EAMONN BUTLER
Phạm Nguyên Trường dịch
6.
Bàn
thêm về bàn tay vô hình
Adam Smith nổi tiếng vì
tư tưởng “bàn tay vô hình” của ông. Nhiều người cho rằng điều đó có nghĩa là những
hành động có tính vụ lợi của chúng ta bằng cách nào đó lại tạo ra lợi ích chung
cho toàn xã hội. Thí dụ, quá trình thương lượng cam go của chúng ta đã tạo ra hệ
thống thị trường, là hệ thống phân phối các nguồn lực một cách cực kì hữu hiệu.
Trên thực tế, ngoài việc
để cập đến “bàn tay vô hình của thần Jupiter” trong Lịch sử thiên văn học, Smith còn sử dụng mệnh để này hai lần trong
toàn bộ trước tác của ông và không theo nghĩa mà mọi người vẫn nghĩ.
Người
giàu tạo công ăn việc làm cho người nghèo
Trong Lí thuyết vẻ cảm nhận đạo đức, Smith cho
rằng bản tay của “Thượng đế” cào bằng mọi phần thưởng về mặt kinh tể. Người
giàu không thể ăn nhiều hơn người nghèo. Họ dùng phần lớn lương thực thực phẩm
thu hoạch được trên phần đất của họ để trao đổi với những người khác - những
người cung cấp các món hàng xa xỉ phẩm, “những đổ trang sức và nữ trang rẻ tiển”,
mà người giàu có nhu cầu. Trong khí chi nghĩ đến bản thân mình, thì người giàu
lại tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn người khác.
Người
giàu chọn từ đồng hàng hóá những thứ giá trị nhất và dễ thương nhất. Họ tiêu thụ
nhiều hơn người nghèo một chút và do tham lam và ích kỉ, họ chỉ nghĩ đến tiện
nghi của chính mình, mặc dù mục đích duy nhất mà họ đặt ra cho hàng ngàn người
lao động mà họ sử dụng là thỏa mãn những mong muốn vô độ và hão huyền của mình,
nhưng họ đã chia sẻ với người nghèo thành quả của tiến bộ. Họ được bàn tay vô
hình dẫn dắt để làm chính cái việc phân phối những thứ cần dùng cho đời sống
như thể là trái đất được chia thành những phần đều nhau cho tất cá các cư dân
trên đó vậy; và như vậy là, mặc dù không có chủ đích làm việc đó, không biết việc
đó, họ đang thúc đầy quyền lợi của toàn xã hội và cung cấp của cải cho rất nhiều
người[1].
Nền
công nghiệp trong nước và nước ngoài
Trong Của cải của các quốc gia, bàn tay vô
hình được nhắc tới một lần duy nhất trong đoạn nói về những tổ chức độc quyền của
nhà nước thúc đẩy những ngành công nghiệp trong nước nhằm ngăn chặn hàng hóa nước
ngoài. Smith ghi nhận rằng điều đó sẽ thuyết phục dân chúng đầu tư thêm vào nền
công nghiệp trong nước, dẫn tới:
Mỗi
người đều... cố gắng hết sức trong việc đem vốn liếng của mình ủng hộ cho nền
công nghiệp trong nước và quản lí nền kinh tế sao cho sản phẩm của nó có thể có
giá trị cao nhất, mỗi người nhất định sẻ làm việc nhẩm tối đa hóa lợi tức hằng
năm của xã hội. Thực ta, nói chung cá nhân mỗi người đều không có ý định thúc đầy
quyền lợi của xã hội cũng như không biết rằng họ đang sớp phần thúc đẩy đến mức
nào. Bằng cách ủng hộ ngành công nghiệp trong nước, anh ta chi nhắm vào sự an
toàn của chính mình, và bằng cách quản lí nên kinh tẻ sao cho sản phẩm của nó
có thể có giá trị cao nhất, anh ta chỉ nhắm vào lợi ích của chính minh và trong
trường hợp này cũng như trong nhiều trường hợp khác, đã được bàn tay vô hình dẫn
đất nhằm thúc đẩy mục đích mà anh ta không hề có khải niệm gì[2].
Hai đoạn văn trên đã làm
cho những người phê bình thấy rằng khái niệm “bàn tay vô hình” của Adam Smith
khác xa với quan điểm mà đa số vẫn nghĩ về nó như thể nào. Ở đoạn văn thứ nhất,
kết quả tốt đẹp mà tính vụ lợi mang lại được gán cho “Thượng đế”. Ở đoạn văn thứ
hai, đấy là bình luận bên lề cuộc thảo luận về ngoại thương.
Hậu
quả không dự định trước của hành động của con người
Trên thực tế, các nhà phê
bình đã hiểu một cách quá hạn hẹp. Tư tưởng bàn tay vô hình, như vẫn thường được
hiều, thấm đẫm trong toàn bộ trước tác của Smith, đầy là nói ngay cả khi không
có hai trích dẫn bên trên. Vì đấy chỉ là một câu hỏi ngắn dễ nhớ về quan điểm của
Smith rằng hành động của con người có những hậu quả không dự định trước, và với
điều kiện là một số luật lệ nền tảng như nguyên tác công bằng được tuân thủ,
thì hành động tự tư tự lợi của các cá nhân có thể tạo ra, dù không chủ tâm, một
trật tự xã hội hoạt động hữu hiệu và hữu ích cho tất cả mọi người.
Tôi chỉ nghĩ đến quyền lợi
của mình khi mua một chiếc áo choàng len (sử dụng thí dụ của Smith). Tôi gần
như không quan tâm đền hạnh phúc của người bán hàng và còn ít quan tâm hơn đến
người thợ dệt, người chăn cừu, người cắt lông, người chải len, người thợ nhuộm,
người thợ quay tơ, người chở hàng và tất cả những người khác - những người mà
có thể tôi sẽ chẳng bao giờ gặp. Những người này cũng không làm chiếc áo đó vì
tôi. Có lẽ họ cũng chỉ nghĩ đến việc kiếm tiền để nuôi gia đình mình mà thôi.
Nhưng tôi mua là họ có lợi
vì một phần số tiền tôi bỏ ra tự động tìm cách đi đến với từng người trong số họ.
Tương tự như thế, sức lao động mà mỗi người trong số họ đóng góp vào trong việc
sản xuất chiếc áo khoác đã giúp tôi có chiếc áo đẹp hơn, rẻ hơn là tự mình làm
lấy.
Sức lao động của hàng
ngàn con người, trong những nước khác nhau, chỉ nhờ tính tư lợi của những người
tham gia mà có thể được phối hợp một các hoàn toàn tự động, không cần bất kì cơ
quan lãnh đạo nào. Có thể coi đấy là điều kì diệu. Nhưng Smith giả thích cực kì
dễ hiểu. Việc trao đổi tự nguyện chỉ có thể xảy ra khi cả hai bên đều nghĩ rằng
mình sẽ được lợi sau cuộc mặc cả. Mỗi người đều đổi cái họ không muốn lắm và nhận
được cái họ muốn hơn - thí dụ, bán sức lao động lấy tiền hay dùng tiền mua
hàng. Khi hàng triệu người trao đổi với nhau theo cách đó thì phúc lợi sẽ được
truyền bá một cách nhanh chóng và rộng khắp trên cả nước.
Như vậy là, giá cả là sự
sẵn sàng hi sinh một cái gì đó để đổi lấy một món hàng nào đó hay một dịch vụ
nào đó.Nó cho chúng ta biết cản phải hướng sức lao động và đồng vón vao lĩnh vực
nào để có thể thu được lợi nhuận cao nhất. Và như vậy là chúng ta đáp ứng được
những nhu cầu quan trọng nhất của cộng đồng một cách tự động và hoàn toàn không
có chủ ý.
Hệ
thống tự duy trì
Dường như Smith đã có một
số khái niệm về bản chất tiến hóá của hệ thống xã hội này. Nó tồn tại được là
vì nó hoạt động, ông nói như thể. Trong tác phẩm Lí thuyết về cảm nhận đạo đức, ông quy cho tính chất đó là thánh thần
hoặc gần như là của thánh thần vậy. Vì đời sống khoa học lúc đó đang bị các tu
sĩ chi phối, cho nên có thể ông đã không có lựa chọn nào khác. Mà cũng có thể một
trăm năm trước Darwin, đấy là cách giải thích duy nhất. Ông đã lưỡng lự giữa việc
quy hệ thống cho ý muốn của thánh thần với việc coi nó là bản chất của tự
nhiên, và sau này, khi đã thoát khỏi các tu sĩ và sống bằng đồng lương độc lập,
tư tưởng cho rằng đấy là hệ thống tự nhiên, tự du trì có vẻ như càng ngày càng
mạnh dần lên trong đầu óc của ông[3].
Điều đó không có nghĩa là
chúng ta có thể làm tất cả những gì mình muốn và bàn tay vô hình sẽ chăm lo cho
chúng la. Smith nhận thức rõ rằng con người có thể là những kẻ ích kỉ, đố kị, tự
phụ và dễ tự ái. Quá một ngưỡng nào đó, các xu hướng tự nhiên này có thể trở
thành lực lượng phá hoại, nhưng nếu giữ được điều độ thì đấy lại là những tính
chất cục kì quan trọng. Tính tư lợi thúc đẩy chúng ta mua bán, và vô hình trung
đã làm lợi cho tất cả mọi người. Tính ghen tị với những người giàu có động viên
chúng ta cố gắng hơn nữa, và chính nó đã làm cho sản xuất, khoa học, thậm chí cả
nghệ thuật phát triển. Vì chúng ta thích được người khác tôn trọng, tính tự phụ
thúc đẩy chúng ta hành động một cách nhân từ. Vì sự tức giận của người khác làm
chúng ta buồn nên chúng ta tránh những hành động có thể gây tổn thương cho họ.
Như vậy là, hệ thống đạo đức của Adam Smith cũng là hệ thống mang tính ích kỉ,
hệt như hệ thống kinh tế của ông vậy. Lợi ích mà chúng ta mang lại cho người
khác chỉ là sản phẩm phụ của tham vọng của chúng ta, chúng ta không làm hại người
khác là để họ không tức giận mà gây đau khổ cho ta.
Hành
động mang tính cá nhân và kết quả mang tính xã hội
Nhưng muốn cho hệ thống
này hoạt động một cách tự động và trơn tru thì chúng ta phải tuân thủ một số luật
lệ: luật công bằng, tức là luật không cho chúng ta làm hại người khác; luật đạo
đức, tức là luật thúc đẩy chúng ta kiểm chế những dục vọng thô lậu của mình;
còn trong lĩnh vực kinh tế thì phải tuân thủ luật sở hữu và hợp đồng. Các bộ luật
về hành vi cá nhân này hiệp lực với nhau tạo nên một trật tự xã hội hữu ích cho
tất cả mọi người. Có thể chúng ta không hiểu, nhưng trong mọi trường hợp, bản
năng tự nhiên của chúng ta thường là người hướng dẫn đáng tin cậy hơn là lí trí
và nhận thức có hạn của chúng ta.
Cách đây chưa lâu, Giáo
sư F. A. Hayek, người từng đoạt gỉai Nobel về kinh tế học, đã truy tìm xuất sứ
tứ tường cho rằng trật tự xã hội hài hoà có thể xuất hiện mà không cần sự lãnh
đạo tập trung từ Smith và những bậc tiền bối của ông[4]. Với nhận thức hiện đại về
quá trình tiến hóa và tầm lí học, Hayek giải thích rõ làm thể nào mà những nhóm
xả hội, chỉ cần tuần theo một số quy tắc hành xử nhất định, lại có thể phát đạt
và tạo dựng được, dù không có chủ ý, một trật tự hoạt động trơn tru[5]. Thí dụ như trong ngôn ngữ,
chúng ta đã tạo ta một cách không chủ ý một hệ thống giao tiếp cực kì hữu hiệu
bằng cách đơn giản là tuân thủ một số quy tắc ngữ pháp - những quy tắc mà chúng
ta tuân theo một cách tự nhiên nhưng rất khó giải thích. Trong những nhận xét về
ngôn ngữ, Smith cũng tiến đến rất gần tư tưởng như thể[6].
Trật tự xã hội hữu ích đó
hình thành trong quá trình chúng ta học tập để có thể sống chung với nhau. Tất
cả chúng ta đều muốn thoả mãn dục vọng của mình, nhưng thường thì những dục vọng
này lại mâu thuẫn với dục vọng của những người khác. Dần dần chúng ta học được
rằng hành động nào thì có thể được người khác chấp nhận và không dẫn tới những
xung đột mang tính phá hoại. Bằng cách đó và cùng với sự trợ giúp của sự đồng cảm
giữa con người với nhau, chúng ta lập ra quy tắc công bằng, tức là quy tắc hướng
dẫn ta theo đi quyền lợi của mình mà không làm hại người khác[7]. Khôi chỉ trong linh vực
kinh tế mà trong các lĩnh vực hoạt độ khác chúng ta cũng tìm cách cộng tác để mọi
người đều đưc lợi mặc dù chúng ta không hề có chủ ý như thế.
Một
số trích dẫn từ các tác phẩm của Adam Smith
Về
phân công lao động...
Trong xã hội được quản lí
một cách phù hợp, việc phân công lao động tạo ra một số lượng lớn các sản phẩm
đủ mọi loại, dẫn đến sự thịnh vượng chung và sẽ lan truyền đến những tầng lớp
nghèo khổ nhất.
Của
cải của các quốc gia,
Cuốn I, Chương I,
trang 22, đoạn 10.
...
và lợi thế tương đối
Dùng kính, phân bón và tường
che, ở Scoland có thể trồng được những loại nho tốt nhất, rồi từ đó làm ra những
loại rượu vang tốt nhất với giá đắt hơn khoảng 30 lần giá của loại rượu có chất
lượng tương đương ở nước ngoài. Ngăn cẩm nhập khẩu rượu vang ngoại quốc, thúc đẩy
sản xuất rượu vang đỏ ở Scotland, điều luật như thế có hợp lí không?
Của
cải của các quốc gia,
Cuốn IV, Chương
II, trang 458, đoạn 15.
Nguyên tắc của một người
chủ gia đình khôn ngoan là không bao giờ tự làm những gì anh ta phải trả giá đắt
hơn là mua... Điều được coi là khôn ngoan trong gia đình nhỏ khó có thể được
coi là dại dột trong một vương quốc to.
Của
cải của các quốc gia,
Cuốn IV, Chương
II, trang 456-7, đoạn 11-12.
Về
cạnh tranh
Nói chung, nếu một lĩnh vực
kinh doanh nào đó hay phân công lao động nào đó là có ích cho xã hội thì cạnh
tranh một cách rộng rãi hơn và tự do hơn sẽ làm cho chúng càng hữu ích hơn.
Của
cải của các quốc gia,
Cuốn II, Chương
II, trang 329, đoạn 106.
Tiêu thụ là mục đích duy
nhất của mọi ngành sản xuất và quyền lợi của người sản xuất chỉ đáng được quan
tâm khi và chỉ khi nó có thể phục vụ được nhu cầu của người tiêu thụ.
Của
cải của các quốc gia,
Cuốn IV, Chương
VIII, trang 660, đoạn 49.
...
và bóp méo nghề nghiệp
Người làm cùng một nghề
ít khi gặp nhau; ngay cả để vui chơi, giải trí; mà không kết thúc câu chuyện bằng
âm mưu chống lại xã hội hoặc là tìm cách nâng giá.. Mặc dù luật pháp không thể
gây trở ngại cho nhữngngười cùng ngành nghề đôi khi gặp gỡ nhau, nhưng cũng
không được tạo điều kiện cho những cuộc gặp gỡ như thế, càng không được làm cho
những cuộc gặp gỡ như thế trở thành cần thiết.
Của
cải của các quốc gia,
Cuốn I, Chương X,
Phần II, trang 145, đoạn 27.
Qui định bắt buộc tất những
người làm cùng một nghề trong một thành phố phải đăng kí tên và địa chỉ thường
trú sẽ tạo điều kiện cho những cuộc gặp gỡ như thế…Qui định cho phép những người
cùng làm một nghề đóng góp nhằm giúp đỡ cho những đồng nghiệp nghèo khổ, bệnh tật,
đàn bà góá và trẻ mồ côi... làm cho những cuộc gặp gỡ như thế trở thành cần thiết.
Hiệp hội không chỉ làm
cho những cuộc gặp gỡ như thế trở thành cần thiết mà còn làm cho nghị quyết của
đa số trở thành bắt buộc cho tất cả mọi người. Trong nghề nghiệp tự do hoặc
thương mại tự do, liên kết chỉ có thể được thiết lập khi có sự đồng thuận của tất
cả các thành viên và chỉ có hiệu lực khi mọi thành viên đều có chung ý kiến. Đa
số các hiệp hội lại có thể đưa ra các qui định bắt buộc với những khoản phạt vạ
cản trở cạnh tranh hữu hiệu hơn và kéo dài hơn bất kì một sự liên kết tự nguyện
nào.
Của
cải của các quốc gia,
Cuốn I, Chương X,
Phần II, trang 145, đoạn 29-30.
Mở rộng thị trường và hạn
chế cạnh tranh luôn luôn là mối bận tâm của các nhà buôn... Bất kì đề xuất ban
hành điều luật hoặc qui định điều tiết thương mại mới nào có xuất xứ từ giai cấp
đó đều phải được lắng nghe một cách cực kì thận trọng và chỉ được áp dụng sau
khi đã kiểm tra một cách kĩ lưỡng và đủ lâu, kiểm tra không chỉ với một sự chú
ý cao nhất mà còn với một sự nghi ngờ cao nhất nữa. Vì đề xuất đó xuất phát từ
những người mà quyền lợi không bao giờ trùng khít với quyền lợi của xã hội, những
người thường muốn lừa bịp, thậm chí áp bức xã hội và vì vậy mà đã nhiều lần lừa
bịp và áp bức xã hội rồi.
Của
cải của các quốc gia,
Cuốn I, Chương XI,
trang 267, đoạn 10.
Bàn
về chính phủ...
Vua chúa và các thượng
thư là... những kẻ kiêu căng và xấc xược nhất vì họ giả bộ như đang chăm sóc đến
sự tiết kiệm của các cá nhân riêng lẻ và ngăn chặn việc chi tiêu của họ... Họ,
không có ngoại lệ, bao giờ cũng là những kẻ hoang phí nhất trong xã hội. Họ hãy
tự chăm sóc lấy việc chi tiêu của chính mình và để cho các cá nhân tự chăm sóc
lấy mình. Nếu việc chi tiêu hoang phí của họ không làm cho nhà nước sụp đổ thì
các thần dân của họ lại càng không bao giờ làm như thể.
Của
cải của các quốc gia,
Cuốn II, Chương
III, trang 346, đoạn 36.
Quan chức nhà nước, người
phải hướng dẫn dân chúng cách sử dụng đồng vốn của họ, không chỉ khoác lên mình
một sự chú ý hoàn toàn không cần thiết mà còn chiếm được một quyền lực không những
không thể trao cho bất kì cá nhân nào, mà còn không được trao cho bất kì hội đồng
hay cơ quan nào, chưa ở đâu quyền lực lại trở thành nguy hiểm như khi nó nằm
trong tay một kẻ điên rồ và ngạo mạn đến mức nghĩ rằng mình đủ sức sử dụng quyền
lực đó.
Của
cải của các quốc gia,
Cuốn IV, Chương
II, trang 456, đoạn 10.
...
bàn về thuế khoá...
Không có nghệ thuật nào
mà một chính phủ lại học được từ một chính phủ khác nhanh hơn là nghệ thuật móc
tiền từ túi người dân.
Của
cải của các quốc gia, Cuốn V, Chương II,
phụ lục cho mục I
và Il, trang 861, đoạn 12
Công dân của mỗi nước phải
đóng góp ủng hộ chính phủ tương ứng với khả năng của mỗi người...
Của
cải của các quốc gia, Cuốn V, Chương II,
Phần II, v.ii,
trang 825, đoạn 3
Mức thuế mà mỗi cá nhân
có trách nhiệm phải nộp phải được xác định một cách cụ thể, chứ không thể tuỳ
tiện. Thời hạn nộp, cách thức nộp, số lượng thuế cần nộp, phải rõ ràng và dể hiểu
đối với người nộp cũng như bất kì người nào khác.
Của
cải của các quốc gia, Cuốn V, Chương II,
Phần II, trang
825, phần 4
Mỗi một loại thuế đều cần
được thu vào thời gian hoặc phương thức thuận lợi nhất đối với người nộp thuế.
Của
cải của các quốc gia, Cuốn V, Chương II,
Phần II, trang
826, đoạn 5
Mỗi một loại thuế đều phải
được tính toán để làm sao cho phần mà nó lấy từ túi dân chúng nhưng không đóng
góp vào ngân quĩ nhà nước càng ít càng tốt...
Của
cải của các quốc gia, Cuốn V, Chương II,
Phần II, trang
826, đoạn 6
Người chủ tư bản thực chất
là công dân toàn thế giới và không nhất thiết phải gắn bó với một nước cụ thể
nào. Người đó có thể bỏ đất nước nơi người đó trở thành đối tượng của những cuộc
điều tra rắc rối nhằm ấn định mức thuế khóa nặng nề và đưa vốn của mình đến đất
nước nơi người đó có thể tiến hành công việc kinh doanh hoặc hưởng vận may của
mình một cách dễ dàng hơn.
Của
cải của các quốc gia, Cuốn V, Chương II,
mục Il, trang
848-9, đoạn f8
...
và bao cấp
Thưởng cho nghề đánh cá
trích trắng theo kích thước của tàu và tỉ lệ thuận với trọng tải của tàu chứ
không phải theo sự cần cù và thành tích trong việc đánh cá, thì tôi sợ rằng nói
chung tàu bè đều được trang bị chỉ để câu tiền thưởng chứ không phải là cá.
Của
cải của các quốc gia,
Cuốn IV, Chương V,
trang 520, đoạn 32
Bàn
về kiểm soát nhập khẩu
Người giàu có là người
tiêu thụ lí tưởng đối với những người dân chăm chỉ trong khu vực hơn là người
nghèo, đất nước giàu có thì cũng thế. [Hạn chế buôn bán] nhằm làm cho những người
hàng xóm nghèo đi có thể biến việc buôn bán thành lĩnh vực không quan trọng và
không đáng quan tâm.
Của
cải của các quốc gia, Cuốn IV, Chương III,
Phần II, trang
495, đoạn c11
Đánh giá xem những biện
pháp trả đũa (thuế suất nhằm chống lại những nước có thuế suất cao] có hiệu quả
hay không có thể không chỉ là khoa học của nhà làm luật, những người phải suy
xét trên những nguyên tắc cố định, mà còn là nghệ thuật của loại người có nhiều
mưu mẹo và xảo quyệt mà dân chúng thường gọi là chính khách, những người mà ý
kiến bao giờ cũng ngả nghiêng theo hoàn cảnh.
Của
cải của các quốc gia,
Cuốn IV, Chương
II, trang 468, đoạn 39
Bàn
về khuyến khích...
Dịch vụ công chỉ được cải
thiện khi phần thưởng phù hợp với kết quả và tỉ lệ thuận với sự siêng năng
trong khi thực hiện.
Của
cải của các quốc gia, Cuốn V, Chương I,
Phần II, trang
719, đoạn b20
và
dung túng thói xấu
Mối quan tâm của mọi người
là sống một cách thoải mái nhất có thể được, và nếu tiền công của người đó vẫn
giữ nguyên dù có làm hay không làm một nhiệm vụ khó nhọc nào đó thì chắc chắn
là người đó sẽ quan tâm....hoàn toàn bỏ mặc chuyện đó, hoặc... là làm một cách
cẩu thả và luộm thuộm.
Của
cải của các quốc gia, Cuốn V, Chương I,
Phần III, mục II,
trang 760, đoạn f7
Bàn
về công lý...
Nếu [công lý] bị thủ tiêu
thì cơ cấu rộng lớn và vĩ đại của xã hội loài người... sụp đổ ngay lập tức.
Lí
thuyết về cảm nhận đạo đức,
Phần II, Tiết II,
Chương III, trang 86, đoạn 4
Chỉ cần một vài điều kiện
là có thể đưa một đất nước từ tình trạng dã man lên trạng thái phú cường nhất,
đấy là hòà bình, thuế khóa dễ chịu và việc thực thi công lý có thể chấp nhận được:
tất cả những điều còn lại sẽ xảy ra một cách tự nhiên.
Bài giảng năm
1755, trích dẫn trong Dugald Stewart,
Cuộc
đời và tác phẩm của Tiến sĩ luật học Adam Smith,
mục IV, 25
...
và sự đồng cảm của con người
Dù con người có ích kỉ đến
đâu đi nữa thì trong tính cách của anh ta vẫn có một số nguyên tắc làm cho anh
ta quan tâm đến số phận của người khác và hạnh phúc của họ, mặc dù anh ta chẳng
được lợi lộc gì, ngoài việc thấy vui khi được quan sát người khác hạnh phúc.
Lí
thuyết về cảm nhận đạo đức,
Phần II, Tiết 1,
Chương 1, trang 9, đoạn 1
Bàn
về động cơ cải thiện....
Sự cố gắng tự nhiên của mỗi
người nhằm cải thiện điều kiện sống của chính mình... mạnh đến nổi tự bản thân
nó, không cần bất kì trợ giúp nào khác, không chỉ làm cho xã hội trở thành giàu
có và thịnh vượng mà còn vượt qua được hàng trăm trở ngại mà những điều luật
ngu xuẩn của con người tạo ra nữa.
Của
cải của các quốc gia, Cuốn IV, Chương V,
Digression on the
Corn Trade, trang 540, đoạn b43
...
bàn tay vô hình
Người giàu chọn từ đống
hàng hoa những thứ giá trị nhất và dễ thương nhất. Họ tiêu thụ nhiều hơn người
nghèo một chút và do tham lam và ích kỉ, họ chỉ nghĩ đến tiện nghi của chính
mình, mặc dù mục đích duy nhất mà họ đặt ra cho hàng ngàn người lao động mà họ
sử dụng là thỏa mãn những mong muốn vô độ và hão huyền của họ, họ đã chia sẻ với
người nghèo thành quả của tiến bộ. Họ được bàn tay vô hình dẫn dắt để làm chính
cái việc phân phối những thứ cần dùng cho đời sống như thể là trái đất được
chia thành những phần đều nhau cho tất cả các cư dân trên đó vậy; và như vậy
là, mặc dù không có chủ đích làm việc đó, không biết việc đó, họ đang thúc đẩy
quyền lợi của toàn xã hội và cung cấp của cải cho rất nhiều người.
Lí
thuyết về cảm nhận đạo đức,
Phần IV, Chương I,
trang 183-4, đoạn 10.
Thực ra, nói chung cá
nhân mỗi người đều không có ý định thúc đẩy quyền lợi của xã hội, cũng như
không biết rằng họ đang góp phần thúc đẩy đến mức nào. ...anh ta chỉ nhắm vào sự
an toàn của chính mình, và bằng cách quản lí nền kinh tế sao cho sản phẩm của
nó có thể có giá trị cao nhất, anh ta chỉ nhắm vào lợi ích của chính mình, và
trong trường hợp này cũng như trong nhiều trường hợp khác đã được bàn tay vô
hình dẫn dắt nhằm thúc đẩy mục đích mà anh ta không hể có khái niệm gì.
Của
cải của các quốc gia,
Cuốn IV, Chương
II, trang 456, đoạn 9.
Chúng ta hi vọng có bữa
ăn trưa không phải vì người bán thịt, người nấu bia hay người làm bánh mì có
lòng tốt mà vì họ tôn trọng quyền lợi của chính mình. Chúng ta không quan tâm đến
lòng nhân ái mà quan tâm đến tính ích kỉ của họ, không bao giờ chúng ta nói
chuyện với họ về nhu cầu của mình mà chỉ nói về lợi ích của họ.
Của
cải của các quốc gia,
Cuốn I, Chương II,
trang 26-27, đoạn 12
...
và kế hoạch hóa
Người của hệ thống... có
khả năng là người cực kì thông thái với thói tự phụ của hắn ta và thường rất
say mê vẻ đẹp của kế hoạch lí tưởng về chính phủ của hắn ta, cho nên hắn không
thể chấp nhận bất kì sự thay đổi nào, dù nhỏ nhất, của bất kì phần nào trong kế
hoạch của hắn... Hắn có thế mường tượng rằng mình có thể sắp đặt những thành
viên khác nhau của một xã hội to lớn cũng dể dàng như sắp xếp mấy quân cờ trên
bàn cờ vậy. Hắn không nghĩ rằng trên cái bàn cờ vĩ đại của xã hội loài người, mỗi
một quân cờ đều có những nguyên tắc hành động riêng của mình, hoàn toàn khác hẳn
với nguyên tắc mà cơ quan lập pháp có thể áp đặt cho họ
Lí
thuyết về cảm nhận đạo đức, Phần VI,
Tiết II, Chương
II, trang 233-4, đoạn 17.
Bàn
về trường đại học
Tại trường đại học tổng hợp
Oxford, phần lớn giáo sư suốt nhiều năm qua đã chẳng thèm giả vờ là đang giảng
dạy nữa.
Của
cải của các quốc gia, Cuốn V, Chương 1,
Phần III, mục II,
trang 761, đoạn 8
Các môn học trong các trường
cao đẳng và đại học nói chung được tính toán không phải vì quyền lợi của sinh
viên mà vì quyền lợi hay nói đúng hơn, vì sự thoải mái của các giảng viên.
Của
cải của các quốc gia, Cuốn V, Chương 1,
Phần III, mục II,
trang 764, đoạn 15
Bàn
về phân phối của cải
Không thể coi hành động
làm cho điều kiện sống của nhiều người được cải thiện là có hại cho toàn thể xã
hội. Chắc chắn là xã hội không thể thịnh vượng và hạnh phúc nếu đa số các thành
viên của nó đều là những người nghèo đói và đáng thương.
Của
cải của các quốc gia, Cuốn I, Chương VII,
Phần III, trang
96, đoạn 36
Lời phàn nàn thường gặp
nhất là không có tiền.
Của
cải của các quốc gia,
Cuốn IV, Chương I,
trang 437, đoạn 16
...
và lợi ích của tự do
[Không có những rào cản về
thương mại] thì một hệ thống tự do tự nhiên giản tiện và dễ hiểu sẽ được thiết
lập. Mỗi người... đều được hoàn toàn tự do theo đuổi quyền lợi của mình, theo
cách của mình... Nhà vua được hoàn toàn giải phóng khỏi nhiệm vụ (mà để thực hiện
nó] thì trí tuệ hay hiểu biết của con người sẽ không bao giờ đủ, ông ta được giải
phóng khỏi nhiệm vụ quản lí công việc của tư nhân hay là hướng nó vào những
ngành phù hợp nhất với quyền lợi của xã hội.
Của
cải của các quốc gia,
Cuốn IV, Chương
IX, trang 687, đoạn 51.
8.
Thư
mục chọn lọc
The
Glasgow Edition of the Works and Correspondence of Adam Smith
Bryce, J. E. (ed.)
(1985), Lectures on Rhetoric and Belle
Lettres, Indianapolis, IN: Liberty Fund.
Campbell, R. H., and A.
S. Skinner (eds) (1982), An Iquiry into
the Nature and Causes of the Wealth of Nations, Indianapolis, IN: Liberty
Fund.
Haakonssen, K., and A. S.
Skinner (2003), Index to the Works of
Adam Smith, Indianapolis, IN: Liberty Fund.
Meek, R. I., D. D.
Raphael and P. G. Stein (eds) (1982), Lectures
on Jurisprudence, Indianapolis, IN: Liberty Fund:
Mossner, E. C., and I.S.
Ross (eds) (1987), Correspondence of Adam
Smith, revised edn, Indianapolis, IN: Liberty Fund.
Raphael, D. D., and A. L.
Macfie (eds) (1984), The Theory of Moral Sentiments,
Indianapolis, IN: Liberty Fund.
Wightman, W. P.D., and J.
C. Bryce (eds) (1982), Esays on
Philosophical Subjects, Indianapolis, IN: Liberty Fund (this volume
includes Dugala Stewart's “Account on the life and writings of Adam Smith LLD”).
Other
editions of Smith’s works
Haggary, J. (1976), The Wisdom of Adam Smith, Indianapolis,
IN:Liberty Fund (collection of key quotations from Smith's works).
Heilbroner, R. L., with
I. J. Malone (1986), The Essential of
Adam Smith, Oxford: Oxford University Press (abridged version of Smith's
main writing, with introduction noted).
Books
about Smith and his works
Buchan, J. (2006), Adam Smith and the Pursuit of Perfect
Liberty, London: Profile Books (arguing that Smith's ideas do not fit
within modern political categories).
Campbell, R. H., and A.
S. Skinner (eds) (1982), Adam Smith,
London: Crome Helm (biography with clear summaries of Smith's main works).
Fry, M. (ede) (1992), Adam Smith's Legacy, London: Routledge
(Smith's place in modern economics, as seen by Paul Samuelson, Franco
Modigliani, James Buchanan and other prominent economists).
Kennedy, G. (2005), Adam Smith's Lost Legacy, London:
Palgrave Macmillan (focusing on Smith's moral philosophy, Kennedy argues that
Smith is often misinterpreted today).
McLean, I. (2006), Adam Smith: Radical and Egalitarian,
Edinburgh: Edinburgh University Press (the title says it all).
O'Rourke, P. J., (2006), On The Wealth of Nations, New York:
Atlantic Monthly Press (witty but perceptive summary of Smith's main ideas).
Rae, J. (1895), Life of Adam Smith, London: Macmillan
(engaging biography, also reprinted in 1965 with introduction by Jacob Viner).
Ross, I. S. (1995), The Life of Adam Smith, Oxford: Oxford
University Press (full-scale biography by a leading Smith scholar).
West, E. G. (1976), Adam Smith: The Man and His Works,
Indianapolis, IN: Liberty Fund (excellent overview of Smith's life and
contribution).
Articles
on Smith and his works
Rosten, L. (1970),
"A modest man named Smith", in People
I Have Loved and Admired, New York: McGraw-Hill.
Sprague, E. (1967),
"Adam Smith" in P. Edwards (ed.), The
Encynclopedia of Philosophy, London and New York: Collier MacMillan
(straightforward and concise exposition, concentrating on Smith's moral
philosophy).
DVD
Adam
Smith and the Wealth of Nations, Indianapolis, IN:
Liberty Fund.
Lời
bạt:
Adam
Smith của ngày hôm nay
Craig Smith[8]
Đối với nhiều người, đặc
biệt là tại Scotland quê hương ông, Adam Smith là một người nổi tiếng. Có những
tờ giấy bạc in chân dung ông, có những trường đại học và nhà hát mang tên ông
và một bức tượng đang được xây dựng ở Edinburgh nhằm vinh danh ông. Thậm chí là
tôi đang viết những dòng này trong văn phòng của tôi ở ngay toà nhà mang tên
Adam Smith tại đại học đường Glasgow nữa. Tuy nhiên, đáng buồn là Smith nổi tiếng
và được ca tụng nhưng chẳng có mấy người biết và ca tụng những điều ông thực sự
nghĩ trong đầu. Smith là một trong những nhà tư tưởng sâu sắc nhất từng xuất hiện
ở Scotland, ở Anh và trên toàn cõi châu Âu. Hi vọng rằng cuốn lược khảo này sẽ
sửa chữa được phần nào sự u mê của người đời.
Lần tiếp xúc đầu tiên của
tôi với Adam Smith là thông qua một ông thầy thông thái ở trường cao đẳng kinh
tế, ông đã dùng những thí dụ rút ra từ tác phẩm Của cải của các quốc gia để minh hoa cho bài giảng. Những ngày thứ
tư trong tuần của học kì thứ tư là cả một niềm vui về mặt trí tuệ với những người
thợ làm đinh, những chiếc áo khoác len của người lao động và người bán thịt,
người nấu bia, người thợ làm bánh mì. Tôi đã có may mắn được tiếp xúc từ rất sớm
với những công trình khoa học của con người vĩ đại đó và còn may mắn hơn nữa
khi được tham gia lớp học về thời kì Khai sáng ở Scotland như một phần của
chương trình dành cho sinh viên sắp ra trường.
Đáng tiếc là việc tiếp
xúc sớm như thế với tư tưởng của Smith mà tôi được hưởng rất hiếm khi xảy ra.
Ngày nay không có mấy sinh viên và những người không chuyên đọc sách của Smith.
Trong các trường phổ thông và đại học, Smith cũng không được giảng dạy một cách
thường xuyên như đáng lẽ phải làm. Thật đáng xấu hổ. Đặc biệt đáng tiếc là nhiều
sinh viên sắp tốt nghiệp cũng chỉ được giới thiệu một cách qua loa về người
sáng lập ra môn học của họ. Nhiều khóa học về kinh tế học cũng chỉ nhắc đến
Smith (thường là thí dụ về việc làm đinh) một cách sơ sài trong những bài giảng
giới thiệu về phân công lao động rồi chuyển ngay sang thảo luận những nguyên lí
mà ông đưa ra bằng ngôn ngữ trừu tượng khô khan.
Thật là đáng tiếc vì
Smíth viết bằng văn phong rõ ràng, hiện nay cũng có thể hiểu được như người ra
có thể hiểu cách đây 250 năm. Các công trình của ông chứa đầy những quan sát phức
tạp và phong phú, có thể truyền cảm hứng và khai sáng cho độc giả của nó. Các
công trình của Smith là một cố gắng nhằm tìm hiểu xã hội phức tạp hoạt động như
thế nào. Trung tâm của môn khoa học xã hội này là nhận thức vẻ sự tương tác và
tương thuộc của những cá nhân với nhau. Cả hai đều là hiện thực của thế giới mà
chúng ta đang sống hôm nay.
Trong thế giới toàn cầu
hóa ngày nay, công trình nghiên cứu của Smith về thương mại trong nước và quốc
tế là một nhát cất đi thẳng vào trung tâm các lực lượng định hình đời sống của
chúng ta. Ông có thể đã trước tác trong một thời đại khác với thời đại của
chúng ta, nhưng chẩn đoán của ông về những sai lầm của chủ nghĩa trọng tiền và
sự nghỉ ngờ của ông đối với những hành động can thiệp chính trị mang tính độc
đoán là đặc biệt có ý nghĩa đổi với thể giới hôm nay, khi mà việc buôn bán dễ bị
những người chống lại những hiệu quả có thể có của thương mại bêu riếu, chế nhạo.
Smith cũng có khá nhiều đối
thủ. Nhưng cái ông Smith mà họ cho là nhà tiên tri của tính ích ki không phải
là ông Smith mà bất cứ ai đã đọc và hiểu được công trình của ông đều phải công
nhận. Lí thuyết về cảm nhận đạo đức
là một tác phẩm cực kì nhân văn viết về tâm lí của đức dục, tác phẩm này đã coi
sự đồng cảm là trung tâm của kinh nghiệm sống của con người. Smith đã dành trọn
vẹn tuổi trưởng thành của mình để nghiên cứu và lí giải hoạt động trong đời sống
hàng ngày của con người. Ông không bị những tư tưởng về đức hạnh không thể nào
đạt được ám ảnh. Thay vào đó, ông đã dành thời gian để khảo sát xem những người
bình thường tham gia vào các mối tương tác như thế nào và họ đưa ra những quyết
định mang tính đạo đức như thể nào.
Ở đây nữa, không phải như
một số nhà phê bình hời hợt nói, không hề có mâu thuẫn nào giữa công trình
nghiên cứu về thương mại trong tác phẩm Của cải của các quốc gia và phân tích về
sự đồng cảm trong Lí thuyết về cảm nhận đạo
đức. Đấy là những khía cạnh của đời sống của con người và Smith đã áp dụng
thái độ nghiêm khắc như nhau trong việc nghiên cúu ảnh hưởng của cà hai hiện tượng
đó đối với đời sống của con người.
Các công trình của Smith
xuất phát từ ước muốn tìm hiểu hiện thực dựa trên kinh nghiệm của đời sống xã hội
của loài người. Thí dụ, luận cứ chống lại sự can thiệp thái quá của chính trị
là dựa vào việc phân tích thực tiễn của hành vi trao đổi buôn bán. Một vấn đề
cũng hay bị bỏ qua là các thí dụ về lợi ích của việc trao đổi giữa cá nhân
không phải là những người giàu có - những người ông coi thường - mà là những
người rất nghèo. Smith tin rằng thương mại mang lại lợi ích cho tất cả mọi người,
đặc biệt là những người nằm dưới đáy của xã hội.
Các công trình của Adam
Smith cung cấp cho chúng ta một bản phân tích rõ ràng các nguyên tắc và định chế
nền tảng cần thiết cho việc củng cố xã hội tự do. Nguyên tắc pháp trị và công
lí cung cấp bộ khung cho hệ thống tự do “đơn giản và hiển nhiên”, mang lại lợi
ích cho toàn thể loài người. Trong khi đó, sự tiến hóa của những hành vi đạo đức
được mọi người chia sẻ củng cố và duy trì đời sống cộng đồng của con người.
Tư tưởng về bàn tay vô
hình, hay nói một cách tổng quát hơn, tư tưởng về quá trình tiến hóa của xã hội
thông qua những kết quả không có chủ ý từ trước chính là di sản chủ yếu mà
Smith để lại cho thế giới hiện đại. Như ông Ferguson, một người bạn của Smith,
từng nói: công nhận rằng nhiều thành tựu quan trọng nhất của con người là kết
quả của hành động chứ không phải là kế hoạch của con người là một bài học sâu sắc
đối với tất cả chúng ta. Chính nhận thức đó đã dẫn Smith đến thái độ hoài nghi
sâu sắc đối với “những người của hệ thống’, tức là những người có ý định tổ chức
nhân loại để đưa họ đến những mục tiêu cao cả.
Smith là một người thực tế
và thận trọng; tư tưởng của ông không thích hợp với thói cao ngạo của những nhà
tư tưởng xuông. Điều này không có nghĩa là không được coi Smith là một nhà tư
tưởng cấp tiến. Vì đối với thời đại đó, đấy là những tư tưởng cách mạng. Trong
thời đại của chúng ta, tư tưởng của ông hướng người ta đến quan điểm chính trị
có thể được mô tả như là nhân đạo và tự do. Đấy vẫn là những tư tưởng cấp tiến
vì chúng thách thức rất nhiều tín điều đã ăn sâu bén rễ vào đầu óc các chính trị
gia của chúng ta. Nếu có thêm nhiều các chính trị gia của chúng ta đọc và hiểu
các tác phẩm của Smith thì những điều tưởng như là cấp tiến sẽ chỉ được cọi là
lương tri lương năng mà thôi.
Không nghi ngờ gì rằng
trong giới hàn lâm việc nghiên cứu Adam Smith vẫn đang tiến triển tốt. Từ năm
2000 đến năm 2004, trên toàn thế giới đã có 14 người chọn Adam Smith làm đề tài
luận án tiến sĩ. Họ tham gia vào cộng đồng các học giả nghiên cứu Adam Smith, một
cộng đồng hoạt động trong nhiều môn học mang tính hàn lâm. Việc Hội Adam Smith
quốc tế xuất bản mỗi năm một số tạp chí Adam
Smith Review càng chứng tỏ sự quan tâm mạnh mẽ đối với các tác phẩm của Smith
trong giới hàn lâm.
Ngoài những học giả
chuyên nghiên cứu về Adam Smith, còn có một số rất lớn các nhà khoa học được
Smith khích lệ thông qua các tác phẩm của chính mình, những người được Adam
Smith khích lệ có thể mở mang thêm những điều ông quan sát và thu hoạch được. Sự
quan tâm đối với lí thuyết “rất hiện đại” về khoa học của Smith đang ngày càng
gia tăng và môn tâm lí xã hội về đức dục của ông đang khuyến khích những tìm
tòi trong chuyên ngành tâm lí học tiến hoá. Các lí thuyết về ngôn ngữ học và mĩ
học của ông vẫn còn chưa được tìm hiểu một cách kĩ lưỡng và hứa hẹn cung cấp
cho các học giả một khu vực hoạt động rất phong phú. Như cuốn khảo lược của Tiến
sĩ Butler đã chỉ rõ, Smith để lại cho chúng ta một di sản tinh thần to lớn.
Nhưng ông còn để lại một di sản chưa hoàn tất. Khảo sát ý nghĩa các tư tưởng của
Smith cung cấp cho ta dự án nghiên cứu phong phú và hấp dẫn có thể kéo dài suốt
cả cuộc đời.
Adam Smith để lại cho
chúng ta di sản trước tác phong phú. Ông là người đã góp phần định hình thế giới
chúng ta đang sống hôm nay. Ông cũng là người cung cấp cho chúng ta công cụ trí
tuệ giúp tìm hiểu thế giới đó. Cần phải có nhiều người đọc và hiểu công trình của
ông hơn. Nếu chuyện đó xảy ra, sức truyền cảm của các tư tưởng của ông sẽ giúp
chúng ta hiểu rõ thế giới của chúng ta hơn, cũng như trí tuệ của ông đã giúp hiểu
rõ thời đại của chính ông.
Dịch xong ngày 24
tháng 7 năm 2009.
Nguồn:
https://iea.org.uk/publications/research/adam-smith-a-primer
[1] Lí
thuyết về cảm nhận đạo đức, Phần IV, Chương I, trang 184-5, đoạn 10.
[2] Của cải của các quốc gia, Cuốn IV, Chương
II, tran 456, đoạn 9.
[3] Xin
gửi lời cảm ơn Giáo sư Gavin Kennedy về nhận xết này.
[4] Xem
F.A. Hayek, Những tác phẩm viết về triết
học, chinh tị và kinh tế, Nha xuất bản Simon & Schuster, New York,
1967, Chương 6. “Những kiết quả của hành động của con người chứ không phải kể
hoạch của họ”, trang 95-105. Để có khải niệm chung có thể đọc E. Butler, Hayek, Đóng góp của ông đối với tư tưởng
kình tế và chính trị của thời đại chứng ta, Nhà xuất bản Temple Sman, Lon
đon, 1983, Chương I. “Xã hội hoạt động như thể nào?”
[5] Xem
F. A Hayek, Những tác phẩm viết về tmết học,
chính trị và kinh tế. Chương 4, Nhận xết về sự tiến hóa của các qui tắc đạo
đức; trang 68-81
[6] Xem
Các bài giảng về nghệ thuật tu từ và văn
chương.
[7] Lí
thuyết về cảm nhận đạo đức, Phần II, Tiết II, Chương III.
[8] Khi
tác phẩm này được xuất bản Craig Smith là giảng viên khoa Luân lí học tại Đại học
St Andrew.