc tế còn tạo ra một
nền tảng có giá trị nữa đối với quá trình toàn cầu hóa. Năm 2009 có khoảng
115.500 sinh viên Đức học ở nước ngoài trong một thời gian nhất định. Số lượng
này chiếm 6,2% số sinh viên Đức - không phải là tỉ lệ lớn, nhưng gấp 7 lần năm
1980. Năm 2010 có 252.000 sinh viên nước ngoài - chiếm 11,4% số lượng sinh viên
- học trong các trường đại học Đức.[2]
Đa số sinh viên đến từ châu Âu và châu Á, thỉnh thoảng mới có sinh viên đến từ
các nước nói tiếng Anh. Áo và Thụy Sĩ có tỉ lệ sinh viên nước ngoài cao hơn: Áo
-21.5% và Thụy Sĩ -17.9% (trong tổng số: 75.411 và 37.000 sinh viên của từng nước
tương ứng). Người nước ngoài du học ở những nước nói tiếng Đức và biết tiếng Đức
là những ứng viên hấp dẫn đối với những nhà vô địch ẩn danh. Tuy nhiên, giấy
phép làm việc có thể là một trở ngại. Thường thì trước khi trở về nước, người
lao động phải được huấn luyện ở trụ sở chính vài năm.
Các công ti, trong đó có những nhà vô địch ẩn danh, có
những phương pháp phát triển nguồn nhân lực ở nước ngoài khác nhau. Vẫn chưa có
nhiều công ti đòi hỏi một cách dứt khoát kinh nghiệm quản lí quốc tế. Trong thời
đại của nhà nước toàn cầu, tôi khuyến khích tất cả những công ti có tham vọng
quốc tế coi đây là điều kiện đề bạt lên những chức vụ cao hơn - và để giữ chức
vụ hiện tại. Tôi chưa bao giờ thấy công ti nào phàn nàn là có quá nhiều người
tài năng trên thị trường thế giới, nhưng tôi biết nhiều công ti do thiếu người
tài mà dẫn đến những sai lầm chết người và gặp trở ngại nghiêm trọng trong quá
trình toàn cầu hóa.
“Chiến lược toàn cầu” nghe vừa hiện đại vừa hứng thú.
Nhưng việc thực hiện lại phụ thuộc vào người lao động, tức là người có tư duy,
tình cảm và hành động trên trường quốc tế. Toàn cầu hóa về văn hóa và não trạng
là điều kiện tuyệt đối cần thiết cho việc thực thi chiến lược toàn cầu và phải
đi trước một bước, thường là trước mấy năm. Vị trí vững chắc của các công ti Đức
trong việc quốc tế hóa về mặt tinh thần - so với các nước khác - là một trong
những chìa khóa dẫn tới thành công trong nhà nước toàn cầu - ngày mai thậm chí
còn quan trọng hơn hôm qua và hôm nay.
Tương lai của Đức trong nhà
nước toàn cầu
Trong chương này, chúng ta đã phân tích vai trò của Đức
trong quá trình toàn cầu hóa trước hết từ viễn cảnh của quá khứ và hiện tại.
Nhưng câu hỏi thú vị hơn lại là: làm sao Đức có thể và phải định hình vai trò của
mình trong nhà nước toàn cầu trong tương lai? Muốn tìm câu trả lời chúng ta phải
xác định cách thức họ phản ứng với những sức mạnh được mô tả trong chương này với
sự phát triển toàn cầu được trình bày trong Chương 1. Thay đổi là cần thiết,
nhưng đấy là những thay đổi mang tính tiến hóa chứ không phải là cách mạng. Như
chúng ta đã thấy, Đức và các công ti Đức có vị trí vững chắc trong cuộc cạnh
tranh toàn cầu. Năm 2011, Đức đã vượt Anh và trở thành nước toàn cầu hóa nhất
trong bảng xếp hạng toàn cầu hóa của G7.[3] Lĩnh vực
kinh doanh của nước này không được sao nhãng quá trình quốc tế hóa. Cuộc khủng
hoảng tài chính sau năm 2007 tấn công Đức không dữ dội như đã từng tấn công các
nước công nghiệp khác. Và Đức không còn bị coi là “con bệnh của châu Âu” nữa mà
được coi là “động cơ của châu Âu”. Trên khắp thế giới, mọi người đều rất quan
tâm tới nền kinh tế Đức - và đặc biệt là các công ti quy mô vừa của nước này.
Cơ sở chế tạo của họ được coi là mạnh chứ không phải lạc hậu. Nhà báo Peter
Marsh của tờ Financial Times, một nhà
quan sát có hạng về cạnh tranh quốc tế, tiên đoán: “Khi cuộc cách mạng công
nghiệp mới diễn ra, các công ti có thị trường riêng sẽ là những công ti thành
công.”[4]
Vị trí của các công ti Đức đa số là tốt hay thậm chí
là tuyệt vời. Họ có quan điểm quốc tế, họ hoạt động trên nhiều thị trường và
trong số đó, có nhiều công ti dẫn đầu thị trường. Không nghi ngờ gì rằng cạnh
tranh sẽ gia tăng, nhất là từ những nước ở ngưỡng như Trung Quốc. Vì vậy mà Đức
phải tiếp tục củng cố sự hiện diện của họ trên bình diện quốc tế, tăng cường khả
năng đổi mới và năng lực sản xuất của họ. Muốn làm như thế, các công ti phải đẩy
mạnh hiệu suất của họ ở trong nước và chuyển kinh nghiệm của họ tới những thị
trường mới mà họ nhắm tới. Do tình hình phát triển dân số mang tính tiêu cực của
Đức, cho nên lôi kéo và kết hợp những người có tài hàng đầu từ khắp thế giới
cũng là vấn đề cực kì quan trọng. Đây là vấn đề của các nhà vô địch ẩn danh
cũng như của nhiều công ti lớn khác.
Tóm tắt
Từ khi nhảy lên nhóm những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới vào năm 1986, Đức
đã và đang là “tay chơi” chính trong cuộc cạnh tranh toàn cầu. Ngoại trừ Trung
Quốc, không nước nào thu được nhiều lợi ích từ quá trình toàn cầu hóa bằng Đức.
Có thể tóm tắt những điều phát hiện được trong chương này như sau:
·
Đức là nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu tính
trên đầu người. Đức chẳng những làm tốt hơn hẳn Mỹ và Nhật, mà còn tốt hơn các lân
bang ở Tây Âu, tức là những nước có cùng vị trí địa chiến lược ở Trung Âu.
·
Đức phải tiếp tục tập trung vào xuất khẩu và
không được để cho khả năng xuất khẩu của mình yếu đi. Đa số các công ti Đức chỉ
phục vụ cho những thị trường riêng của mình, doanh số không lớn, trừ phi họ
vươn ra thị trường toàn cầu.
·
Thành tích xuất khẩu của Đức chủ yếu là do các
công ti vừa và nhỏ, chứ không phải các công ti lớn. Các nhà vô địch ẩn danh là
những công ti thành công nhất. Đức có nhiều nhà vô địch ẩn danh hơn bất kì nước
nào khác. Tính theo đầu người; Thụy Sĩ, Áo và
·
Nhiều nhân tố kết hợp lại mới giải thích được vì
sao Đức có nhiều nhà vô địch ẩn danh đến như thế. Trong đó có sự phân mảnh lãnh
thổ vào thế kỉ XIX, tay nghề truyền thống và cơ cấu phi tập trung, dẫn tới sự
phân bố một cách tương đối đồng đều các nhà vô địch ẩn danh trên khắp cả nước.
·
Những nguyên nhân khác bao gồm danh tiếng và chất
lượng sản phẩm của Đức, sự phát triển theo hướng thuận lợi của chi phí trên một
đơn vị lao động, cơ sở sản xuất đầy sức mạnh và hệ thống dạy nghề vừa học vừa
làm (dual system of vocational training).
·
Vị trí địa chiến lược trung tâm của Đức tạo điều
kiện cho họ tiến hành công việc kinh doanh trên toàn cầu (điều này đúng cho cả các
nước Tây Âu khác) và là lợi thế cạnh tranh so với Mỹ và châu Á.
·
Tinh thần quốc tế, hòn đá tảng của kinh doanh quốc
tế, càng làm cho Đức có lợi hơn các nước lớn khác (nhưng không phát triển như
các nước nhỏ).
·
Sức mạnh và trình độ của các doanh nghiệp Đức sẽ
tiếp tục hay thậm chí còn quan trọng hơn trong nhà nước toàn cầu. Thách thức đối
với Đức là điều chỉnh những sức mạnh đó cho phù hợp với sự phát triển trên thế
giới, như được trình bày trong Chương 1. Nghĩa là không chỉ dựa vào chúng để
xây dựng ở trong nước mà còn phải chuyển chúng đến những thị trường được nhắm tới
trong tương lai.
Kết luận quan trọng nhất được rút ra từ chương này là Đức có thể tiếp tục
đóng vai trò quan trọng độc đáo trong nhà nước toàn cầu tương lai - đấy là khi
họ không mắc phải những sai lầm nghiêm trọng. Đặc biệt là, thành tích của họ sẽ
phụ thuộc vào các nhà vô địch ẩn danh.
[1] Năm 2010, Federal Statistical Office of
[2] Năm 2010, Federal Statistical Office of
[3] Xem Manager-Magazin online,
January 27, 2012.
[4] Xem Peter Marsh, Cuộc cách mạng
công nghiệp mới - người tiêu dùng, toàn cầu hóa và chấm dứt sản xuất hàng loạt
(The New Industrial Revolution -
Consumers, Globalization and the End of Mass Production),
[1] Ủy hội châu Âu, người châu Âu và ngôn ngữ của họ,
[1] Xem Matthias Kullas, “Frankreichs Wirtschaftspolitik unter Druck”, Frankfurter Allgemeine Zeitung, April
10, 2012, p. 12.
[2] Xem “Exportplus nicht durch niedrige Löhne erkauft”, General-Anzeiger Bonn, January 17, 2012,
p. 6.
[3] Xem “Bertelsmann steigt in den Bildungsmarkt ein”, Frankfurter Allgemeine Zeitung, January 17, 2012, p. 13.
[1] Xem “Deutsche Unternehmen investieren mehr als andere”, Frankfurter Allgemeine Zeitung, March
12, 2012, p. 14.
[1] Kết thúc kỉ nguyên xuất khẩu của
Nhật Bản (End of Era for
[2] IW-Dienst Köln, Institut der Deutschen Wirtschaft, January 12, 2012.
[1] Xem “Eine integrierte Glasfassade als Werbefront”, Frankfurter Allgemeine Zeitung, February 7, 2012, p. 15.
[1] Trong mấy năm gần đây người ta đã tiến hành nhiều dự án với mục đích
nhận diện các nhà vô địch ẩn danh. Stefan Lippert đang nghiên cứu đề tài này ở
Nhật Bản. Năm 2011 Danica Purg hướng dẫn một dự án quốc tế, nhận diện các nhà
vô địch ẩn danh tại 19 nước Trung và Đông Âu. Marek Dietl và Melita Rant trình
bày những phát hiện của họ ở Vienna vào tháng 11 năm 2011 và báo cáo về 165 nhà
vô địch ẩn danh ở khu vực này. Các nhà vô địch ẩn danh ở Hà Lan đã được Onno
Oldeman, ở Italy được Danilo Zatta, ở Pháp được Stephan Guinchard và ở Thụy
Diển được Fateh ud Din, nhận diện.
[2] Xem Erich Weede, Ein Vereinigtes Europa der Narren?, Frankfurter Allgemeine Zeitung, February
3, 2012, p. 12.
[3] Xem Peter Marsh, Cuộc cách mạng công nghiệp mới - người tiêu dùng, toàn
cầu hóa và chấm dứt sản xuất hàng loạt (The
New Industrial Revolution - Consumers, Globalization and the End of Mass
Production),
[4]Xem Lewis Mumford, Kĩ thuật và nền văn minh (Technics and Civilisation),
[5]Xem David Landes, Prometheus đã được cởi trói: Sự thay đổi kĩ thuật và
phát triển công nghiệp ở Tây Âu từ năm 1750 đến nay (The Unbound Prometheus: Technical Change and Industrial Development in
Western Europe from 1750 to the Present),
[6] Xem cuốn bestseller của Daniel Kehlmann, Die Vermessung der Welt, Reinbek: Rowohlt-Verlag, 2005.
[7] Xem Michael Porter, Ưu thế cạnh tranh của các quốc gia (The Competitive Advantage of Nations),
[8] Xem Michael Porter, Ưu thế cạnh tranh của các quốc gia (The Competitive Advantage of Nations),
[9] Xem Hermann Simon, Gewinn, Bài giảng ở trường đại học Siegen, November
17, 2011, and Institut der Deutschen Wirtschaft, Cologne, 2012.
[1] David Marsh, cựu phóng viên người Đức của tờ Financial Times cũng có quan điểm như thế. Xem David Marsh, “It’s
the exports, stupid”, Newsletter “The
Bigger Picture”, July 12, 2010.
[2] Xem “General Electric”, Báo cáo
hàng năm 2011 (Annual Report 2011),
[3] Câu hỏi này thường được đặt ra trong báo chí nước ngoài. Ví dụ điển
hình là bài báo “What Germany Offers the World” in The Economist, April 16, 2012, p. 27-30. Nhiều bài báo kiểu này đưa
ra những giải thích chắp vá và nửa sự thật.
[4] Xem Fortune, July 25, 2011.
[5] Xem Claus-Peter Tiemann, Deutsche Konzerne verlieren an Gewicht, General-Anzeiger Bonn, January 16, 2012,
p. 6.
[1] Xem Theodore Levitt, Toàn cầu hòa thị trường (The Globalization of
Markets), Harvard Business Review,
May-June 1983, p. 92-102. Thuật ngữ “toàn cầu hóa” xuất hiện lần đầu vào năm
1944, năm 1981 bắt đầu được sử dụng rộng rãi. Nhưng phải sau bài báo của Levitt
thì mới được sử dụng nhiều trong kinh tế học dòng chính.
[2] Xem Kết thúc kỉ nguyên xuất khẩu của Nhật Bản (End of Era for
[3] Xuất khẩu của một số nước nhỏ lớn hơn cả tổng sản phẩm quốc nội vì họ
xuất khẩu một số lượng lớn sản phẩm mà trước đó họ đã nhập. Hồng Công và
[4] Phép hồi quy được thực hiện
theo phương trình sau đây: xuất khẩu tính theo đầu người (USD) = 7,379 - 5.1 × số dân (triệu người). Phương trình cho
thấy khoảng 24% khác biệt trong xuất khẩu tính theo đầu người là do quy mô dân
số. Hệ số liên hệ giữa dân số và xuất khẩu trên đầu người là 0,49.
No comments:
Post a Comment