(Reality, Spirituality and Modern Man)
David Hawkins, M. D., Ph. D.
Phạm Nguyên Trường dịch
Về tác giả
Tiến sĩ Hawkins là cây
bút, người thầy tâm linh và diễn giả nổi tiếng thế giới về trạng thái tâm linh
thăng hoa, về nghiên cứu ý thức và Nhận ra Sự hiện diện của Chúa chính là Đại
ngã.
Các tác phẩm đã xuất bản
của ông cũng như các bài giảng được ghi lại đã được nhiều người công nhận là độc
nhất vô nhị, theo nghĩa, nhận thức mang tính tâm linh trong một người có kiến
thức khoa học và lâm sàng, rồi sau đó có thể diễn đạt bằng từ ngữ và giải thích
hiện tượng bất thường này một cách rõ ràng và có thể hiểu được.
Quá trình chuyển đổi từ
trạng thái mang tính bản ngã bình thường của tâm trí sang trạng thái giải thoát
bởi Hiện diện được trình bày trong bộ ba tác phẩm Power vs. Force, được cả Mẹ Teresa ca ngợi; The Eye of the I, và I:
Reality and Subjectivity, đã được dịch sang phần lớn các ngôn ngữ chính
trên thế giới. Tác phẩm Truth vs.
Falsehood: How to Tell the Difference (Truth vs Falsehood - 2005), Transcending the Levels of Consciousness
(Siêu việt các tầng ý thức - 2006) và Discovery
of the Presence of God: Devotional Nonduality (Khám phá sự hiện diện của
Thiên Chúa: Bất nhị Sùng kính - 2007) tiếp
tục khảo sát những biểu hiện và hạn chế cố hữu của bản ngã cũng như cách siêu
việt chúng.
Bộ ba tác phẩm đầu tiên
có xuất xứ từ công trình nghiên cứu về Bản chất của ý thức và luận án tiến sĩ,
nhan đề Phân tích định tính và định lượng
và hiệu chỉnh tầng thứ ý thức của con người (Qualitative and Quantitative
Analysis and Calibration of the Levels of Human Consciousness -1995), các công
trình này thiết lập mối tương liên giữa những lĩnh vực dường như khác hẳn nhau:
khoa học và tâm linh. Đó là nhờ khám phá được kỹ thuật quan trọng mà lần đầu
tiên trong lịch sử loài người đã chứng tỏ là phương tiện phân biệt sự thật với
dối trá.
Tầm quan trọng của công
trình đã được công nhận bằng bài điểm sách dài và với những đánh giá rất thuận
lợi trên tờ Brain/Mind Bulletin và
các buổi thuyết trình sau đó như Hội nghị
về Khoa học và Ý thức Quốc tế (International Conference on Science and
Consciousness). Nhiều bài thuyết trình đã được trình bày trước các tổ chức, hội
nghị tâm linh, nhóm tôn giáo, nữ tu và nhà sư ở cả trong và ngoài nước, trong
đó có Oxford Forum ở Anh. Ở Viễn Đông, tiến sĩ Hawkins được công nhận là Đạo sư
của con đường dẫn đến Chứng ngộ (Tae Ryoung Sun Kak Dosa).
Phản hồi trước nhận xét
của ông rằng trong nhiều thời đại, do không có người giải thích mà nhiều sự thật
tâm linh đã bị hiểu lầm, tiến sĩ Hawkins đã tổ chức những buổi hội thảo hằng
tháng để trình bày những giải thích chi tiết, nhưng quá dài, không thể viết
thành sách. Các băng ghi âm với phần cuối là những câu hỏi và trả lời, càng làm
rõ thêm vấn đề được trình bày.
Mục đích tổng thể của
công trình trọn đời này là đưa trải nghiệm của con người vào bối cảnh mới, dưới
dạng tiến hóa của ý thức và hợp nhất sự hiểu biết của cả tâm trí và linh hồn
như những biểu hiện của Thần tính bẩm sinh, vốn là nền tảng và cội nguồn bất tận
của đời sống và Hiện hữu. Cống hiến của ông được thể hiện bằng tuyên bố “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời!”,
được viết ngay trên trang đầu và trang cuối các tác phẩm của ông.
Tiểu sử tóm tắt
Tiến sĩ Hawkins đã tham
gia chữa bệnh tâm thần từ năm 1952 và là thành viên trọn đời của Hiệp hội Tâm
thần Hoa Kỳ và nhiều tổ chức nghề nghiệp khác. Ông từng xuất hiện trong các
chương truyền hình quốc gia, trong đó có The
McNeil/Leher News Hour, The Barbara
Walters Show, The Today Show,
trong các phim tài liệu khoa học và nhiều chương trình khác.
Tiến sĩ Hawkins là tác
giả của nhiều bài báo, sách, đĩa CD, đĩa DVD và loạt bài giảng về khoa học và
tâm linh. Ông cùng với khôi nguyên Nobel, Linus Pauling, là đồng tác giả cuốn
sách mang tính bước ngoặt nhan đề Orthomolecular
Psychiatry. Tiến sĩ Hawkins giữ vai trò tư vấn cho các Giáo phận dòng tu
Giám mục và Công giáo, cho các tu viện… trong suốt nhiều năm ròng.
Tiến sĩ Hawkins thuyết
trình ở nhiều nơi, trong đó có Tu viện Westminster, các trường đại học ở
Argentina, đại học Notre Dame và Michigan; Đại học Fordham và Đại học Harvard;
và Oxford Forum ở Anh. Hằng năm, ông thường giảng bài ở trường Đại học Y
California ở San Francisco. Ông còn là cố vấn cho một số chính phủ nước ngoài về
ngoại giao quốc tế và giúp giải quyết các cuộc xung đột kéo dài, đe dọa hòa
bình thế giới.
Để ghi nhận những đóng
góp đối với nhân loại, năm 1995, Tiến sĩ Hawkins được Dòng Hiệp sĩ Cứu tế Toàn
quyền Thánh John, thành lập từ năm 1077, phong tước Hiệp sĩ.
Đôi dòng tự sự
Những sự thật được thuật
lại trong cuốn sách này đều bắt nguồn từ nghiên cứu khoa học và được trình bày
một cách khách quan, nhưng như mọi sự thật khác, trước hết chúng là những trải
nghiệm mang tính cá nhân. Một chuỗi lần lượt các trạng thái nhận thức mạnh mẽ bắt
đầu ngay từ khi tôi còn nhỏ và kéo dài suốt cả cuộc đời, rồi sau đó định hướng
quá trình nhận thức chủ quan, để rồi cuối cùng hiện diện trong một loạt những
cuốn sách này.
Năm tôi ba tuổi, ý thức
trọn vẹn về tồn tại đột ngột xuất hiện, đó là sự hiểu biết đầy đủ, tuy không thể
diễn tả thành lời, ý nghĩa của “Tôi là”, rồi ngay lập tức tôi cảm thấy sợ hãi,
vì nhận ra rằng “tôi” có thể chưa bao giờ tồn tại. Đây là sự thức tỉnh trong chốc
lát khỏi tình trạng mụ mị thành trạng thái tỉnh thức, và trong khoảnh khắc đó,
cái tôi cá nhân được sinh ra và tính nhị nguyên của “Là” và “Không Là” đã xuất
hiện trong nhận thức chủ quan của tôi.
Trong suốt thời thơ ấu
và thời niên thiếu, nghịch lý của tồn tại và câu hỏi về thực tại của tự ngã vẫn
thường xuyên làm tôi băn khoăn. Đôi lúc tự ngã cá nhân bắt đầu quay ngược trở lại
vào Đại Ngã phi cá nhân lớn lao hơn, và nỗi sợ ban đầu về không-tồn-tại – nỗi sợ
hãi cơ bản về hư vô lại tái xuất hiện.
Năm 1939, trong lúc đi
giao báo trên con đường dài mười bảy dặm bằng xe đạp ở ngoại ô Wisconsin, vào một
đêm tối trời mùa đông, nhiệt độ dưới 20 độ C, tôi gặp một trận bão tuyết cách
nhà mấy dặm. Xe đạp đổ trên mặt băng, cơn gió dữ dội lôi những tờ báo khỏi cái
giỏ gắn vào ghi đông và thổi chúng tung tóe khắp cánh đồng đầy tuyết. Trong bộ
quần áo cứng đơ vì lạnh, tôi đã khóc vì thất vọng và kiệt sức. Để tránh gió,
tôi phá lớp vỏ băng ở một bờ tuyết cao, rồi đào một cái hốc và bò vào trong đó.
Chẳng bao lâu sau, tôi hết run, rồi cảm thấy ấm áp lạ thường, và sau đó là trạng
thái bình yên không thể nào tả nổi. Cùng với đó, xung quanh tôi ngập tràn ánh
sáng và tình yêu vô biên vô tế, không có bắt đầu cũng không có kết thúc và
không tách rời khỏi bản chất của chính tôi. Khi nhận thức của tôi tan chảy vào
trạng thái rực rỡ và hiện diện khắp nơi này thì cơ thể vật lý và môi trường
xung quanh cũng mờ dần. Tâm trí trở nên tĩnh lặng; mọi ý nghĩ đều dừng lại. Hiện
diện vô biên vô tế là tất cả những gì đang là hoặc có thể là, siêu việt mọi thời
gian và không thể nào mô tả được.
Sau trạng thái phi thời
gian ấy, tôi bỗng thấy có người nào đó đang lay chân mình; rồi khuôn mặt đầy lo
lắng của bố tôi hiện ra. Tôi rất không muốn trở lại với thể xác và tất cả những
hệ lụy kèm theo, nhưng vì tình yêu và sự đau khổ của cha tôi, Linh hồn đã thổi
sinh khí và tái kích hoạt thể xác của tôi. Trong tôi này sinh lòng trắc ẩn khi
thấy bố sợ tôi chết, mặc dù, ngay lúc đó, đối với tôi, khái niệm chết dường như
là vô lý.
Tôi không kể lại trải
nghiệm chủ quan này với bất kỳ ai, vì không có bối cảnh để mô tả nó. Hồi ấy,
các trải nghiệm tâm linh thường chỉ xuất hiện trong những câu chuyện về cuộc đời
của các vị thánh. Nhưng sau trải nghiệm này, tôi bắt đầu cảm thấy thực tại của
thế giới được mọi người chấp nhận dường như chỉ là tạm thời; giáo lý tôn giáo
truyền thống không còn ý nghĩa và, ngược đời là, tôi trở thành người theo thuyết
bất khả tri. So với ánh sáng của Thần tính đã rọi sáng lên tất cả chúng sinh,
thì ánh sáng của ông trời (god) của tôn giáo truyền thống thật ra rất mờ nhạt;
do đó, trong tôi, tâm linh đã thay thế cho tôn giáo.
Trong Chiến tranh thế
giới lần thứ II, tôi được phân công nhiệm vụ vô cùng nguy hiểm là dò mìn và đã
nhiều lần chạm trán với cái chết, nhưng tôi không sợ. Như thể chết đã không còn
là sự kiện có thực nữa. Sau chiến tranh, ham mê sự phức tạp của tâm trí và muốn
nghiên cứu môn tâm thần học, tôi đã dốc sức để có tấm bằng y khoa. Thầy hướng dẫn
tôi là nhà phân tâm học, giáo sư tại đại học Columbia, cũng là người theo thuyết
bất khả tri; cả hai chúng tôi đều có quan điểm hoài nghi về tôn giáo. Công việc
phân tích diễn ra thuận lợi, sự nghiệp của tôi cũng thế, và sau đó là thành
công.
Tuy nhiên, con đường
vào giới chuyên môn của tôi không hoàn toàn bằng phẳng. Tôi mắc phải một căn bệnh
ngày càng nặng hơn, có thể dẫn tới chết người mà lúc đó chưa có biện pháp chữa
trị. Năm 38 tuổi, tôi đã ở trong tình trạng vô phương cứu chữa và biết rằng
mình sắp chết. Tôi không quan tâm đến thể xác, nhưng linh hồn tôi đau đớn và
tuyệt vọng vô cùng. Khi thời khắc cuối cùng sắp đến, một ý nghĩ vụt lóe lên
trong tâm trí tôi: “Nếu có Chúa thì sao?” Tôi bèn cầu nguyện: “Nếu có Chúa, xin
Ngài hãy giúp con ngay bây giờ ”. Nếu trên đời này có một vị Chúa nào đó và đã
bị quên lãng, tôi xin phó thác cho Người. Khi thức dậy, tôi bàng hoàng đến
không thốt lên lời, vì phát hiện mình vừa trải qua một cuộc lột xác vĩ đại.
Con người trước đây của
tôi đã hoàn toàn biến mất. Không còn bản ngã hay cái tôi cá nhân nữa, mà chỉ
còn Hiện diện Vô biên Vô tế của quyền lực không giới hạn, là tất cả những gì
còn lại lúc đó. Hiện diện này đã thế chỗ cho những thứ đã từng là “tôi”, thân
xác và hành động của tôi là do Ý chí Vô biên Vô tế của Hiện diện điều khiển. Thế
giới được soi rọi bởi ánh sáng của Nhất thể Vô biên Vô tế, khi vạn vật phát lộ
trong vẻ đẹp và sự hoàn hảo vô hạn của chúng thì cũng là lúc Nhất thể Vô biên
Vô tế tự biểu lộ.
Cuộc đời cứ thế trôi,
nhưng trạng thái tĩnh lặng này luôn luôn hiện diện trong tôi. Không còn ý chí
cá nhân; thân xác tôi vận hành dưới sự dẫn dắt của Ý chí có quyền năng vô hạn,
nhưng rất đỗi dịu dàng của Hiện diện. Trong trạng thái đó, không cần phải nghĩ
về bất cứ thứ gì nữa. Tất cả chân lý đã tự hiển lộ, mà không cần khái niệm hóa
hoặc thậm chí là không thể khái niệm hóa được nữa. Đồng thời, hệ thống thần
kinh vật lý của tôi bị quá tải cực độ, như thể nó đang phải chuyên chở quá nhiều
năng lượng so với năng lực tự nhiên của nó.
Lúc đó, tôi không thể
hoạt động hiệu quả trong thế giới này. Không còn động lực bình thường, cũng
không còn sợ hãi và lo lắng nữa. Không có gì để tìm kiếm nữa, vì tất cả đều
hoàn hảo. Danh vọng, thành đạt và tiền bạc đều trở nên vô nghĩa. Bạn bè thúc giục
tôi quay lại hoạt động trong lĩnh vực khám chữa bệnh vì mục đích thực dụng,
nhưng tôi không có động lực của người bình thường để làm việc đó.
Giờ đây, tôi đã có khả
năng nhận biết được thực tại ẩn bên dưới các nhân cách: các bệnh lý tâm lý đều
xuất phát từ niềm tin của con người rằng họ là cá tính của mình. Với nhận thức
như thế, công việc khám chữa bệnh của tôi dường như tự hồi sinh và cuối cùng trở
thành phát đạt.
Bệnh nhân từ khắp mọi
miền đất nước (Mỹ) tìm đến phòng khám của tôi. Lúc đó, chúng tôi đã có 2.000 bệnh
nhân ngoại trú, cần phải có hơn 50 bác sĩ chuyên khoa cùng các nhân viên khác,
một dãy 25 văn phòng, và các phòng thí nghiệm vừa để nghiên cứu vừa để đo điện
não đồ. Mỗi năm lại có thêm 1.000 bệnh nhân mới. Ngoài ra, tôi còn xuất hiện
trên đài phát thanh và các chương trình truyền hình, như đã nói bên trên. Năm
1973, nghiên cứu lâm sàng của tôi được trình bày trong một cuốn sách nhan đề Tâm thần học theo liệu pháp dinh dưỡng vi lượng (Orthomolecular Psychiatry). Công trình này đi trước thời
đại tới 10 năm và đã gây chấn động.
Toàn thể hệ thần kinh của
tôi đã dần dần được cải thiện, rồi một hiện tượng khác xuất hiện. Có một dải
năng lượng ngọt ngào và cực kỳ dễ chịu liên tục chảy theo cột sống và lên não
tôi, làm cho tôi luôn luôn cảm thấy vô cùng sảng khoái. Mọi thứ trong cuộc sống
của tôi đều xảy ra theo lối đồng hiện, diễn tiến trong sự hài hòa hoàn hảo; cái
phi thường trở thành bình thường. Cái mà thế giới gọi là phép màu là khởi nguồn
từ Hiện diện, chứ không phải từ bản ngã cá nhân. Cái “tôi” cá nhân chỉ còn là
nhân chứng cho những hiện tượng này. Cái “Tôi” vĩ đại hơn, sâu sắc hơn bản ngã
hay những suy nghĩ trước đây của tôi, quyết định tất cả những sự kiện đã xảy
ra.
Những trạng thái từng
hiện hữu trong tâm trí tôi đã được nhiều người khác nhau kể lại trong suốt chiều
dài của lịch sử và đã buộc tôi phải nghiên cứu những học thuyết tâm linh, trong
đó có những lời dạy của Đức Phật, những giác giả đã chứng ngộ, thiền sư Hoàng
Bá , và gần đây hơn như Ramana Maharshi và Nisargadatta Maharaj. Do đó, có thể
khẳng định rằng, những trải nghiệm này không phải là duy nhất. Tôi đã ngộ được
ý nghĩa của Chí tôn ca (Bhagavad-Gita). Đôi khi, tôi cũng trải nghiệm được trải nghiệm xuất
thần mà Sri Ramakrishna và các vị thánh
Kitô giáo từng nói tới.
Vạn vật và mọi người
trên thế giới đều rực rỡ và có vẻ đẹp đầy tao nhã. Mọi sinh vật đều trở nên Rạng
rỡ và thể hiện sự Rạng rỡ này trong sự tĩnh lặng và huy hoàng. Rõ ràng là, toàn
thể nhân loại thực sự được thúc đẩy bởi tình yêu thầm kín, nhưng đơn giản là họ
không nhận thức được; mọi người sống hầu hết cuộc đời mình như những người đang
ngủ, không thức tỉnh để nhận thức được mình thực sự là người như thế nào. Những
người xung quanh tôi trông như thể họ đang ngủ và vô cùng đẹp. Như thể tôi đang
yêu tất cả mọi người.
Tôi cần phải chấm dứt
thói quen hành thiền một giờ mỗi sáng và một giờ mỗi tối, trước khi ăn, vì thiền
khuếch đại phúc lạc đến mức tôi không thể duy trì được hoạt động bình thường.
Trải nghiệm tương tự như từng xảy ra trong hốc tuyết khi tôi còn bé lại tái diễn,
và tôi ngày càng khó rời bỏ trạng thái đó và khó quay trở lại với thế gian hơn.
Tôi nhìn thấy vẻ đẹp lạ thường của vạn vật tỏa sáng trong tất cả sự hoàn hảo của
chúng, và những gì thế giới cho là xấu thì tôi lại chỉ thấy vẻ đẹp thường hằng
của chúng. Tình yêu mang tính tâm linh này bao trùm mọi suy nghĩ và tất cả các
ranh giới giữa đây và kia, hay giữa lúc đó và bây giờ, hoặc mọi sự tách biệt đều
biến mất.
Sức mạnh của Hiện diện
lớn dần trong tôi trong những năm tháng đắm chìm trong sự im lặng nội tâm đó.
Cuộc sống không còn mang tính cá nhân nữa, ý chí cá nhân cũng không còn. Cái
“Tôi” cá nhân đã trở thành công cụ của Hiện diện Vô biên Vô tế; nó đi đây đi đó
và làm theo ý chí của Hiện diện. Mọi người đều cảm thấy bình yên lạ thường
trong ánh hào quang của Hiện diện. Những người cầu đạo tìm lời giải đáp cho những
vấn đề của đời sống, nhưng vì không còn những người như David, họ thực sự rút
ra câu trả lời từ chính Đại Ngã của mình, không khác với của tôi. Đại Ngã tỏa
sáng từ đôi mắt của mỗi người.
Điều kỳ diệu, vượt xa sự
hiểu biết thông thường, đã xảy ra. Nhiều bệnh mãn tính từng hành hạ cơ thể tôi
trong nhiều năm đã biến mất; thị lực tự khôi phục, và tôi không còn phải sống
chung với cặp kính hai tròng trọn đời nữa.
Thỉnh thoảng, trái tim
tôi bất ngờ phát ra một luồng năng lượng đầy phúc lạc, một Tình thương Vô biên
Vô tế về phía đang xảy ra tai họa nào đó. Một lần, trong lúc lái xe trên đường
cao tốc, dòng năng lượng tinh tế này bắt đầu tuôn ra từ ngực tôi. Khi xe lượn
qua một khúc cua, tôi nhìn thấy tai nạn ô tô; bánh của chiếc xe bị lật úp vẫn
đang quay. Dòng năng lượng với cường độ mạnh hướng vào những người ngồi trong
xe rồi sau đó tự động dừng lại. Một lần khác, khi tôi đang tản bộ ở một thành
phố xa lạ, dòng năng lượng đó bắt đầu chảy tới dãy nhà ở đằng trước và tới địa
điểm sắp xảy ra một trận ẩu đả. Những người tham chiến ngã ngửa và bắt đầu cười
vang, và một lần nữa, dòng năng lượng dừng lại.
Nhiều lần nhận thức của
tôi đột ngột trải qua những thay đổi sâu sắc trong những tình huống đầy bất ngờ.
Một lần, trong lúc tôi đang ăn tối một mình tại ở nhà hàng Rothmann’s trên đảo
Long Island, Hiện diện bất ngờ gia tăng đến mức mọi thứ và mọi người – từng là
những thứ tách biệt trong nhận thức bình thường – tan chảy thành một thể thống
nhất, phổ quát và vượt thời gian. Trong sự Tĩnh lặng bất động đó, tôi dần nhận
thấy rõ ràng là không có “sự kiện” hoặc “sự vật” nào nữa và không có gì thực sự
“xảy ra”, vì quá khứ, hiện tại và tương lai, kể cả vọng tưởng về một cái “Tôi”
riêng biệt, hữu sinh hữu tử, cũng chỉ đơn thuần là tạo tác của nhận thức. Khi tự
ngã giả tạo, giới hạn, hòa tan vào Đại Ngã phổ quát đến từ cội nguồn đích thực
của nó, trong tôi dâng trào cảm giác khó tả: trạng thái bình an tuyệt đối và
trút bỏ mọi ưu phiền. Chính vọng tưởng về cá tính là nguồn gốc của mọi khổ đau.
Khi người ta nhận ra rằng họ là vũ trụ, toàn bộ và mãi mãi là một với Mọi thứ
Đang Hiện hữu (All That Is), thì sẽ không bao giờ còn đau khổ nữa.
Bệnh nhân từ khắp nơi
trên thế giới, trong đó có những người tuyệt vọng nhất trong số những người tuyệt
vọng, tìm đến cơ sở khám chữa bệnh của tôi. Từ các bệnh viện xa xôi, họ đến đây
với bộ dạng kỳ cục, quằn quại, trong những cái chăn ẩm ướt với hy vọng chữa khỏi
chứng rối loạn tâm thần nan y của mình. Một số người bị trầm cảm nặng; nhiều
người không nói được trong suốt nhiều năm. Nhưng bên dưới vẻ ngoài tàn tạ đó, mỗi
bệnh nhân đều toát lên bản chất đẹp đẽ và đầy yêu thương, mà người đời vì không
nhận ra nên đã hoàn toàn chối bỏ họ.
Ngày nọ, một nữ bệnh
nhân câm, bị trầm cảm nặng, được đưa vào bệnh viện trong tình trạng bị trói. Bệnh
nhân này bị rối loạn thần kinh nghiêm trọng và không thể đứng được. Cô quằn quại
trên sàn, lên cơn co giật và hai mắt trợn ngược. Mái tóc cô xổ tung, quần áo
thì đã bị xé hết từ trước và cô thốt ra những tiếng gầm gừ, rợn người. Cô thuộc
gia đình giàu có; cho nên cô đã được nhiều bác sĩ và chuyên gia nổi tiếng khắp
thế giới thăm khám trong suốt nhiều năm trời. Người ta đã thử tất cả phương
pháp nhưng vô vọng.
Một câu hỏi ngắn, không
lời, xuất hiện: “Chúa ơi, Ngài muốn làm gì với cô ấy?” Sau đó, tôi nhận ra rằng
cô ấy chỉ cần được yêu thương, chỉ có thế thôi. Bản ngã bên trong của cô tỏa
sáng qua đôi mắt và Đại Ngã kết nối với phần cốt lõi đầy yêu thương này. Ngay
trong giây phút đó, cô ấy được chữa lành vì đã nhận thức được bản chất đích thực
của mình; những gì xảy đến với tâm trí hoặc thể xác của cô không còn gây phiền
toái cho cô nữa.
Thực ra, hiện tượng này
đã xảy ra với rất nhiều bệnh nhân. Trong mắt người đời, một số người đã bình phục,
còn một số người khác thì không, nhưng đối với chính người bệnh thì việc sau đó
họ có hồi phục về mặt lâm sàng hay không, không còn quan trọng nữa. Những đau
khổ, dằn vặt nội tâm đã chấm dứt. Khi họ cảm thấy được yêu và bình an trong tâm
hồn, mọi đau khổ đều chấm dứt. Chỉ có thể giải thích hiện tượng này bằng cách
nói rằng,Tâm từ bi của Hiện diện đã đưa thực tại của bệnh nhân vào bối cảnh
khác, để họ trải nghiệm được sự chữa lành ở tầng siêu việt khỏi thế gian và những
biểu hiện của nó. Sự bình an bên trong – vượt trên thời gian và danh tính – của
Đại Ngã ôm trọn tất cả chúng ta.
Rõ ràng là cái tôi cá
nhân chứ không phải Chúa mới là nguồn gốc của mọi đau đớn và khổ sở. Sự thật
này đã được truyền đạt một cách thầm lặng tới tâm trí của bệnh nhân. Một bệnh
nhân trầm cảm khác, không nói trong nhiều năm, cũng bị tắc nghẽn như thế. Đại
Ngã, thông qua tâm trí, đã nói với người đó: “Anh đổ lỗi cho Chúa, trong khi
cái tôi của anh mới là thủ phạm”. Người bệnh nhảy cẫng lên và bắt đầu nói, trước
sự sửng sốt của cô y tá đang đứng gần đó.
Công việc chữa trị ngày
càng vất vả và cuối cùng trở thành quá tải. Bệnh nhân phải chờ đợi vì không có
giường, mặc dù bệnh viện đã xây thêm một khu mới. Tôi cảm thấy rất thất vọng vì
mỗi lần chỉ giúp được một bệnh nhân thoát khỏi được những đau khổ trần thế. Chẳng
khác gì muối bỏ biển. Có lẽ cần cách giải quyết khác thì mới sửa chữa được căn
nguyên của tình trạng chung này – dòng chảy bất tận của những đau khổ và đau đớn
về mặt tâm linh của nhân loại.
Vì vậy, tôi bắt đầu
nghiên cứu phản ứng sinh lý học (kiểm tra cơ bắp) trước các kích thích khác
nhau, và đi đến một khám phá tuyệt với. Đó là “lỗ sâu” giữa hai vũ trụ - thế giới vật chất và thế giới của tâm trí
và linh hồn - giao thoa giữa các chiều kích. Trong cái thế giới chỉ toàn những
người mộng mị, lạc xa khỏi cội nguồn của mình, thì đây là công cụ để hồi phụcvà
chứng minh cho tất cả mọi người rằng, họ đã mất kết nối với thực tại cao hơn. Từ
phát hiện này, tôi bắt đầu kiểm tra mọi vật chất, mọi suy nghĩ và khái niệm có
thể được gợi lên trong tâm trí con người. Các sinh viên và trợ lý nghiên cứu đã
giúp đỡ tôi. Và chúng tôi có một khám phá quan trọng: trong khi tất cả các đối
tượng đều yếu đi khi có các kích thích tiêu cực, ví dụ, đèn huỳnh quang, thuốc
trừ sâu và đường hóa học, thì những người tu tập theo các trường phái tâm linh
đã vươn tới tầng nhận thức cao hơn không phản ứng yếu như những người bình thường
khác. Một sự chuyển dịch quan trọng và dứt khoát đã diễn ra trong ý thức của họ.
Dường như họ nhận thức được rằng, chỉ những gì tâm trí tin tưởng thì mới tác động
được tới mình, thế giới trần tục không thể chi phối được họ nữa. Có lẽ bằng
cách chỉ ra quá trình thăng tiến của nhận thức để đạt đến chứng ngộ, chúng ta
có thể giúp con người gia tăng khả năng chống lại những thăng trầm của cuộc đời,
kể cả bệnh tật.
Chỉ cần tưởng tượng về
những thay đổi là Đại Ngã đã có khả năng thay đổi mọi thứ trên thế giới; mỗi lần
lấy Yêu thương thay thế cho thù hận là một lần Yêu thương thay đổi thế giới. Tập
trung sức mạnh của tình yêu vào một điểm cụ thể nào đó, chúng ta có thể tạo ra
những biến đổi sâu sắc đối với toàn bộ tiến trình văn minh. Mỗi khi xảy ra sự
kiện như thế, lịch sử đều chia thành hai ngả.
Bây giờ, dường như tôi
không chỉ có thể nói những hiểu biết quan trọng này cho thế giới nghe, mà còn
có thể chứng minh một cách rõ ràng và không thể bác bỏ được. Trước đây, dường
như bi kịch lớn nhất của đời người luôn luôn là linh hồn của họ rất dễ bị lừa gạt;
khi con người không thể phân biệt được thật giả thì hệ quá tất yếu sẽ là bất
hòa và xung đột. Đưa bản chất của chính ý thức vào bối cảnh khác và giải thích
điều tưởng chừng như chỉ có thể phỏng đoán là câu trả lời cho tình thế tiến
thoái lưỡng nan này.
Đã đến lúc tôi cần rời
bỏ cuộc sống ở New York – một căn hộ ở thành phố và ngôi nhà trên đảo Long
Island – để làm một cái gì đó quan trọng hơn. Cần phải tự hoàn thiện mình như một
công cụ. Để làm được như thế, phải rời bỏ thế giới này và mọi thứ trong đó,
thay thế nó bằng đời sống ẩn dật trong một thị trấn nhỏ, nơi tôi hành thiền và
nghiên cứu suốt bảy năm liền.
Trạng thái phúc lạc
choáng ngợp tự ập tới, và cuối cùng, tôi thấy cần phải học cách sống trong Hiện
diện Thiêng liêng mà vẫn hoạt động được trong thế giới này. Nói chung, tâm trí
tôi đã không còn biết những gì đang xảy ra trên thế giới bên ngoài. Để có thể
nghiên cứu và viết sách, tôi cần dừng tất cả hoạt động tâm linh và tập trung
vào thế giới hình tướng. Đọc báo và xem tivi giúp tôi nắm được các nhân vật,
các sự kiện chính và bản chất của cuộc đối thoại của xã hội hiện thời.
Trừ những người cầu đạo,
phần lớn nhân loại không hiểu được những trải nghiệm chủ quan phi thường về
sự thật, và do đó, không thấy được trọn vẹn ý nghĩa của nó; đó là lĩnh vực của
các nhà huyền môn, họ thường tác động tới toàn thể nhân loại bằng cách đưa năng
lượng tâm linh vào ý thức tập thể. Vì vậy, tôi cố gắng sống như một người bình
thường, vì sống như một người bình thường, tự nó, đã là biểu hiện của Thần
tính; cuộc sống thường nhật là con đường giúp chúng ta khám phá sự thật về tự
ngã thực sự của mình. Chỉ cần sống một cách tử tế và quan tâm. Phần còn lại sẽ
tự hiển lộ vào đúng lúc cần hiển lộ. Cái tầm thường và Chúa nào có khác gì
nhau.
Và như thế, sau khi trải
qua cuộc hành trình kéo dài, linh hồn tôi đã quay trở lại với công việc quan trọng
nhất: cố gắng đem Hiện diện tiến gần hơn đến ngưỡng nhận thức của càng nhiều
người thì càng tốt.
&
Khi thời gian dừng lại,
mọi vấn đề đều biến mất; chúng chỉ đơn thuần là tạo tác của nhận thức. Khi Hiện
diện giữ thế thượng phong, người ta sẽ không còn đồng nhất mình với thể xác hay
tâm trí nữa. Khi tâm trí trở nên tĩnh lặng, ý nghĩ “Tôi là” cũng biến mất, và
Nhận thức Thuần túy tỏa sáng để soi rọi bản chất của chúng ta trong quá khứ, hiện
tai và mãi mãi về sau, vượt trên mọi thế giới và mọi vũ trụ, vượt thời gian, và
do đó, không có khởi đầu hoặc kết thúc.
Người ta thường tự hỏi:
“Làm sao đạt được trạng thái nhận thức như thế?”, nhưng ít người tuân thủ quy
trình vì chúng quá đơn giản. Trước hết, họ phải rất khát khao trạng thái đó.
Sau đó phải sống thật vị tha và tử tế – liên tục và trong mọi hoàn cảnh, không
có ngoại lệ. Họ phải thể hiện lòng từ bi đối với mọi thứ, trong đó có từ bi với
chính mình và những ý nghĩ của mình. Tiếp theo, họ phải sẵn sàng gác lại mọi
khát vọng và từ bỏ ý chí cá nhân tại mọi thời khắc. Mỗi lần ý nghĩ, cảm giác, ước
muốn hoặc hành động được phó thác cho Chúa, là một lần tâm trí càng trở nên
tĩnh lặng thêm. Ban đầu, việc này sẽ giải phóng khỏi tâm trí người ta toàn bộ
câu chuyện và đoạn văn, sau đó thì đến các ý tưởng và khái niệm. Khi buông bỏ
mong muốn sở hữu những suy nghĩ này, thì chúng không còn gắn kết chặt chẽ như vậy
nữa, mà bắt đầu trở nên rời rạc ngay từ khi mới manh nha. Cuối cùng, người ta
có thể đảo ngược năng lượng đằng sau mỗi ý nghĩ trước khi nó trở thành ý nghĩ
thực sự.
Phải liên tục và không
ngừng giữ chánh niệm như thế, thậm chí không được xao lãng dù chỉ trong khoảnh
khắc, trong khi vẫn hoạt động bình thường. Thời gian đầu, việc này dường như là
rất khó, nhưng rồi sẽ trở thành thói quen, tự động, ngày càng cần ít nỗ lực
hơn, và cuối cùng, chẳng cần cố gắng gì hết. Tương tự như quả tên lửa được bắn
lên vũ trụ. Lúc đầu, cần phải có lực đẩy rất lớn, nhưng sau đó, càng cách xa
trường hấp dẫn của trái đất bao nhiêu thì càng cần ít lực đẩy bấy nhiêu và cuối
cùng, nó di chuyển trong không gian bằng động lượng của chính mình.
Và rồi, đột nhiên, nhận
thức của người ấy bất ngờ thay đổi, Hiện diện đã ở đó, không thể nhầm lẫn và
bao trùm lên tất cả. Họ sẽ e sợ trong giây lát, khi tự ngã cá nhân chết đi, và
sau đó, cái tuyệt đối của Hiện diện sẽ làm lóe lên tia chớp kinh ngạc. Cú đột
phá này vô cùng ngoạn mục, mãnh liệt hơn tất cả những hiện tượng mà người ta từng
gặp trước đó. Không có trải nghiệm thông thường nào có thể so sánh được. Nhưng
tình yêu vốn luôn luôn có mặt cùng với Hiện diện sẽ giúp giảm nhẹ cú sốc sâu sắc
này. Họ sẽ bị hủy diệt nếu không có sự nâng đỡ và bảo vệ của tình yêu đó.
Sau đó là một khoảnh khắc
kinh hoàng, khi bản ngã tìm mọi cách để tồn tại, vì nó sợ rằng sẽ trở thành hư
vô. Nhưng không, khi nó chết đi, thế chỗ cho nó sẽ là Đại Ngã, hiện thân của Vạn
vật, của Toàn thể, trong đó vạn vật đều được nhận diện và đều rõ ràng trong biểu
hiện hoàn hảo của chính bản chất của chúng. Cùng với việc trở thành bất định xứ,
người ta cũng nhận ra rằng mình là tất cả những gì đã từng hiện hữu hoặc có thể
hiện hữu. Họ là toàn thể và hoàn chỉnh, vượt trên mọi danh tính, vượt trên mọi
giới tính, thậm chí vượt trên cả bản tính người. Họ sẽ không bao giờ sợ đau khổ
và chết chóc nữa.
Kể từ thời điểm này, chỉ
còn những thứ phi vật chất là tác động được tới thân xác mà thôi. Ở những tầng
nhận thức tâm linh nhất định, bệnh tật của thân xác được chữa lành hoặc tự biến
mất. Nhưng ở trạng thái tuyệt đối, những suy nghĩ như thế không còn phù hợp nữa.
Thân xác sẽ đi theo tiến trình được dự đoán trước của nó, rồi sau đó sẽ quay trở
lại cội nguồn của nó. Vấn đề này không quan trọng; người đó không bị ảnh hưởng.
Thể xác hiện ra như “nó” chứ không còn là “tôi”, như một đối tượng khác, như
món đồ gỗ trong phòng. Buồn cười là mọi người vẫn coi thể xác đó như thể đó là
con người “bạn”, nhưng bạn không thể nào giải thích trạng thái nhận thức này
cho người không có hiểu biết biết nó. Tốt nhất là, nên tiếp tục công việc của
mình và để cho Chúa tiến hành điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, một
khi đạt được phúc lạc, người ta khó lòng che giấu được trạng thái ngây ngất cực
độ này. Cả thế giới có thể bị lóa mắt, và người từ khắp nơi có thể đến để bước
vào vòng hào quang của nó. Người đó có sức cuốn hút những người cầu đạo và những
người tò mò về thế giới tâm linh, cũng như những người bị bệnh nan y đang tìm
kiếm phép màu. Người đó có thể trở thành một thỏi nam châm và nguồn vui cho những
người kia. Thường thì lúc đó, người ấy sẽ mong muốn chia sẻ trạng thái này với
mọi người và dùng nó để mang lại lợi ích cho nhân quần.
Nhưng cơn ngây ngất ban
đầu này không trường tồn tuyệt đối; có những khoảnh khắc đau đớn tột cùng. Cơn
đau mãnh liệt nhất xuất hiện khi trạng thái này dao động và đột ngột biến mất
mà chẳng có lý do rõ ràng nào. Những lúc như thế, người này sẽ rơi vào trạng
thái tuyệt vọng cùng cực, họ sợ rằng mình bị Hiện diện bỏ rơi. Những cú rớt ngã
này làm cho con đường tâm linh của họ trở nên gian nan, và phải có ý chí rất mạnh
mẽ thì mới vượt qua được. Cuối cùng, họ nhận thức được rõ ràng, rằng phải vượt
qua tầng này hoặc vĩnh viễn đau khổ vì “bị rớt xuống”. Sau đó, họ phải từ bỏ vẻ
huy hoàng của cơn ngây ngất để thực hiện nhiệm vụ cực kỳ khó khăn: siêu việt
tính nhị nguyên cho đến khi thoát khỏi tất cả các đối nghịch cùng các lực kéo
xung khắc nhau của chúng. Tuy nhiên, nếu từ bỏ cái xích sắt của bản ngã là sướng,
thì từ bỏ cái xích vàng của niềm vui ngây ngất lại hoàn toàn khác. Người đó cảm
thấy như đang từ bỏ Chúa, và trong họ khởi lên mức độ sợ hãi mới, chưa từng có.
Đây là nỗi kinh hoàng cuối cùng của đơn độc tuyệt đối.
Về phần bản ngã, nó khiếp
đảm trước viễn cảnh nó không tồn tại, và mỗi lần trạng thái ấy cận kề là nó đều
co rúm lại. Lúc đó mới thấy rõ mục đích của những khổ đau và những đêm đen của
linh hồn. Chúng gây ra những đau đớn mãnh liệt đến mức buộc người ta phải nỗ lực
đến tận cùng để vượt qua chúng. Khi sự chao đảo giữa thiên đường và địa ngục trở
nên không thể chịu đựng được, người đó phải từ bỏ chính niềm khát khao được tồn
tại. Chỉ làm xong việc đó, thì cuối cùng, họ mới không còn phân biệt giữa cái
Toàn thể và Hư vô, tồn tại và không tồn tại. Đỉnh điểm hành trình tâm linh này
– cũng là giai đoạn khó khăn nhất, bước ngoặt cuối cùng – là khi người đó nhận
thức rõ ràng, rằng vọng tưởng về sự tồn tại mà họ vượt qua là bất khả vãn hồi.
Không thể quay lại được nữa, và chính nỗi ám ảnh về sự bất khả vãn hồi này làm
cho chướng ngại cuối cùng này dường như là sự lựa chọn khó khăn hơn hết thảy.
Nhưng trên thực tế,
trong sự tận diệt cuối cùng của tự ngã, sự tan rã của tính nhị nguyên duy nhất
còn lại là tồn tại và không tồn tại – tức bản thân danh tính – sẽ tan biến vào
trong Thần tính Phổ quát, và không có ý thức cá nhân nào còn lại để lựa chọn nữa.
Lúc đó, Chúa sẽ định đoạt bước đi cuối cùng.
—David
R. Hawkins
No comments:
Post a Comment