February 13, 2023

Tóm tắt tác phẩm: Tại sao các quốc gia thất bại?

 

Giới thiệu

Tôi sẽ học được gì từ tác phẩm này? Làm sắc bén hiểu biết của bạn về động lực của sức mạnh chính trị và kinh tế trong lịch sử trên quy mô toàn cầu.

 


Chỉ mất vài phút để lướt qua tin tức trước khi một số câu hỏi khá cơ bản bắt đầu xuất hiện. Tại sao một số quốc gia giàu có, trong khi những quốc gia khác lại nghèo đói? Và làm sao để một số quốc gia trở nên thịnh vượng và khoan dung, trong khi những quốc gia khác lại chìm trong chế độ chuyên chế của giới tinh hoa và tham lam tư lợi?

Trong nhiều thế kỷ, người ta thường giải thích các xu hướng lịch sử như thế bằng văn hóa hay vị trí địa lý của quốc gia. Nhưng sự thật là, chính quá trình phát triển của các thể chế của đất nước mới là vấn đề quan trọng. Trong tiến trình lịch sử, tất cả các quốc gia đều đứng trước những ngã ba đường, dẫn họ đến quá trình xây dựng và duy trì các thể chế dung hợp hay loại trừ. Đó là kết quả và bối cảnh xuất hiện trong quá trình xây dựng thể chế, và được khám phá trong tác phẩm này. Và chính nó giải thích vì sao các quốc gia có thể thịnh vượng hay thất bại.

Trong những “tia sách” này các bạn sẽ học được

  • vì sao phải mất mấy trăm năm máy in mới trở thành thông dụng ở Đế chế Ottoman;
  • làm sao mà sức mạnh của các công đoàn có thể lật đổ được chế độ độc tài quân sự ở Brazil; và
  • Đại dịch hạch (Back Death) đã mang lại lợi ích gì cho Tây Âu.

 

Tia sách 1

 

Quốc gia giàu hay nghèo không chỉ đơn giản là do vị trí địa lý, văn hóa hay kiến thức.

 

Trên biên giới giữa Mexico và Hoa Kỳ có một thị trấn nằm giữa hai nước. Người dân ở Nogales, Arizona có mức sống cao hơn hẳn so với những người sống ở phía nam đường biên giới - Nogales, Sonora. Họ dễ dàng tiếp cận hơn với y tế và giáo dục, tỷ lệ tội phạm thấp hơn và thu nhập trung bình của hộ gia đình cao gấp ba lần người dân ở phía nam đường biên giới.

Cái gì tạo ra khác biệt như thế? Giả thuyết địa lý là lý thuyết có ảnh hưởng nhất được tạo ra nhằm giải thích sự khác nhau như thế – nhưng lý thuyết đó không áp dụng được ở đây.

Giả thuyết địa lý được nhà triết học người Pháp thế kỷ XVII, Montesquieu, xiển dương mạnh mẽ nhất. Ông khẳng định rằng người dân ở vùng khí hậu nhiệt đới ấm áp hơn lười biếng hơn những người sống ở vùng khí hậu ôn hòa hơn, làm việc chăm chỉ hơn, tháo vát hơn.

Trong thời hiện đại, lý thuyết này đã được người ta thay đổi nhằm nhấn mạnh rằng ở những vùng ấm hơn như Châu Phi, Nam Á và Trung Mỹ có nhiều loại bệnh hơn, chất lượng đất của những vùng đó cũng được cho là kém hơn, đấy được cho nguyên nhân kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Nhưng không chỉ Nogales bác bỏ những ý tưởng như thế. Chỉ cần nhìn vào sự khác biệt giữa Nam và Bắc Triều Tiên, Đông và Tây Đức trước đây, và những bước nhảy vọt về kinh tế của Botswana, Malaysia và Singapore là thấy giả thuyết địa lý là không chấp nhận được.

Hai lý thuyết khác thường được trích dẫn cũng không đứng vững.

Thứ nhất, giả thuyết về văn hóa. Đầu thế kỷ XX, nhà xã hội học người Đức, Max Weber, tuyên bố rằng tốc độ công nghiệp hóa cao của Tây Âu, trái ngược với phần còn lại của thế giới, là do “đạo đức làm việc cần cù của các tín hữu Tin lành”.

Nhưng xin nhìn vào Triều Tiên, bán đảo đồng nhất về văn hóa cho đến khi có sự chia rẽ giữa miền Bắc cộng sản và miền Nam tư bản chủ nghĩa. Giả thuyết văn hóa đơn giản là không thể giải thích sự khác biệt giữa hai quốc gia. Chính đường biên giới đã gây ra sự chênh lệch như thế, chứ không phải là sự khác biệt sâu sắc và đáng kể về văn hóa.

Giả thuyết về kém hiểu biết có hiệu lực trong lĩnh vực tương tự như giả thuyết về văn hóa. Nó ám chỉ rằng nghèo đói là kết quả của thiếu hiểu biết về các chính sách có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Ví dụ ngược lại ở đây rất rõ ràng: viện trợ nước ngoài và tư vấn của các chuyên gia được đưa đến các nước Châu Phi phần lớn đã không tạo ra sự khác biệt kéo dài.

Tuy nhiên, có một lý thuyết thuyết phục hơn giải thích sự bất bình đẳng trên bình diện quốc tế. Bây giờ xin cùng xem xét.

 

Tia sách 2

 

Khác biệt về thể chế là lời giải thích phù hợp nhất sự khác biệt về mức sống giữa các quốc gia.

 

Xin quên đi những lý thuyết vĩ đại tìm cách giải thích những khác biệt về thịnh vượng giữa các quốc gia. Sự thật đơn giản hơn hẳn. Thể chế kinh tế và chính trị mới là những vấn đế thực sự quan trọng.

Thể chế kinh tế của quốc gia quyết định sự thịnh vượng của quốc gia đó – đấy là các hệ thống và quy định hướng dẫn hoạt động kinh tế trong phạm vi biên giới của quốc gia đó. Đấy là luật sở hữu, sức mạnh của các dịch vụ công cộng và khả năng tiếp cận lĩnh vực tài chính.

Các thể chế kinh tế này nằm trong một trong hai phạm trù: tước đoạt hay dung hợp.

Các thể chế kinh tế dung hợp kích thích thành công về kinh tế và được thiết kế nhằm khuyến khích người dân tham gia vào các hoạt động kinh tế. Các thể chế này còn ủng hộ tự do kinh tế.

Ví dụ, ở những nước như Hàn Quốc và Hoa Kỳ, các luật lệ của thị trường bắt nguồn từ luật sở hữu tư nhân, cũng như từ lĩnh vực ngành ngân hàng đã phát triển và hệ thống giáo dục công đầy sức mạnh.

Những luật lệ này tạo điều kiện cho mọi người biết rằng họ có thể làm việc chăm chỉ và đổi mới, chắc chắn rằng những nỗ lực của mình sẽ được đền đáp và của cải của họ sẽ được bảo toàn.

Ngược lại, các thể chế tước đoạt lấy thu nhập từ một số nhóm người trong xã hội để làm lợi cho những nhóm người khác. Ví dụ, ở Mỹ Latin thời thuộc địa, hệ thống được xây dựng dựa trên sự cưỡng bức và tước đoạt người dân bản địa nhằm mang lại lợi ích cho những người thực dân. Ở Bắc Triều Tiên, gia đình Kim đã dựng lên chế độ đàn áp dân chúng, đặt quyền sở hữu tư nhân ra ngoài vòng pháp luật và tập trung mọi quyền lực vào tay nhóm tinh hoa được chọn lọc.

Giống như các thể chế kinh tế, các thể chế chính trị cũng có thể là dung hợp hay tước đoạt.

Đặc điểm chính của các thể chế chính trị dung hợp là đa nguyên. Có nghĩa là các nhóm người khác nhau trong xã hội có người đại diện về mặt chính trị, do đó, quyền lực được chia sẻ giữa những nhóm người đó. Để các thể chế thực sự là dung hợp, thì chúng phải là trung ương tập quyền. Trung ương tập quyền dẫn đến chế độ pháp quyền; các nhóm người khác nhau không cần phải chiến đấu với nhau để giành ưu thế.

Nếu các thể chế chính trị thiếu tính đa nguyên hay trung ương tập quyền, thì chúng thường có thể được gọi là tước đoạt.

Lợi ích của các thể chế chính trị dung hợp là chúng dẫn đến sự chia sẻ quyền lực giữa các nhóm người. Chia sẻ quyền lực lại dẫn đến xóa bỏ các chính sách kinh tế mang tính tước đoạt và do đó, mang lại lợi ích kinh tế chung cho tất cả các thành viên trong xã hội.

Tia sách 3

 

Các sự kiện đơn lẻ diễn ra tại các thời điểm quan trọng có thể dẫn đến các thể chế khác nhau.

 

Một sự kiện quan trọng nhất đã định hình thời kỳ trung cổ và giai đoạn đầu thời hiện đại ở châu Âu. Vào giữa thế kỷ XIV, Đại dịch hạch (Black Death) đã lan tràn theo các tuyến đường thương mại đã được thiết lập từ Viễn Đông đến lục địa Châu Âu. Gần một nửa dân chúng Châu Âu đã chết trong trận đại dịch này.

Cùng với số người chết, sự sụp đổ kinh tế sau đó đã định hình châu Âu trong những thế kỷ tới.

Do đó, Đại dịch hạch là ví dụ về cái được gọi là thời điểm quan trọng - tức là một sự kiện có khả năng làm đảo lộn cán cân chính trị-xã hội của một quốc gia, một lục địa hay thậm chí là toàn thế giới.

Trước khi Đại dịch hạch xuất hiện ở châu Âu, các hệ thống kinh tế và xã hội của lục địa này được định hình bởi hình thức quản trị và kiểm soát mang tính tước đoạt cao, gọi là chế độ phong kiến.

Nhà vua nắm tất cả đất đai của đất nước, ông ta chia cho các vương hầu, khanh tướng của mình, đến lượt mình, những người này có nghĩa vụ cung cấp lực lượng quân sự, khi cần. Đất đai được những người nông dân của các vương hầu, khanh tướng cày cấy và chăm sóc, nông dân phải nộp phần lớn sản phẩm mà họ thu được cho chủ đất dưới dạng tô, thuế. Nếu không được các ông chủ cho phép thì nông dân không được đi khỏi nơi cư trú. Trên hết, lãnh chúa còn giữ quyền xét xử họ.

Tuy nhiên, Đại dịch đã làm cho tình trạng thiếu hụt lao động trở thành nghiêm trọng. Ở Tây Âu, thiếu hụt lao động có nghĩa là, cuối cùng, nông dân cảm thấy họ có khả năng đòi giảm thuế và đòi thêm nhiều quyền hơn.

Nhưng không thể nói như thế về Đông Âu. Nông dân Đông Âu kém tổ chức hơn. Các điền chủ đã tìm cách áp bức nông dân vì họ không có tổ chức. Trái ngược với các nước Tây Âu, các thể chế ở Đông Âu ngày càng trở thành tước đoạt hơn, tô thuế ngày càng cao hơn.

Do đó, có thể nói rằng Đại dịch hạch đã tạo ra thời điểm cực kỳ quan trọng. Nó làm cho chế độ phong kiến tan rã và, góp phần đẩy nhanh việc hình thành các thể chế ít tước đoạt hơn ở Tây Âu. Nhưng xa hơn một chút về phía đông, tình hình hoàn toàn ngược lại.

Người ta đã đặt tên cho hiện tượng dẫn đến những con đường khác nhau tại những thời điểm cực kỳ quan trong này. Gọi là biến đổi thể chế. Có nghĩa là các khu vực khá giống nhau lại đi theo những hướng khác nhau.

Hiện tượng tương tự cũng xảy ra sau vài thế kỷ sau đó. Lần này, thời điểm quan trọng là quá trình bành trướng của nền thương mại thế giới và Châu Mỹ trở thành thuộc địa của các nước Châu Âu. Những sự kiện quan trọng này đã đẩy nhanh tiến trình biến đổi thể chế, vì những sự kiện này không mang lại lợi ích kinh tế cho tất cả các nước Châu Âu.

Có thể phải mất nhiều thế kỷ, nhưng tất cả chỉ diễn ra trong vài thời điểm cực kỳ quan trọng và kết quả là biến đổi thể chế dẫn đến những khác biệt to lớn về thể chế của những nước có thời từng là những nước giống nhau.

Tia sách 4

 

Sự sung túc của các nước công nghiệp hóa ngay từ đầu, như nước Anh, bắt nguồn từ các thể chế chính trị dung hợp đã phát triển trong nhiều thế kỷ trước đó.

 

Trong thời hiện đại, một nước đã vượt qua các rào cản nhằm công nghiệp hóa đặc biệt nhanh. Nước Anh bắt đầu quá trình công nghiệp hóa vào thế kỷ XVII – và đến thế kỷ XIX, nước Anh đã trở thành siêu cường toàn cầu.

Xuất hiện câu hỏi, tại sao lại là nước Anh? Vâng, tất cả là do các thể chế chính trị của nước này, thể chế chính trị tạo ra các thể chế kinh tế dung hợp.

Nền tảng ban đầu cho sự thành công đã được xây dựng từ trước đó rất lâu. Đại Hiến Chương Tự Do (Magna Carta), ký năm 1215, lập ra Quốc hội Anh, tuy còn phôi thai. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là cuộc Cách mạng Vinh quang, diễn ra trong năm 1688. Cách mạng giúp William III, được Quốc hội ủng hộ, lật đổ James II. Để đền đáp sự ủng hộ, Quốc hội Anh lúc này được trao thêm nhiều quyền lực hơn, trong khi quyền lực của nhà vua thì bị giảm bớt.

Khác với các ông vua, thành viên của Nghị viện được bầu lên, mặc dù lúc đó chỉ có các điền chủ mới có quyền bầu cử. Kết quả là, Nghị viện được bầu ra đã phục vụ lợi ích của nhóm thiểu số này và, khi làm như vậy, nó đã tạo ra các thể chế kinh tế dung hợp, khuyến khích dân chúng tích cực tham gia hoạt động kinh tế.

Do đó, quyền sở hữu tài sản có hiệu lực pháp lý được đưa vào luật và có những điều luật bảo hộ mạnh mẽ hơn nhằm khuyến khích đầu tư và đổi mới.

Quốc hội cũng cải cách hệ thống ngân hàng. Ngân hàng Trung ương Anh được thành lập vào năm 1694. Một trong những mục đích chính của nó là cung cấp tín dụng nhằm tạo điều kiện cho người dân Anh đầu tư.

Hệ thống thuế khóa cũng được cải cách. Nhằm khuyến khích sản xuất, thuế đối với hàng hóa sản xuất, chẳng hạn như bếp lò, đã được bãi bỏ. Những loại thuế này được thay thế bằng thuế ruộng đất. Bộ máy hành chính nhà nước bành trướng thêm cũng tạo điều kiện cho việc thu thuế tiêu thụ đặc biệt hiệu quả hơn. Ý tưởng là tái đầu tư các khoản thuế và do đó, kích thích nền kinh tế.

Vì vậy, trong thế kỷ XVIII và XIX, cơ sở hạ tầng của đất nước đã được cải thiện đáng kể. Đầu tiên, người ta xây các kênh đào, và sau đó là đường sắt. Cả hai hệ thống giao thông này đều gíup vận chuyển hàng hóa và nguyên liệu dễ dàng hơn.

Tất cả những yếu tố này cùng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng ở nước Anh. Các nhà sản xuất giờ đây có phương tiện và phương pháp sản xuất hàng loạt. Hàng hóa được chuyển đi khắp thế giới, và lợi nhuận thu được bị đánh thuế và đưa trở lại nền kinh tế của nước Anh.

Chủ nghĩa tư bản hoàn toàn tốt đẹp, nhưng làm sao mà quá trình bùng nổ kinh tế và cơ sở hạ tầng hỗ trợ của nó lại tạo điều kiện cho các thể chế của nước Anh ngày càng trở nên dung hợp hơn? Xin xem trong phần tiếp theo của “tia sách”.

Tia sách 5

 

Các thể chế dung hợp tạo ra các chu kỳ hiệu quả.

 

Xin tiếp tục xem xét nước Anh như là trường hợp nghiên cứu của chúng ta. Không phải ngẫu nhiên mà các thể chế dung hợp cơ bản được thiết lập, thì kết quả là diễn ra những cuộc cải cách kinh tế dung hợp.

Đấy là do các thể chế dung hợp không chỉ kích thích tăng trưởng kinh tế; cùng với thời gian, chúng còn tự củng cố khá hiệu quả nữa.

Khi các thể chế chính trị của nước Anh trở nên đa nguyên hơn, mỗi phe có quyền lực phải đảm bảo rằng quyền lực của mỗi phe khác phải được luật pháp hạn chế.

Từng bước một, trong thế kỷ XIX và XX, các thể chế này ngày càng trở nên dung hợp hơn. Quyền bầu cử đã được lan ra ngoài giới tinh hoa điền chủ, cho đến khi quyền bầu cử trở thành phổ thông đầu phiếu cho tất cả mọi người, không phụ thuộc vào tài sản.

Chính nhờ những nỗ lực phối hợp của những người bị tước quyền bầu cử mà quyền phổ thông đầu phiếu đã trở thành hiện thực. Các cuộc đình công của công nhân, tình trạng bất ổn xã hội, thỉnh nguyện và vận động tranh cử đều có đóng góp vào tiến trình này.

Tuy nhiên, thành công của người bị tước quyền bầu cử không diễn ra trong chân không. Một phần là do các thể chế đã được thiết lập ở Anh có xu hướng thỏa hiệp. Chính vì lợi ích của giới tinh hoa mà sự ổn định và quản trị được duy trì và có trật tự. Không có lý do gì để làm cho cả hệ thống - được chứng minh là rất thành công về mặt tài chính – bị sụp đổ. Tốt nhất là quan tâm đến những đòi hỏi của dân chúng, chứ không để cách mạng luôn luôn đe dọa đất nước.

Quyền bầu cử ngày càng mở rộng đánh dấu quá trình thay đổi hướng tới các thể chế chính trị đa nguyên hơn, lúc này nó đã có điều kiện đại diện cho lợi ích kinh tế của ngày càng nhiều người hơn. Đến lượt mình, các thể chế kinh tế cũng ngày càng trở thành dung hợp hơn.

Trong khi bộ máy tư pháp và quyền bầu cử chuyển động một cách chậm chạp, thì các phương tiện truyền thông chính là nhiên liệu làm cho mọi thứ tiếp tục quay.

Phương tiện truyền thông theo dõi hành động của những người có quyền lực và thông báo cho cử tri về các sự kiện chính trị. Nói tóm lại, nó giữ cho quá trình tự hoàn thiện của thể chế chính trị mang tính dung hợp tiếp tục tiến lên.

Chúng ta chỉ cần nhìn vào ví dụ ở bên kia bờ đại dương.

Ở Mỹ, đầu thế kỷ 20, “Các ông trùm tư bản vô đạo” đã tạo ra các công ty độc quyền đầy sức mạnh, chẳng hạn như Standard Oil và US Steel Company. Tuy nhiên, từ năm 1901 đến năm 1921, các tổng thống Theodore Roosevelt, William Taft và Woodrow Wilson đã ban hành luật chống độc quyền nhằm ngăn chặn nỗ lực của các ông trùm nhằm giành thêm quyền lực kinh tế.

Chính nhờ những nỗ lực của báo chí mà việc lạm dụng quyền lực của các công ty độc quyền này đã trở thành vấn đề mang tầm quốc gia. Chẳng bao lâu sau, dân chúng trên khắp cả nước đã yêu cầu cải cách.

Tia sách 6

 

Củng cố quyền lực thường tác động tiêu cực tới quá trình phát triển kinh tế của đất nước.

 

Hoàn toàn tự nhiên khi cho rằng các nhà lãnh đạo thông minh sẽ luôn chọn sự thịnh vượng chứ không chọn đói nghèo cho đất nước của mình.

Thật không may là, giới tinh hoa chính trị thực sự là một nhóm tư lợi, và hiện tượng này có tác động tiêu cực tới quá trình phát triển.

Máy in là ví dụ điển hình. Được phát minh ở Mainz vào năm 1445, cuối thế kỳ XV, nó đã lan tới Strasbourg, Rome, Florence, London, Budapest và Krakow.

Mặc dù vậy, những người cầm quyền ở Đế chế Ottoman không có cái máy in nào. Đối với họ, máy in đe dọa quyền lực của họ, cho nên người Hồi giáo bị cấm in bằng tiếng Ả Rập. Chỉ đến năm 1727, người ta mới cho phép in ấn, nhưng ngay cả lúc đó, các học giả tôn giáo và luật pháp phải có mặt ở đó để làm nhiệm vụ kiểm tra. Tác động của việc in ấn lên sự nghiệp giáo dục là đáng kể. Ước tính rằng chỉ có khoảng 2 đến 3% công dân ở Đế chế Ottoman biết đọc biết viết, trong khi ở Anh là 40 đến 60%.

Một yếu tố khác có tác dụng kìm hãm tăng trưởng kinh tế là người ta sợ quá trình phá hủy sáng tạo trong giới tinh hoa chính trị.

Phá hủy sáng tạo là quá trình bắt nguồn từ những đổi mới, nâng cao hiệu quả và xóa sổ một số lĩnh vực kinh tế. Ví dụ, quá trình phát triển của máy khâu đã dẫn đến vụ sụp đổ của ngành dệt truyền thống.

Đầu thế kỷ XIX, Hoàng đế Francis I của Áo kiên quyết chống lại quá trình công nghiệp hóa. Mãi đến năm 1811, tất cả các máy móc mới đều bị cấm, thậm chí cả đường sắt cũng bị phản đối. Thực ra, ông ta sợ nhất là các ngành công nghệ mới sẽ gây ra cách mạng. Ngoài ra, có khả năng là các ngành công nghiệp do giới tinh hoa kiểm soát vẫn ủng hộ hoàng đế sẽ bị tổn hại, dẫn đến hệ quả sụp đổ của giới lãnh đạo chính trị .

Do sợ cuộc cách mạng công nghiệp và liên quan với nó là phá hủy sáng tạo, quá trình phát triển của nước Áo đã bị chậm lại.

Năm 1883, khi 90% sản lượng sắt của thế giới dựa vào vào than đá, Áo vẫn dùng than củi kém hiệu quả hơn hẳn. Cứ như thể cuộc Cách mạng Công nghiệp chưa từng xảy ra. Trên thực tế, sau Chiến tranh thế giới I, khi Đế chế Áo-Hung sụp đổ, ngành dệt may của nước này vẫn chưa hoàn toàn được cơ giới hóa.

Tia sách 7

 

Các thể chế tước đoạt để lại di sản kéo dài.

 

Chúng ta đã thấy quá trình phát triển của các thể chế dung hợp theo thời gian. Các thể chế tước đoạt trên toàn thế giới khá giống nhau; các lực lượng trong quá khứ không chỉ tạo ra chúng mà còn thực sự kéo dài tuổi thọ và làm cho chúng tồn tại mãi mãi.

Có thể thấy rõ nhất hiện tượng này trong chế độ nô lệ và ảnh hưởng dai dẳng của nó trong lịch sử nhân loại.

Chế độ nô lệ đã tồn tại ở Châu Phi trước khi thực dân Châu Âu tới đây hồi thế kỷ XVII. Họ săn lùng lực lượng lao động cưỡng bức để làm việc cực nhọc trong các đồn điền trồng mía ở Tân Thế giới.

Khi những người buôn bán nô lệ đặt chân lên châu Phi, những người cai trị địa phương nhận ra rằng họ có thể kiếm được nhiều tiền bằng cách bán nô lệ cho những người kia. Kết quả là, việc săn bắt nô lệ gia tăng nhanh chóng. Những người bị bắt trong chiến tranh và tội phạm đều trở thành nô lệ. Ở một số cộng đồng, nô lệ cũng trở thành hình thức trừng phạt duy nhất.

Để trao đổi nô lệ, cũng như những mặt hàng có giá trị, ví dụ bông, các thương nhân đã đưa vũ khí từ Châu Âu tới Châu Phi. Tất nhiên, tất cả những hiện tượng này đều làm gia tăng xu hướng bạo lực giữa các bộ lạc ở Châu Phi.

Mặc dù, về mặt kỹ thuật, việc buôn bán nô lệ trên toàn thế giới đã chấm dứt vào năm 1807, chế độ nô lệ vẫn tiếp tục tồn tại ở Châu Phi. Chỉ khác là, nô lệ lúc này là hàng hóa phải làm việc ở Châu Phi, họ sản xuất cho cả thị trường trong nước và xuất khẩu.

Đấy không phải là hết. Mặc dù các phong trào đòi độc lập ở Châu Phi đã đạt được thành công to lớn trong nửa sau thế kỷ XX, các thể chế tước đoạt do thực dân tạo ra vẫn tiếp tục tồn tại.

Xin xem xét Sierra Leone. Nước này là thuộc địa của Anh từ đầu thế kỷ XIX cho đến năm 1961. Người Anh bổ nhiệm các Thủ lĩnh tối cao ở địa phương, cai trị nhân danh chế độ quân chủ của nước Anh.

Ngày nay, các Thủ lĩnh Tối cao được bầu chọn suốt đời bởi Cơ quan Quyền lực Bộ lạc, đây là tổ chức chính trị rất nhỏ, không do dân bầu. Chỉ những người thuộc một số gia đình quý tộc - theo quy định ban đầu của người Anh - mới đủ tư cách trở thành Thủ lĩnh tối cao.

Có nghĩa là, hệ thống chính trị vẫn có tính tước đoạt cao như trước đây.

Cũng có thể nói như thế về hệ thống kinh tế. Năm 1949, người Anh thành lập Hội đồng tiếp thị sản phẩm của Sierra Leone. Hội đồng này hứa sẽ bảo vệ nông dân khỏi những biến động của giá cả. Một cái bẫy? Chỉ cần trả một khoản phí “nho nhỏ”. Tất nhiên, nó đã tăng lên và đến giữa những năm 1960 đã chiếm khoảng một nửa thu nhập của nông dân.

Độc lập không chấm dứt được cách làm này. Trên thực tế, dưới thời Siaka Stevens, ông này trở thành thủ tướng vào năm 1967, nông dân phải nộp thuế tới 90% thu nhập của mình!

Câu hỏi hợp lý là: Tại sao các thể chế này không sụp đổ sau khi đất nước giành được độc lập? Xin tìm hiểu trong “tia sách” tiếp theo.

Tia sách 8

 

Các thể chế tước đoạt tạo ra những chu kỳ đói nghèo luẩn quẩn.

 

Nói chung, các thể chế tước đoạt xuất hiện khi các nhà lãnh đạo chống lại quá trình phát triển và thay vào đó, tìm cách củng cố quyền lực.

Nhưng đấy mới chỉ là khởi đầu, vì các thể chế chính trị tước đoạt là tự duy trì.

Mục đích của các cơ cấu tước đoạt là duy trì quyền lực của giới tinh hoa, do đó, dễ hiểu là giới tinh hoa muốn duy trì những cơ cấu này.

Chỉ cần nhìn vào các bang vẫn còn chế độ nô lệ của Hoa Kỳ trong thế kỷ XIX là biết. Ở đó, giới tinh hoa điền chủ da trắng đã thu lợi từ sức lao động của người nô lệ da đen, người da đen chẳng có bất cứ quyền chính trị hay kinh tế nào.

Sau Nội chiến Mỹ và miền Bắc giành chiến thắng vào năm 1865, chế độ nô lệ bị bãi bỏ và người da đen được quyền bầu cử.

Nhưng giới tinh hoa điền chủ miền Nam vẫn còn đó, họ sẵn sàng tước đoạt và bóc lột những cựu nô lệ, coi những người này là nguồn lao động giá rẻ.

Trong nỗ lực củng cố quyền lực, họ áp dụng thuế thân và kiểm tra khả năng đọc viết của các cử tri tiềm năng. Tất nhiên, mục đích là tước quyền bầu cử của những cử tri da đen, những người đã bị cản trở, không được giáo dục như người ta đòi hỏi.

Động cơ làm mất cân bằng quyền lực này đã được chính thức hóa trong bộ luật Jim Crow, hồi cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Phân biệt đã chính thức được phê chuẩn.

Các thể chế tước đoạt như thế tiếp tục tồn tại, ngay cả sau khi chế độ đã thay đổi. Điều này đã được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng.

Đầu thế kỳ XX, nhà xã hội học người Đức, Robert Michels, gọi xu hướng này là “quy luật sắt của chế độ quả đầu”. Ông muốn nói đến xu hướng tồn tại của các thể chế chính trị quả đầu, dù có phải chính giới tinh hoa đó duy trì quyền lực hay là không.

Đó chính xác là những sự kiện đã xảy ra ở châu Phi sau khi châu lục này giành được độc lập. Ở đó, các thể chế tước đoạt do người châu Âu lập ra vẫn tồn tại một cách hiệu quả cho đến tận ngày nay.

Không cần phải nói rằng, những người được các thể chế đó ban tặng quyền lực gần như có nghĩa vụ củng cố thêm nữa quyền lực của chính mình.

Hãy xem xét Siaka Stevens, tổng thống đầu tiên của Sierra Leone. Ông ta bắt đầu tích cực phân biệt đối xử với người Mende, một nhóm sắc tộc ủng hộ các đối thủ chính trị của ông ta. Ông ta ngăn cản tốc độ tăng trưởng kinh tế trong khu vực của Mende bằng cách phá hủy tuyến đường sắt dùng cho xuất khẩu - tất cả chỉ nhằm nghiền nát đối thủ của ông ta.

Hậu quả là, ông ta nắm được nhiều quyền lực hơn, nhưng khó có thể nói rằng các thể chế quốc gia còn đại diện cho chính người dân.

Tia sách 9

 

Trong các thể chế tước đoạt có thể vẫn có tăng trưởng, nhưng đấy hầu như là tăng trưởng không bền vững.

 

Cho dù bạn có vo tròn bóp méo theo cách nào, thì Liên Xô, theo định nghĩa, cũng không thể được coi là quốc gia cổ vũ các thể chế chính trị hay kinh tế dung hợp.

Điều đó nói lên rằng, từ ngày thành lập cho đến những năm 1970, thành công của nước này trong một số lĩnh vực nhất định là không thể nghi ngờ. Liên Xô là xã hội đổi mới, và họ đã đưa nhà du hành vũ trụ đầu tiên lên không gian. Nền kinh tế của nước này cũng bùng nổ; từ năm 1928 đến năm 1960, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là 6%.

Một trong những lý do đằng sau tăng trưởng như thế là do Liên Xô sáp nhập các nước chậm phát triển trong hàng trăm năm. Ở các nước Cộng hòa Xô viết này, trật tự phong kiến mới được dỡ bỏ trước đó không lâu. Do đó, việc tái phân bố các nguồn lực từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp có năng suất cao hơn có rất nhiều ý nghĩa.

Kết quả là tăng trưởng kinh tế ồ ạt – đáng ngạc nhiên khi xem xét kỹ hơn, vì bạn có thể không kỳ vọng tốc độ tăng trưởng như thế bên trong các thể chế kinh tế mang tính tước đoạt. Người dân có rất ít quyền sở hữu và người lao động có nguy cơ bị bỏ tù nếu bị phát hiện làm việc chậm chạp. Những điều kiện này cùng với thể chế chính trị tước đoạt, mà cụ thể là chế độ độc tài độc đảng tàn nhẫn và sẵn sàng giết người.

Không cần phải nói rằng, thành công kinh tế được xây dựng trên các thể chế mang tính tước đoạt như thế là không bền vững.

Khi các nguồn lực đã được phân bổ nhằm sử dụng hiệu quả hơn, cơ hội phát triển là rất ít. Ngoài ra, hệ thống kinh tế không hướng tới việc thực sự tạo ra đổi mới và cùng với đổi mới là tăng trưởng.

Lý do là rất rõ ràng: các hệ thống kinh tế tước đoạt không khuyến khích làm việc đúng cách. Giới tinh hoa cầm quyền đang cố gắng liên tục nhằm “uốn nắn” các lực lượng đồng hành trong nền kinh tế quốc gia của họ. Và trên đường đi, họ chắc chắn sẽ mắc sai lầm.

Ví dụ, năm 1956, Liên Xô áp dụng tiền thưởng cho đổi mới, gắn liền với năng suất của một sáng kiến nào đó. Tuy nhiên, họ tính năng suất trên cơ sở toàn bộ tiền lương của công ty. Điều đó có nghĩa là, những đổi mới giúp tiết kiệm lao động có thể thực sự làm cho bạn mất tiền, vì đổi mới làm giảm toàn bộ tiền lương!

Một đặc điểm nữa của các hệ thống tước đoạt là các nhà lãnh đạo không khuyến khích phá hủy sáng tạo. Đấy là do đổi mới – dù dưới bất kỳ hình thức nào, và bất kể nó thúc đẩy tăng trưởng đến mức nào – đều đe dọa trực tiếp đến địa vị của giới tinh hoa.

Cuối cùng, các nước có hệ thống chính trị tước đoạt có xu hướng đấu đá nội bộ trong giới tinh hoa, tạo ra bất ổn định và hạn chế tăng trưởng. Đấy là do mọi người đều có thể nhìn thấy những khoản tưởng thưởng và của cải vô cùng to lớn mà người ta có thể giành được sau khi vươn tới quyền lực tuyệt đối. Mọi người đều muốn nếm thử quả anh đào mọng nước đó.

Tia sách 10

 

Phá vỡ vòng luẩn quẩn của đói nghèo là công việc khó khăn, nhưng không phải là bất khả thi.

 

Cho đến đây, chúng ta đã thấy rằng tăng trưởng bền vững trong mức sống của xã hội là khả thi. Chỉ cần các thể chế kinh tế và chính trị với bản chất dung hợp và đa nguyên là đủ.

Nhưng nó có ý nghĩa gì đối với sự thịnh vượng trong tương lai? Các quốc gia có thể làm gì nếu hiện nay họ đang có các thể chế kinh tế và chính trị tước đoạt, nhưng lại muốn chống lại xu hướng của lịch sử?

Trước hết, điều quan trọng là phải nhận ra rằng lịch sử không phải là số phận. Đó chỉ là một cách nói hoa mỹ rằng tương lai không phải lúc nào cũng được định hình bởi quá khứ.

Như chúng tôi đã nhận xét, các thể chế tước đoạt và dung hợp đơm hoa kết trái và phát triển nhờ những thay đổi thể chế sau những thời điểm quan trọng. Nhưng nó không phải là một lộ trình tiền định; các vòng xoáy đói nghèo có thể bị phá vỡ, những chu kỳ luẩn quẩn thì cũng thế.

Chỉ cần nhìn vào nước Anh và những nước khác của Tây Âu thì thấy. Nói thật ra, cho đến mãi thời gian gần đây, các thể chế của họ cũng có tính tước đoạt khá cao. Tuy nhiên, những thời điểm quan trọng đã dần hướng những nước này tới các thể chế dung hợp hơn – ngay cả khi phải trải qua Đại dịch hạch và một loạt chủ nghĩa tư bản hoang dã mới tới được đây!

Gần đây hơn, các thể chế độc quyền ở miền Nam Hoa Kỳ đã dần trở nên dung hợp hơn, đấy là sau nhiều thế kỷ bất bình đẳng giữa người da trắng và da đen. Vẫn còn nhiều việc phải làm, nhưng phong trào dân quyền trong những năm 1950 và 1960 đã báo hiệu rằng thay đổi “sẽ diễn ra”.

Hiện giờ thì sao? Vâng, chúng ta cần đảm bảo rằng cần khuyến khích các thể chế dung hợp để có thể thúc đẩy sự thịnh vượng kinh tế trên toàn thế giới.

Ví dụ, viện trợ nước ngoài có rất ít tác dụng trong việc thách thức các thể chế tước đoạt đang tống tiền các cộng đồng trên khắp Châu Phi và Trung Á.

Muốn thúc đẩy những thay đổi tích cực, thì cần hướng viện trợ nước ngoài vào những khu vực có ý nghĩa hơn. Các nhóm người đang bị tách ra khỏi quá trình ban hành quyết định cần được trang bị để họ có thể thách thức các thể chế tước đoạt của đất nước mình.

Brazil là một ví dụ điển hình. Ở đó, chính những người được quyền bầu cử và trao quyền hành động, chứ không phải các nhà kinh tế học hay chính trị gia, mới là những người thúc đẩy thay đổi. Chính nhờ phong trào quần chúng được huy động mà chế độ độc tài quân sự của nước này đã bị lật đổ vào năm 1985. Các phong trào xã hội như phong trào do công đoàn lãnh đạo đã đặt nền móng cho liên minh chống độc tài đầy sức mạnh.

Và cùng với việc phá vỡ vòng xoáy đó, Brazil đã thịnh vượng. Từ năm 2000 đến 2012, nền kinh tế của nước này là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới.

Xiềng xích lúc nào cũng có thể bị phá vỡ.

Kết luận

 

Tóm tắt cuối cùng.

 

Thông điệp chính trong “tia sách” này:

Thịnh vượng và nghèo đói của các quốc gia không phải là số phận đã được sắp đặt từ trước, xuất phát từ văn hóa hay địa lý. Thay vào đó, lý do chính vì sao một số quốc gia làm tốt hơn những quốc gia khác là thể chế của họ. Thể chế hình thành trong tiến trình lịch sử, thường là qua nhiều thế kỷ. Bản chất của các thể chế của một quốc gia – cụ thể là chúng là dung hợp hay tước đoạt – là yếu tố quyết định sự thịnh vượng. Có thể vượt qua những xu hướng này bằng cách hướng vào các thể chế của các quốc gia đang gặp rắc rối. Sẽ cần nỗ lực, nhưng có thể đảo ngược được vòng luẩn quẩn của nghèo đói trên toàn phạm vi toàn cầu.

Nguồn: https://tiasach.com/sach/gioithieu/tai-sao-cac-quoc-gia-that-bai

 

 

 

 

 

 

 

7 comments:

  1. Bác đừng theo đuôi bọn ăn cắp. Đây là ăn cắp nội dung trang blinkist.com của Đức đã làm.

    ReplyDelete
    Replies
    1. Họ thuê mình dịch. Họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật! Chúc vui.

      Delete
    2. Vâng, là biết thì nhắc bác thôi, chứ chả tránh được, là bệnh thời đại. Kính chúc bác sức khỏe! (Cảm kích bác phản hồi rất nhanh!)

      Delete
    3. Bạn có thể liên hệ với tiasach.com Chúc vui.

      Delete
    4. mình có thể đăng lại bài của trang khác mà, nếu được phép

      Delete
  2. Trang tóm tắt của blinkist:
    "Final summary
    The key message in these blinks:

    Prosperity and poverty among nations aren’t preordained fates, stemming from culture or geography. Instead, the main reason why some countries do better than others is their institutional landscape. This is shaped over the course of history, often over many centuries. The nature of a nation’s institutions – namely, whether they are inclusive or extractive – is what determines prosperity. These trends can be bucked by targeting troubled countries’ institutions. It will take effort, but vicious cycles of poverty the world over can be reversed.

    Got feedback?

    We’d sure love to hear what you think about our content! Just drop an email to remember@blinkist.com with the title of this book as the subject line and share your thoughts!

    What to read next: The Great Degeneration, by Niall Ferguson

    In these blinks, we’ve seen how a society’s power and prosperity lies in the strength of its institutions. Its message is essentially a positive one: nations can change, and cycles of poverty can be broken if institutions are reassessed and overhauled.

    However, it may seem to sidestep what many readers think is a self-evident truth. To many, the West’s century-long domination is waning, and its institutions are declining. The West has huge levels of public and private debt, while the economies in the rest of the world are quickly catching up.

    The Great Degeneration aims to explain what’s going on and how this issue might be resolved. It too looks to institutions and suggests that the only way the West can recover is by radically reforming its wheezing institutions."

    ReplyDelete