Phạm Nguyên Trường dịch
Chương 5
THUẾ VÀ CHÍNH PHỦ
Đầu tư, của cá nhân và doanh nghiệp, là thiết yếu cho năng suất trong tương lai, và do đó cho tăng trưởng và tiến bộ kinh tế. Tuy nhiên, các khoản thuế chuyển nguồn lực từ cá nhân và doanh nghiệp sang chính phủ, làm cho phạm vi đầu tư của họ giảm. Tuy nhiên, thuế cũng tạo điều kiện cho chính phủ đầu tư (và chi tiêu) nhiều hơn cho cộng đồng – mặc dù theo một cách khác.
Đầu tư của chính phủ so với đầu tư tư nhân
Một số nhà kinh tế học cho rằng chính phủ sẽ đầu tư nhiều hơn so với khu vực tư nhân vì họ giữ ít nguồn lực hơn trong các khoản tiết kiệm nhàn rỗi, và chính phủ có thể đầu tư hiệu quả hơn vì họ có thể thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng lớn và các dự án hữu ích về mặt xã hội vượt quá khả năng của các cá nhân và nhóm người tư nhân. Và những khoản đầu tư như vậy cũng có thể làm gia tăng đáng kể hiệu quả của đầu tư tư nhân. Các doanh nghiệp có thể đầu tư vào việc tạo ra các sản phẩm sáng tạo, nhưng nếu chính phủ xây dựng mạng lưới đường bộ và đường sắt tốt hơn, thì các nhà sản xuất tư nhân có thể đưa nhiều sản phẩm đó ra thị trường, nhanh hơn và dễ dàng hơn. Những người ủng hộ lập luận này chỉ ra rằng nhiều nước có thuế suất cao (ví dụ: Thụy Điển) là những nước phát triển cao và giàu có, trong khi nhiều quốc gia có thuế suất thấp (ví dụ: Albania và Afghanistan) lại nghèo hơn hẳn.
Chỉ trích từ phía cung. Tuy nhiên, những người chỉ trích lại phản bác quan điểm này. Trước hết, họ lập luận, rằng có nhiều lý do vì sao một số nước giàu còn những nước khác lại nghèo. Thụy Điển có thể thậm chí còn giàu hơn, nếu họ giảm gánh nặng thuế. Ngoài ra còn có sự khác biệt về niềm tin: Người Thụy Điển thường sẵn sàng đóng thuế cao hơn người Albania vì họ tin tưởng chính phủ sẽ chi tiêu tiền của họ một cách hiệu quả, trong khi người Albania thường không tin như vậy. Đấy cũng có thể là lý do vì sao, mặc dù mức thuế rất cao, nền kinh tế ngầm của Thụy Điển lại tương đối nhỏ.
Những người chỉ trích cho rằng chi tiêu của chính phủ vẫn còn kém hiệu quả. Phần lớn bị lãng phí vào các dự án mang tính chính trị và uy tín, có giá trị thấp, thường chậm trễ và cao hơn ngân sách dự kiến. Phần lớn những khoản mà các chính trị gia gọi là “đầu tư” thực chất chỉ là chi tiêu cho hiện tại. Và vì tài chính công luôn eo hẹp, chính phủ có xu hướng nhượng bộ đòi hỏi về lương của công chức và trì hoãn việc bảo trì và đổi mới vốn, làm cho cơ sở hạ tầng công cộng trở thành lỗi thời và xuống cấp; các dịch vụ công vận hành kém hiệu quả, làm chậm hoặc cản trở tăng trưởng kinh tế.
Vì những lý do này, các nhà kinh tế học được gọi là trọng cung ủng hộ việc giữ thuế suất thấp nhằm khuyến khích đầu tư tư nhân và tăng trưởng. Họ tin rằng thuế suất thấp hơn sẽ thúc đẩy hoạt động kinh tế bằng cách khuyến khích người dân làm việc và đầu tư, trong khi doanh thu thuế thấp hơn sẽ thúc đẩy chính phủ đầu tư và chi tiêu hiệu quả hơn. Do đó, kết quả là năng suất và tăng trưởng kinh tế sẽ cao hơn[1].
Những người theo chủ nghĩa trọng cung thừa nhận rằng có thể cần thời gian để người dân điều chỉnh lịch trình làm việc và lập kế hoạch đầu tư mới, vì vậy, lợi ích tăng trưởng cao hơn của các chính sách trọng cung có thể mất hai hoặc ba năm thì mới thấy rõ. Trong khi đó, tình hình tài chính của chính phủ có thể căng thẳng, nhưng họ cho rằng muốn có lợi ích lâu dài thì phải chấp nhận những sự căng thẳng tạm thời như thế.
Thuế và chính trị
Như đã nhận xét, thuế có nhiều mục đích khác chứ không chỉ tài trợ cho các khoản chi tiêu của chính phủ – chẳng hạn như ngăn chặn các hoạt động có hại, xây dựng cơ sở hạ tầng mới, thúc đẩy bình đẳng hoặc thúc đẩy các ngành công nghiệp, ví dụ như du lịch. Nhiều nhà kinh tế học ủng hộ những việc làm này, vì cho rằng chính phủ làm tốt hơn khu vực tư nhân trong việc điều phối nguồn lực vì lợi ích của đất nước.
Vấn đề lựa chọn công. Những người chỉ trích thì không khẳng định như thế. Họ lưu ý rằng chính sách thuế khoá bao giờ cũn g được quyết định trong bối cảnh tranh luận chính trị gay gắt, và chính trị đảng phái có thể chi phối chính sách thuế nhiều hơn là bằng chứng. Có lẽ nếu cuộc bầu cử đang đến gần, và đảng cầm quyền có thể cải thiện cơ hội của mình bằng cách cắt giảm các loại thuế dễ được người ta nhận nhất – có thể chuyển gánh nặng sang các loại thuế khó nhận ra hơn hoặc vay để bù đắp cho những khoản thâm hụt. Có lẽ có những nhóm lợi ích to mồm có thể bị mua chuộc bằng các khoản giảm thuế – mặc dù có thể làm cho hệ thống thuế khoá phức tạp thêm. Có lẽ cũng có những cơ hội để cho các chính trị gia nâng đỡ những người ủng hộ mình và làm đối thủ bối rối[2].
Jean Baptiste Colbert (1619–83), Bộ trưởng đầu tiên dưới thời Louis IV của nước Pháp (1638–1715), có một tuyên bố nổi tiếng: “Nghệ thuật đánh thuế là nhổ lông ngỗng sao cho thu được nhiều lông nhất mà ít bị la ó nhất”[3]. Theo những người phê phán thì những thực tế chính trị như thế có thể không thúc đẩy các chính sách thuế công bằng, hợp lý và minh bạch. Ngược lại: các chính trị gia thường cố gắng che giấu gánh nặng thực sự của những kế hoạch thuế của mình để không bị dân chúng phản đối. Do đó, mặc dù thuế suất thu nhập chính thức có thể vẫn giữ nguyên, nhưng ngưỡng thu nhập (người dân nộp thuế dựa trên ngưỡng này) có thể bị xói mòn do lạm phát, hoặc cắt gỉam các khoản trợ cấp và miễn trừ, kết quả là nhiều người phải nộp thuế hơn. Những “loại thuế lén lút” như thế có thể không rõ ràng, nhưng ảnh hưởng của chúng là có thật.
Lạm dụng thuế khóa. Chính sách thuế rất dễ bị các chính trị gia lợi dụng. Đôi khi, các bộ trưởng có thể thay đổi quy định thuế mà không cần xin ý kiến cơ quan lập pháp, khiến họ dễ dàng dùng thuế cho mục đích chính trị thay vì vì lợi ích chung – chẳng hạn như dồn gánh nặng thuế lên những nhóm thiểu số ít được ủng hộ về chính trị, ví dụ, giới ngân hàng, giới đầu cơ, người nước ngoài, hoặc “những người giàu có”.
Sự thiên lệch chính trị này đôi khi rất tinh vi. Chẳng hạn, đảng cầm quyền được những chủ hộ lớn tuổi, giàu có hơn ủng hộ mà ít được những người thuê nhà trẻ tuổi, nghèo hơn ủng hộ, thì có thể điều chỉnh hệ thống thuế theo hướng ưu ái sở hữu nhà ở so với các hình thức đầu tư khác. Nhưng làm thế lại dẫn tới tình trạng đầu tư quá mức vào nhà ở và thiếu đầu tư vào các hoạt động kinh doanh sản xuất, từ đó làm giảm tốc độ tăng trưởng – sẽ mang lại lợi ích nhiều hơn cho những người trẻ tuổi, ít của cải.
Không
chính phủ nào có thể tồn tại nếu không có thuế. Số tiền này nhất thiết phải thu
từ người dân; và nghệ thuật quan trọng nhất là đánh thuế sao cho không tạo ra
áp bức.
Frederick the Great of Prussia (1712–86)
Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế, gánh nặng thuế khoá cao nhất hiện nay - tính bằng doanh thu thuế so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) – là ở châu Âu. Ở Anh, Tây Ban Nha, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Đức, Na Uy, Hà Lan và Hy Lạp, thuế cao hơn 30% GDP; còn ở Áo, Ý, Phần Lan, Thụy Điển, Bỉ, Đan Mạch và Pháp là hơn 40% GDP (cao nhất thế giới). Tất cả những nước này đều có các nhà nước phúc lợi cồng kềnh và tốn kém, đồng thời họ đã phát triển được các hệ thống thuế khoá rộng khắp và phức tạp nhằm huy động những nguồn tài chính cần thiết từ nhiều nguồn khác nhau.
Trung Đông và những nước có thể dựa vào sản xuất dầu mỏ để cung cấp nguồn thu có thuế suất thấp nhất. Ở Iraq, Ả Rập Xê Út, Nigeria, Oman, Qatar, Myanmar, Bahrain và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, doanh thu thuế dưới 10% GDP.
Khu vực Châu Phi phía Nam sa mạc Sahara, đấy là các nước Guinea, Botswana, Niger, Zambia, Gambia, Malawi, Ghana và Kenya có gánh nặng thuế tương đối thấp, dưới 20% GDP. Nó có thể phản ánh cơ sở thu thuế tương đối nhỏ (số lượng người, quy trình, hàng hóa và dịch vụ có thể bị đánh thuế) trong các nền kinh tế nông nghiệp.
Thuế từ 20 đến 30% là phổ biến ở các nước Châu Á - Thái Bình Dương như Nepal, Mông Cổ, Brunei, Maldives, Tonga, Fiji và Hàn Quốc. Các nước ở Châu Mỹ, chẳng hạn như Chile, El Salvador, Honduras, Nicaragua, Costa Rica, Guyana, Jamaica và Hoa Kỳ, cũng chủ yếu nằm trong nhóm này[4].
Không
có nghệ thuật nào mà một chính phủ lại học được từ một chính phủ khác nhanh hơn
là nghệ thuật móc tiền từ túi người dân.
Nhà
kinh tế học người Scotland Adam Smith (1723–90)
Ngày tự do thuế (Tax Freedom Day). Tổ chức Thuế (Tax Foundation), một tổ chức nghiên cứu có trụ sở tại Hoa Kỳ, xây dựng được cách tiếp cận rõ ràng về gánh nặng thuế khoá, thể hiện nó như số ngày mà người nộp thuế trung bình phải làm việc để đóng thuế – không chỉ thuế thu nhập mà còn tất cả các loại thuế xã hội, thuế bán hàng, thuế tiêu thụ đặc biệt và tất cả các thứ khác mà chính phủ đánh thuế. Ý tưởng này sau đó đã được các nhóm ở một số quốc gia khác áp dụng[5].
Theo đó, một người trung bình bắt đầu làm việc vào ngày 1 tháng 1 thực chất, nếu ở Nam Phi thì sẽ phải làm việc cho đến đầu tháng ba mới kiếm đủ tiền nộp thuế, nếu ở ở Hoa Kỳ và Canada thì phải làm việc đến đầu tháng 4; còn ở Anh, Nhật Bản, Úc và Ireland thì phải làm đến đầu tháng 5; ở Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan và Thụy Điển thì phải làm việc đến đầu tháng 6; ở Đức, Ý, Pháp và Áo thì phải làm việc đến đầu tháng 7. Chỉ sau đó, mọi người mới bắt đầu làm việc cho chính mình (xem Rogers và Marques 2021).
Chi phí của ngày chính phủ (Cost of Government Day). Tuy nhiên, Ngày tự do thuế không tính đến thực tế là, một số chính phủ có thể giữ nguyên những khoản thu thuế hiện tại ở mức thấp bằng cách đi vay để tài trợ cho những khoản chi tiêu trong hiện tại – làm gia tăng gánh nặng tiềm ẩn đối với các thế hệ tương lai. Khi cộng thêm gánh nặng này, Tổ chức Thuế đưa ra khái niệm Chi phí của ngày chính phủ (Cost of Government Day), và do phần lớn các nước đã phát triển thường vay những khoản tiền rất lớn, ngày này thường tới muộn hơn – với Mỹ, Canada, Đức, Hà Lan, Vương quốc Anh, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là tháng 7, và còn Pháp và Thụy Điển thì muộn hơn hẳn, tới tận cuối tháng 8.
Cạnh tranh về thuế
Hệ thống thuế được xây dựng khôn khéo là hệ thống không những không làm nản lòng hoạt động kinh doanh và đầu tư, mà còn khuyến khích doanh nghiệp trong nước và đầu tư nước ngoài, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hệ thống thuế cần tăng nguồn thu cần cho các dịch vụ công nhưng tạo ra ảnh hưởng ít nhất đến các quyết định kinh tế. Hệ thống thuế phải trung lập - không ưu tiên một số hoạt động cụ thể (ví dụ, tiêu dùng) hơn các hoạt động khác (ví dụ, đầu tư). Hệ thống thuế phải dễ tuân thủ, đơn giản và áp dụng một cách bình đẳng (không nhượng bộ cho các nhóm cụ thể).
Trên cơ sở những nguyên tắc này, Tổ chức Thuế công bố bảng xếp hạng mức độ hấp dẫn của các bộ luật thuế của các nước khác nhau đối với người nộp thuế và người tạo ra của cải – gọi là Chỉ số cạnh tranh thuế quốc tế hàng năm (xem Bunn và Hogreve 2022; Teather 2005).
Xếp hạng các nước. Tổ chức Thuế tiến hành phân tích 40 biến số, trong đó có thuế đánh vào các công ty (một yếu tố cực kỳ quan trọng khác), thu nhập, tiêu dùng, bất động sản và thu nhập ở nước ngoài; rồi rút ra kết luận nói rằng Estonia có hệ thống thuế cạnh tranh nhất, chủ yếu nhờ thuế doanh nghiệp 20% của nước này chỉ đánh vào lợi nhuận khi được phân phối, thuế suất 20% đánh vào thu nhập (nhưng không phải thu nhập cổ tức), thuế giá trị đất đai, và việc tránh đánh thuế hai lần bằng cách miễn trừ lợi nhuận mà các công ty kiếm được ở nước ngoài.
Đứng sau Estonia trong bảng xếp hạng cạnh tranh về thuế là các nước nhỏ khác như Latvia, New Zealand, Thụy Sĩ, Cộng hòa Séc, Luxembourg và Israel. Nhóm bên trên là Úc, Thụy Điển, Slovakia, Hà Lan và Đức. Hoa Kỳ và Vương quốc Anh nằm ở khoảng giữa bảng xếp hạng (Bunn và Hogreve 2022; Teather 2005).
Hệ thống liên bang
Cạnh tranh về thuế vẫn có thể xảy ra ngay cả trong cùng một nước, phụ thuộc vào cấp chính quyền mà các loại thuế khác nhau được áp dụng. Một số nước, chẳng hạn như Vương quốc Anh, có hệ thống thuế tập trung cao độ, chính quyền địa phương hoặc khu vực có rất ít quyền hạn trong việc tạo ra hoặc bãi bỏ thuế hoặc thay đổi thuế suất đang được áp dụng. Những nước khác, chẳng hạn như Thụy Sĩ và ở một mức độ nào đó là Hoa Kỳ, có hệ thống thuế ít tập trung hơn hẳn - phần lớn tổng doanh thu thuế được thu tại địa phương - ở Thuỵ Sĩ là do các Canton thu, còn ở Hoa Kỳ là do các bang (state) thu.
Hệ thống trao quyền cho khu vực cho phép đo lường cái mà các nhà kinh tế học gọi là “phân loại Tiebout” - đặt theo tên nhà kinh tế học người Mỹ Charles M. Tiebout (1924–68). Nếu một số khu vực chọn cung cấp nhiều dịch vụ công hơn so với các khu vực khác, chi phí được phản ánh trong thuế khu vực mà họ đánh, các công dân có thể lựa chọn hỗn hợp nào họ thích hơn. Những người sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho các dịch vụ công rộng rãi hơn sẽ chuyển đến những khu vực đó, trong khi những người thích mức thuế thấp hơn và các dịch vụ công ít hào phóng hơn có thể chuyển đến nơi khác.
(Một khía cạnh thú vị của cách làm này là nó đưa ra giải pháp không mang tính chính trị cho vấn đề người ăn theo. Những người không muốn trả tiền cho các dịch vụ không bị ép buộc phải làm trả tiền. Họ có thể đơn giản là di cư đến một khu vực có thuế thấp hơn.)
Tất nhiên, có thể có những rào cản đối với việc di cư – các thành viên gia đình có thể hài lòng với công việc, nhà cửa và trường học của họ và không muốn di chuyển, và ở những nước ví du như Thụy Sĩ, ngôn ngữ có thể là trở ngại. Nhưng ngày càng có nhiều người năng động hơn, có thể và đã di chuyển để đáp ứng các nhu cầu về thuế và dịch vụ – bằng chứng là những cuộc di cư gần đây từ California đến các bang có thuế thấp hơn như Texas và Florida (xem ví dụ, Ramaswamy 2023).
Thiên đường thuế
Một số vùng lãnh thổ luôn chú trọng đảm bảo hệ thống thuế của mình có tính cạnh tranh cao. Đây là những khu vực pháp lý có mức thuế thấp (LTJ) thường được gọi là thiên đường thuế.
Hình ảnh và thực tế. Nhắc đến cụm từ “thiên đường thuế”, hầu hết mọi người đều hình dung hình ảnh những tỷ phú rửa tiền nhâm nhi cocktail trên những chiếc siêu du thuyền khi mặt trời vùng Caribe khuất dần sau những hàng cọ. Nhưng liệu còn có một góc nhìn khác đằng sau cách hiểu quen thuộc này?
LTJ chỉ đơn giản là nơi có thể tự quyết định chính sách thuế của mình - ngay cả khi đó là khu vực phụ thuộc vào quốc gia khác - và quyết định đặt một số loại thuế (ví dụ, thuế thu nhập, đầu tư, doanh nghiệp và vốn) ở mức đủ thấp để trở thành một địa điểm hấp dẫn đối với những người giàu có hoặc có thu nhập cao sinh sống, và cho những người tiết kiệm giữ lại các khoản đầu tư của họ. Ví dụ, đảo Jersey là một Lãnh thổ Phụ thuộc của Hoàng gia Anh, được Vương quốc Anh bảo vệ và đại diện trên trường quốc tế. Nhưng nước này có mức Thuế Hàng hóa và Dịch vụ là 5% chứ không phải thuế VAT 20% của Vương quốc Anh, và thuế thu nhập cá nhân cao nhất là 20%, bằng khoảng một nửa ở Vương quốc Anh. Và khác với Vương quốc Anh, khu vực này không áp dụng thuế lãi vốn hoặc thuế thừa kế.
Thuế suất và luật pháp ở một số LTJ, chẳng hạn như Bahamas, áp dụng cho cả cư dân và người nước ngoài. Ở những khu vực khác, chỉ áp dụng cho người nước ngoài - khiến những thiên đường thuế lớn nhất thế giới không phải là những hòn đảo nhiệt đới mà là Manhattan lạnh lẽo và London lúc nào cũng có mưa. Ví dụ, tình trạng người cư trú không định cư (‘non-dom’) của Vương quốc Anh cho phép những người nước ngoài giàu có chỉ phải trả thuế Vương quốc Anh đối với thu nhập của họ ở Vương quốc Anh, do đó họ được hưởng lợi từ việc sống ở Vương quốc Anh trong khi phải trả ít thuế hơn nếu phần lớn thu nhập của họ đến từ nước ngoài (xem Palan 2022). Đôi khi, những người cư trú không định cư có thể sắp xếp công việc của mình để sống ở Vương quốc Anh nhưng không phải trả bất kỳ khoản thuế nào ở Vương quốc Anh. Trong khi đó, các nhà sản xuất đầu tư vào Hoa Kỳ có thể được hưởng các ưu đãi như thuế suất doanh nghiệp thấp hơn, miễn giảm thuế, khấu hao nhanh đối với nhà máy và thiết bị, miễn thuế nhập khẩu, trợ cấp của chính phủ, các khoản vay được trợ cấp, bảo lãnh khoản vay, quan hệ đối tác đầu tư mạo hiểm do công chúng tài trợ và bảo hiểm của chính phủ với thuế suất ưu đãi (để biết chi tiết, xem ví dụ: PWC 2023; xem thêm Dadush 2013).
Chỉ trích. Các thiên đường thuế bị nhiều người chỉ trích, đặc biệt là các chính phủ có mức thuế cao. Ví dụ, OECD muốn xóa bỏ các LTJ và yêu cầu tất cả các quốc gia áp dụng thuế suất tối thiểu đã được mọi người thỏa thuận.
Lý do chống lại LTJ, thứ
nhất, những khu vực này tạo điều kiện cho việc trốn thuế và né thuế một cách trắng
trợn. Những khu vực này cho phép các cá nhân và các công ty chuyển thu nhập và
lợi nhuận một cách giả tạo vào LTJ, do đó làm giảm cơ sở thuế và tiềm năng tăng
thu của nước họ. Thứ hai, LTJ làm gia tăng bất bình đẳng vì nói chung, các cá
nhân và công ty giàu có hơn có thể lợi dụng những thỏa thuận này – và việc mất
nguồn thu thuế của các nước khác đồng nghĩa với việc chính phủ của họ có ít tiền
hơn để chi cho các chương trình phúc lợi xã hội. Thứ ba, có ý kiến cho rằng LTJ
thiếu minh bạch và tạo điều kiện cho việc rửa tiền bằng cách cho phép các cá
nhân và tổ chức tham nhũng che giấu thu nhập tham nhũng. Thứ tư, lo ngại rằng các
cá nhân, thu nhập và vốn ngày càng dễ di động hơn, cũng như việc chuyển lợi nhuận
và thu nhập sang các khu vực pháp lý có mức thuế thấp hơn, sẽ làm méo mó cạnh
tranh toàn cầu.
Những người ủng hộ LTJ lập luận rằng các chính phủ đánh thuế cao đơn giản là sợ cạnh tranh với các chính phủ đánh thuế thấp hơn. Nó buộc họ phải nỗ lực hơn nữa trong việc quản lý tài chính công một cách hiệu quả: họ không thể chi tiêu hoang phí và chuyển chi phí cho người nộp thuế, nếu không công dân sẽ chuyển vốn ra nước ngoài. Họ cho rằng, cạnh tranh về thuế thực sự mang lại hiệu quả, và các LTJ đã thúc đẩy các chính phủ hạn chế đánh thuế hai lần đối với tiền tiết kiệm và cắt giảm thuế thừa kế và thuế vốn, là những loại thuế gây ra thiệt hại nhiều nhất (Whyte 2019; xem thêm Mitchell 2011).
Những lợi ích kinh tế khác. Những người ủng hộ cũng lập luận rằng LTJ khuyến khích tiết kiệm và đầu tư, vì những khu vực này tạo điều kiện cho các cá nhân và tổ chức giữ và tiết kiệm nhiều hơn thu nhập của mình - và đầu tư số tiền tiết kiệm được mà không sợ bị đánh thuế. LTJ cũng khuyến khích sử dụng một cách hiệu quả những khoản tiết kiệm đó. Ví dụ, Địa hạt Jersey (quốc đảo và lãnh thổ phụ thuộc vương quyền của Vương quốc Anh – ND) có vai trò quan trọng trong việc tập trung vốn để phục vụ cho các khoản đầu tư quy mô lớn vào các thị trường quốc tế chủ chốt.
Các chính sách của LTJ cũng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - đó là một phần lý do vì sao những khu vực này thường trở thành những khu vực giàu có, mặc dù hầu hết đều có ít tài nguyên thiên nhiên. Những người ủng hộ cho rằng LTJ thúc đẩy tăng trưởng trên bình diện quốc tế vì nó chỉ ra cho người ta thấy vai trò quan trọng của các chính sách khuyến khích tiết kiệm, đầu tư và tinh thần nghiệp chủ.
Ủng hội về mặt đạo đức cho các thiên đường thuế. Cũng có những lập luận về mặt đạo đức. LTJ bảo vệ dân chúng để họ không bị chính phủ nước mình cướp bóc, tham nhũng và đàn áp, cũng như tránh được các ngân hàng không đáng tin, tránh được siêu lạm phát và tịch thu tài sản. Ví dụ điển hình là vai trò của Thụy Sĩ trong việc cung cấp nơi trú ẩn an toàn cho tài sản của người Do Thái ở Đức - bị chính phủ của nước mình đàn áp trong những năm 1930.
Ngày nay, LTJ rất quan trọng đối với người dân ở các quốc gia có chính phủ thiếu dân chủ như Nga, Trung Quốc và các nước vùng Vịnh – không hẳn là để che giấu số tiền tham nhũng, mà là để bảo vệ những khoản thu nhập chính đáng, để các chính phủ không thể tịch thu. Khi dân chúng kêu gọi LTJ phải “minh bạch hơn”, những người ủng hộ LTJ cho rằng, họ có thể đang giúp các chính phủ thiếu uy tín truy tìm và tịch thu tiền của công dân nước mình, không còn nơi nào an toàn trước nạn tham nhũng hoặc áp bức. Và LTJ rất quan trọng đối với những người tạo ra của cải, và đối với những người quản lý tiền bạc (ví dụ: quản lý quỹ hưu trí) ở những nước có môi trường kinh doanh, vốn, tiết kiệm và đầu tư bất lợi.
[1] Muốn biết tóm tắt về kinh
tế học phía cung, xin đọc Gwartney (2003)
[2] Tổng quan phê phán lựa chọn
công, mời đọc Butler (2012a).
[3] Người ta cho là Jean
Baptiste Colbert đã nói như thế. Mạnh đề tương tự xuất hiện trong một bức thư của
nhà kinh tế học người Pháp Anne Robert Jacques Turgot (1727–81) gửi cho triết
gia người Scotland David Hume (1711–76): “Chúng tôi cố gắng, như người ta vẫn
nói, nhổ lông gà mà không để nó kêu.”
[4] Mời đọc ‘Tax revenue
(%GDP)’, Dữ liệu của Ngân hàng Thế giới. Đọc thêm International Monetary Fund,
Government Finance Statistics Yearbook and World Bank and OECD GDP estimates. Đọc
thêm Rogers and Marques (2021) and OECD (2020).
[5] Ví dụ, Trung tâm Xã hội
Dân sự (Ấn Độ), Viện Thị trường Tự do Litva (Litva), Viện Adam Smith (Anh), Viện
Liberální (Cộng hòa Séc) và Trung tâm Kinh tế Áo (Áo).
No comments:
Post a Comment