Đinh Tuấn Minh
Giới thiệu tác phẩm: Các mô hình quản lí
nhà nước hiện đại, do Phạm Nguyên Trường dịch, NXB TT ấn hành năm 2013
Trên tay cuốn sách Các mô hình quản lý nhà nước hiện đại, không quá dày nhưng nó đã
bao quát khá đầy đủ kiến thức về lịch sử các mô hình tổ chức nhà nước theo
triết lý dân chủ, chứa đựng các tư tưởng chính trị của những triết gia nổi
tiếng từ cổ chí kim, và cập nhật xu hướng phát triển của các mô hình quản trị
nhà nước hiện nay trên thế giới.
Cuốn sách được Held viết bằng phương pháp
phân tích khoa học. Ông đã tổng hợp các tư tưởng và thực tiễn để xây dựng các
mô hình dân chủ điển hình, theo các tiêu chí phân loại cụ thể. Cách tiếp cận này giúp người đọc có thể đánh
giá các luận điểm của tác giả và hình thành chủ kiến của riêng mình.
*
* *
Tác phẩm được chia thành ba phần. Phần I,
Held trình bày bốn mô hình dân chủ kinh điển: mô hình dân chủ cổ điển Athens , mô hình dân chủ
cộng hòa, mô hình dân chủ tự do, và mô hình dân chủ trực tiếp. Bốn mô hình này
đã xuất hiện như các thử nghiệm trong lịch sử trước thế kỷ XX và có thể xem là
bốn hình mẫu tiêu biểu cho cách thức quản trị quốc gia mà dân chúng có quyền
tham gia.
Mô
hình dân chủ cổ điển Athens xuất hiện ở thành phố Athens , Hi Lạp vào thế kỷ V trCN. Theo mô
hình này, mọi công dân đều có quyền tham gia trực tiếp vào các quá trình lập
pháp, xét xử và điều hành các công việc chung của cộng đồng. Mô hình dân chủ cộng hòa xuất hiện tại
các thành phố Bắc Ý vào cuối thế kỷ XI. Lúc này, công dân được quyền bầu người
đại diện vào hội đồng chấp chính. Những người đại diện trong hội đồng chấp
chính đến lượt mình lại sẽ bầu quan chấp chính – tức người đứng đầu thành quốc.
Mô hình dân chủ tự do xuất hiện ở Mỹ
và châu Âu từ cuối thế kỷ XIII. Công dân trong mô hình dân chủ tự do có quyền
bầu những người đại diện trong hội đồng lập pháp và những người đại diện trong
hệ thống hành pháp. Luật pháp được những người đại diện thiết kế và thực thi sao cho người dân được tự do mưu cầu hạnh phúc,
không bị cưỡng bức bởi đồng loại và bởi nhà nước.
Mô
hình dân chủ trực tiếp là mô hình kinh điển cuối cùng trong phân loại của
Held. Mô hình này được thử nghiệm lần đầu tiên tại Công xã Paris giữa thế kỷ XIX. Công xã Paris cũng chính là cảm
hứng để Marx và Engels xây dựng các nguyên lý cho mô hình dân chủ này. Nét đặc
trưng của mô hình dân chủ trực tiếp là công dân trực tiếp ủy nhiệm việc điều
hành các công việc chung, từ công việc sản xuất cho đến công việc xã hội, cho
các đại diện của mình tại các hội đồng nhân dân địa phương. Đối với các công
việc ở phạm vi rộng hơn, các hội đồng địa phương sẽ lại ủy nhiệm trực tiếp cho
các hội đồng cấp cao hơn. Những người đại diện ở hội đồng nhân dân cấp trên sẽ
phải chịu trách nhiệm giải trình cho những người bầu mình ở hội đồng nhân dân
cấp dưới, và đến lượt những người đại diện ở hội đồng nhân dân cấp địa phương
phải chịu trách nhiệm giải trình trước những công dân mà họ đại diện.
Ba mô hình dân chủ cộng hòa, dân chủ tự do,
và dân chủ trực tiếp còn có các biến thể khác trong từng mô hình. Hai mô hình
đầu đều chứa đựng hai khuynh hướng: phát triển (developmental) và bảo vệ
(protective). Các mô hình dân chủ theo hướng phát triển đều nhấn mạnh vai trò
của nhà nước trong việc điều tiết xã hội để thúc đẩy công bằng giữa các tầng
lớp trong xã hội. Các mô hình dân chủ theo hướng bảo vệ lại nhấn mạnh việc kiểm
soát chính phủ trong những khuôn khổ nhất định để sao cho người dân có thể sống
mà không sợ bị bạo hành hoặc bị chính trị can thiệp một cách vô lối.
Mô hình dân chủ trực tiếp chứa đựng ít
nhất ba khuynh hướng: khuynh hướng tự do, khuynh hướng đa nguyên, và khuynh
hướng chính thống. Khuynh hướng tự do cổ vũ việc đấu tranh chống lại mọi hình
thức uy quyền mang tính tôn ti trật tự, kể cả nhà nước, nhằm đem lại tự do thực
thụ cho giai cấp công nhân. Khuynh hướng đa nguyên lại cho rằng thiết chế nhà
nước vẫn có ý nghĩa trong công cuộc cải tạo xã hội. Đây cũng là con đường để
giai cấp công nhân có thể nắm được quyền kiểm soát xã hội một cách hợp pháp.
Cuối cùng, khuynh hướng chính thống, một mặt cho rằng phải chinh phục và phá bỏ
hoàn toàn cơ chế nhà nước, nhưng mặt khác, lại cho rằng phải có một đảng tiên
phong lãnh đạo để cải tạo xã hội phù hợp trong từng giai đoạn cách mạng.
Trong phần thứ II, Held giới thiệu tiếp
bốn biến thể trong thế kỷ XX và một biến thể đang manh nha hình thành hiện nay.
Đó là các mô hình dân chủ tinh hoa cạnh tranh (competitive elitist democracy),
mô hình dân chủ đa nguyên (pluralist democracy), mô hình dân chủ hợp pháp
(legal democracy), mô hình dân chủ tham gia (participatory democracy), và mô
hình dân chủ thảo luận (deliberative democracy) đang xuất hiện. Về cơ bản, các
mô hình dân chủ hiện đại đều có nền tảng là dân chủ tự do. Sự khác biệt chỉ là
ở chỗ mô hình này thiên về bảo vệ trong khi mô hình kia lại thiên về hướng phát
triển, hoặc cố gắng kết hợp thêm các yếu tố của các mô hình dân chủ trực tiếp
hay cổ điển vào hệ thống của mình.
Mô
hình dân chủ tinh hoa cạnh tranh nhấn mạnh vai trò của giới tinh hoa trong
đời sống chính trị. Chỉ có giới tinh hoa mới có khả năng xây dựng luật pháp và
tổ chức bộ máy để điều hành các việc công một cách hiệu quả. Các nhóm tinh hoa
cạnh tranh để giành sự ủng hộ của dân chúng. Theo mô hình này, quá trình bầu cử
dân chủ thực ra chỉ có ý nghĩa hợp pháp hóa một nhóm tinh hoa nào đó vào vị trí
quản trị nhà nước, còn bản thân người dân về cơ bản bị mất quyền kiểm soát các
công việc công cộng.
Mô
hình dân chủ đa nguyên nhấn mạnh đến tính đa nguyên của xã hội hiện đại.
Khác với mô hình dân chủ tinh hoa cạnh tranh, mô hình dân chủ đa nguyên nhấn
mạnh đến vai trò của các tổ chức/nhóm xã hội bên cạnh các đảng phái chính trị.
Theo quan điểm đa nguyên, các tổ chức xã hội luôn luôn biến đổi. Người dân có
thể tham gia hoặc ngừng tham gia vào nhiều tổ chức xã hội khác nhau. Để duy trì
sự tồn tại của mình, các nhóm xã hội sẽ liên tục gây áp lực đối với các đảng
phái chính trị nhằm đáp ứng đòi hỏi của các hội viên, khiến cho hoạt động của
các đảng phái chính trị trở nên công khai và dễ dàng được người dân giám sát
hơn.
Mô
hình dân chủ hợp pháp
lại nghi ngờ về khả năng của giới chính trị tinh hoa trong việc phân bổ nguồn
lực hiệu quả, thông qua việc dàn xếp lợi ích giữa các nhóm trong xã hội. Theo
quan điểm của mô hình này, chỉ các cá nhân mới có thể biết họ muốn gì và vì vậy
nhà nước càng ít can thiệp vào cuộc sống của họ càng tốt cho họ. Hoạt động của
chính phủ phải được luật hóa và giới hạn vào việc cung cấp các quy tắc mà các
cá nhân có thể sử dụng như là công cụ cho việc theo đuổi các mục tiêu khác nhau
của mình. Chính phủ chỉ nên can thiệp một cách hợp pháp vào xã hội dân sự bằng
cách buộc người ta phải tuân thủ các điều luật chung, những điều luật bảo vệ
“đời sống, quyền tự do và điền sản”.
Mô
hình dân chủ tham gia
là một nỗ lực trong việc đưa lý tưởng của mô hình dân chủ trực tiếp vào trong
đời sống dân chủ hiện đại. Mô hình này nhấn mạnh đến sự tham gia trực tiếp của
các công dân trong việc điều chỉnh các thiết chế chủ yếu của xã hội, cả ở nơi
làm việc lẫn tại cộng đồng địa phương. Để đạt được mục đích này, việc tái phân
phối ở một mức độ vừa phải các nguồn lực vật chất nhằm cải thiện đời sống của
tầng lớp nghèo khổ và của phụ nữ là điều cần thiết. Tự do chỉ thực chất nếu như
có sự bình đẳng nhất định về vật chất và cơ hội. Bên cạnh đòi hỏi về sự cần
thiết phải có sự tái phân phối của cải vật chất, mô hình này cũng đòi hỏi sự
cần thiết phải hạn chế đến mức tối đa những bộ phận của bộ máy quan liêu không
có khả năng giải trình, cả trong lĩnh vực công lẫn lĩnh vực tư.
Mô hình cuối cùng mà Held trình bày trong
phần II là mô hình dân chủ thảo luận.
Đây là mô hình mới xuất hiện trong khoảng 20 năm gần đây. Mô hình này nhấn mạnh
đến chất lượng tham gia của dân chúng vào các hoạt động chính trị. Không chỉ
đơn thuần là người dân được quyền tham gia lựa chọn người đại diện hoặc tham
gia đề xuất giải pháp cho các vấn đề chung mà quan trọng là họ có thể đưa ra
lựa chọn một cách duy lý hay không. Muốn
vậy, các vấn đề tập thể cần phải được bàn luận công khai và không thiên vị bởi
chính người dân. Một lựa chọn chính trị chỉ hợp pháp nếu như kết quả của sự bầu
chọn được hình thành từ một quá trình bầu chọn có sự hiện diện của những cuộc
thảo luận công khai, duy lý và không thiên vị bởi chính người dân.
Held giành Phần thứ III của tác phẩm để
làm sáng tỏ câu hỏi chuẩn tắc: “hiện nay dân chủ nên được hiểu như thế nào?”
Đây được xem như phần sáng tạo nhất của tác giả trong lĩnh vực lý thuyết về mô
hình quản trị nhà nước. Held cố gắng đánh giá có phê phán các mô hình dân chủ
hiện hữu và từ đó xây dựng một mô hình dân chủ chiết trung của riêng mình, mô
hình mà ông cho rằng “có thể gắn kết những khó khăn mang tính hệ thống thường
xảy ra và tái diễn trong đời sống chính trị và đời sống xã hội”.
Điểm cốt lõi trong mô hình dân chủ mà Held
đề xuất cho giai đoạn hiện nay là khái niệm “tự trị dân chủ” (democratic
autonomy). Theo Held, tự trị vừa hàm nghĩa tự do cá nhân vừa hàm nghĩa các cá
nhân có quyền và trách nhiệm ngang nhau trong việc tổ chức cộng đồng để đảm bảo
họ có đủ điều kiện theo đuổi các kế hoạch của mình. Tự trị theo nghĩa này hàm ý
bình đẳng chính trị chứ không chỉ là bình đẳng về mặt đạo đức hoặc bình đẳng
trước pháp luật. Tự trị dân chủ, do vậy, sẽ đòi hỏi phải có những thiết chế để
không những giới hạn quyền lực của kẻ mạnh, bao gồm cả nhà nước, theo đòi hỏi
của những nhà dân chủ tự do mà còn phải đảm bảo các cá nhân được bình đẳng tham
gia vào quá trình tranh luận và thảo luận công khai về các vấn đề cấp bách của
xã hội như những nhà dân chủ thảo luận đòi hỏi.
Ý tưởng về tự trị dân chủ không những có
thể áp dụng trong phạm vi quốc gia (mô hình Xa) mà còn có thể mở rộng sang việc
xây dựng các thiết chế dân chủ cho phạm vi toàn cầu (mô hình Xb). Thế giới ngày
nay ngày càng phải đối mặt với những vấn đề vượt ra ngoài phạm vi biên giới
quốc gia, chẳng hạn các vấn đề môi trường, vấn đề chống khủng bố, tiền tệ, dịch
bệnh v.v. Nguyên lý tự trị dân chủ hàm ý, những tổ chức quốc tế như Liên hiệp
quốc, WTO, IMF, World Bank phải tạo ra mạng lưới các diễn đàn công khai dân chủ,
bao trùm toàn bộ các các quốc gia-dân tộc, phải tạo lập được bộ máy điều phối,
quản lí và chính trị hữu hiệu và có trách nhiệm giải trình trên bình diện khu
vực và toàn cầu nhằm bổ sung cho những khiếm khuyết của các bộ máy như thế ở
tầm quốc gia và địa phương. Xa hơn nữa, thế giới sẽ phải thiết lập nghị viện
toàn cầu để xây dựng và thực thi luật pháp quốc tế hiệu quả hơn.
*
* *
Với mười mô hình dân chủ cộng thêm một số
các biến thể, Held cho thấy dân chủ là một khái niệm không hề dễ dàng nắm bắt, mặc
dù hầu hết mọi người đều nghe nói tới nó từ rất lâu hoặc đang sống trong môi
trường xã hội được gọi là dân chủ. Tuy tất cả các mô hình dân chủ đều dựa trên
hình thức theo đó một quyết định liên quan đến cộng đồng chỉ được xác lập nếu
nó được đa số có quyền biểu quyết trong cộng đồng tán thành, nhưng ý nghĩa thực
sự của dân chủ lại được quyết định bởi phạm vi áp dụng thủ tục dân chủ cũng như
nội hàm của từng bộ phận cấu thành thủ tục này trên thực tế.
Độc giả có thể tìm thấy trong cuốn sách
của Held sự phát triển theo thời gian nội hàm của các khái niệm như công dân,
người/cơ quan đại diện. Khái niệm công dân xuất hiện ngay từ mô hình dân chủ
đầu tiên trong lịch sử. Tuy nhiên, chỉ có những người đàn ông trên 20 tuổi mới
đủ tư cách công dân. Những người ngụ cư và nô lệ cũng không được quyền này. Các
chế độ dân chủ ở các thành bang Bắc Ý trong các thế kỷ từ XI đến XV cũng như ở
các quốc gia châu Âu và Mĩ đến thế kỷ XVIII đều áp dụng thông lệ này. Chỉ từ
thế kỷ XIX, chế độ nô lệ mới dần được dỡ bỏ, quyền công dân mới được mở rộng
sang cho người người da đen và sau đó cho phụ nữ.
Khái niệm người/cơ quan đại diện xuất hiện
muộn hơn khái niệm công dân, chỉ từ khi hình thành các chế độ dân chủ cộng hòa
ở các thành bang nước Ý. Ban đầu, cơ quan đại diện (nghĩa là hội đồng chấp
chính với người đứng đầu là quan chấp chính) đảm nhiệm tất cả các công việc của
cộng đồng như lập pháp, hành pháp, và tư pháp. Theo thời gian, sự phân tách
quyền lực giữa các cơ quan này dần dần được hình thành, đến thế kỷ XVIII chúng
đã được thể chế hóa và hiện thực hóa ở nhiều quốc gia. Tùy từng loại công việc,
các cơ quan đại diện cũng được phân tách theo các cấp địa phương và cấp trung
ương. Cùng với sự ra đời của các cơ quan đại diện là những đòi hỏi về sự giải
trình và tính minh bạch trong hoạt động đối với các cơ quan này.
Tuy nhiên, chủ đề được bàn luận nhiều nhất
giữa các lý thuyết gia chính trị từ thế kỷ XVIII đến nay là vai trò của dân chủ
đối với tự do và bình đẳng. Bản chất của dân chủ là dựa trên quyết định của số
đông, trong khi đó tự do và bình đẳng là các phạm trù gắn với các quyền cá
nhân. Quyết định của số đông đem lại lợi ích cho đa số nhưng lại có thể làm tổn
hại quyền lợi của các nhóm thiểu số. Ý chí của đa số thông qua nhà nước có thể
trở thành quyền lực độc đoán, làm hạn chế tự do của các cá nhân. Trên khía cạnh
bình đẳng, sự tham gia của các cá nhân vào các quyết định công không hoàn toàn
bình đẳng theo nghĩa một số cá nhân có ưu thế hơn về phương tiện và kiến thức
có thể tác động đến quyết định chung để hưởng lợi. Vấn đề là các mô hình dân
chủ rất khó có thể cùng một lúc đạt được cả hai mục tiêu tự do và bình đẳng.
Độc giả có thể thấy trong cuốn sách nhân loại đã nỗ lực giải quyết các mâu
thuẫn này như thế nào. Trong khi tự do cá nhân có thể vẫn được đảm bảo trong
chế độ dân chủ bằng hệ thống luật pháp giới hạn quyền lực của nhà nước thì khái
niệm bình đẳng tham gia vào các hoạt động chính trị của công dân vẫn là một đề
tài gây tranh cãi. Việc bảo đảm sự bình đẳng ở một mức độ nhất định nào đó về
phương tiện và kiến thức cho người dân đòi hỏi phải mở rộng phạm vi hoạt động
của nhà nước. Nếu không được kiểm soát tốt, nó sẽ đe dọa đến tự do cá nhân.
*
*
*
Độc giả còn có thể tìm thấy nhiều nội dung
hữu ích nữa từ cuốn sách. Những ai yêu thích lịch sử sẽ tìm thấy trong cuốn
sách những sinh hoạt chính trị sống động tại Hi Lạp và La mã cổ đại, tại Bắc Ý
thời Phục Hưng, tại Anh, Mỹ và châu Âu lục địa thời Khai Sáng, và thời hiện đại
như thế nào. Những ai yêu thích tư tưởng chính trị sẽ tìm thấy các ý tưởng độc
đáo của những tác gia từ cổ chí kim như Plato và Aristotle thời cổ đại;
Machiavelli thời Phục hưng; Rousseau, Hobbes, Locke, Montesquieu, và người phụ
nữ đầu tiên đấu tranh cho các quyền của phụ nữ Mary Wollstonecraft trong thế kỷ
XVII và XVIII; Karl Marx, Friedrich Engels, James Madison, James Mill, Bentham,
J.S. Mill, de Tocqueville trong thế kỷ XIX; Max Weber, J. Schumpeter trước Thế
chiến II; Truman, Dahl, Poulantzas, Offe, Miliband, Robert Nozick, F.A. Hayek, Macpherson, và Pateman trước giai đoạn sụp đổ
của hệ thống xã hội chủ nghĩa; và Fukuyama, Alex Callinicos, Habermas, Gutmann,
và Dryzek thời nay. Các tác gia này hoặc là những kiến trúc sư về tư tưởng đằng
sau các mô hình dân chủ, hoặc là những nhà phê phán vĩ đại đối với các mô hình
để dựa vào đó các nhà tư tưởng thế hệ sau hoàn thiện các thể chế dân chủ. Những
người muốn nghiên cứu chuyên sâu về mỗi mô hình hoặc mỗi tác gia có thể dễ dàng
tìm thấy các trích dẫn hoặc nguồn tư liệu liên quan từ cuốn sách.
Đối với độc giả Việt Nam , đặc biệt
là tầng lớp tinh hoa, cuốn sách còn có ý nghĩa ở chỗ nó cung cấp cho chúng ta
một bức tranh toàn diện, không thiên lệch về dân chủ. Không có một hình mẫu dân
chủ cho mọi quốc gia. Dựa trên các mô hình mẫu trong sách, mỗi độc giả có thể
tự xây dựng cho mình một mô hình mà mình tin rằng phù hợp cho hoàn cảnh của
Việt Nam
nhất. Như Held viết: “chúng ta không thể hài lòng với những mô hình dân chủ
hiện hữu. Xuyên suốt tác phẩm này chúng ta đã nhận thấy lí do vững chắc để
không chấp nhận bất cứ mô hình nào, dù đấy có là mô hình cổ điển hay hiện đại.
Cần phải học hỏi từ những truyền thống tư duy chính trị khác nhau.” Tương lai
của công cuộc cải cách thể chế chính trị ở Việt Nam do đó sẽ phụ thuộc rất
nhiều vào sự tìm hiểu và phản biện lẫn nhau của các học giả và chính trị gia về
mọi khía cạnh cấu thành thủ tục dân chủ, phạm vi áp dụng dân chủ, cũng như tác
động của dân chủ tới các lý tưởng khác như tự do, bình đẳng, và độc lập dân
tộc. Cuốn sách Các mô hình quản lí nhà
nước hiện đại của David Held chắc chắn sẽ là một khởi đầu tốt để chúng ta
cùng nhau xây dựng một nền dân chủ thích hợp nhất cho Việt Nam .
Cám ơn anh đã dịch tác phẩm này, ở trang 399 có cụm từ "nguyên tắc tương nhượng", tôi chưa hiểu lắm cụm từ này. Nếu có thể anh làm ơn chỉ giúp từ gốc và giảng nghĩa giúp.
ReplyDeleteTrân trọng,
Nguyên tắc tương nhượng được dịch từ principle of reciprocity, reciprocity là sự nhân nhượng lẫn nhau, tương nhượng, có đi có lại.
ReplyDelete"Mô hình dân chủ tự do xuất hiện ở Mỹ và châu Âu từ cuối thế kỷ XIII". Tôi xin hỏi là 'thế kỷ XIII' hay 'thế kỷ XVIII'? Vì châu Mỹ được tìm ra năm 1492 và nước Mỹ ra đời vào cuối thế kỷ XVIII.
ReplyDeleteThis comment has been removed by the author.
DeleteThưa anh Đặng Hữu Tuấn, theo tôi trong Lời giới thiệu này có lẽ anh Đinh Tuấn Minh đã có chút nhầm lẫn hoặc đánh máy sai mà biên tập viên không phát hiện được. Trang 116 tác phẩm này có câu như sau: "Locke báo hiệu sự khởi đầu sáng chói của truyền thống hiến định tự do, một truyền thống đã trở thành xu hướng chủ đạo trong nền chính trị thường xuyên thay đổi ở châu Âu và châu Mĩ từ thế kỉ XVIII đến nay." Như vậy câu trên phải sửa lại thành: "Mô hình dân chủ tự do xuất hiện ở Mỹ và châu Âu từ cuối thế kỷ XVIII." Cám ơn anh.
DeleteThis comment has been removed by the author.
ReplyDeletea Trường cho e hỏi, e muốn đặt mua cuốn sách này ở trên mạng có được k a?
ReplyDeleteBạn liên hệ với Nhà Xuất Bản Tri Thức, bạn vào Web của họ mà đặt. Chúc may mắn nha.
DeleteCảm ơn a chia sẻ!
ReplyDeletehạt hạnh nhân