Khalil Gibran: Khốn khổ
nước tôi, Mê tín thì vô hạn, Tôn giáo thì nông cạn… (Pity the nation that is
full of beliefs and empty of religion)
Tôn
giáo không thể là tổ chức
Trong tác phẩm Power vs. Force, Davis Hawkin nói rằng qua hàng triệu lần hiệu chỉnh, ông đã lập được bản đồ ý thức của con người và chia thành 16 tầng, từ 20 điểm tới 700-1.000 điểm. Ông viết: “Tầng Ơn Phước Thiêng Liêng đạt điểm 1.000, tầng cao nhất mà một số người sống trong giai đoạn lịch sử thành văn đã đạt được – tức là những người được tôn xưng là Thánh thần giáng thế như Thần Krishna, Đức Phật và Chúa Jesus Christ”.
Mỗi từ, mỗi câu của Đức
Phật hay Chúa Jesus đều là Pháp lý (viết hoa), đều thể hiện nội lực vô cùng
thâm hậu của các Ngài. Các Ngài là những người đã lấy chính đời sống của mình –
Đức Phật phải đi ăn xin, phải làm một người hành khất vô gia cư; còn Chúa Jesus
thì chịu để cho người ta đóng đinh trên thập tự giá – để bảo chứng cho giáo lý
của mình. Những đệ tử của các Ngài có thể đều là những người còn ở các tầng thứ
thấp bên dưới, ví dụ 300 hay 400 điểm, làm sao hiểu hết được ý nghĩa thâm sâu của
những lời giáo huấn của các Ngài. Cho
nên, đối với một người chưa biết đường vào Đạo, thì những cuốn sách, những buổi
pháp thoại của những đệ tử đã tu hành lâu năm có thể được dùng làm bản đồ chỉ
đường dẫn tới Chùa hay Thánh đường. Những cuốn sách này có thể rất hay, nhưng đọc
một hai lần là sẽ chán. Kinh khác hẳn, càng tu, càng đọc thì càng hiểu thêm những
tầng Pháp lý cao hơn. Cho nên tới Chùa hay Thánh đường rồi thì phải bỏ ngay những
cuốn sách đó bên ngoài hàng rào. Muốn trở thành, ví dụ, Phật tử thực sự, thì phải
tu theo những lời dạy của chính Đức Phật, còn nếu tu theo những lời giảng nói của
một nhà sư nào đó, dù họ có đạo cao đức trọng tới đâu (nên nhó, thanh danh lớn
chưa chắc đã minh bạch), thì cao lắm bạn cũng sẽ chỉ lên được tới tầng bên dưới
hoặc ngang với sư phụ của mình, chứ không bao giờ đến được gần tầng của Phật.
Tu theo họ khác gì muốn chạm tay vào mặt trăng lại nhảy xuống ao?
Cho nên, trong thế kỉ
XXI này, khi hầu hết mọi người đều đọc thông viết thạo thì tôn giáo nhất định sẽ
trở thành không còn tổ chức nữa. Đã là tổ chức thì nhất định phải có người đứng
đầu, những lời giảng nói của người đó sẽ trở thành pháp lý (viết thường) làm
kim chỉ nam cho các đệ tử tu tập và thế là họ bị hạn cuộc trong những lời này.
Ý nghĩa của chúng nằm rất xa bên dưới tầng của người sáng lập tôn giáo đó. Trong
tương lai không xa, những đồng môn, đồng tu trong các tôn giáo hay truyền thống
tu tập nào đó có thể gặp nhau để chia sẻ kinh nghiệp tu tập và cách hiểu giáo
lý của mình, chứ không thể lấy hiểu biết của mình để giải thích kinh sách, vì
những lời giải thích có thể sai, còn trong trường hợp tốt nhất cũng không thể
hiện đầy đủ ý nghĩa cao thâm của Kinh sách.
Chức
sắc tôn giáo không phải là quả vị trong quá trình tu luyện
Tôn giáo có tổ chức thì
phải có người quản lí, phải có bộ máy quản lí và các tầng nấc quản lí và cấp bậc
khác nhau, chẳng khác gì những tổ chức trong xã hội thế tục. Ví dụ, trong Phật
giáo Việt Nam có quy định như sau: Năm 20 tuổi đời, vị xuất gia thụ giới tỳ
kheo được gọi là Đại đức; năm 45 tuổi đời, vị tỳ kheo được 25 tuổi đạo, được gọi
là Thượng tọa; năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo được 40 tuổi đạo, được gọi là Hòa
thượng; Đối với bên nữ (ni bộ): năm 20 tuổi đời, vị nữ xuất gia thụ giới tỳ
kheo ni được gọi là Sư cô; năm 45 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 25 tuổi đạo, được
gọi là Ni sư; năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 40 tuổi đạo, được gọi là Ni
trưởng. Đối với các bậc Hòa thượng mang trọng trách điều hành các cơ sở Giáo hội
Phật giáo trung ương cũng như địa phương, hay các Đại tùng lâm, Phật học viện,
Tu viện, thường là các vị trên 80 tuổi đời, được tôn xưng là Đại lão Hòa thượng
hay Trưởng lão Hòa thượng. Các vị thuộc hàng giáo phẩm này thường được cung thỉnh
vào các Hội đồng Trưởng lão, hoặc Hội đồng Chứng minh tối cao của các cấp Giáo
hội.
Nhưng đây là các chức vị
do con người tự đặt ra và phong cho nhau, chứ hoàn toàn không phải là quả vị (nôm na là kết quả của
quá trình tu tập theo chính pháp).
Theo kinh sách thì người
tu tập chân chính thì sẽ lần lượt chứng đạt Bốn Thánh quả:
1) Sơ quả (Sotapatti):
Chứng quả này gọi là Tu-đà-hoàn (sotàpanna), vị đã đoạn trừ ba hạ phần kiết sử
(thân
kiến, nghi, giới cấm thủ). Quả Tu-đà-hoàn còn được gọi là quả Nhập lưu (vào
dòng Thánh) hay Thất lai (còn tái sinh nhiều nhất là bảy lần nữa).
2) Nhị quả
(Sakadagami): Quả này là Tư-đà-hàm (Sakadagamin, Nhất lai), vị đã đoạn trừ ba
kiết sử đầu và làm muội lược hai kiết sử kế tiếp (Dục và Sân). Vị này sẽ còn
tái sinh một kiếp tiếp nữa để tu tập chứng đắc quả tối thắng.
3) Tam quả (Anagami): Chứng
quả này hành giả được gọi là A-na-hàm (Anagamin), vị đã trừ năm kiết sử đầu
(năm hạ phần kiết sử). A-na-hàm còn được gọi là Bất lai (không trở lại cõi người
nữa), chỉ tái sanh ở cõi Sắc hay Vô sắc, từ đó tu hành và đạt quả Tối thắng.
4) Tứ quả (Arahat): Chứng
quả này hành giả được gọi là A-la-hán (Arahat), vị đã đoạn trừ hoàn toàn mười
kiết sử là năm hạ phần kiết sử nói trên và năm thượng phần kiết sử (hữu ái, vô
hữu ái, mạn, trạo cử, vô minh), hữu ái: thích hiện hữu, thích cõi Sắc; vô hữu
ái: muốn không hiện hữu, muốn sống ở cõi Vô sắc; mạn: lòng kiêu mạn, chấp thấy
có chứng đắc; trạo cử: mối xao động, bối rối; vô minh: còn mê mờ do vì còn năm
thượng phần kiết sử ngăn che. Vị A-la-hán còn được gọi là Vô sinh (hay Bất
sinh: không còn tái sinh, dứt luân hồi) là sự chứng ngộ rốt ráo, Niết-bàn.
Nhưng chỉ có Phật, người
đạt được “tầng Ơn Phước Thiêng Liêng, tầng cao nhất” mới biết người nào đã chứng
quả vị nào. Giáo hội Phật giáo, dù nằm dưới quyền quản lí, hay không quản lí của
bất kì đảng phái hay chính phủ nào cũng không thể biết được. Xin mở ngoặc để nhận
xét rằng, có lẽ Công giáo thì cũng thế, Chúa chính là người chọn ai sẽ được về
bên Người; chắc chắn đây cũng không phải là kết quả bầu chọn, phong tặng do người
thế gian làm. Hơn nữa, chứng đắc là kết quả của quá trình tu luyện của từng cá
nhân, người ta không thể nhập niết bàn theo từng tiểu đội, trung đội hay đại đội.
Dính chấp vào bất cứ danh hiệu nào, dù là danh hiệu do người đời phong tặng hay
quả vị đều là chướng ngại to lớn trên con đường tu tập, vì tu tập chính là xả bỏ,
xả bỏ đến tận cùng, vô vi đến tận cùng thì mới mong đạt được quả vị và chứng đắc
niết bàn. Và như thế, tu tập thật sự không cần tổ chức, không cần chùa to. Đức
Phật chỉ có một bình bát, hai bộ y phục để thay đổi và không ngủ dưới 1 gốc cây
trong hai đêm. Ngày nay, theo tôi, tu tập không cần phải ép mình đến mức như thế,
nhưng 1 căn phòng 10m2 có lẽ
là đủ.
Người chủ trì những
ngôi chùa lớn, có nhiều đệ tử cũng có thể cũng chỉ là các nhà buôn. Nếu người
buôn trong xã hội thế tục đếm tiền, đếm cổ phiếu, đếm đất đai… thì người trụ
trì có thể đếm số đệ tử và số chùa mà mình quản lí. Tâm lí của hai bên chẳng
khác gì nhau.
Tu
mà không biết Pháp?
Như đã nói, người thực
tu chỉ cần một diện tích sinh hoạt tối thiẻu, chứ không cần chùa to tượng lớn.
Phong trào nào, đảng nào, chế độ nào muốn can thiệp vào đời sống của một người
chỉ có căn hộ rộng một vài chục mét vuông, vài bộ quần áo, đang sống trong thế
gian nhưng không để thế gian sống trong mình? Chỉ sợ rằng sau khi đã có một số
hiểu biết hay cho rằng mình đã chứng đắc quả vị nào đó liền nhảy ra thuyết nói,
tìm kiếm đệ tử mà thôi. Đấy gọi là tự chiêu mời rắc rối.
Người muốn thực tu
nhưng vì cơ duyên nào đó mà phải/được quản ngôi chùa to thì cứ giữ nguyên biển
hiệu hay treo biển hiệu nói rằng chùa này thuộc giáo hội XYZ nào đó thì cũng
không sao. Đây chỉ là “chấp kinh cũng phải tòng quyền”, không ảnh hưởng gì tới
quá trình tu tập. Nhưng phải luôn luôn nhớ rằng Phật Pháp là để người chân tu
tiến đến giải thoát và đắc chính quả, chứ không nhằm mục đích duy hộ bất cứ
hình thái xã hội nào. Treo biển hiệu XYZ cho khỏi rắc rối là một chuyện, còn đi sâu vào
nó, tích cực hoạt động trong nó, thì, nói một cách cực kì nhẹ nhàng vẫn là: tu
mà không hiểu Pháp. Nặng nề hơn thì phải nói: Phỉ báng Phật.
Những người chụp ảnh dưới
biển hiệu chứng tỏ rằng Phật Pháp duy hộ một hình thái xã hội nào đó là lừa dối
chúng sinh. Đấy là chưa nói Karl Marx, ông tổ của CNXH, còn nói một câu nổi tiếng
“tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” mà có lẽ các vị này đều phải biết. Những
người được tổ chức nào đó phân công theo dõi đạo Phật hay những người vì danh
vì lợi mà tham gia những tổ chức như thế là việc của họ. Họ đã chọn con đường ấy
và đang tạo nghiệp cực kì nặng cho chính mình. Chỉ tiếc cho những người muốn thực
tu mà bị dẫn vào đường tà, nghiệp cũng không phải là nhỏ!
Tạo nghiệp thì phải trả.
Có thể tránh, có thể lách được luật đời, nhưng không thể tránh, không thể lách
được luật Trời.
bài viết rất hay về tôn giáo
ReplyDelete