Biên tập: Sergio Bitar và Abraham F. Lowenthal, Viện Quốc tế Hỗ trợ Bầu cử và Dân chủ (IDEA), Stockholm
Dịch: Phạm Nguyên Trường
Chương 6
Philippines: “Quyền lực nhân dân”, Quá trình chuyển hóa đầy khó khăn và “Nền quản trị tốt” (tiếp theo và hết)
Trao quyền cho xã hội
Fidel Valdez Ramos, tổng thống Philippinse, 1992-1998
Ông nói rằng trong giai đoạn ông làm tổng thống, ông đã có những cuộc họp tham vấn với các nhà lập pháp và những người đại diện của xã hội dân sự. Xin cho biết vai trò của xã hội dân sự trong thời gian ông làm tổng thống?
Vâng, quan điểm của tôi luôn luôn là trao quyền cho cho nhân dân. Tôi đã không nhấn mạnh “quyền lực của nhân dân”. Tôi hoạt động nhằm tăng cường năng lực của từng người, chàng trai, cô gái, người già, người trẻ, em bé, người nhập tịch, hay thường trú nhân nước ngoài để họ có thể làm tốt hơn, sống lâu hơn, và có nhiều năng lượng hơn. Trao quyền cho nhân dân có nghĩa là như thế. Nhân dân là tài sản quan trọng nhất trên hành tinh này. Không phải là đất. Không phải là biển. Không phải là sức mạnh quân sự. Đó là nhân dân.
Các NGO bao gồm nhiều nhóm, trong đó có Giáo hội. Trong thời gian tôi làm tổng thống, bởi vì trong hiến pháp có ghi, tôi có thể bổ nhiệm đại diện sáu lĩnh vực vào Hạ viện, những người này trước đó đã được Ủy ban về bổ nhiệm xác nhận. Việc này sau đó đã bị hủy bỏ bởi vì nó chỉ là điều kiện tạm thời. Nhưng chúng tôi có đại diện của phụ nữ, thanh niên, người lao động ở nước ngoài, cựu chiến binh, giới khoa bảng, và từ khu vực kinh doanh. Họ được cộng đồng của mình lựa chọn, những cộng đồng này chính thức thông báo với tôi. Tôi cử họ trên cơ sở họ được lựa chọn từ khối cử tri của mình, và tôi đã gặp họ trong suốt sáu năm, qua hai nhiệm kì ở Hạ viện. Trong nhiệm kỳ thứ hai, tôi có những người đại diện hơi khác một chút, nhưng những người trẻ thì vẫn như cũ.
Các tổ chức của phụ nữ cũng tham gia tham vấn? Giáo hội Công giáo có phải là tác nhân chính trị quan trọng hay không?
Có, trong giai đoạn tôi làm tổng thống và cả trong giai đoạn của Aquino nữa. Bà đã tổ chức được nhiều Hội đồng. Tôi thường xuyên gặp phụ nữ và thanh niên. Chúng tôi có Hội đồng Quốc gia về vai trò của phụ nữ Philippines và Ủy ban Thanh niên Quốc gia, lãnh đạo của mỗi nhóm này đều mang hàm bộ trưởng. Chúng tôi gặp các nữ lãnh đạo hai tháng một lần, trên thực tế, đấy là cuộc họp đầy đủ ban bệ, mỗi người đều đã chuẩn bị sẵn với ban thư kí và biên bản.
Chúng tôi có tỉ lệ, tính bằng phần trăm, phụ nữ trong cơ quan lập pháp cao hơn bất kì nước nào khác ở khu vực Đông Nam Á. Phụ nữ ở đây rất tích cực, theo nghĩa phát biểu ý kiến. Tất cả các loại think tanks và tổ chức phi chính phủ đều do do phụ nữ lãnh đạo. Hiện tôi đang viết về một tổ chức như thế, gọi là Phong trào Tái thiết Nông thôn Philippines, hiện vẫn đang hoạt động và làm việc về giáo dục quần chúng và phát triển nông thôn, đặc biệt là cung cấp cho người nghèo nước uống tốt, sạch, ba bữa ăn một ngày, và chăm sóc y tế, và chủ yếu là do phụ nữ quản lí.
Ngay từ đầu, ngay cả trong thời thuộc địa Tây Ban Nha, chúng tôi đã có những người phụ nữ chiến đấu chống lại người Tây Ban Nha rồi. Chúng tôi đã có một số nữ tướng, là người đứng đầu của tổ chức làng xã, và tất nhiên là những phụ nữ cầm bút và những phụ nữ là các think tankers, những người lên tiếng dõng dạc trên những các tờ báo viết bằng tiếng Tây Ban Nha. Còn khi người Mỹ tới, càng có nhiều phụ nữ được giải phóng hơn. Ở nước chúng tôi, từ năm 1936, phụ nữ đã có quyền phổ thông đầu phiếu và giữ địa vị lãnh đạo rồi. Tương tự như vậy, chúng tôi đã có Ủy ban Tôn giáo Quốc gia với đại diện là người Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, những người vô thần, Giáo Hội của Chúa Kitô (Iglesia ni Kristo), và các nhà thờ độc lập. Ban lãnh đạo hay chủ tịch đoàn luân phiên, mỗi năm một lần, trong vòng sáu năm. Chúng tôi duy trì đối thoại với họ. Hiện nay không còn nữa.
Những nguyên tắc cơ bản
Ông đã mô tả nhiều nguyên tắc và thực hành mà ông theo khi làm tổng thống, nhưng dường như các hoạt động chính trị thông thường của Philippines ít liên quan tới những nguyên tắc mà ông tin tưởng, và những nguyên tắc mà ông nói đã được đưa vào thực tiễn khi ông là tổng thống.
Vâng, tất nhiên, tôi rất lấy làm tiếc vì điều đó. Nó là một trong những thất bại của tôi, bạn thấy đấy. Bởi vì chúng tôi đã cố gắng đưa vào thực tiễn những điều chúng tôi nghĩ là đúng, và chúng tôi đang ghi lại bằng giấy trắng mực đen và nói về nó.
Nhưng tại sao lại có khoảng cách như thế giữa các nguyên tắc và thực tiễn trong chính trị?
Người ta chỉ học được những điều họ muốn học, nhưng những cái họ không thể nuốt được hay thực hành thường xuyên, vì toa thuốc ghi không rõ ràng thì họ sẽ vứt đi. Và tôi đã nói rằng xây dựng đất nước không phải là vấn đề cộng thêm thành công và thất bại của một loạt vị tổng thống hay thủ tướng. Đó là quá trình đi lên liên tục, và không ai được thất bại. Người đang giữ chức vụ phải làm tốt hơn người tiền nhiệm của mình, vì vậy, người kế nhiệm buộc phải làm tốt hơn nữa. Vì vậy, tôi quay trở lại với tiến trình xây dựng đất nước. Hàng ngày bạn không chỉ buồn bã và chán nản, mặc dù dường như là thế. Bạn gặp đủ kiểu thất bại. Nhiều thứ xảy ra. Tôi nghĩ rằng ở Mỹ người ta cũng nói như thế, và nếu bạn nhìn lại 225 năm qua, họ đã thực sự đi lên, nhưng đôi khi họ cũng gặp cả thành công lẫn thất bại. Bây giờ, tôi nghĩ là cái đó cũng xảy ra với tất cả các nước đang vươn lên. Chúng ta có thể nói như thế ở đây, vì 20 năm trước, chúng tôi chưa có nhà cao tầng, chúng tôi chưa có tàu hỏa chạy bằng điện, chưa có những đại lộ và các trung tâm mua sắm lớn. Chúng tôi chưa có các đặc khu kinh tế ở Clark và Subic do giới quan chức dân sự quản lí; lúc đó, đấy là các căn cứ quân sự.
Ảnh hưởng quốc tế
Ông đánh giá như thế nào về vai trò của chính phủ Mỹ, vốn đã hiện diện ở đây trong một thời gian dài, và các tác nhân quốc tế khác trong quá trình chuyển hóa dân chủ của Philippines?
Nói chung, tôi xin đánh bạo mà nói rằng kinh nghiệm với Hoa Kỳ là một trải nghiệm thuộc địa rất tốt đối với chúng tôi. Nhưng vẫn còn cảm giác không nói ra, và không phải chỉ ở những người già, đấy là, Mỹ đã cướp nền độc lập của chúng tôi. Khi chúng tôi đã tuyên bố độc lập, và chuẩn bị chiếm Manila, thì người Mỹ tới và giải quyết với người Tây Ban Nha. Bạn thấy đấy, đó là cách giải quyết để Manila không bị tàn phá; nếu không, có thể xảy ra chiến sự giữa Tây Ban Nha và những người khởi nghĩa. Trong Hiệp định Paris, năm 1898, Philippines bị Tây Ban Nha vứt bỏ và bán cho Mỹ với giá 20 triệu USD. Cuba cũng là một phần của thỏa thuận này. Thực tế là chúng tôi trở thành thuộc địa của Mỹ. Như vậy, hiện vẫn có mối nghi ngờ dai dẳng về chuyện này.
Chúng tôi cảm ơn về những bài học về chế độ dân chủ đại diện, các cuộc bầu cử, bắt đầu bằng những giai tầng được giáo dục tốt hơn, ví dụ, những người được bổ nhiệm và các ứng cử viên được ưu ái vào hai viện (Thượng viện và Hạ viện); chúng tôi có cùng một hệ thống, giống như Mỹ, cả trong ngành tư pháp cũng thế. Chúng tôi rất cám ơn vì món quà là môn tiếng Anh và phương pháp giảng dạy trong các trường công lập. Tôi là một trong những người được hưởng lợi, vì tôi lớn lên được giáo dục trong giai đoạn đó, tại một trường công lập, và hệ thống đó tốt hơn so với hệ thống mà chúng tôi đang có hiện nay. Nhưng vẫn còn những suy nghĩ dai dẳng, cho rằng trước đây Mỹ đã bóc lột Philippines và không cho nước này phát triển về mặt công nghiệp. Và chúng tôi lẽo đẽo theo sau một số thuộc địa cũ, ví dụ, Malaysia. Thái Lan chưa bao giờ là thuộc địa, nhưng họ đi trước chúng tôi khá xa về GDP bình quân trên đầu người.
Ông có tham khảo kinh nghiệm của quá trình chuyển hóa ở những nước khác như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, hay các nước Mỹ Latin khi các ông đang trải qua quá trình chuyển hóa ở Philippines?
Không, chúng tôi chỉ tư duy như người Philippines, và đó là tình thế “làm hay là chết”. Hoặc chúng tôi thành công trong cuộc đối đầu với Marcos hoặc là chúng tôi thua, và nếu chúng tôi thua, chúng tôi sẽ bị đi tù hay bị giết. Tất nhiên, ý tưởng về một cuộc đảo chính hay cuộc nổi dậy chống lại Marcos đã hình thành trong quân đội có thể là ba năm rồi. Phong trào Cải cách các Lực lượng vũ trang (RAM) bắt đầu làm việc đó. Sau này, một số người trong chúng tôi bị lôi kéo vào nó vì RAM đề nghị chúng tôi giúp đỡ. Tôi khuyên họ giảm tốc độ, họ chưa sẵn sàng. Nhưng chúng tôi giúp đỡ họ về mặt cải cách, vì chế độ của Marcos đã tồi tệ, về mặt nhân quyền và phát triển kinh tế. Chúng tôi có chế độ đầu sỏ; họ chỉ là những người kinh doanh, mà công việc này lại chỉ được phân phối trong số những người được họ bảo trợ mà thôi. Vợ của các quan chức rất ngông cuồng. Marcos là bạn thân của Shah ở Iran, của Gaddafi, và những người nắm quyền suốt đời khác.
Vấn đề này đã làm ông ta mệt mỏi, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo quá lớn. Khi chúng tôi bắt đầu nhận được sự ủng hộ, chúng tôi cũng bắt đầu nghĩ đến nền quản trị, và ngay từ đầu chúng tôi đã đồng ý rằng nếu chúng tôi thắng, phải trả quản trị về cho ban lãnh đạo dân sự và chính trị. Nhưng những đại tá trẻ không thực hiện cam kết của mình; họ muốn tự cai quản chính phủ. Nhưng một số người trong chúng tôi đã chiến đấu chống lại ý tưởng đó.
Có lẽ chúng tôi đã nhìn vào các cuộc nổi dậy khác ở châu Mỹ Latin, tương tự như cuộc nổi dậy của chúng tôi. Ví dụ, những phong trào giải phóng do các tu sĩ lãnh đạo. Các tu sĩ của chúng tôi ở đây cũng cũng chống lại chính phủ, nhưng họ liên minh với Cộng Sản. Có những phong trào giồng hệt như thế ở Trung Mỹ, với các sinh viên trẻ. Và ở Chile, bạn thấy tình hình rất khủng khiếp, vì quân đội chính là người cai trị. Trong trường hợp của chúng tôi, dân thường luôn luôn chịu trách nhiệm, quân đội giúp đỡ.
Quản lí kinh tế để phát triển
Ưu tiên kinh tế và phát triển của ông là gì?
Một trong những vấn đề cấp bách nhất lúc đó là năng lượng; thường xuyên mất điện, rất bất lợi cho nền kinh tế và chất lượng các mặt của cuộc sống. Vì vậy, tháng 12 năm 1992, Bộ Năng lượng đã lập kế hoạch và tiến hành quản lí việc cung cấp và sử dụng năng lượng. Các kế hoạch ngắn, trung và dài hạn đã được soạn thảo nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng năng lượng và việc thiếu hụt năng lượng đã được giải quyết sớm hơn kế hoạch đề ra. Khu vực tư nhân là đối tác quan trọng trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng năng lượng[14]. Tự do hóa ngành viễn thông và ngân hàng cũng là những lĩnh vực được ưu tiên nhằm gia tăng các khoản đầu tư và cạnh tranh[15].
Tham nhũng làm cho kinh tế kiệt quệ; tôi đã cố gắng giải quyết vấn đề này bằng cách hạn chế vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thông qua việc nới lỏng quy định, do đó, mở cửa nền kinh tế của chúng tôi cho các khoản đầu tư nước ngoài và cạnh tranh[16]. Chúng tôi phải tạo điều kiện cho “khu vực tư nhân làm những việc mà nó có thể làm tốt hơn chính phủ”[17]. Cạnh tranh mạnh mẽ hơn ở trong nước sẽ tạo điều kiện cho Philippines có sức cạnh tranh trên toàn thế giới, và nó sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhưng để thúc đẩy cạnh tranh ở trong nước, chúng tôi phải giải quyết các công ty và tập đoàn độc quyền đang thống trị một số lĩnh vực nhất định trong nền kinh tế[18]. Việc làm gia tăng là do các doanh nghiệp nhỏ và vừa, những doanh nghiệp này tạo ra nhiều việc làm hơn là những khoản đầu tư thâm dụng vốn[19].
Cơ sở hạ tầng yếu kém của chúng tôi đã làm giảm tốc độ tăng trưởng và phát triển và làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài. Đầu tư cải tạo hạ tầng đã (và vẫn là) là vấn đề quan trọng, trong đó có năng lượng sạch[20]. Chúng tôi đã xây dựng được trên 6.000 km đường giao thông mới và nhiều cây cầu[21]. Đây là những khoản đầu tư dài hạn, đỏi hỏi kế hoạch dài hạn.
Có khoảng cách lớn giữa người giàu và người nghèo ở Philippines. Chúng tôi đầu tư tỉ lệ quá lớn trong ngân sách giáo dục cho giáo dục đại học, mà người nghèo không được hưởng như các giai cấp trung lưu[22]. Nhưng giáo dục là công cụ giúp người dân thoát khỏi đói nghèo và gia tăng khả năng cạnh tranh của Philippines, vì vậy, phải tập trung thêm nữa nguồn lực cho giáo dục, cũng như chăm sóc sức khỏe ban đầu, nhất là đối với những người có thu nhập thấp nhất[23]. Nó sẽ đóng góp cho “cách tiếp cận đồng thời từ dưới lên và từ trên xuống” nhằm thu hẹp khoảng cách về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư[24].
Quản lí tiến trình hòa bình phức tạp
Khi ông trở thành tổng thống các cuộc xung đột vũ trang vẫn tiếp tục, làm sao ông quản lí được chúng?
Hòa bình và hòa giải là ưu tiên ngay từ đầu nhiệm kỳ tổng thống của tôi[25]. Chúng tôi bắt đầu các cuộc đàm phán, thậm chí trước khi tôi làm tổng thống, với ba nhóm bất đồng chính kiến có vũ trang: RAM, “các quân nhân nổi loạn; Mặt trận Giải phóng Dân tộc Moro Li khai ở miền nam Philippines; và Quân đội Nhân dân Mới, cánh vũ trang của Đảng Cộng sản Philippines[26]. Bằng tuyên bố tháng 7 năm 1992, tôi thành lập Ủy ban Thống nhất Dân Tộc (NUC) gồm 9 thành viên, được ủy quyền - thông qua quá trình tư vấn - soạn thảo và đề xuất chương trình ân xá và tiến trình hòa bình[27]. NUC tiến hành tham vấn tại 71 tỉnh với những người đang chiến đấu chống lại chính phủ, với gia đình của họ, và với các nhà lãnh đạo cộng đồng về một loạt vấn đề, trong đó có nguyên nhân của các cuộc xung đột vũ trang, các chính sách và chương trình cần phải thực hiện để có một nền hòa bình bền vững, và những việc mà các ngành và cộng đồng tự mình sẵn sàng đóng góp. Trên cơ sở các cuộc tham vấn đó, NUC soạn thảo các kiến nghị cho tiến trình hòa bình toàn diện[28].
Một trong những nguyên tắc của tiến trình hòa bình tổng quát là chúng tôi không theo đuổi việc “quy trách nhiệm hay đầu hàng, mà giữ phẩm giá cho tất cả các bên”. Đấy chưa phải là điều kiện đủ để chấm dứt, mà là những điều kiện cần để giải quyết xung đột[29]. “Hòa bình và phát triển phải luôn luôn song hành với nhau, phát triển bền vững trong khu vực bị ảnh hưởng bởi các cuộc xung đột là ưu tiên[30]. Chúng tôi chỉ có thể phát triển bền vững như một quốc gia khi có “hòa bình và tiến bộ" trong tất cả các khu vực[31]. Năm 1993, tôi thành lập Văn phòng Cố vấn của Tổng thống về Tiến trình Hoà bình, với nhiệm vụ “giám sát việc thực hiện kế hoạch của NUC”. Năm 1994, tuyên bố đại xá cho các nhóm vũ trang đang chiến đấu chống lại chính phủ. Ủy ban Ân xá Quốc gia nhận được hơn 7.000 đơn xin ân xá, và nhiều người nổi dậy đang bị giam giữ đã được tha. Ba ủy ban hòa bình được thành lập để quản lí các tiến trình hòa bình với RAM, MNLF và Cộng sản[32].
Những cuộc đàm phán chính thức đầu tiên với Cộng sản được chính phủ Aquino tiến hành năm 1986, nhưng không thành công. Cuộc đàm phán được khởi động lại vào năm 1992, và Đảng Cộng sản được hợp pháp hóa vào năm 1993. Năm 1998, một loạt hiệp định đã được ký kết, nhưng sau năm 2001, không tiến triển thêm được nữa[33].
Sau chín âm mưu đảo chính chống lại chính phủ Aquino, đàm phán với RAM bắt đầu vào năm 1992 với một thỏa thuận sơ bộ là “chấm dứt hành động thù nghịch”[34]. Tháng 5 năm 1995, kí thỏa thuận với các lực lượng trung thành với Marcos, gọi là ALTAS[35]. Thỏa thuận Tổng quát về Hòa bình được kí vào tháng 5 năm 1995. Thỏa thuận hòa bình với MNLF được kí vào tháng 9 năm 1996, sau hàng chục năm đánh nhau và bạo loạn[36]. Sư ủng hộ của quốc tế đối với các cuộc đàm phán với các MNLF bắt đầu từ những năm 1970, trong đó Tổ chức Hội nghị Hồi giáo có vai trò quan trọng[37]. Hiệp định hoà bình năm 1996 lập ra Hội đồng Nam Philippines vì Hòa bình và Phát triển, đứng đầu là nhà lãnh đạo MNLF, Nur Misuari, có trách nhiệm giám sát các dự án phát triển[38]. Hiệp định này công nhận quyền tự chủ của khu vực, tiến hành đại xá, và đưa các chiến binh được huấn luyện vào các lực lượng vũ trang và cảnh sát quốc gia[39].
Khi tôi làm tổng thống, có một sự cố đáng chú ý. Chúng tôi tiến hành cuộc vận động ở Mindanao để quốc hội bỏ phiếu phê chuẩn thỏa thuận hòa bình mà chúng tôi kí với MNLF. Thỏa thuận này phải được thông qua, và cuối cùng đã được thông qua. Nhưng trong giai đoạn chúng tôi đang vận động, thì một trong những quan chức hàng đầu của Mỹ, người đứng đầu USAID (Cơ quan Phát triển Quốc tế của Mỹ) đi cùng với tôi. Đại sứ Mỹ ở Philippines đi trong xe sau. Các Kitô hữu ở Mindanao rất giận tôi. Họ không muốn thỏa thuận này vì, theo họ, nó sẽ làm cho vai trò của họ yếu đi; nói thế là không đúng. Nhưng họ phản đối và vì vậy họ tổ chức một cuộc biểu tình lớn, dọc theo con đường từ sân bay đến thành phố Santos, có lẽ dài 5 km. Tôi thò đầu ra khỏi xe. Tôi không náu trong xe. Tôi nhìn ra đằng trước và họ tìm cách đánh tôi, vì vậy tôi tìm cách đánh lại họ. Rồi họ ném cà chua vào tôi. Được thôi. Ném cà chua, chứ đừng ném lựu đạn. Đó là một trong những tình huống khó khăn nhất trong nhiệm kì của tôi, thỏa thuận hòa bình ở Mindanao, nhưng chúng tôi đã thành công. “Bài học mà tôi học được là, trong bất kì cố gắng nhằm lập lại hòa bình nào thì người lãnh đạo cũng phải tập trung vào tầm nhìn xa. . . tầm nhìn chiến lược về hòa bình và phát triển. . . và không để cho những áp lực mang tính chiến thuật của kẻ thù của tiến trình hòa bình lôi kéo vào những hành động trái ngược nhau[40].
Triết gia Trung Quốc, Tôn Tử, nói: “Không đánh mà thắng là tốt nhất”, tôi đồng ý với ông. Tôi hiểu đánh nhau nghĩa là gì, nhưng “đối đầu mang tính bạo lực phải là lựa chọn cuối cùng của một tổng thống dân chủ”. Trong chế độ dân chủ, chúng tôi phải tìm kết quả “cùng thắng” trong bất kì cuộc đàm phán nào. Kết quả “cùng thắng” có xu hướng “tự thi hành”, không bị phía cho là mình bị lừa tìm cách phá hoại[41].
Năm 1994, Philippines - cùng với Brunei, Indonesia, và Malaysia - thành lập Khu vực Phát triển Đông ASEAN (BIMP-EAGA) nhằm tăng tốc phát triển kinh tế ở những khu vực tiếp giáp của chúng tôi, ở Philippines có Mindanao. Hợp tác trong nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, đánh cá, du lịch, vận tải, và năng lượng với mục đích bổ sung và tăng trưởng là một phần của kế hoạch phát triển Mindanao, như vậy là, củng cố thêm tiến trình hòa bình bằng cách nâng và trao quyền cho khu vực. BIMP-EAGA là một phần của “cổ tức hòa bình” mà Mindanao được hưởng[42].
Quân đội có chấp nhận thỏa thuận hòa bình với những người nổi dậy?
Trên thực tế, quân đội hợp tác hoàn toàn. Họ thực hiện các chính sách của chính phủ.
Những mốc chính
Năm 1521: Nhà thám hiểm Tây Ban Nha, Ferdinand Magellan tới Philippines và bị giết trong trận chiến với Datu Lapu-Lapu ở Mactan.
Từ năm 1565 tới năm 1898: Thuộc địa của Tây Ban Nha. Nước này được gọi là Las Islas Filipinas theo tên vua Felipe II của Tây Ban Nha.
Tháng 8 năm 1896: Các cuộc nổi dậy chống chính quyền thực dân Tây Ban Nha bắt đầu.
Tháng 12 năm 1896: Tiểu thuyết gia nổi tiếng, học giả, bác sĩ và nhà hoạt động chính trị Jose Rizal bị Tây Ban Nha hành quyết.
Tháng 12 năm 1898: Tây Ban Nha nhường Philippines cho Hoa Kỳ sau khi diễn ra cuộc chiến tranh giữa Tây Ban Nha và Hoa Kỳ. Những chiến sĩ chiến đấu cho nền độc lập của Philippines, do Tổng thống Emilio Aguinaldo lãnh đạo, tiếp tục cuộc đấu tranh vũ trang nhằm chống lại quân chiếm đóng Mỹ. Hơn hơn 4.000 lính Mỹ và hơn 12.000 binh sĩ Quân đội Cộng hòa Philippines bị giết, ít nhất 200.000 thường dân Philippines đã thiệt mạng.
Tháng 3 năm 1901: Aguinaldo bị bắt.
Tháng 7 năm 1901: William Howard Taft, sau này trở thành tổng thống Mỹ, là thống đốc dân sự đầu tiên sau khi Hoa Kỳ củng cố được quyền kiểm soát Philippines.
Tháng 9 năm 1935: Sau gần 30 năm tiến hành các cuộc bầu cử vào cơ quan lập pháp, những cuộc bầu cử tổng thống được tổ chức theo luật lệ của Mỹ, tạo điều kiện duy trì hệ thống lưỡng đảng, mặc dù nạn tham nhũng thường xuyên khuấy đảo đất nước này.
Tháng 7 năm 1946: Philippines giành được độc lập từ tay Hoa Kỳ, nhưng Hoa Kỳ vẫn giữ được các ưu quyền trong lĩnh vực kinh doanh và một số căn cứ quân sự ở nước này.
Tháng 11 năm 1965: Ferdinand Marcos được bầu làm tổng thống trong cuộc bầu cử khá tự do. Ông ta bổ nhiệm các thành viên gia đình và bạn bè vào các chức vụ trong quân đội và chính phủ, đưa các phe phái khác ra khỏi quyền lực, và gây ra những khoản nợ quốc gia lớn vì những dự án được ông ta bảo trợ.
Tháng 3 năm 1969: Đảng Cộng sản Philippines (CPP) thành lập cánh quân sự cánh tả với sự hỗ trợ bí mật của các nhóm đối lập khác. Cùng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Moro (MNLF) li khai, đây là lực lượng nổi loạn quan trọng.
Tháng 11 năm 1969: Marcos tái đắc cử trong cuộc bầu cử đầy gian lận, mua phiếu, dùng quân đội đe dọa phe đối lập.
Tháng 8 năm 1971: Marcos đình chỉ habeas corpus (quy định phải đem người bị bắt ra toà để xem nhà nước có quyền giam giữ người ấy hay không - ND) sau vụ nổ bom tại một một cuộc biểu tình của phe đối lập. Thượng nghị sĩ Benigno Aquino Jr, xuất thân từ một gia đình quan trọng ở Philippines, trở thành người thường xuyên phê phán Marcos.
Tháng 9 năm 1972: Marcos tuyên bố thiết quân luật và bắt giam Aquino và một số người khác. Ông ta áp lực, buộc các gia đình bán các công ty cho bạn bè của mình và thay đổi các quy định để làm lợi cho các đồng minh của ông ta. Ông bổ nhiệm các nhà kĩ trị và gia tăng quyền của các chủ đầu tư, được chính phủ Mỹ ca ngợi và cấp viện.
Tháng 11 năm 1972: nhờ hối lộ và tống tiền, Marcos thành lập được hội nghị lập hiến (triệu tập trước khi ban hành thiết quân luật) để thay thế quốc hội trong hệ thống đại nghị với nhiệm kì vô giới hạn. Quốc hội giải tán mà không tổ chức cuộc bầu cử mới.
Tháng 4 năm 1978: Bầu cử quốc hội, phe đối lập thua nặng vì quá nhiều gian lận và bạo lực; nhiều người tẩy chay, nhưng Aquino thành lập liên minh khu vực với CPP. Một ngày trước khi bỏ phiếu, phe đối lập tổ chức phản đối bằng “chướng ngại vật ồn ào”.
Tháng 10 năm 1980: Nhóm được Aquino hậu thuẫn đánh bom hội nghị du lịch của Mỹ ở Manila, thu hút sự chú ý của công luận. Marcos đồng ý đàm phán qua trung gian với Aquino và cam kết chấm dứt thiết quân luật và tổ chức bầu cử, phe đối lập tẩy chay vì thủ tục bỏ phiếu không công bằng. Các nhóm chiến binh bị bắt giữ vài tháng sau đó.
Tháng 1 năm 1981: Chính quyền mới của tổng thống Ronald Reagan bắt đầu quấy rối những người lưu vong đang sống ở Mỹ, ít chú ý tới những vụ lạm dụng nhân quyền, và chống lại áp lực đòi cắt giảm viện trợ cho chế độ của Marcos.
Tháng 8 năm 1981: Marcos bổ nhiệm một đồng minh là Fabian Ver làm người đứng đầu quân đội. Ver đụng độ với các tướng Juan Ponce Enrile và Fidel Ramos, những người được coi là chuyên nghiệp hơn và độc lập hơn.
Tháng 2 năm 1983: Hội nghị các vị Giám mục Công giáo, do Đức Hồng Y Jaime Sin lãnh đạo, kêu gọi chế độ dân chủ.
Tháng 8 năm 1983: Aquino về nước sau thời gian sống lưu vong. Khi đang bước ra khỏi máy bay, ông bị nhân viên an ninh của chính phủ ám sát. Những cuộc biểu tình bùng nổ, được các tầng lớp trung lưu, các doanh nghiệp và Giáo hội ủng hộ. Vợ góa của Aquino, bà Corazon "Cory" Cojuangco Aquino, trở thành người lãnh đạo các cuộc biểu tình. Ngân hàng Thế giới cắt các khoản vay dành cho chính phủ vì tình trạng bất ổn, buộc chính phủ phải hạn chế nhập khẩu và kinh doanh tiền tệ.
Tháng 5 năm 1984: Cuộc bầu cử vào cơ quan lập pháp được tổ chức. Phe đối lập không cộng sản tham gia và giành được nhiều ghế trong khu vực đô thị và trong những khu vực quê hương của các nhà lãnh đạo, mặc dù đã xảy ra gian lận và bạo lực.
Tháng 10 năm 1984: Cuộc điều tra của chính phủ về cái chết của ông Aquino cáo buộc Ver là người lãnh đạo vụ mưu sát.
Tháng 1 năm 1985: Được Bộ Ngoại giao và CIA khuyến cáo mạnh mẽ, cuối cùng, Reagan đã kêu gọi Marcos loại bỏ những biện pháp kiểm soát kinh tế, bổ nhiệm người kế vị, và trừng phạt Ver.
Tháng 3 năm 1985: Các sĩ quan liên minh với Enrile và các lực lượng an ninh, được Mỹ ngấm ngầm ủng hộ, thành lập Phong trào cải cách các Lực lượng Vũ trang (RAM) để chống lại Marcos và Ver.
Tháng 11 năm 1985: Trên truyền hình Mỹ, Marcos kêu gọi tổ chức bầu cử tổng thống, được xã hội dân sự và báo chí nước ngoài theo dõi. Phe đối lập ủng hộ Aquino làm tổng thống.
Tháng 2 năm 1986: Phong trào toàn dân theo dõi cuộc bầu cử tự do (NAMFREL) tuyên bố Cory Aquino đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử, nhưng ủy ban bầu cử lại nói Marcos thắng; các nhà quan sát ở Mỹ, Giáo hội, và các nhân viên ủy ban bầu cử tuyên bố phủ nhận kết quả chính thức. Chính phủ phát hiện âm mưu đảo chính của RAM, Enrile và Ramos chạy trốn tới doanh trại quân đội trên phố Epifanio de los Santos Avenue (EDSA) và ủng hộ Cory Aquino. Cory cùng với Giáo hội và phương tiện truyền thông huy động các cuộc biểu tình gọi là “quyền lực của nhân dân”. Những người biểu tình bao vây các doanh trại để giúp đỡ, chiếm các vị trí chủ chốt, và thề coi Cory là tổng thống. Hoa Kỳ chấm dứt ủng hộ Marcos, ông này chạy trốn bằng máy bay Mỹ và được đưa đến Hawaii. Vừa làm ổng thống, Cory liền bổ nhiệm nội các, trong đó có Enrile và Ramos. Bà đưa các nhà lãnh đạo CPP ra khỏi nhà tù, và đưa một số người vào nội các, mặc cho phản đối của tình báo Mỹ, bà còn lập ủy ban về vi phạm nhân quyền và tài sản bất hợp pháp, giải tán quốc hội và xóa bỏ hiến pháp thời Marcos.
Tháng 7 năm 1986: Các đồng minh của Marcos dự định đảo chính. RAM, tức giận vì chẳng có mấy ảnh hưởng và những cuộc đàm phán với CPP, ngấm ngầm hỗ trợ kế hoạch đảo chính. Các đồng minh của Marcos sau này còn tìm cách tiến hành ba cuộc đảo chính nữa.
Tháng 11 năm 1986: Sau khi Cory Aquino giao nhiệm vụ theo dõi chính sách quân sự, Ramos đã ngăn chặn được các kế hoạch của RAM, Enrile rời bỏ nội các. Sau đó RAM còn tìm cách tổ chức thêm hai cuộc đảo chính nữa.
Tháng 2 năm 1987: Cử tri thông qua bản hiến pháp được Cory Aquino ủng hộ. Bản hiến pháp này tạo ra hệ thống tổng thống nhất thể và quyền tự trị của các khu vực và hạn chế vai trò của quân đội trong những vấn đề an ninh nội bộ và chính trị.
Tháng 5 năm 1987: Các đồng minh của Aquino giành chiến thắng trong cuộc bầu cử vào cơ quan lập pháp. Các đảng được Marcos, Enrile, và CPP ủng hộ thu được ít phiếu bầu. Vẫn còn gian lận và bạo lực, nhưng mức độ thấp hơn hẳn.
Tháng 9 năm 1991: Thượng viện Philippines bỏ phiếu không cho Mỹ tiếp tục giữ các căn cứ quân sự ở Philippines.
Tháng 5 năm 1992: Fidel Ramos, người kế nhiệm được Cory Aquino chỉ định, thắng sít sao chức tổng thống, với 24% số phiếu bầu trong cuộc bầu cử với bảy ứng viên.
Tháng 9 năm 1996: Ramos kí thỏa thuận hòa bình với MNLF. Những nhóm đã tách ra, trong đó có Mặt trận Giải phóng Hồi giáo-Moro (MILF), tiếp tục tồn tại.
Tháng 9 năm 1997: Ramos kêu gọi thành lập hệ thống chính phủ đại nghị. Những người phản đối phản bác đề nghị này vì nó hủy bỏ giới hạn nhiệm kì cầm quyền, đề nghị này bị coi là vi hiến và bị thu hồi.
Tháng 5 năm 1998: Phó tổng thống và diễn viên điện ảnh, Joseph Estrada, được bầu làm tổng thống với cách biệt khá lớn. Ramos và các nhóm tinh hóa khác coi Estrada là một người dân túy nguy hiểm và chống lại ông ta.
Tháng 1 năm 2001: Những cuộc biểu tình phản đối Estrada bắt đầu, các đồng minh của ông ta ở Thượng viện cản trở cuộc điều tra tham nhũng. Cory Aquino, Sin và Ramos kêu gọi Estrada từ chức và nhiều người trong lực lượng an ninh tham gia phong trào. Phó Tổng thống Gloria Macapagal-Arroyo nhậm chức tổng thống. Estrada từ chức, nhưng gọi vụ lật đổ ông ta là bất hợp pháp.
Tháng 5 năm 2004: Macapagal-Arroyo được bầu lại làm tổng thống, với nhiệm kì kéo dài đúng 6 năm. Xuất hiện các cáo buộc về việc mua phiếu, nhưng tất cả các nỗ lực nhằm luận tội bà ở quốc hội đều thất bại.
Tháng 10 năm 2008: Đàm phán hòa bình với MILP thất bại khi tòa án tối cao chặn đứng thỏa thuận về quyền tự chủ, khẳng định rằng cam kết sửa đổi hiến pháp của chính phủ là bất hợp pháp.
May 2010: Benigno “Noynoy” Aquino III, con trai của Benigno Jr. và Cory Aquino, được bầu làm tổng thống. Macapagal-Arroyo bổ nhiệm các quan tòa ở những giây phút cuối cùng, mà sau này bị coi là vi hiến pháp.
Tháng 11 năm 2011: Macapagal-Arroyo bị bắt giữ vì tội tham nhũng và gian lận trong bầu cử; quá trình luận tội bộ trưởng tư pháp do bà bổ nhiệm bắt đầu, kết quả là ông này bị cách chức.
Tháng 10 năm 2012: MILF và chính phủ Noynoy kí thỏa thuận hòa bình.
Sách tham khảo
Ramos, Fidel V. Empowering the People, vol. 2, Bulletin of FVR Sermons. Manila: Ramos
Peace and Development Foundation and the Manila Bulletin, 2008.
———. SONA, vol. 6, Bulletin of FVR Sermons. Manila: Manila Bulletin Publication, 2011.
———. Towards Our Better Future: Seize the Opportunities. Manila: Ramos Peace and Development Foundation, 2012.
Velasco, Melandrew T. 10 Years of RPDEV: Teamwork for Enduring Peace and Sustainable
Development. Manila: Ramos Peace and Development Foundation, 2010.
Velasco, Melandrew T., Rafael M. Alunan III, and Reynaldo V. Velasco. Silver Linings: 25 Years of the 1986 EDSA People Power Revolution. Manila: Ramos Peace and Development Foundation and Media Touchstone Ventures, 2012.
Đọc thêm
Abinales, Patricio N., and Donna J. Amoroso. “The Withering of Philippine Democracy.” Current History 105, no. 692 (2006): 290-95.
Anderson, Benedict. “Cacique Democracy and the Philippines: Origins and Dreams.” New Left Review 1, no. 169 (1988): 3-31.
Bonner, Raymond. Waltzing with a Dictator: The Marcoses and the Making of American Policy. New York: Vintage, 1988.
Clarke, Gerald. The Politics of NGOs in South-East Asia: Participation and Protest in the Philippines. London: Routledge, 1998.
Franco, Jennifer C. Elections and Democratization in the Philippines. New York: Routledge, 2001.
Hedman, Eva-Lotta E. “The Spectre of Populism in Philippine Politics and Society: Artista, Masa, Eraption!” South East Asia Research 9, no. 1 (2001): 5–44.
Hernandez, Carolina G., and Maria Cecilia T. Ubarra. Restoring and Strengthening Civilian Control: Best Practices in Civil-Military Relationships in the Philippines. Quezon City, Philippines: Institute for Strategic and Development Studies and National Democratic Institute, 1999.
Hutchcroft, Paul D. “Refl ections on a Reverse Image: South Korea under Park Jung Hee and the Philippines under Ferdinand Marcos.” In The Park Chung Hee Era: The Transformation of South Korea, edited by Byung-Kook Kim and Ezra F. Vogel. Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 2011.
Miranda, Felipe B., Temario C. Rivera, Malaya C. Ronas, and Ronald D. Holmes. Chasing the Wind: Assessing Philippine Democracy. Quezon City: Philippine Commission on Human Rights and United Nations Development Programme, 2011.
Paredes, Ruby R. Philippine Colonial Democracy. New Haven, Conn.: Yale University Southeast Asian Studies, 1989.
Putzel, James. “Survival of an Imperfect Democracy in the Philippines.” Democratization 6, no. 1 (1999): 198–223.
Quimpo, Nathan Gilbert. “Oligarchic Patrimonialism, Bossism, Electoral Clientelism, and Contested Democracy in the Philippines.” Comparative Politics 37, no. 2 (2005): 229–50.
Riedinger, Jeff rey M. Agrarian Reform in the Philippines: Democratic Transitions and Redistributive Reform. Stanford, Calif.: Stanford University Press, 1995.
Rufo, Aries C. Altar of Secrets: Sex, Politics and Money in the Philippine Catholic Church. Manila: Journalism for Nation Building Foundation, 2013.
Sheridan, Greg. “‘Steady Eddie’ Ramos: People Power Mark II.” In Tigers: Leaders of the New Asia-Pacifi c, edited by Greg Sheridan. St. Leonard’s, N.S.W.: Allen & Unwin, 1997.
Staniland, Martin. “The Philippines: The Fall of Ferdinand C. Marcos, 1985–1986.” In Falling Friends: The United States and Regime Change Abroad, edited by Martin Staniland. Boulder, Colo.: Westview, 1991.
Teehankee, Julio C. “Electoral Politics in the Philippines.” In Electoral Politics in Southeast and East Asia, edited by Aurel Croissant, Gabriele Bruns, and Merei John, 149-202. Singapore: Friedrich Ebert Stiftung, 2002.
Thompson, Mark R. The Anti-Marcos Struggle: Personalistic Rule and Democratic Transition in the Philippines. New Haven, Conn.: Yale University Press, 1995.
Thompson, W. Scott, and Federico M. Macaranas. Democracy and Discipline: Fidel V. Ramos and His Philippine Presidency. Manila: University of Santo Tomas, 2007.
Youngblood, Robert L. Marcos against the Church: Economic Development and Political Repression in the Philippines. Ithaca, N.Y.: Cornell University Press, 1990.
________________________________________
[1] Ramos (2012, 23).
[2] Thượng dẫn.
[3] Ramos (2011, 50).
[4]Ramos (2012, 59).
[5] Velasco (2012, 183–85).
[6] Ramos (2012, 25).
[7] Velasco (2012, 182).
[8] Ramos (2008, 114).
[9] Ramos (2012, 12).
[10] Thượng dẫn.
[11] Ramos (2008, 116).
[12] Ramos (2012, 46).
[13] Ramos (2011, 53).
[14] Velasco (2010, 103).
[15] Velasco (2012, 293).
[16] Ramos (2011, 112).
[17]Thượng dẫn, 115.
[18] Thượng dẫn, 54.
[19] Thượng dẫn,., 115.
[20] Thượng dẫn, 17.
[21] Velasco (2012, 291).
[22] Ramos (2011, 114).
[23] Thượng dẫn, 65.
[24] Thượng dẫn, 55.
[25] Velasco (2010, 76).
[26]Ramos (2012, 41).
[27] Velasco (2010, 76–77).
[28] Ramos (2008, 145–46).
[29] Velasco (2010, 76–77).
[30] Thượng dẫn, 91.
[31] Ramos (2011, 49).
[32] Velasco (2010, 76–78).
[33] Ramos (2008, 149).
[34] Thượng dẫn, 147.
[35] Thượng dẫn,
[36] Ramos (2012, 41).
[37] Ramos (2008, 142).
[38] Velasco (2012, 266).
[39] Thượng dẫn, 83.
[40] Velasco (2010, 84).
[41] Ramos (2012, 29).
[42]Velasco (2012, 283–84).
Các NGO bao gồm nhiều nhóm, trong đó có Giáo hội. Trong thời gian tôi làm tổng thống, bởi vì trong hiến pháp có ghi, tôi có thể bổ nhiệm đại diện sáu lĩnh vực vào Hạ viện, những người này trước đó đã được Ủy ban về bổ nhiệm xác nhận. Việc này sau đó đã bị hủy bỏ bởi vì nó chỉ là điều kiện tạm thời. Nhưng chúng tôi có đại diện của phụ nữ, thanh niên, người lao động ở nước ngoài, cựu chiến binh, giới khoa bảng, và từ khu vực kinh doanh. Họ được cộng đồng của mình lựa chọn, những cộng đồng này chính thức thông báo với tôi. Tôi cử họ trên cơ sở họ được lựa chọn từ khối cử tri của mình, và tôi đã gặp họ trong suốt sáu năm, qua hai nhiệm kì ở Hạ viện. Trong nhiệm kỳ thứ hai, tôi có những người đại diện hơi khác một chút, nhưng những người trẻ thì vẫn như cũ.
Các tổ chức của phụ nữ cũng tham gia tham vấn? Giáo hội Công giáo có phải là tác nhân chính trị quan trọng hay không?
Có, trong giai đoạn tôi làm tổng thống và cả trong giai đoạn của Aquino nữa. Bà đã tổ chức được nhiều Hội đồng. Tôi thường xuyên gặp phụ nữ và thanh niên. Chúng tôi có Hội đồng Quốc gia về vai trò của phụ nữ Philippines và Ủy ban Thanh niên Quốc gia, lãnh đạo của mỗi nhóm này đều mang hàm bộ trưởng. Chúng tôi gặp các nữ lãnh đạo hai tháng một lần, trên thực tế, đấy là cuộc họp đầy đủ ban bệ, mỗi người đều đã chuẩn bị sẵn với ban thư kí và biên bản.
Chúng tôi có tỉ lệ, tính bằng phần trăm, phụ nữ trong cơ quan lập pháp cao hơn bất kì nước nào khác ở khu vực Đông Nam Á. Phụ nữ ở đây rất tích cực, theo nghĩa phát biểu ý kiến. Tất cả các loại think tanks và tổ chức phi chính phủ đều do do phụ nữ lãnh đạo. Hiện tôi đang viết về một tổ chức như thế, gọi là Phong trào Tái thiết Nông thôn Philippines, hiện vẫn đang hoạt động và làm việc về giáo dục quần chúng và phát triển nông thôn, đặc biệt là cung cấp cho người nghèo nước uống tốt, sạch, ba bữa ăn một ngày, và chăm sóc y tế, và chủ yếu là do phụ nữ quản lí.
Ngay từ đầu, ngay cả trong thời thuộc địa Tây Ban Nha, chúng tôi đã có những người phụ nữ chiến đấu chống lại người Tây Ban Nha rồi. Chúng tôi đã có một số nữ tướng, là người đứng đầu của tổ chức làng xã, và tất nhiên là những phụ nữ cầm bút và những phụ nữ là các think tankers, những người lên tiếng dõng dạc trên những các tờ báo viết bằng tiếng Tây Ban Nha. Còn khi người Mỹ tới, càng có nhiều phụ nữ được giải phóng hơn. Ở nước chúng tôi, từ năm 1936, phụ nữ đã có quyền phổ thông đầu phiếu và giữ địa vị lãnh đạo rồi. Tương tự như vậy, chúng tôi đã có Ủy ban Tôn giáo Quốc gia với đại diện là người Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, những người vô thần, Giáo Hội của Chúa Kitô (Iglesia ni Kristo), và các nhà thờ độc lập. Ban lãnh đạo hay chủ tịch đoàn luân phiên, mỗi năm một lần, trong vòng sáu năm. Chúng tôi duy trì đối thoại với họ. Hiện nay không còn nữa.
Những nguyên tắc cơ bản
Ông đã mô tả nhiều nguyên tắc và thực hành mà ông theo khi làm tổng thống, nhưng dường như các hoạt động chính trị thông thường của Philippines ít liên quan tới những nguyên tắc mà ông tin tưởng, và những nguyên tắc mà ông nói đã được đưa vào thực tiễn khi ông là tổng thống.
Vâng, tất nhiên, tôi rất lấy làm tiếc vì điều đó. Nó là một trong những thất bại của tôi, bạn thấy đấy. Bởi vì chúng tôi đã cố gắng đưa vào thực tiễn những điều chúng tôi nghĩ là đúng, và chúng tôi đang ghi lại bằng giấy trắng mực đen và nói về nó.
Nhưng tại sao lại có khoảng cách như thế giữa các nguyên tắc và thực tiễn trong chính trị?
Người ta chỉ học được những điều họ muốn học, nhưng những cái họ không thể nuốt được hay thực hành thường xuyên, vì toa thuốc ghi không rõ ràng thì họ sẽ vứt đi. Và tôi đã nói rằng xây dựng đất nước không phải là vấn đề cộng thêm thành công và thất bại của một loạt vị tổng thống hay thủ tướng. Đó là quá trình đi lên liên tục, và không ai được thất bại. Người đang giữ chức vụ phải làm tốt hơn người tiền nhiệm của mình, vì vậy, người kế nhiệm buộc phải làm tốt hơn nữa. Vì vậy, tôi quay trở lại với tiến trình xây dựng đất nước. Hàng ngày bạn không chỉ buồn bã và chán nản, mặc dù dường như là thế. Bạn gặp đủ kiểu thất bại. Nhiều thứ xảy ra. Tôi nghĩ rằng ở Mỹ người ta cũng nói như thế, và nếu bạn nhìn lại 225 năm qua, họ đã thực sự đi lên, nhưng đôi khi họ cũng gặp cả thành công lẫn thất bại. Bây giờ, tôi nghĩ là cái đó cũng xảy ra với tất cả các nước đang vươn lên. Chúng ta có thể nói như thế ở đây, vì 20 năm trước, chúng tôi chưa có nhà cao tầng, chúng tôi chưa có tàu hỏa chạy bằng điện, chưa có những đại lộ và các trung tâm mua sắm lớn. Chúng tôi chưa có các đặc khu kinh tế ở Clark và Subic do giới quan chức dân sự quản lí; lúc đó, đấy là các căn cứ quân sự.
Ảnh hưởng quốc tế
Ông đánh giá như thế nào về vai trò của chính phủ Mỹ, vốn đã hiện diện ở đây trong một thời gian dài, và các tác nhân quốc tế khác trong quá trình chuyển hóa dân chủ của Philippines?
Nói chung, tôi xin đánh bạo mà nói rằng kinh nghiệm với Hoa Kỳ là một trải nghiệm thuộc địa rất tốt đối với chúng tôi. Nhưng vẫn còn cảm giác không nói ra, và không phải chỉ ở những người già, đấy là, Mỹ đã cướp nền độc lập của chúng tôi. Khi chúng tôi đã tuyên bố độc lập, và chuẩn bị chiếm Manila, thì người Mỹ tới và giải quyết với người Tây Ban Nha. Bạn thấy đấy, đó là cách giải quyết để Manila không bị tàn phá; nếu không, có thể xảy ra chiến sự giữa Tây Ban Nha và những người khởi nghĩa. Trong Hiệp định Paris, năm 1898, Philippines bị Tây Ban Nha vứt bỏ và bán cho Mỹ với giá 20 triệu USD. Cuba cũng là một phần của thỏa thuận này. Thực tế là chúng tôi trở thành thuộc địa của Mỹ. Như vậy, hiện vẫn có mối nghi ngờ dai dẳng về chuyện này.
Chúng tôi cảm ơn về những bài học về chế độ dân chủ đại diện, các cuộc bầu cử, bắt đầu bằng những giai tầng được giáo dục tốt hơn, ví dụ, những người được bổ nhiệm và các ứng cử viên được ưu ái vào hai viện (Thượng viện và Hạ viện); chúng tôi có cùng một hệ thống, giống như Mỹ, cả trong ngành tư pháp cũng thế. Chúng tôi rất cám ơn vì món quà là môn tiếng Anh và phương pháp giảng dạy trong các trường công lập. Tôi là một trong những người được hưởng lợi, vì tôi lớn lên được giáo dục trong giai đoạn đó, tại một trường công lập, và hệ thống đó tốt hơn so với hệ thống mà chúng tôi đang có hiện nay. Nhưng vẫn còn những suy nghĩ dai dẳng, cho rằng trước đây Mỹ đã bóc lột Philippines và không cho nước này phát triển về mặt công nghiệp. Và chúng tôi lẽo đẽo theo sau một số thuộc địa cũ, ví dụ, Malaysia. Thái Lan chưa bao giờ là thuộc địa, nhưng họ đi trước chúng tôi khá xa về GDP bình quân trên đầu người.
Ông có tham khảo kinh nghiệm của quá trình chuyển hóa ở những nước khác như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, hay các nước Mỹ Latin khi các ông đang trải qua quá trình chuyển hóa ở Philippines?
Không, chúng tôi chỉ tư duy như người Philippines, và đó là tình thế “làm hay là chết”. Hoặc chúng tôi thành công trong cuộc đối đầu với Marcos hoặc là chúng tôi thua, và nếu chúng tôi thua, chúng tôi sẽ bị đi tù hay bị giết. Tất nhiên, ý tưởng về một cuộc đảo chính hay cuộc nổi dậy chống lại Marcos đã hình thành trong quân đội có thể là ba năm rồi. Phong trào Cải cách các Lực lượng vũ trang (RAM) bắt đầu làm việc đó. Sau này, một số người trong chúng tôi bị lôi kéo vào nó vì RAM đề nghị chúng tôi giúp đỡ. Tôi khuyên họ giảm tốc độ, họ chưa sẵn sàng. Nhưng chúng tôi giúp đỡ họ về mặt cải cách, vì chế độ của Marcos đã tồi tệ, về mặt nhân quyền và phát triển kinh tế. Chúng tôi có chế độ đầu sỏ; họ chỉ là những người kinh doanh, mà công việc này lại chỉ được phân phối trong số những người được họ bảo trợ mà thôi. Vợ của các quan chức rất ngông cuồng. Marcos là bạn thân của Shah ở Iran, của Gaddafi, và những người nắm quyền suốt đời khác.
Vấn đề này đã làm ông ta mệt mỏi, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo quá lớn. Khi chúng tôi bắt đầu nhận được sự ủng hộ, chúng tôi cũng bắt đầu nghĩ đến nền quản trị, và ngay từ đầu chúng tôi đã đồng ý rằng nếu chúng tôi thắng, phải trả quản trị về cho ban lãnh đạo dân sự và chính trị. Nhưng những đại tá trẻ không thực hiện cam kết của mình; họ muốn tự cai quản chính phủ. Nhưng một số người trong chúng tôi đã chiến đấu chống lại ý tưởng đó.
Có lẽ chúng tôi đã nhìn vào các cuộc nổi dậy khác ở châu Mỹ Latin, tương tự như cuộc nổi dậy của chúng tôi. Ví dụ, những phong trào giải phóng do các tu sĩ lãnh đạo. Các tu sĩ của chúng tôi ở đây cũng cũng chống lại chính phủ, nhưng họ liên minh với Cộng Sản. Có những phong trào giồng hệt như thế ở Trung Mỹ, với các sinh viên trẻ. Và ở Chile, bạn thấy tình hình rất khủng khiếp, vì quân đội chính là người cai trị. Trong trường hợp của chúng tôi, dân thường luôn luôn chịu trách nhiệm, quân đội giúp đỡ.
Quản lí kinh tế để phát triển
Ưu tiên kinh tế và phát triển của ông là gì?
Một trong những vấn đề cấp bách nhất lúc đó là năng lượng; thường xuyên mất điện, rất bất lợi cho nền kinh tế và chất lượng các mặt của cuộc sống. Vì vậy, tháng 12 năm 1992, Bộ Năng lượng đã lập kế hoạch và tiến hành quản lí việc cung cấp và sử dụng năng lượng. Các kế hoạch ngắn, trung và dài hạn đã được soạn thảo nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng năng lượng và việc thiếu hụt năng lượng đã được giải quyết sớm hơn kế hoạch đề ra. Khu vực tư nhân là đối tác quan trọng trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng năng lượng[14]. Tự do hóa ngành viễn thông và ngân hàng cũng là những lĩnh vực được ưu tiên nhằm gia tăng các khoản đầu tư và cạnh tranh[15].
Tham nhũng làm cho kinh tế kiệt quệ; tôi đã cố gắng giải quyết vấn đề này bằng cách hạn chế vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thông qua việc nới lỏng quy định, do đó, mở cửa nền kinh tế của chúng tôi cho các khoản đầu tư nước ngoài và cạnh tranh[16]. Chúng tôi phải tạo điều kiện cho “khu vực tư nhân làm những việc mà nó có thể làm tốt hơn chính phủ”[17]. Cạnh tranh mạnh mẽ hơn ở trong nước sẽ tạo điều kiện cho Philippines có sức cạnh tranh trên toàn thế giới, và nó sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhưng để thúc đẩy cạnh tranh ở trong nước, chúng tôi phải giải quyết các công ty và tập đoàn độc quyền đang thống trị một số lĩnh vực nhất định trong nền kinh tế[18]. Việc làm gia tăng là do các doanh nghiệp nhỏ và vừa, những doanh nghiệp này tạo ra nhiều việc làm hơn là những khoản đầu tư thâm dụng vốn[19].
Cơ sở hạ tầng yếu kém của chúng tôi đã làm giảm tốc độ tăng trưởng và phát triển và làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài. Đầu tư cải tạo hạ tầng đã (và vẫn là) là vấn đề quan trọng, trong đó có năng lượng sạch[20]. Chúng tôi đã xây dựng được trên 6.000 km đường giao thông mới và nhiều cây cầu[21]. Đây là những khoản đầu tư dài hạn, đỏi hỏi kế hoạch dài hạn.
Có khoảng cách lớn giữa người giàu và người nghèo ở Philippines. Chúng tôi đầu tư tỉ lệ quá lớn trong ngân sách giáo dục cho giáo dục đại học, mà người nghèo không được hưởng như các giai cấp trung lưu[22]. Nhưng giáo dục là công cụ giúp người dân thoát khỏi đói nghèo và gia tăng khả năng cạnh tranh của Philippines, vì vậy, phải tập trung thêm nữa nguồn lực cho giáo dục, cũng như chăm sóc sức khỏe ban đầu, nhất là đối với những người có thu nhập thấp nhất[23]. Nó sẽ đóng góp cho “cách tiếp cận đồng thời từ dưới lên và từ trên xuống” nhằm thu hẹp khoảng cách về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư[24].
Quản lí tiến trình hòa bình phức tạp
Khi ông trở thành tổng thống các cuộc xung đột vũ trang vẫn tiếp tục, làm sao ông quản lí được chúng?
Hòa bình và hòa giải là ưu tiên ngay từ đầu nhiệm kỳ tổng thống của tôi[25]. Chúng tôi bắt đầu các cuộc đàm phán, thậm chí trước khi tôi làm tổng thống, với ba nhóm bất đồng chính kiến có vũ trang: RAM, “các quân nhân nổi loạn; Mặt trận Giải phóng Dân tộc Moro Li khai ở miền nam Philippines; và Quân đội Nhân dân Mới, cánh vũ trang của Đảng Cộng sản Philippines[26]. Bằng tuyên bố tháng 7 năm 1992, tôi thành lập Ủy ban Thống nhất Dân Tộc (NUC) gồm 9 thành viên, được ủy quyền - thông qua quá trình tư vấn - soạn thảo và đề xuất chương trình ân xá và tiến trình hòa bình[27]. NUC tiến hành tham vấn tại 71 tỉnh với những người đang chiến đấu chống lại chính phủ, với gia đình của họ, và với các nhà lãnh đạo cộng đồng về một loạt vấn đề, trong đó có nguyên nhân của các cuộc xung đột vũ trang, các chính sách và chương trình cần phải thực hiện để có một nền hòa bình bền vững, và những việc mà các ngành và cộng đồng tự mình sẵn sàng đóng góp. Trên cơ sở các cuộc tham vấn đó, NUC soạn thảo các kiến nghị cho tiến trình hòa bình toàn diện[28].
Một trong những nguyên tắc của tiến trình hòa bình tổng quát là chúng tôi không theo đuổi việc “quy trách nhiệm hay đầu hàng, mà giữ phẩm giá cho tất cả các bên”. Đấy chưa phải là điều kiện đủ để chấm dứt, mà là những điều kiện cần để giải quyết xung đột[29]. “Hòa bình và phát triển phải luôn luôn song hành với nhau, phát triển bền vững trong khu vực bị ảnh hưởng bởi các cuộc xung đột là ưu tiên[30]. Chúng tôi chỉ có thể phát triển bền vững như một quốc gia khi có “hòa bình và tiến bộ" trong tất cả các khu vực[31]. Năm 1993, tôi thành lập Văn phòng Cố vấn của Tổng thống về Tiến trình Hoà bình, với nhiệm vụ “giám sát việc thực hiện kế hoạch của NUC”. Năm 1994, tuyên bố đại xá cho các nhóm vũ trang đang chiến đấu chống lại chính phủ. Ủy ban Ân xá Quốc gia nhận được hơn 7.000 đơn xin ân xá, và nhiều người nổi dậy đang bị giam giữ đã được tha. Ba ủy ban hòa bình được thành lập để quản lí các tiến trình hòa bình với RAM, MNLF và Cộng sản[32].
Những cuộc đàm phán chính thức đầu tiên với Cộng sản được chính phủ Aquino tiến hành năm 1986, nhưng không thành công. Cuộc đàm phán được khởi động lại vào năm 1992, và Đảng Cộng sản được hợp pháp hóa vào năm 1993. Năm 1998, một loạt hiệp định đã được ký kết, nhưng sau năm 2001, không tiến triển thêm được nữa[33].
Sau chín âm mưu đảo chính chống lại chính phủ Aquino, đàm phán với RAM bắt đầu vào năm 1992 với một thỏa thuận sơ bộ là “chấm dứt hành động thù nghịch”[34]. Tháng 5 năm 1995, kí thỏa thuận với các lực lượng trung thành với Marcos, gọi là ALTAS[35]. Thỏa thuận Tổng quát về Hòa bình được kí vào tháng 5 năm 1995. Thỏa thuận hòa bình với MNLF được kí vào tháng 9 năm 1996, sau hàng chục năm đánh nhau và bạo loạn[36]. Sư ủng hộ của quốc tế đối với các cuộc đàm phán với các MNLF bắt đầu từ những năm 1970, trong đó Tổ chức Hội nghị Hồi giáo có vai trò quan trọng[37]. Hiệp định hoà bình năm 1996 lập ra Hội đồng Nam Philippines vì Hòa bình và Phát triển, đứng đầu là nhà lãnh đạo MNLF, Nur Misuari, có trách nhiệm giám sát các dự án phát triển[38]. Hiệp định này công nhận quyền tự chủ của khu vực, tiến hành đại xá, và đưa các chiến binh được huấn luyện vào các lực lượng vũ trang và cảnh sát quốc gia[39].
Khi tôi làm tổng thống, có một sự cố đáng chú ý. Chúng tôi tiến hành cuộc vận động ở Mindanao để quốc hội bỏ phiếu phê chuẩn thỏa thuận hòa bình mà chúng tôi kí với MNLF. Thỏa thuận này phải được thông qua, và cuối cùng đã được thông qua. Nhưng trong giai đoạn chúng tôi đang vận động, thì một trong những quan chức hàng đầu của Mỹ, người đứng đầu USAID (Cơ quan Phát triển Quốc tế của Mỹ) đi cùng với tôi. Đại sứ Mỹ ở Philippines đi trong xe sau. Các Kitô hữu ở Mindanao rất giận tôi. Họ không muốn thỏa thuận này vì, theo họ, nó sẽ làm cho vai trò của họ yếu đi; nói thế là không đúng. Nhưng họ phản đối và vì vậy họ tổ chức một cuộc biểu tình lớn, dọc theo con đường từ sân bay đến thành phố Santos, có lẽ dài 5 km. Tôi thò đầu ra khỏi xe. Tôi không náu trong xe. Tôi nhìn ra đằng trước và họ tìm cách đánh tôi, vì vậy tôi tìm cách đánh lại họ. Rồi họ ném cà chua vào tôi. Được thôi. Ném cà chua, chứ đừng ném lựu đạn. Đó là một trong những tình huống khó khăn nhất trong nhiệm kì của tôi, thỏa thuận hòa bình ở Mindanao, nhưng chúng tôi đã thành công. “Bài học mà tôi học được là, trong bất kì cố gắng nhằm lập lại hòa bình nào thì người lãnh đạo cũng phải tập trung vào tầm nhìn xa. . . tầm nhìn chiến lược về hòa bình và phát triển. . . và không để cho những áp lực mang tính chiến thuật của kẻ thù của tiến trình hòa bình lôi kéo vào những hành động trái ngược nhau[40].
Triết gia Trung Quốc, Tôn Tử, nói: “Không đánh mà thắng là tốt nhất”, tôi đồng ý với ông. Tôi hiểu đánh nhau nghĩa là gì, nhưng “đối đầu mang tính bạo lực phải là lựa chọn cuối cùng của một tổng thống dân chủ”. Trong chế độ dân chủ, chúng tôi phải tìm kết quả “cùng thắng” trong bất kì cuộc đàm phán nào. Kết quả “cùng thắng” có xu hướng “tự thi hành”, không bị phía cho là mình bị lừa tìm cách phá hoại[41].
Năm 1994, Philippines - cùng với Brunei, Indonesia, và Malaysia - thành lập Khu vực Phát triển Đông ASEAN (BIMP-EAGA) nhằm tăng tốc phát triển kinh tế ở những khu vực tiếp giáp của chúng tôi, ở Philippines có Mindanao. Hợp tác trong nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, đánh cá, du lịch, vận tải, và năng lượng với mục đích bổ sung và tăng trưởng là một phần của kế hoạch phát triển Mindanao, như vậy là, củng cố thêm tiến trình hòa bình bằng cách nâng và trao quyền cho khu vực. BIMP-EAGA là một phần của “cổ tức hòa bình” mà Mindanao được hưởng[42].
Quân đội có chấp nhận thỏa thuận hòa bình với những người nổi dậy?
Trên thực tế, quân đội hợp tác hoàn toàn. Họ thực hiện các chính sách của chính phủ.
Những mốc chính
Năm 1521: Nhà thám hiểm Tây Ban Nha, Ferdinand Magellan tới Philippines và bị giết trong trận chiến với Datu Lapu-Lapu ở Mactan.
Từ năm 1565 tới năm 1898: Thuộc địa của Tây Ban Nha. Nước này được gọi là Las Islas Filipinas theo tên vua Felipe II của Tây Ban Nha.
Tháng 8 năm 1896: Các cuộc nổi dậy chống chính quyền thực dân Tây Ban Nha bắt đầu.
Tháng 12 năm 1896: Tiểu thuyết gia nổi tiếng, học giả, bác sĩ và nhà hoạt động chính trị Jose Rizal bị Tây Ban Nha hành quyết.
Tháng 12 năm 1898: Tây Ban Nha nhường Philippines cho Hoa Kỳ sau khi diễn ra cuộc chiến tranh giữa Tây Ban Nha và Hoa Kỳ. Những chiến sĩ chiến đấu cho nền độc lập của Philippines, do Tổng thống Emilio Aguinaldo lãnh đạo, tiếp tục cuộc đấu tranh vũ trang nhằm chống lại quân chiếm đóng Mỹ. Hơn hơn 4.000 lính Mỹ và hơn 12.000 binh sĩ Quân đội Cộng hòa Philippines bị giết, ít nhất 200.000 thường dân Philippines đã thiệt mạng.
Tháng 3 năm 1901: Aguinaldo bị bắt.
Tháng 7 năm 1901: William Howard Taft, sau này trở thành tổng thống Mỹ, là thống đốc dân sự đầu tiên sau khi Hoa Kỳ củng cố được quyền kiểm soát Philippines.
Tháng 9 năm 1935: Sau gần 30 năm tiến hành các cuộc bầu cử vào cơ quan lập pháp, những cuộc bầu cử tổng thống được tổ chức theo luật lệ của Mỹ, tạo điều kiện duy trì hệ thống lưỡng đảng, mặc dù nạn tham nhũng thường xuyên khuấy đảo đất nước này.
Tháng 7 năm 1946: Philippines giành được độc lập từ tay Hoa Kỳ, nhưng Hoa Kỳ vẫn giữ được các ưu quyền trong lĩnh vực kinh doanh và một số căn cứ quân sự ở nước này.
Tháng 11 năm 1965: Ferdinand Marcos được bầu làm tổng thống trong cuộc bầu cử khá tự do. Ông ta bổ nhiệm các thành viên gia đình và bạn bè vào các chức vụ trong quân đội và chính phủ, đưa các phe phái khác ra khỏi quyền lực, và gây ra những khoản nợ quốc gia lớn vì những dự án được ông ta bảo trợ.
Tháng 3 năm 1969: Đảng Cộng sản Philippines (CPP) thành lập cánh quân sự cánh tả với sự hỗ trợ bí mật của các nhóm đối lập khác. Cùng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Moro (MNLF) li khai, đây là lực lượng nổi loạn quan trọng.
Tháng 11 năm 1969: Marcos tái đắc cử trong cuộc bầu cử đầy gian lận, mua phiếu, dùng quân đội đe dọa phe đối lập.
Tháng 8 năm 1971: Marcos đình chỉ habeas corpus (quy định phải đem người bị bắt ra toà để xem nhà nước có quyền giam giữ người ấy hay không - ND) sau vụ nổ bom tại một một cuộc biểu tình của phe đối lập. Thượng nghị sĩ Benigno Aquino Jr, xuất thân từ một gia đình quan trọng ở Philippines, trở thành người thường xuyên phê phán Marcos.
Tháng 9 năm 1972: Marcos tuyên bố thiết quân luật và bắt giam Aquino và một số người khác. Ông ta áp lực, buộc các gia đình bán các công ty cho bạn bè của mình và thay đổi các quy định để làm lợi cho các đồng minh của ông ta. Ông bổ nhiệm các nhà kĩ trị và gia tăng quyền của các chủ đầu tư, được chính phủ Mỹ ca ngợi và cấp viện.
Tháng 11 năm 1972: nhờ hối lộ và tống tiền, Marcos thành lập được hội nghị lập hiến (triệu tập trước khi ban hành thiết quân luật) để thay thế quốc hội trong hệ thống đại nghị với nhiệm kì vô giới hạn. Quốc hội giải tán mà không tổ chức cuộc bầu cử mới.
Tháng 4 năm 1978: Bầu cử quốc hội, phe đối lập thua nặng vì quá nhiều gian lận và bạo lực; nhiều người tẩy chay, nhưng Aquino thành lập liên minh khu vực với CPP. Một ngày trước khi bỏ phiếu, phe đối lập tổ chức phản đối bằng “chướng ngại vật ồn ào”.
Tháng 10 năm 1980: Nhóm được Aquino hậu thuẫn đánh bom hội nghị du lịch của Mỹ ở Manila, thu hút sự chú ý của công luận. Marcos đồng ý đàm phán qua trung gian với Aquino và cam kết chấm dứt thiết quân luật và tổ chức bầu cử, phe đối lập tẩy chay vì thủ tục bỏ phiếu không công bằng. Các nhóm chiến binh bị bắt giữ vài tháng sau đó.
Tháng 1 năm 1981: Chính quyền mới của tổng thống Ronald Reagan bắt đầu quấy rối những người lưu vong đang sống ở Mỹ, ít chú ý tới những vụ lạm dụng nhân quyền, và chống lại áp lực đòi cắt giảm viện trợ cho chế độ của Marcos.
Tháng 8 năm 1981: Marcos bổ nhiệm một đồng minh là Fabian Ver làm người đứng đầu quân đội. Ver đụng độ với các tướng Juan Ponce Enrile và Fidel Ramos, những người được coi là chuyên nghiệp hơn và độc lập hơn.
Tháng 2 năm 1983: Hội nghị các vị Giám mục Công giáo, do Đức Hồng Y Jaime Sin lãnh đạo, kêu gọi chế độ dân chủ.
Tháng 8 năm 1983: Aquino về nước sau thời gian sống lưu vong. Khi đang bước ra khỏi máy bay, ông bị nhân viên an ninh của chính phủ ám sát. Những cuộc biểu tình bùng nổ, được các tầng lớp trung lưu, các doanh nghiệp và Giáo hội ủng hộ. Vợ góa của Aquino, bà Corazon "Cory" Cojuangco Aquino, trở thành người lãnh đạo các cuộc biểu tình. Ngân hàng Thế giới cắt các khoản vay dành cho chính phủ vì tình trạng bất ổn, buộc chính phủ phải hạn chế nhập khẩu và kinh doanh tiền tệ.
Tháng 5 năm 1984: Cuộc bầu cử vào cơ quan lập pháp được tổ chức. Phe đối lập không cộng sản tham gia và giành được nhiều ghế trong khu vực đô thị và trong những khu vực quê hương của các nhà lãnh đạo, mặc dù đã xảy ra gian lận và bạo lực.
Tháng 10 năm 1984: Cuộc điều tra của chính phủ về cái chết của ông Aquino cáo buộc Ver là người lãnh đạo vụ mưu sát.
Tháng 1 năm 1985: Được Bộ Ngoại giao và CIA khuyến cáo mạnh mẽ, cuối cùng, Reagan đã kêu gọi Marcos loại bỏ những biện pháp kiểm soát kinh tế, bổ nhiệm người kế vị, và trừng phạt Ver.
Tháng 3 năm 1985: Các sĩ quan liên minh với Enrile và các lực lượng an ninh, được Mỹ ngấm ngầm ủng hộ, thành lập Phong trào cải cách các Lực lượng Vũ trang (RAM) để chống lại Marcos và Ver.
Tháng 11 năm 1985: Trên truyền hình Mỹ, Marcos kêu gọi tổ chức bầu cử tổng thống, được xã hội dân sự và báo chí nước ngoài theo dõi. Phe đối lập ủng hộ Aquino làm tổng thống.
Tháng 2 năm 1986: Phong trào toàn dân theo dõi cuộc bầu cử tự do (NAMFREL) tuyên bố Cory Aquino đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử, nhưng ủy ban bầu cử lại nói Marcos thắng; các nhà quan sát ở Mỹ, Giáo hội, và các nhân viên ủy ban bầu cử tuyên bố phủ nhận kết quả chính thức. Chính phủ phát hiện âm mưu đảo chính của RAM, Enrile và Ramos chạy trốn tới doanh trại quân đội trên phố Epifanio de los Santos Avenue (EDSA) và ủng hộ Cory Aquino. Cory cùng với Giáo hội và phương tiện truyền thông huy động các cuộc biểu tình gọi là “quyền lực của nhân dân”. Những người biểu tình bao vây các doanh trại để giúp đỡ, chiếm các vị trí chủ chốt, và thề coi Cory là tổng thống. Hoa Kỳ chấm dứt ủng hộ Marcos, ông này chạy trốn bằng máy bay Mỹ và được đưa đến Hawaii. Vừa làm ổng thống, Cory liền bổ nhiệm nội các, trong đó có Enrile và Ramos. Bà đưa các nhà lãnh đạo CPP ra khỏi nhà tù, và đưa một số người vào nội các, mặc cho phản đối của tình báo Mỹ, bà còn lập ủy ban về vi phạm nhân quyền và tài sản bất hợp pháp, giải tán quốc hội và xóa bỏ hiến pháp thời Marcos.
Tháng 7 năm 1986: Các đồng minh của Marcos dự định đảo chính. RAM, tức giận vì chẳng có mấy ảnh hưởng và những cuộc đàm phán với CPP, ngấm ngầm hỗ trợ kế hoạch đảo chính. Các đồng minh của Marcos sau này còn tìm cách tiến hành ba cuộc đảo chính nữa.
Tháng 11 năm 1986: Sau khi Cory Aquino giao nhiệm vụ theo dõi chính sách quân sự, Ramos đã ngăn chặn được các kế hoạch của RAM, Enrile rời bỏ nội các. Sau đó RAM còn tìm cách tổ chức thêm hai cuộc đảo chính nữa.
Tháng 2 năm 1987: Cử tri thông qua bản hiến pháp được Cory Aquino ủng hộ. Bản hiến pháp này tạo ra hệ thống tổng thống nhất thể và quyền tự trị của các khu vực và hạn chế vai trò của quân đội trong những vấn đề an ninh nội bộ và chính trị.
Tháng 5 năm 1987: Các đồng minh của Aquino giành chiến thắng trong cuộc bầu cử vào cơ quan lập pháp. Các đảng được Marcos, Enrile, và CPP ủng hộ thu được ít phiếu bầu. Vẫn còn gian lận và bạo lực, nhưng mức độ thấp hơn hẳn.
Tháng 9 năm 1991: Thượng viện Philippines bỏ phiếu không cho Mỹ tiếp tục giữ các căn cứ quân sự ở Philippines.
Tháng 5 năm 1992: Fidel Ramos, người kế nhiệm được Cory Aquino chỉ định, thắng sít sao chức tổng thống, với 24% số phiếu bầu trong cuộc bầu cử với bảy ứng viên.
Tháng 9 năm 1996: Ramos kí thỏa thuận hòa bình với MNLF. Những nhóm đã tách ra, trong đó có Mặt trận Giải phóng Hồi giáo-Moro (MILF), tiếp tục tồn tại.
Tháng 9 năm 1997: Ramos kêu gọi thành lập hệ thống chính phủ đại nghị. Những người phản đối phản bác đề nghị này vì nó hủy bỏ giới hạn nhiệm kì cầm quyền, đề nghị này bị coi là vi hiến và bị thu hồi.
Tháng 5 năm 1998: Phó tổng thống và diễn viên điện ảnh, Joseph Estrada, được bầu làm tổng thống với cách biệt khá lớn. Ramos và các nhóm tinh hóa khác coi Estrada là một người dân túy nguy hiểm và chống lại ông ta.
Tháng 1 năm 2001: Những cuộc biểu tình phản đối Estrada bắt đầu, các đồng minh của ông ta ở Thượng viện cản trở cuộc điều tra tham nhũng. Cory Aquino, Sin và Ramos kêu gọi Estrada từ chức và nhiều người trong lực lượng an ninh tham gia phong trào. Phó Tổng thống Gloria Macapagal-Arroyo nhậm chức tổng thống. Estrada từ chức, nhưng gọi vụ lật đổ ông ta là bất hợp pháp.
Tháng 5 năm 2004: Macapagal-Arroyo được bầu lại làm tổng thống, với nhiệm kì kéo dài đúng 6 năm. Xuất hiện các cáo buộc về việc mua phiếu, nhưng tất cả các nỗ lực nhằm luận tội bà ở quốc hội đều thất bại.
Tháng 10 năm 2008: Đàm phán hòa bình với MILP thất bại khi tòa án tối cao chặn đứng thỏa thuận về quyền tự chủ, khẳng định rằng cam kết sửa đổi hiến pháp của chính phủ là bất hợp pháp.
May 2010: Benigno “Noynoy” Aquino III, con trai của Benigno Jr. và Cory Aquino, được bầu làm tổng thống. Macapagal-Arroyo bổ nhiệm các quan tòa ở những giây phút cuối cùng, mà sau này bị coi là vi hiến pháp.
Tháng 11 năm 2011: Macapagal-Arroyo bị bắt giữ vì tội tham nhũng và gian lận trong bầu cử; quá trình luận tội bộ trưởng tư pháp do bà bổ nhiệm bắt đầu, kết quả là ông này bị cách chức.
Tháng 10 năm 2012: MILF và chính phủ Noynoy kí thỏa thuận hòa bình.
Sách tham khảo
Ramos, Fidel V. Empowering the People, vol. 2, Bulletin of FVR Sermons. Manila: Ramos
Peace and Development Foundation and the Manila Bulletin, 2008.
———. SONA, vol. 6, Bulletin of FVR Sermons. Manila: Manila Bulletin Publication, 2011.
———. Towards Our Better Future: Seize the Opportunities. Manila: Ramos Peace and Development Foundation, 2012.
Velasco, Melandrew T. 10 Years of RPDEV: Teamwork for Enduring Peace and Sustainable
Development. Manila: Ramos Peace and Development Foundation, 2010.
Velasco, Melandrew T., Rafael M. Alunan III, and Reynaldo V. Velasco. Silver Linings: 25 Years of the 1986 EDSA People Power Revolution. Manila: Ramos Peace and Development Foundation and Media Touchstone Ventures, 2012.
Đọc thêm
Abinales, Patricio N., and Donna J. Amoroso. “The Withering of Philippine Democracy.” Current History 105, no. 692 (2006): 290-95.
Anderson, Benedict. “Cacique Democracy and the Philippines: Origins and Dreams.” New Left Review 1, no. 169 (1988): 3-31.
Bonner, Raymond. Waltzing with a Dictator: The Marcoses and the Making of American Policy. New York: Vintage, 1988.
Clarke, Gerald. The Politics of NGOs in South-East Asia: Participation and Protest in the Philippines. London: Routledge, 1998.
Franco, Jennifer C. Elections and Democratization in the Philippines. New York: Routledge, 2001.
Hedman, Eva-Lotta E. “The Spectre of Populism in Philippine Politics and Society: Artista, Masa, Eraption!” South East Asia Research 9, no. 1 (2001): 5–44.
Hernandez, Carolina G., and Maria Cecilia T. Ubarra. Restoring and Strengthening Civilian Control: Best Practices in Civil-Military Relationships in the Philippines. Quezon City, Philippines: Institute for Strategic and Development Studies and National Democratic Institute, 1999.
Hutchcroft, Paul D. “Refl ections on a Reverse Image: South Korea under Park Jung Hee and the Philippines under Ferdinand Marcos.” In The Park Chung Hee Era: The Transformation of South Korea, edited by Byung-Kook Kim and Ezra F. Vogel. Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 2011.
Miranda, Felipe B., Temario C. Rivera, Malaya C. Ronas, and Ronald D. Holmes. Chasing the Wind: Assessing Philippine Democracy. Quezon City: Philippine Commission on Human Rights and United Nations Development Programme, 2011.
Paredes, Ruby R. Philippine Colonial Democracy. New Haven, Conn.: Yale University Southeast Asian Studies, 1989.
Putzel, James. “Survival of an Imperfect Democracy in the Philippines.” Democratization 6, no. 1 (1999): 198–223.
Quimpo, Nathan Gilbert. “Oligarchic Patrimonialism, Bossism, Electoral Clientelism, and Contested Democracy in the Philippines.” Comparative Politics 37, no. 2 (2005): 229–50.
Riedinger, Jeff rey M. Agrarian Reform in the Philippines: Democratic Transitions and Redistributive Reform. Stanford, Calif.: Stanford University Press, 1995.
Rufo, Aries C. Altar of Secrets: Sex, Politics and Money in the Philippine Catholic Church. Manila: Journalism for Nation Building Foundation, 2013.
Sheridan, Greg. “‘Steady Eddie’ Ramos: People Power Mark II.” In Tigers: Leaders of the New Asia-Pacifi c, edited by Greg Sheridan. St. Leonard’s, N.S.W.: Allen & Unwin, 1997.
Staniland, Martin. “The Philippines: The Fall of Ferdinand C. Marcos, 1985–1986.” In Falling Friends: The United States and Regime Change Abroad, edited by Martin Staniland. Boulder, Colo.: Westview, 1991.
Teehankee, Julio C. “Electoral Politics in the Philippines.” In Electoral Politics in Southeast and East Asia, edited by Aurel Croissant, Gabriele Bruns, and Merei John, 149-202. Singapore: Friedrich Ebert Stiftung, 2002.
Thompson, Mark R. The Anti-Marcos Struggle: Personalistic Rule and Democratic Transition in the Philippines. New Haven, Conn.: Yale University Press, 1995.
Thompson, W. Scott, and Federico M. Macaranas. Democracy and Discipline: Fidel V. Ramos and His Philippine Presidency. Manila: University of Santo Tomas, 2007.
Youngblood, Robert L. Marcos against the Church: Economic Development and Political Repression in the Philippines. Ithaca, N.Y.: Cornell University Press, 1990.
________________________________________
[1] Ramos (2012, 23).
[2] Thượng dẫn.
[3] Ramos (2011, 50).
[4]Ramos (2012, 59).
[5] Velasco (2012, 183–85).
[6] Ramos (2012, 25).
[7] Velasco (2012, 182).
[8] Ramos (2008, 114).
[9] Ramos (2012, 12).
[10] Thượng dẫn.
[11] Ramos (2008, 116).
[12] Ramos (2012, 46).
[13] Ramos (2011, 53).
[14] Velasco (2010, 103).
[15] Velasco (2012, 293).
[16] Ramos (2011, 112).
[17]Thượng dẫn, 115.
[18] Thượng dẫn, 54.
[19] Thượng dẫn,., 115.
[20] Thượng dẫn, 17.
[21] Velasco (2012, 291).
[22] Ramos (2011, 114).
[23] Thượng dẫn, 65.
[24] Thượng dẫn, 55.
[25] Velasco (2010, 76).
[26]Ramos (2012, 41).
[27] Velasco (2010, 76–77).
[28] Ramos (2008, 145–46).
[29] Velasco (2010, 76–77).
[30] Thượng dẫn, 91.
[31] Ramos (2011, 49).
[32] Velasco (2010, 76–78).
[33] Ramos (2008, 149).
[34] Thượng dẫn, 147.
[35] Thượng dẫn,
[36] Ramos (2012, 41).
[37] Ramos (2008, 142).
[38] Velasco (2012, 266).
[39] Thượng dẫn, 83.
[40] Velasco (2010, 84).
[41] Ramos (2012, 29).
[42]Velasco (2012, 283–84).
trao quyền cho dân là phù hợp
ReplyDelete