Phạm Nguyên Trường dịch
Chương 4
ẢNH HƯỞNG VÀ GÁNH NẶNG
Ảnh hưởng của thuế đối với người chịu thuế (ví dụ, người ta có ít đi máy bay do thuế đánh vào các chuyến bay hay không). Nó khác với phân bổ thuế, tức là ai là người cuối cùng phải đóng thuế (ví dụ, khách hàng mua sắm cuối cùng phải trả thuế hàng hoá bán lẻ do người bán lẻ thu, vì người bán lẻ cộng chi phí này vào giá sản phẩm mà khách hàng mua).
Ảnh hưởng của thuế
Trước hết, xin xem xét ảnh hưởng. Một số loại thuế được cố ý thiết kế nhằm tác động lên hành vi của những người phải đóng thuế. Như đã nói bên trên, thuế rượu bia, thuốc lá hoặc khí thải xe cộ có thể một phần là nhằm khuyến khích những người uống rượu uống ít đi, hút thuốc ít đi hoặc gây ô nhiễm ít đi bằng cách làm cho những hoạt động này phải trả giá cao hơn.
Khi một món hàng nào đó hay hoạt động nào đó bị đánh thuế, thì sản xuất hoặc tiêu thụ món hàng đó sẽ phải trả giá cao hơn. Vì vậy, khả năng sản xuất hoặc tiêu thụ nó sẽ giảm đi hơn. Ví dụ, thuế chì trong nhiên liệu động cơ, có mục đích là giảm ô nhiễm khí thải xe cộ, sẽ làm tăng giá nhiên liệu có chì – khuyến khích những người lái xe giảm nhu cầu và nhà sản xuất cung cấp nhiều nhiên liệu ít chì hơn trước. Vì những loại thuế này tạo áp lực lên toàn bộ nền kinh tế, buộc mọi người phải sử dụng hoặc sản xuất ít hơn chất gây ô nhiễm bị đánh thuế, cho nên những biện pháp này có thể rất hiệu quả: ví dụ, thuế đánh vào các hóa chất làm suy giảm tầng ôzôn ở Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống George H. W. Bush (1924–2018), đã dẫn đến việc giảm 38% việc sử dụng những chất này (Hanson và Sandalow 2006).
Tuy nhiên, thường thì ảnh hưởng của thuế không phải do người ta cố ý hay đáng mong muốn. Một loại thuế có thể được thiết kế chỉ nhằm tăng doanh thu, nhưng lại có thể tạo ra những tác động xã hội và kinh tế nằm ngoài ý định của người thiết kế. Ví dụ, thuế nhập khẩu cao làm cho việc buôn lậu mang lại nhiều lợi nhuận hơn, các cơ quan chức năng phải dành nhiều thời gian, công sức và tiền bạc để giải quyết nạn buôn lậu nhằm bảo vệ nguồn thu. Trong khi đó, thuế thuốc lá hoặc rượu bia lại làm tăng động lực cho các băng nhóm sản xuất và cung cấp các phiên bản bất hợp pháp, không phải đóng thuế của những sản phẩm này - có thể kém an toàn hơn hẳn so với các thương hiệu hợp pháp - và một lần nữa đẩy người tiêu dùng vào vòng tay của bọn tội phạm, những kẻ có thể sẵn sàng sử dụng bạo lực để bảo vệ hoạt động buôn bán bất hợp pháp của mình.
Ngay cả trong nền kinh tế hợp pháp, thuế cũng tạo ra những ảnh hưởng không cố ý và đôi khi là không đáng mong muốn. Ví dụ, số tiền thuế mà người tiêu dùng phải trả cho các sản phẩm yêu thích của mình không chỉ là số tiền họ phải trả cho các mặt hàng họ tiêu thụ; đó cũng là mất đi niềm vui hưởng thụ những mặt hàng bổ sung mà họ có thể tiêu thụ trong thế giới không có thuế, nhưng giờ đây họ không thể làm như thế vì giá cả cao hơn.
Cân bằng giữa công việc
và cuộc sống
Nhưng thuế không chỉ hạn cuộc ở những thứ “xấu”, chẳng hạn như ô nhiễm, mà chúng ta muốn ít hơn. Người ta còn áp thuế lên những thứ “tốt”, chẳng hạn như việc làm và kinh doanh mang lại hiệu quả, mà, đáng buồn là, chúng ta cũng có thể nhận được ít hơn. Liệu làm thế có đúng không, và đúng ở mức độ nào - phụ thuộc vào sự tương tác của hai hiệu ứng sau đây.
Hiệu ứng thay thế. Chẳng hạn như áp đặt một loại thuế mới đối với thu nhập hoặc tăng thuế thu nhập sẽ thay đổi cách người dân suy nghĩ về công việc và giải trí. Thuế làm người lao động có thu nhập thực tế ít hơn với cùng công sức bỏ ra. Nó làm cho công việc không còn hấp dẫn đối với họ như trước nữa, còn giải trí thì hấp dẫn hơn. Vì vậy, (trong cái gọi là hiệu ứng thay thế), người ta có thể chọn làm ít việc hơn và dành nhiều thời gian hơn cho giải trí. Họ có thể ít làm ngoài giờ hơn hoặc làm việc ít hơn, hay chuyển sang làm việc bán thời gian, hoặc thậm chí nghỉ hẳn. Nếu còn tiếp tục làm việc, họ có thể ít sẵn sàng làm nhiều hơn mức tối thiểu mà họ có thể làm. Vì vậy, nền kinh tế sẽ có ít việc làm hơn, các doanh nghiệp trở kém năng suất hơn, và sản lượng kinh tế bị suy giảm.
Hơn nữa, thuế khoá làm cho người lao động nhận được ít tiền hơn, họ có thể phải cắt giảm chi tiêu. Và do nhu cầu giảm, các doanh nghiệp sản xuất và cung ứng ít đi. Người lao động cũng có thể tiết kiệm ít đi, vì chi phí hàng ngày giờ đây chiếm tỷ lệ lớn hơn làm cho họ ít có khả năng tiết kiệm hơn. Nhưng tiết kiệm lại rất quan trọng trong việc cung cấp vốn cho các khoản đầu tư; khi tiền tiết kiệm được gửi vào ngân hàng ít đi, thí các bên cho vay sẽ có ít tiền hơn để cho các doanh nghiệp muốn đầu tư vào thiết bị và quy trình sản xuất hiệu quả hơn vay. Tất cả những hiện tượng này, một lần nữa, làm giảm sản lượng và tăng trưởng của đất nước.
Hiệu ứng thu nhập. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, có thể có áp lực theo hướng ngược lại, được gọi là hiệu ứng thu nhập. Do thuế thu nhập làm cho dân chúng có thu nhập thực tế ít hơn, một số người (đặc biệt là những người nghèo nhất) có thể bị thúc đẩy làm việc nhiều giờ hơn để bù đắp số tiền họ mà đã mất do phải chịu thuế.
Ảnh hưởng rộng. Không phải lúc nào cũng dễ dàng dự đoán liệu hiệu ứng thay thế hay hiệu ứng thu nhập sẽ lớn hơn, mặc dù nói chung, hiệu ứng thay thế có ảnh hưởng mạnh hơn: khi đánh thuế một thứ gì đó, bạn có xu hướng nhận được ít hơn. Hiện tượng xảy ra sẽ khác nhau, phụ thuộc vào loại thuế cụ thể và phản ứng của mọi người đối với nó. Nhưng ảnh hưởng có thể rất rộng: như đã nói, thuế đánh vào thu nhập từ công việc và kinh doanh có thể ảnh hưởng đến số người lao động, năng suất làm việc, số tiền tiết kiệm, số tiền đầu tư, số lượng sản phẩm sản xuất được, và cách thức và địa điểm sản xuất. Có thể ảnh hưởng đến số tiền mà chính phủ có thể chi tiêu, và sự cân bằng thu nhập giữa người giàu và người nghèo, và nhiều vấn đề khác nữa.
Ảnh hưởng lớn đến đâu? Tuy nhiên, các nhà kinh tế học và chính trị gia lại không đồng ý với nhau về việc dân chúng thay đổi hành vi của mình tới mức nào để ứng phó với thuế. Một số người cho rằng người ta có xu hướng tiếp tục cuộc sống của mình mà không thay đổi nhiều chỉ vì thuế tăng hay giảm. Một số người khác lại cho rằng người ta thực sự rất nhạy cảm với những thay đổi về thuế, và ngay cả những thay đổi nhỏ trong chính sách thuế cũng có thể dẫn đến những thay đổi lớn - và không phải lúc nào cũng có thể dự đoán được hoặc đáng mong muốn - trong hoạt động của con người.
Dựa trên những cuộc tranh luận gần đây về Đường cong Laffer, các cơ quan thuế đã dần dần thay đổi quan điểm của mình. Trong những thập kỷ trước, nhiều cơ quan đã không tính đến những thay đổi trong hành vi của dân chúng. Ví dụ, họ cho rằng tăng thuế suất thu nhập tất yếu sẽ làm tăng nguồn thu. Tuy nhiên, họ ngày càng rút ra kết luận rằng con người thực sự thay đổi hành vi của mình để ứng phó với thuế suất cao hơn hoặc thấp hơn - trong trường hợp thuế thu nhập gia tăng, người ta có thể là nghỉ hưu sớm hơn hoặc làm việc ít hơn và nghỉ ngơi nhiều hơn – và đến lượt nó, hiện tượng này có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Mô hình hóa “động” về ảnh hưởng của thuế như thế hiện đã là thành tố thường gặp trong quá trình lập ngân sách của chính phủ, ví dụ như ở Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và các nền kinh tế phát triển khác[1].
Những ảnh hưởng khác
Bất bình đẳng thu nhập. Những ảnh hưởng như vậy không phải lúc nào cũng là chủ ý, cũng không phải lúc nào cũng đáng mong muốn. Chẳng hạn, thuế thu nhập lũy tiến – theo đó người có thu nhập cao phải đóng thuế với tỷ lệ cao hơn – có thể là chiến lược có chủ đích nhằm làm cho phần thu nhập sau thuế trở thành bình đẳng hơn. Đồng thời, nguồn thu từ thuế có thể được sử dụng để cung cấp hàng hóa và dịch vụ (ví dụ như nhà ở, chăm sóc y tế và giáo dục) nhằm mang lại lợi ích cho người nghèo, từ đó làm giảm bất bình đẳng hơn nữa. Nhưng các loại thuế khác (đặc biệt là thuế thực phẩm, nhiên liệu, rượu và thuốc lá) là bất lợi. Những loại thuế này có ảnh hưởng lớn hơn nhiều đến các gia đình nghèo, vì chi phí cho những mặt hàng này, bao gồm cả thuế, chiếm một tỷ lệ cao hơn trong ngân sách hộ gia đình của họ so với ngân sách của các gia đình giàu có. Vì vậy, hiện tượng này lại đẩy bất bình đẳng kinh tế lên tầm cao hơn nữa.
Do đó, những người lập chính sách có thể khó cân bằng các mục tiêu khác nhau của họ. Chúng ta muốn giữ các ưu tiên ưu đãi đối với những điều tốt đẹp, ví dụ công việc có năng suất cao, nhưng lại dễ dàng đánh thuế công việc và tạo ra bình đẳng hơn trong thu nhập thực tế. Chúng ta muốn ngăn chặn những “tệ nạn” như rượu bia, thuốc lá và khí thải, nhưng thật khó đánh thuế những thứ này mà không gây thiệt hại cho những người nghèo nhất - làm cho họ bị thiệt hại nhiều hơn những người khác. Cũng như với tất cả các loại thuế, chúng ta phải tự hỏi liệu thiệt hại mà các khoản thuế này gây ra có xứng đáng với những lợi ích mà chúng có thể mang lại hay không.
Vấn đề dây chuyền. Thuế có thể gây ra những hệ quả không mong muốn khác. Chẳng hạn, thuế có thể buộc những người nghèo nhất ở các quốc gia nghèo nhất phải cắt giảm những nhu cầu thiết yếu như dinh dưỡng, khiến họ giảm khả năng lao động và đóng góp về mặt kinh tế. Tương tự, nếu thuế làm giảm động lực làm việc, tiết kiệm và đầu tư, thì sự sụt giảm năng suất kéo theo sẽ gây thiệt hại nhiều nhất cho người nghèo, vì họ là những người được hưởng lợi nhiều hơn từ việc có thể mua hàng hóa tốt hơn với giá rẻ hơn, và từ việc có thêm cơ hội việc làm.
Những ảnh hưởng khác
Chi phí tuân thủ. Một ảnh hưởng khác đối với người nộp thuế, ngoài số tiền họ thực sự phải đóng, là chi phí (không chỉ về mặt tài chính mà còn về thời gian và công sức) để tuân thủ các quy định về thuế. Trong đó có thời gian và chi phí cá nhân và tổ chức trong việc nghiên cứu và điền vào các biểu mẫu thuế, lưu giữ hồ sơ phù hợp, chuẩn bị và đối chiếu dữ liệu tài chính. Cũng bao gồm chi phí để được hỗ trợ và tư vấn về những vấn đề này, chẳng hạn như chi phí thuê kế toán và luật sư.
Những chi phí này tạo ra ảnh hưởng đặc biệt nặng nề lên các doanh nghiệp nhỏ và người tự kinh doanh, chiếm khá nhiều thời gian, công sức và tiền bạc của họ. Trong khi tất cả các doanh nghiệp đều phải tuân thủ các quy định khác nhau về thuế thu nhập, tiền lương, vốn và thuế bán hàng, thì các công ty lớn có thể chi trả cho các bộ phận chuyên trách với đầy đủ các chuyên gia am hiểu về thuế. Tuy nhiên, trong các doanh nghiệp rất nhỏ, việc tuân thủ phụ thuộc vào chủ sở hữu - có thể không phải là chuyên gia về kế toán thuế. Bằng cách ưu tiên các doanh nghiệp lớn, đã đứng vững hơn là các doanh nghiệp nhỏ, mới thành lập, thuế doanh nghiệp có thể làm giảm khả năng cạnh tranh và tinh thần nghiệp chủ[2].
Tổn thất vô ích. Thuế gia tăng nguồn thu cho chính phủ để chi tiêu cho các dịch vụ công, cung cấp cơ sở hạ tầng, lương hưu và phúc lợi xã hội, và các mục đích khác đã được bàn tới trong Chương 3. Tuy nhiên, khi chính phủ tạo ra các loại thuế mới hoặc tăng các loại thuế hiện hành, kết quả có thể là phản tác dụng, tạo ra tổn thất ròng cho xã hội, chứ không phải lợi ích.
Hiện tượng này đã được nhà kinh tế học người Anh Alfred Marshall (1842–1924) giải thích (Marshall 1890). Bằng cách tăng thuế đối với một số hàng hóa hoặc dịch vụ cụ thể, chính phủ hy vọng sẽ thu được nhiều tiền hơn – và hoàn toàn có thể làm được như thuế. Nhưng thuế cũng làm tăng chi phí cho người sản xuất những hàng hóa hoặc dịch vụ đó, khiến họ phải tăng giá. Nó sẽ làm cho người tiêu dùng mua ít hơn, và người sản xuất bán ít hơn. Khi đó, cả cung và cầu đều thấp hơn mức lý tưởng của tất cả mọi người. Khoảng cách giữa sản lượng trước thuế và sau thuế này được gọi là tổn thất vô ích do thuế tạo ra. Đây là tổn thất cho xã hội nói chung, không chỉ là tổn thất về mặt tài chính mà còn tổn thất về mặt niềm vui bị mất đi mà mọi người lẽ ra đã có được khi tiêu thụ nhiều hơn những sản phẩm mà họ mong muốn trong thế giới không bị đánh thuế.
Những tổn thất này có thể diễn ra trong thời gian rất dài. Bằng cách làm giảm lợi nhuận từ các khoản đầu tư, công sức và tinh thần nghiệp chủ của người sản xuất, thuế làm giảm động lực đầu tư, giảm động lực làm việc và chấp nhận rủi ro trong kinh doanh của người dân, làm cho năng suất và tăng trưởng chậm lại. Và còn khuyến khích người sản xuất tìm cách trốn thuế, chuyển hướng đầu tư vào các dự án và quy trình chịu ít thuế hơn nhưng có thể kém hiệu quả hơn.
Vì vậy, ngay cả khi loại
thuế mới tạo ra doanh thu lớn hơn cho chính phủ và tạo điều kiện cho chính phủ
cung cấp nhiều dịch vụ được tài trợ bằng thuế hơn, thì vẫn có thể có một khoản
lỗ ròng cho toàn xã hội, kéo dài đến tương lai. Hơn nữa, việc tổng doanh thu
thuế có thể giảm do hoạt động kinh tế suy giảm khiến khả năng tổn thất chung thậm
chí còn lớn hơn nữa.
Những tổn thất không lường trước được. Lý tưởng nhất là, thuế được thiết kế để mang lại nhiều lợi ích nhất với chi phí thấp nhất. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của các loại thuế khác nhau đối với toàn bộ nền kinh tế và qua nhiều năm, nên việc đánh giá mức giảm tổng sản lượng có thể là công việc khó khăn.
Như đã nói bên trên, thuế thu nhập có thể làm cho dân chúng chuyển từ làm việc sang giải trí, làm cho công việc trở thành kém năng suất hơn và tăng trưởng kinh tế chậm lại. Ví dụ, thuế vốn có thể làm cho vốn, đất đai và thiết bị được chuyển đổi từ mục đích sử dụng năng suất cao (nhưng bị đánh thuế) sang mục đích sử dụng có năng suất thấp hơn (nhưng không bị đánh thuế). Trong khi đó, thuế đánh vào nhà cho thuê có thể khiến chủ sở hữu rời khỏi thị trường, sẽ có ít nhà cho thuê hơn và đắt đỏ hơn, có thể buộc mọi người phải đi xa hơn mới tới nơi làm việc hoặc phải làm những công việc kém năng suất hơn tại địa phương. Thuế đánh vào các khoản đầu tư có thể làm giảm nhiệt tình tài trợ cho các doanh nghiệp mới, và thuế đánh vào doanh nghiệp có thể làm tăng rủi ro (đã khá cao) liên quan đến quá trình khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp - việc làm, đổi mới và tiến bộ vì thế sẽ ít hơn (Butler 2020a: 107–11).
Do những tác động này là rất đa dạng và đánh giá là rất khó, nên sẽ không có gì ngạc nhiên nếu nhiều loại thuế thực sự gây ra tổn thất ròng cho toàn xã hội.
Né thuế và trốn thuế. Chi phí vô ích là thời gian, công sức và sự khéo léo mà mọi người bỏ ra để né thuế và trốn thuế là trường hợp đặc biệt.
Né thuế là khi người ta lợi
dụng các quy định về thuế, hoặc những kẽ hở trong luật, để giảm thiểu một cách hợp
pháp số tiền thuế phải nộp – ví dụ, bằng cách thành lập quỹ tín thác gia đình để
tránh thuế thừa kế, hoặc nhận thu nhập dưới các hình thức chịu thuế thấp hơn,
chẳng hạn như cổ tức hoặc phúc lợi, dưới dạng hiện vật, thay vì lương. Quy mô lớn
của chi phí vô ích này được chứng minh bằng quy mô của các ngành công nghiệp
giúp mọi người trốn thuế – luật sư quỹ tín thác, chuyên gia lập kế hoạch thuế,
và nhiều ngành khác.
Nước Anh có một lịch sử
lâu dài về vấn nạn né thuế. Năm 1660, có một loại thuế đánh vào lò sưởi. Ý tưởng
là những người sống trong những ngôi nhà lớn hơn, có nhiều lò sưởi hơn, sẽ bị
đánh thuế nhiều hơn những người sống trong những ngôi nhà nhỏ hơn. Nhưng người
dân đã né thuế bằng cách xây gạch bịt kín lò sưởi. Vì vậy, những người thu thuế
chuyển sang ống khói, vốn dễ dàng đếm được từ bên ngoài.
Một mặt hàng xa xỉ khác, đấy là giấy dán tường in hoa văn, đã bị đánh thuế từ năm 1712. Nhưng các nhà thầu xây dựng đã tránh được loại thuế này bằng cách dán giấy thường, rồi vẽ hoa văn lên. Cũng trong những năm 1700, khi gạch bị đánh thuế, các nhà thầu xây dựng bắt đầu sử dụng những viên gạch lớn hơn, chính phủ phải đáp trả bằng cách đánh thuế suất cao hơn đối với gạch có kích thước lớn hơn. Loại thuế này kéo dài đến năm 1850.
Để né thuế mũ ban hành năm 1784, những người thợ làm mũ phải gọi sản phẩm của họ bằng những cái tên khác. Năm 1804, chính phủ đã phản ứng bằng cách mở rộng thuế sang bất kỳ loại mũ nào, nhưng cuối cùng, loại thuế này đã bị bãi bỏ vào năm 1811.
Ngược lại với né thuế, trốn thuế là hành vi che giấu hoặc khai báo sai thu nhập hoặc các hoạt động chịu thuế khác một cách bất hợp pháp để nộp ít hơn số tiền phải nộp theo luật. Họ có thể chỉ cần khai man trên tờ khai thuế. Hoặc những người làm nghề thủ công và chuyên gia có thể yêu cầu được trả bằng tiền mặt chứ không khai báo tiền lương và thuế bán hàng. Trong khi đó, những người làm nghề bất hợp pháp – chẳng hạn như (ở một số nước) mại dâm, buôn bán ma túy, người bán hàng giả, hoặc buôn lậu hàng hóa chịu thuế suất cao như thuốc lá – phải trốn thuế vì họ không thể khai báo thu nhập một cách công khai mà không tiết lộ các hoạt động bất hợp pháp của mình (kỳ lạ là, Cơ quan Thuế vụ Hoa Kỳ lại yêu cầu họ phải khai báo).
Thuế
thu nhập làm nhiều người Mỹ trở thành những kẻ nói dối hơn cả môn golf.
Diễn viên hài người Mỹ Will Rogers (1878–1935)
Tuy nhiên, không may là né thuế và trốn thuế dẫn tới phản ứng của chính quyền bao giờ cũng là tăng chi phí cho những người nộp thuế trung thực cũng như những người trốn thuế khéo léo và gian dối. Họ có thể áp đặt những quy định chặt chẽ hơn về việc báo cáo – làm cho luật thuế trở thành dài dòng và phức tạp hơn, nhưng kết quả là, người nộp thuế gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tìm hiểu - hoặc chính phủ có thể tiến hành những cuộc thanh tra sâu sắc về các vấn đề thuế khoá, và tăng hình phạt hơn đối với những người khai báo có thiếu sót, ngay cả khi đó là sai lầm không cố ý.
Kết luận. Do đó, thuế có thể tạo ra những ảnh hưởng sâu sắc và bất ngờ tới cấu trúc kinh tế và xã hội. Các nhà kinh tế học đồng ý rằng chính sách thuế tốt nhất là nhằm giải quyết các yếu tố ngoại ứng thực sự, nhưng vẫn giữ được động lực làm việc, tiết kiệm và đầu tư, và thúc đẩy năng suất và thịnh vượng, đời sống kinh tế ít bị méo mó nhất và không lam cho chính phủ bị mắc những khoản nợ trong thời gian dài. Nhưng những lý tưởng này thường khác rất xa đời sống thực tế.
Gánh nặng thuế: Ai là
người thực sự trả?
Người hay tổ chức bị thu thuế không nhất thiết là người hay tổ chức cuối cùng phải gánh khoản thuế đó. Chẳng hạn, một người bán hàng khi đối mặt với việc tăng thuế bán đối với hàng hóa của mình có thể tìm cách chuyển gánh nặng này sang khách hàng bằng cách tăng giá, thay vì tự mình chịu thiệt. Nếu họ làm được, thì cuối cùng chính khách hàng là người trả thuế, mặc dù thuế được thu từ cửa hàng.
Nơi mà gánh nặng thuế rốt cuộc rơi xuống (ví dụ: vào người bán hay người mua) được gọi là tác động của thuế (tax incidence). Mức độ mà người thu hộ thuế (ví dụ: người bán hàng) có thể chuyển gánh nặng này sang cho người khác (ví dụ: khách hàng) phụ thuộc vào điều kiện thị trường – vào những hiệu ứng thu nhập và thay thế đã đề cập trước đó, vào mức độ cạnh tranh từ các nhà bán khác, và vào cách mà người ta đánh giá giá trị của những hàng hóa, dịch vụ liên quan.
Ví dụ
Giả sử chính phủ đánh thuế sách là 10 xu. Hiệu sách có thể tính thêm 10 xu cho mỗi cuốn sách được bán ra, chứ không tự đóng thuế. Tuy nhiên, giá cao hơn 10 xu có thể làm cho khách hàng lưỡng lự không muốn mua thêm sách từ cửa hàng này. Thay vào đó, họ có thể quyết định đọc sách trực tuyến, mượn sách từ thư viện, đọc tạp chí, hoặc đến các hiệu sách rẻ hơn. Vì vậy, hiệu sách sẽ khó có thể chuyển toàn bộ 10 xu tiền thuế cho khách hàng.
Tuy nhiên, nếu khách hàng thích sách hơn tạp chí, cũng không thích đọc sách trực tuyến, hoặc không thể đến thư viện địa phương hoặc các hiệu sách gần đó, thì hiệu sách có thể chuyển thêm, thậm chí là toàn bộ, khoản thuế đó cho khách hàng bằng cách tăng giá.
Tương tự như thế, nếu hiệu sách hoàn toàn không muốn bán với giá thấp hơn – có lẽ vì thị trường của họ đang cạnh tranh gay gắt và lợi nhuận đã ở mức tối thiểu, nếu không thì không thể tồn tại được – thì họ càng cố gắng chuyển nhiều tiền thuế hơn cho khách hàng. Nhưng nếu họ sẵn sàng chấp nhận giá thấp hơn – có lẽ họ đang là người nắm độc quyền tại khu vực, và giá bán của họ đã cao rồi – thì cuối cùng họ sẽ phải nộp nhiều thuế hơn.
Do đó, ai là người cuối
cùng phải trả bao nhiêu tiền thuế, phụ thuộc vào các yếu tố thị trường, vào mức
độ sẵn sàng trả nhiều tiền hơn của khách hàng – các nhà kinh tế gọi là độ co
giãn của cầu – và mức độ sẵn sàng chấp nhận bán với giá thấp hơn của người bán
– độ co giãn của cung.
Đây là lý do vì sao thuế tiêu thụ đặc biệt chủ yếu đánh vào các mặt hàng như thuốc lá, rượu và nhiên liệu, những mặt hàng mà nhu cầu không co giãn và khách hàng sẵn sàng chấp nhận giá cao hơn. Thuế thường không đánh vào các mặt hàng như tạp chí, thảm hoặc bàn cờ, những mặt hàng mà nhu cầu co giãn, vì nhu cầu của khách hàng không cấp thiết, và họ dễ dàng có những lựa chọn thay thế.
Phân bổ những khoản thuế
khác nhau
Các loại thuế khác nhau đánh vào hàng hóa và dịch vụ tạo ra ảnh hưởng khác nhau đối với phân bổ thuế khoá - tức là đối tượng cuối cùng phải trả. Ví dụ, thuế tiêu thụ đặc biệt được đánh trên mỗi đơn vị hàng hóa được giao dịch, không phụ thuộc và giá thành. Tuy nhiên, thuế bán hàng thông thường được tính theo tỷ lệ phần trăm trên giá sản phẩm. Vì vậy, người mua phải trả nhiều thuế hơn cho những hàng hóa có giá cao hơn.
Do đó, thuế tiêu thụ đặc biệt mang tính lũy thoái, vì chúng không phản ánh khả năng chi trả của dân chúng (và có lẽ cũng vì các mặt hàng chịu thuế như nhiên liệu chiếm tỷ lệ lớn hơn trong ngân sách hộ gia đình của các gia đình nghèo). Ngược lại, thuế bán hàng đặt gánh nặng thuế khoá lên vai các hộ gia đình có khả năng mua các mặt hàng đắt tiền hơn (Snowdon 2018a,b).
Phân tích quan hệ giữa ảnh hưởng và tỷ lệ thuế cho chúng ta thấy những kết quả bất ngờ khác. Ví dụ, các loại thuế tại nơi làm việc như thuế an sinh xã hội hoặc bảo hiểm quốc gia thường được mô tả là do người sử dụng lao động chi trả. Nhưng các loại thuế này cũng ảnh hưởng tới người lao động: Chi phí tuyển dụng lao động gia tăng, và có lẽ sẽ buộc người sử dụng lao động phải giảm số lượng nhân viên và đưa ra những điều kiện làm việc ít hấp dẫn hơn. Thuế doanh nghiệp cũng được cho là do chủ sở hữu công ty đóng, nhưng một số nghiên cứu cho thấy người lao động phải chịu phần lớn những khoản thuế này, thậm chí có thể còn nhiều hơn số thuế thu được[3]. Một trong lý do có thể là thuế làm cho doanh nghiệp có ít tiền hơn để đầu tư vào vốn sản xuất, do đó năng suất của người lao động không tăng, và do đó, tiền lương của họ cũng không thể tăng.
Các nhà kinh tế học không
đồng thuận với nhau về những ảnh hưởng như thế. Tuy nhiên, duòng như sẽ là khôn
ngoan nếu các nhà lập pháp tiến hành phân tích và xem xét một cách kỹ lưỡng nhất
đối với các đề xuất về việc ban hành những loại thuế mới hoặc tăng thuế hiện
có.
No comments:
Post a Comment