December 30, 2024

HOÀ TAN BẢN NGÃ, NHẬN RA ĐẠI NGÃ (11)

 HOÀ TAN BẢN NGÃ, NHẬN RA ĐẠI NGà

DAVID HAWKINS, M.D., Ph. D. 

Phạm  Nguyên Trường dịch 


11

 

CHỨNG NGỘ

 

Tâm trí con người có thể vật lộn một cách vô ích để hiểu về chứng ngộ. Như Tiến sĩ Hawkins chỉ ra: “Trên thực tế, chứng ngộ không phải là một trạng thái hay một quan điểm; nhưng nó là cả hai, và không có một tuyên bố nào về nó là hoàn toàn chính xác”.

 

Thường đồng nghĩa với Tự hiện thực hoá (Self-realization), chứng ngộ (enlightenment) là trạng thái phi nhị nguyên bắt đầu xuất hiện ở tầng ý thức được gọi là An bình. Chứng ngộ không phải là mục tiêu cần đạt được; đó là trạng thái, nó sẽ hiển lộ khi siêu việt được bản ngã/tâm trí. Chứng ngộ không phải là mục đích tự thân. Một lần nữa, Tiến sĩ Hawkins viết: “Chứng ngộ là nhận thức ngày càng gia tăng và không phải là sản phẩm hoàn thiện, hay một mục đích cuối cùng, hay sự hoàn thành quá trình tiến hóa của khả năng tâm linh”.

 

Chứng ngộ chỉ đơn giản là Sự thật xuất hiện khi những trở ngại đối với việc nhận ra Sự thật đã được loại bỏ.Tương tự như thế, ánh sáng mặt trời không phụ thuộc vào việc loại bỏ những đám mây; xua tan mây mù thì ánh sẽ trở nên rõ ràng hơn.

***

Thuật ngữ “chứng ngộ” (enlightenment) là đúng về mặt ngữ nghĩa. Đó là công nhận và nhận ra rằng thực tại của một người là ánh sáng của Đại ngã—và nó bắt nguồn từ bên trong như là nhận thức và Thực tại sâu sắc, hiển nhiên..

***

Ngay cả việc nghe nói đến chứng ngộ cũng đã là một món quà hiếm hoi rồi. Bất kỳ người nào đã từng nghe nói đến chứng ngộ sẽ không bao giờ hài lòng với bất kỳ điều gì khác..

***

“Người tốt” là một chuyện; chứng ngộ lại là chuyện khác. Người ta chỉ chịu trách nhiệm về nỗ lực chứ không chịu trách nhiệm về kết quả, nó phụ thuộc vào Chúa và vũ trụ.

***

Người ta có thể mất vô số kiếp để nghiên cứu tất cả các giáo lý tôn giáo và triết học trên thế gian này và cuối cùng là rơi vào bối rối và nản lòng. Tìm cách “biết” chứ không phải “biết về”. “Biết” ngụ ý trải nghiệm chủ quan; “biết về” có nghĩa là tích lũy sự kiện. Cuối cùng, mọi sự kiện đều biến mất và không còn gì để biết. Nếu người ta nhận ra rằng Đại ngã của chính mình là Tất cả Vạn vật đang tồn tại, đã tồn tại hoặc có thể tồn tại, thì còn cần biết thêm gì nữa? Trọn vẹn, theo bản chất của nó, là toàn bộ và đã hoàn thành.

***

Cái mà tôi là Toàn thể. Nhận ra rằng một người đã là và luôn luôn là Tất Cả Những Thứ Đang Là không cần thêm bất cứ thứ gì.

***

Con đường dẫn đến “đốn ngộ” là bám sát vào nhận thức tâm linh và các đặc điểm cụ thể của ý thức để có thể siêu việt nhân cách (bản ngã) chứ không phải là hoàn thiện tính cách..

***

Trong Thực tại, thời gian chỉ đơn giản là vọng tưởng và bề ngoài. Khi một người nào đó đã chọn mục tiêu tâm linh thì “thời gian” không thực sự bị lãng phí. Thực ra, cuối cùng, chứng ngộ kéo dài cả ngàn kiếp hay chỉ trong một kiếp cũng không có gì khác biệt. Cuối cùng, tất cả đều như nhau.

***

Hiểu được bản chất của ý thức giúp cho chứng ngộ trở nên khả thi. Về cơ bản, nó đòi hỏi phải nhận ra sự khác biệt giữa nhị nguyên và phi nhị nguyên, cũng như làm sao siêu việt được cõi giới nhị nguyên.

***

Bản chất của con người bao gồm tiềm năng cho chứng ngộ. Sẵn sàng ngụ ý rằng người ta đã tiến hóa qua những tầng ý thức thấp hơn, vì vậy cảm hứng tâm linh giờ đây trở thành tia lửa soi sáng công cuộc tìm kiếm.

***

Từ quan điểm của ý thức và chứng ngộ, sợ hãi tiếp tục thống trị cho đến khi ham muốn tồn tại được phó thác cho Chúa. Trong sự tĩnh lặng diễn ra sau đó, người ta sẽ nhận thức được rằng tồn tại luôn luôn là do Hiện diện của Đại ngã, đã thu hút từ Vũ trụ mọi điều cần thiết cho sống còn.

***

Khi người ta ngừng đồng nhất với cơ thể hay tâm trí, các chức năng tiếp tục hoạt động theo lối tự chủ, nhưng không đồng nhất là “chính tôi”. Cảm giác về quyền tác giả biến mất. Sự sống vẫn diễn ra theo lối tự chủ, và sự tiếp tục là biểu hiện của ý thức trong liên minh của nó với Chúa Thánh Thần.

***

Hỏi: Làm sao thoát khỏi bản ngã và nghiệp của nó?

Trả lời: Chứng ngộ là lối thoát hoàn toàn và duy nhất, và nỗ lực tâm linh giúp nới lỏng sự kìm kẹp của nó.

***

Cứu rỗi đòi hỏi sự thanh lọc bản ngã; chứng ngộ đòi hỏi xoá bỏ hoàn toàn bản ngã. Mục tiêu của chứng ngộ đòi hỏi nhiều hơn và triệt để hơn.

***

Phải hiểu rõ rằng không phải con người cá nhân của “bạn” đang tìm kiếm chứng ngộ mà đấy là phẩm chất phi cá nhân của ý thức, nó chính là động lực.

***

Hỏi: Ông có thể tóm tắt yếu tố quan trọng nhất cho quá trình tiến hóa của ý thức tới trạng thái chứng ngộ?

Trả lời: Lưu ý rằng bản ngã thường có một định vị. Ở người ngây thơ, nó thường không được nói ra hoặc không nhận thức được. Sau đó định vị tự động tạo ra tính nhị nguyên của những mặt dường như đối lập với nhau. Lúc đó, tâm trí đang tạo ra thế giới tri giác—giống như một thấu kính bóp méo, phóng to hoặc làm giảm ý nghĩa và mức độ quan trọng. Tri giác này là sản phẩm của các hệ thống niềm tin và giả định và do đó trở thành một bộ lọc làm cho người ta sao lãng. Do đó, từ định vị nhị nguyên không thể nhận thức được bản chất.

Đầu vào chạy qua các chương trình phần mềm, những chương trình này đồng thời chỉnh sửa các chương trình đang được đưa vào. Do đó, thực tại bị che khuất và ẩn sau một màn hình nhận thức; do đó, tự ngã sống trong bản dịch thông tin được chỉnh sửa và được nhận thức,. Quá trình xử lý này tạo ra một khoảng thời gian trễ cực kỳ nhỏ (ước tính là 1/10.000 giây). Chức năng chỉnh sửa nhận thức đồng thời diễn giải ý nghĩa trong đó trí tuệ và đặc biệt là trí nhớ đóng vai trò quan trọng.

***

Không có tách biệt trong Toàn thể của Tạo hóa, vì vậy, cái được tạo ra không thể tách biệt khỏi Đấng sáng tạo. Do đó, chứng ngộ là mặc khải của Đại ngã khi loại bỏ được vọng tưởng về thực tại của một bản ngã riêng biệt.

***

Tìm kiếm chứng ngộ là cam kết rất to lớn—và thực tế là, đó là mục tiêu khó khăn nhất của con người. Trong mười triệu người mới có một người coi chứng ngộ là mục tiêu chính của cuộc đời mình.

***

Nhất thể của Đại ngã là nền tảng của hiện tượng được gọi là Mặc khải hay Nhận thức. Chứng ngộ là trạng thái hoàn thành xảy ra sau đó—và nó là vô điều kiện, toàn bộ và trọn vẹn.

***

Trở thành người chứng ngộ chỉ có nghĩa là ý thức đã nhận ra phẩm chất bẩm sinh, bên trong nhất của nó là tính chủ quan phi tuyến tính và khả năng nhận thức của nó.

***

“Tôi” cá nhân là “nội dung”, trong khi “Tôi” của Thực tại là bối cảnh. Tương tự như thế, đám mây có thể thay đổi và tan rã. Thời tiết đến rồi đi, nhưng bầu trời thì vẫn không thay đổi. Chứng ngộ chỉ đơn giản là chuyển sự đồng nhất với đám mây sang đồng nhất với bầu trời.

***

Hãy kiên quyết, không chút do dự. Tránh xa cám dỗ của cõi trung giới. Hãy cẩn thận với những con sói đội lốt cừu, vì chúng bị thu hút bởi những người sùng đạo đang đạt được những tiến bộ đáng kể. Đừng chấp nhận cho bất kỳ người nào bước vào cuộc đời của bạn nếu họ không vượt qua được tầng Sự thật có thể hiệu chỉnh được. Luôn giữ mục tiêu tâm linh của bạn trong trạng thái tỉnh thức, hoạt động nào thì cũng thế. Hãy dâng hiến mọi nỗ lực cho Thiên Chúa. Ghi nhớ bản chất thực sự của Thiên Chúa và tránh bất kỳ giáo lý nào tuyên bố điều ngược lại.

***

Mong muốn tìm kiếm Thiên Chúa hoặc chứng ngộ đã là bằng chứng cho thấy bạn đã được truyền cảm hứng về mặt tâm linh. Khi bản ngã không còn, thì Hào quang của Đại ngã sẽ nâng bạn lên và truyền cho bạn cảm hứng. Từ đó trở đi, bạn không thể là người đơn độc nữa. Vào thời điểm quan trọng, cam kết và dâng hiến về mặt tâm linh sẽ mang tới sự giúp đỡ vô hình của các Đấng vĩ đại không còn trong cơ thể vật chất nữa—nhưng năng lượng của họ vẫn ở ngưỡng cửa vĩ đại của khoảnh khắc cuối cùng khi một người được Thánh Linh và trí tuệ của các bậc thầy về Sự thật nâng đỡ.

***

Quan trọng là nhận ra rằng số phận của những người chọn chứng ngộ là chứng ngộ— còn người nào khác đi theo con đường đó? Chỉ đơn giản là tìm kiếm thanh lọc và nhận thức tâm linh đã là một món quà.

***

Con đường thẳng nhất dẫn đến chứng ngộ là hướng nội tìm, thiền định và chiêm nghiệm về hoạt động bên trong của bản ngã để hiểu được ý thức. Quá trình này được tiếp thêm năng lượng bởi ý định, dâng hiến và tận tụy; và nỗ lực tổng thể được hỗ trợ bởi cảm hứng tâm linh. Dâng hiến tập trung vào chính quá trình này như là phó thác cho Chúa. Tập trung cần phải mãnh liệt, và được tiếp thêm năng lượng bởi ý định thận trọng và không thay đổi. Đây là quá trình khám phá và dần dần sẽ trở thành tự bộc lộ.

***

Đi theo con đường nghiêm túc dẫn tới chứng ngộ là kỷ luật và cam kết cụ thể. Nó khác với thực hành tôn giáo. Mặc dù có nhiều giáo lý tôn giáo ủng hộ việc tìm kiếm chứng ngộ, nhưng cũng có nhiều giáo lý không ủng hộ và thực sự tạo thành chướng ngại. Sùng đạo là một chuyện; trở thành chứng ngộ là chuyện hoàn toàn khác.

***

Chứng ngộ có nghĩa là bản sắc cá nhân trước đây và tất cả những gì đã từng được tin tưởng về nó đều đã bị xóa bỏ, loại bỏ, siêu việt, giải thể và thay thế. Cái riêng biệt đã được thay thế bằng cái phổ quát, các phẩm chất được thay thế bằng phi tuyến tính, và cái rời rạc đã được thay thế bằng cái vô giới hạn.

***

Khi một tín đồ cam kết với con đường dẫn tới chứng ngộ, thì lúa mì phải được tách ra khỏi trấu. Nó tự động xảy ra, vì các định vị là dựa trên niềm tin. Niềm tin biến mất trước cái biết về Sự thật.

 

Con đường dẫn tới chứng ngộ không dành cho những con cừu luôn luôn than thân trách phạn. Bị xúc phạm có nghĩa là người ta đang tự vệ, điều này, tự nó, chứng tỏ sự bám víu vào cái không phải là sự thật. Sự thật không cần tự vệ và do đó không có tính phòng thủ; Sự thật không có gì để chứng minh và không dễ bị tổn thương khi bị đặt câu hỏi, phải trả lời.

***

Khi chứng ngộ xảy ra, trạng thái tiếp theo cũng hoàn toàn tái tạo lại diện mạo của thế gian. Nhìn thấy vạn vật đều đang diễn ra theo cách riêng của nó. Không còn “tôi” (me) hay “tôi” (I) cá nhân nữa. Định hướng đối với thế gian hoàn toàn thay đổi, và không thể hoạt động hoặc rất khó hoạt động.

***

Vì không có ngôn từ nào để nói về trạng thái chứng ngộ, một thiền sư có thể đột nhiên hét lên “Ha!” và dùng gậy để đánh bạn. Hy vọng là một tia sáng bất ngờ, trong đó Thực tại không thể giải thích được được tiết lộ.

***

Trong trạng thái chứng ngộ, mọi thứ đều tự bộc lộ bản chất của nó như là tồn tại của nó. Vạn vật đã là cái mà nó “có nghĩa là”.

***

Chứng ngộ là nhận thức thẩm mỹ tối thượng, vì nó cho phép vẻ đẹp của tạo hoá tỏa sáng với sự rõ ràng làm người ta phải kinh ngạc.

***

Một phép so sánh đơn giản khác là bóng râm không trở thành tia nắng, mà được thay thế bằng tia nắng. Bản ngã là bóng râm; chứng ngộ là hệ quả của ánh sáng của Đại ngã thay thế cho nó.

***

Khả năng vươn lên tới tình trạng hay trạng thái được gọi là “Chứng ngộ” là hoàn thành tiềm năng của ý thức trong quá trình tiến hóa của nó.

***

Chứng ngộ chỉ đơn giản là nhận thức đầy đủ, có ý thức rằng Sự thật bẩm sinh là cốt lõi của sự tồn tại của chính mình—và Thiên Chúa như là Đại ngã là sự soi sáng mà nhờ đó nhận thức đó trở thành khả thi. Sức mạnh Vô biên Vô tế của Chúa là sự hiển lộ của sức mạnh của Bối cảnh Vô biên Vô tế. Cái Không Hiển Lộ thậm chí vượt ra ngoài Bối cảnh Vô biên Vô tế.

***

Như Đức Phật đã chỉ ra, là thường nhân hữu sinh hữu tử thì sẽ tự động kéo theo đau khổ, đó là lý do vì sao Ngài dạy phải tìm kiếm chứng ngộ nhằm ngăn chặn quá trình tái sinh do nghiệp chướng quyết định. Ở những tầng rất cao, trải nghiệm chủ quan về tồn tại không còn bị giới hạn bởi bản ngã ái kỷ hoặc những rào cản tâm lý của các định vị. Tình trạng này là kết quả của việc buông bỏ từng bước một ở những tầng rất sâu của tất cả các giới hạn và hệ thống niềm tin. Yêu cầu là “nhất tâm” một cách bền bỉ, xử lý cảm xúc/tâm trí còn sót lại của các tầng ý thức thấp hơn và buông bỏ tất các bản sắc-bản ngã và hệ thống niềm tin của tâm trí.

***

Áp dụng một cách nhất quán bất kỳ nguyên tắc tâm linh nào cũng có thể bất ngờ dẫn đến một bước nhảy vọt rất lớn và đột ngột đến những tầng cao mà trước đó người ta chưa hề nghĩ tới. Lúc đó, ký ức có thể không còn khả dụng; thay vào đó, Hiểu Biết về Sự Thật Tâm Linh tự hiện ra một cách thầm lặng.

***

Chứng ngộ là kết quả của việc phó thác tất cả các ảo tưởng nhị nguyên cho Sự thật. Mọi đau khổ đều chấm dứt cùng với việc giải thề tất các các định vị của bản ngã. Vì vậy, chúng ta ca ngợi Chúa vì đã phát phóng Ánh sáng lên thế gian.

***

Thoải mái và tự tin có thể xuất phát từ thực tại có thể kiểm chứng sau đây: những người hiếm hoi thực sự bị cuốn hút vào chứng ngộ, coi đấy là mục tiêu của cuộc đời, bị cuốn hút là vì đó là số mệnh của họ. Tương tự như thế, chỉ những người sẽ chơi gôn mới học chơi gôn.

***

Tìm kiếm chứng ngộ là quyết định quan trọng. Do đó, quyết định này tương tự như quan điểm “dương”—nhưng sau đó, chính quá trình lại tương tự như quan điểm “âm” hơn. Trong khi bản ngã thường được lập trình để “nhận” (dương), thì ý định tâm linh lúc này lại chuyển sang “cho phép” (âm).

***

Dâng hiến cho Tự hiện thực hoá và chứng ngộ là con đường thẳng và hẹp, đòi hỏi tuân thủ kỷ luật. Do đó, đệ tử nghiêm túc được khuyên nên bỏ qua thái độ tò mò và những hấp dẫn của đứa trẻ ở bên trong trước những hiện tượng tâm linh và huyền bí, kỳ diệu thường được bán và chào bán như những kỹ năng có thể học được.

***

Do đó, trạng thái chứng ngộ là Thực tại tiềm tàng, nó thay thế cho những vọng tưởng của tri giác của bản ngã. Ý định, nỗ lực và quyết định mang tính tâm linh thúc đẩy quá trình tiến hóa của ý thức từ tuyến tính có giới hạn tính đến Toàn thể phi tuyến tính của Thực tại.

***

Chứng ngộ là kết quả của sự chuyển dịch to lớn của nội dung và nhận dạng. Tiêu điểm của người trải nghiệm giống như một tấm màn che Thực tại và tự động rơi xuống khi các đạo cụ được gỡ bỏ. Đây là hậu quả của việc phó thác ý chí cho Thiên Chúa. Cảm giác về thực tại của bản ngã thực ra chỉ là do Hiện diện tiềm ẩn của Đại ngã.

***

Tìm kiếm chứng ngộ một cách nghiêm túc là kỷ luật rất nghiêm ngặt; do đó, phải tránh, không để bị lôi kéo tham gia vào các phong trào được cho là tâm linh, nhưng thực ra lại là chính trị và bè phái. “Thay đổi thế giới” (tất nhiên là theo hướng tốt hơn) có sức hấp dẫn đối với những đứa trẻ theo phái lý tưởng ngây thơ và cùng với quá trình trưởng thành, người ta sẽ vượt qua được. Bản chất của đời sống con người là kết quả tự động của tầng ý thức tổng thể của người đó. Do đó, muốn mang lại lợi ích cho thế gian, cần phải thay đổi không phải thế gian mà thay đổi chính con người mình—vì cái mà người đó trở thành tạo được ảnh hưởng vì bản chất của nó (phi tuyến tính) chứ không phải là do hành động (có giới hạn và tuyến tính).

***

Con đường thẳng và hẹp, nếu không có kỷ luật ở bên trong, năng lượng tâm linh sẽ bị phân tán vào nhiều hiện tượng có sức hấp dẫn khác nhau.

***

Năng lượng của sự sống là sự tỏa sáng từ trường ý thức, đó là phương thức của Hiện diện của Thần tính, hiển lộ trong vật chất như là Sáng tạo. Khả năng chứng ngộ chỉ đơn giản là kết quả của ý thức quay trở về cội nguồn của nó, đó là Thần tính Có mặt khắp nơi như là Đại ngã.

Bản ngã/tự ngã đồng nhất với các chức năng và phẩm chất khác nhau của nó và dán nhãn chúng như là “tôi” (me) và nói rằng “tôi là người đó”. Điều này dẫn đến sự phù phiếm của uy quyền, một sai lầm bắt nguồn từ quá trình tiến hóa, như là hệ quả của việc đồng nhất với trải nghiệm của các giác quan. Do đó, dẫn đến kết luận điển hình nói rằng “tôi” ngứa, mà đáng lẽ là “cơ thể” ngứa. Lỗi như thế về quyền tác giả/quyền sở hữu cũng xảy ra với cảm xúc và suy nghĩ, trong đó nhân chứng đồng nhất với chủ thể và nội dung của người trải nghiệm.

Chức năng của người trải nghiệm là một máy dò thông tin, nó thu thập dữ liệu tuyến tính và do đó là “nó” chứ không phải là “tôi”. Nó là đơn vị xử lý chức năng, tương tự như khứu giác hay xúc giác mà thôi.

***

Buông bỏ các định vị của bản ngã làm giảm sự thống trị của nó và mở ra cánh cửa cho hiểu biết và nhận thức phi tuyến tính và phi khái niệm. Do đó, Xuất hiện “Cái Biết” của Đại ngã, qua đó các xung đột tự nhiên biến mất. Những chuyển hoá ở bên trong song hành với niềm vui và khuây khoả trầm lặng, cảm giác tự do, an toàn và an bình ở bên trong cũng lớn hơn. Sức mạnh bên trong của Tình yêu của Đại ngã dần dần chiếm ưu thế và cuối cùng làm lu mờ mọi cảm xúc tiêu cực, nghi ngờ và trở ngại.

***

Do đó, chuyển hoá không được trải nghiệm như sự mất mát của bản ngã, mà đúng hơn là sự xuất hiện và mở ra của Đại ngã, có chiều kích lớn hơn hẳn. Thực sự xuất hiện là sự thay đổi trạng thái hoặc điều kiện thế chỗ cho và thay thế cái cũ. Do đó, cái nhỏ hơn được thay thế bằng cái lớn hơn, qua đó quá trình tiến hóa tâm linh tiết lộ Hiện diện của Thiên Chúa là Nội tại. Khám phá này là sự thay đổi trong trạng thái ý thức mà trước đây gọi là “Chứng ngộ” hay  “Ý thức của Chúa”.

***

Lưu ý rằng Đại ngã là cội nguồn mang tính chủ quan vô hình tướng của khả năng nhận thức. Nó giống như “phần cứng” của máy tính—ngây thơ, vĩnh viễn, không thay đổi, không giới hạn, phi thời gian. Mặt khác, bản ngã ghi lại và xử lý mọi dữ liệu trong miền hình tướng và là “phần mềm”, nó tích lũy các chương trình. Người bình thường đồng nhất với các chương trình phần mềm của bản ngã, coi nó như là danh tính của mình: “tôi” (me) hoặc tôi (I). Điều kiện chứng ngộ là không đồng nhất với bản ngã mà đồng nhất với Đại ngã, cội nguồn của chính nhận thức. Do đó, Chúa có thể biết được và được biết đến như là nội tại (ở đây); trong khi đối với bản ngã, Chúa chỉ được coi là siêu việt (ở ngoài kia).

***

Chính nhận thức thậm chí còn nằm ngoài ý thức. Do đó, có thể nói rằng không thể biết được chính xác cái Tuyệt đối, vì nó vượt ra ngoài khả năng biết; nghĩa là, ý thức không vươn tới được. Những người vươn tới trạng thái nhận thức như thế nói rằng không thể mô tả nó và không có ý nghĩa gì đối với những người chưa trải nghiệm được bối cảnh đó. Tuy nhiên, đây là trạng thái thực sự của Thực tại, phổ quát và vĩnh cửu; chúng ta chỉ không nhận ra mà thôi. Nhận ra là bản chất của chứng ngộ, và là giải pháp cuối cùng của quá trình tiến hóa của ý thức đến mức Tự siêu việt. Đại ngã thay thế bản ngã.

***

Nói chung, mục tiêu của xã hội là thành công trên thế gian này, trong khi mục tiêu của chứng ngộ là siêu việt nó.

***

Cần nhớ rằng cả Sự thật lẫn chứng ngộ đều không phải là cái gì đó có để tìm được, tìm kiếm, thủ đắc, đạt được hay sở hữu. Cái là Hiện diện Vô biên Vô tế luôn luôn có đó, và nhận ra nó tự xảy ra khi những trở ngại đối với nhận thức được loại bỏ. Do đó, không cần thiết phải nghiên cứu sự thật mà chỉ cần buông bỏ những thứ sai lầm. Xua tan những đám mây không làm cho mặt trời chiếu sáng mà chỉ đơn giản là tiết lộ những gì đã từng ẩn giấu bấy lâu nay.

***

Do đó, công việc tâm linh chủ yếu là buông bỏ những thứ mà người ta nghĩ rằng đã biết để tìm kiếm những thứ chưa biết—với sự khuyến khích từ những người đã nhận ra Hiện diện Vô biên Vô tế, nói rằng nỗ lực này sẽ được đền đáp một cách xứng đáng.

***

Muốn phụng sự thế giới một cách tốt nhất, hãy tìm kiếm chứng ngộ và siêu việt vọng tưởng, chứ đừng góp phần làm cho vọng tưởng phồng to lên.

***

Công cuộc nghiên cứu bản chất của ý thức sẽ dẫn trực tiếp đến cội nguồn của chứng ngộ, vì Ánh sáng của Ý thức là điều kiện của chứng ngộ. Nhờ Ánh sáng của nó, người biết và cái được biết được hợp nhất trong nhận thức về Đại ngã như là Thiên Chúa Có mặt khắp nơi.

***

Ý thức không công nhận tách biệt, đó là hạn chế của tri giác. Trạng thái chứng ngộ là “Nhất thể” trong đó không có phân chia thành các phần. Chỉ có tri giác khu biệt mới thấy một cách rõ ràng sự phân chia như thế; nó chỉ là một quan điểm ngẫu nhiên mà thôi.

***

Tiềm năng Vô biên Vô tế, Tối thượng là Thực tại của Tồn tại. Do đó, “Tất Cả Những Thứ Đang Là” là bẩm sinh Thần thánh, nếu không thì nó không thể tồn tại được. Biểu hiện tuyệt đối của Thần tính là Tính Chủ Quan. Nếu tôi tồn tại, thì Chúa tồn tại. Chứng ngộ là sự xác minh rằng tất cả tồn tại không chỉ là kết quả của Sáng tạo, mà chính tồn tại không khác Đấng sáng tạo. Cái được tạo ra và Đấng sáng tạo là một và như nhau.

***

Thông qua hoà điệu, ý định và tận tụy tâm linh—được hỗ trợ bởi thiền định, chiêm nghiệm, hướng dẫn đúng đắn và Sự thật; và được hỗ trợ bởi trường năng lượng của một đạo sư cao cấp—những bước nhảy vọt lớn của ý thức có thể xảy ra một cách bất ngờ. Do đó, quan trọng là phải biết từ trước - được xác nhận bằng nghiên cứu ý thức - về những bước nhảy vọt này.

***

Cơ hội để trở thành người chứng ngộ hiện nay cao hơn một nghìn lần so với bất kỳ thời điểm nào trong quá khứ, có nghĩa là vươn tới tầng Tình yêu vô điều kiện (điểm hiệu chỉnh 540) là mục tiêu rất có thể vươn tới được và thực hiện được. Từ tầng Tình yêu vô điều kiện, con đường ngày càng vui hơn. Ở tầng 600, xuất hiện tĩnh lặng và bình yên vô biên vô tế—và sự tiến triển từ đó trở đi phụ thuộc vào Ý Chí của Thượng Đế, nghiệp lực và cái Biết tiềm năng đang nảy mầm bên trong hào quang tâm linh.

***

Người ta nhận ra Sự thật. Nó tự xuất hiện với một trường nhận thức đã được chuẩn bị cho phép nó tự bộc lộ. Sự thật và chứng ngộ không phải là thứ có thể thủ đắc hay đạt được. Chúng là những trạng thái hoặc hoàn cảnh tự xuất hiện khi có các điều kiện phù hợp và trở ngại được loại bỏ.

***

Mọi con đường tìm kiếm đều dẫn đến cùng một câu trả lời tối thượng. Khám phá ra rằng không có gì bị che giấu và Sự thật có mặt khắp mọi nơi là chìa khóa dẫn tới chứng ngộ về những vấn đề thực tế đơn giản nhất và số phận của nhân loại. Trong quá trình xem xét cuộc sống hàng ngày của mình, chúng ta có thể thấy rằng tất cả sợ hãi của chúng ta đều là do dối trá mà ra. Thay thế dối trá bằng sự thật là bản chất của quá trình chữa lành mọi thứ, cả hữu hình lẫn vô hình. Và lúc nào cũng thế, câu hỏi cuối cùng sẽ xuất hiện đối với tất cả những người tìm kiếm—câu hỏi lớn nhất: “Tôi là ai?”

***

Bạn phải từ bỏ vọng tưởng cho rằng bạn biết mình là ai. Trong trạng thái Thần thánh này, không có gì để “biết” vì bạn là nó. Thực hiện bước nhảy này là khó—nhưng đột nhiên, nó tự xảy ra, và sau đó người đó được tự do mãi mãi. Không chắc chắn được thay thế bằng niềm vui bất tận. Sau đó, cuộc sống của người đó sẽ là một vở hài kịch bất tận! Bạn không phải là “ai” mà là “cái gì”.

***

Một trong những lý do làm cho sự chậm trễ dường như kéo dài bất tận là thái độ nghi ngờ, nó nên được buông bỏ như là kháng cự. Quan trọng là phải biết rằng thực ra người cam kết với Sự thật Tâm linh đến mức nghiêm túc tìm kiếm chứng ngộ là cực kỳ hiếm, và những người cam kết làm như thế vì họ thực sự có số phận là vươn tới chứng ngộ.

 

Tôi là ai? Ai đang hỏi? Bạn tìm được người đang đang hỏi, và nó trả lời toàn bộ câu hỏi. Đó không phải là “ai” mà là “cái gì”.

***

Ở ngưỡng cửa cuối cùng dẫn đến sự chứng ngộ là thử thách cuối cùng của bản ngã, đó là niềm tin cốt lõi, trung tâm rằng nó là cội nguồn và là nơi chốn không chỉ của bản sắc mà còn của chính đời sống. Lúc đó, một người hoàn toàn đơn độc và bị tước mất mọi biện pháp bảo vệ hoặc chỗ dựa có tính an ủi, hệ thống niềm tin, hoặc thậm chí là ký ức. Trong hào quang của người đó chỉ còn duy nhất tần số cao của rung động trong ý thức của vị Thầy đã Chứng Ngộ, với hiểu biết đã được mã hóa. Bước cuối cùng được trực giác như là sự kết thúc mà không thể quay lại, và do đó có sự bàng hoàng trước tính tuyệt đối của kết thúc.

***

Sau đó, hiểu biết xuất hiện để bước thẳng về phía trước, dù chuyện gì xảy ra thì cũng thế, vì tất cả sợ hãi đều là vọng tưởng. Khi bước cuối cùng này được Ý chí Tâm linh thực hiện, người ta trải nghiệm cái chết, nhưng thống khổ dữ dội chỉ kéo dài trong vài khoảnh khắc. Cái chết của bản ngã là cái chết thực sự duy nhất mà người đó có thể trải nghiệm, ngược lại với những lần chết trước đó, rời khỏi cơ thể là tương đối tầm thường. Trải nghiệm về cái chết kết thúc bằng sự kinh ngạc trước mặc khải của Thực tại Tối thượng—và sau đó ngay cả kinh ngạc cũng biến mất và Đại ngã siêu việt tính nhị nguyện của Tồn tại so với Không tồn tại, Toàn thể so với Không có gì, và Hiện diện khắp nơi so với Hư vô.

***

Cuối cùng, đối với người sùng đạo thực sự, theo đuổi thực tại tâm linh thế chỗ tất cả các tính toán khác. Cam kết trở thành người chứng ngộ là quyết định dù chuyện gì xảy ra thì bạn cũng cương quyết không từ bỏ.

***

Đệ tử nghiêm túc cần biết trước rằng ở ngưỡng cửa cuối cùng (Ngưỡng cửa cuối cùng có điểm hiệu chỉnh ở 999), anh ta sẽ phải đối mặt với sẵn sàng từ bỏ chính đời sống của mình—hoặc ít nhất là cái mà người ta tin từ khi bắt đầu quá trình tiến hóa là cốt lõi của chính đời sống. Rất hiếm người vượt qua được ngưỡng cửa cuối cùng này, và một trong những lý do là không được chuẩn bị, không chắc chắn và còn nghi ngờ cuối cùng rất to lớn..

***

Vào khoảnh khắc cuối cùng, những dấu vết cuối cùng của nghi ngờ và nỗi sợ hiện sinh có thể nổi lên từ những tầng sâu thẳm. Lúc đó, đức tin vào những lời dạy của các bậc thầy hướng dẫn chúng ta “Hãy đi thẳng về phía trước, dù chuyện gì xảy ra thì cũng thế” xuất hiện và chứng minh là đúng, vì vinh quang của Chúa đang chờ đợi ở phía bên kia của rào cản lớn cuối cùng này.

 

GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ

Phần giải thuật ngữ này là một tập hợp các đoạn trích đã được biên tập từ các tác phẩm của Tiến sĩ Hawkins.

Ý thức: Ý thức là trường năng lượng vô hạn, hiện hữu khắp nơi, phổ quát, là sóng tải thể và kho chứa tất cả các thông tin có sẵn trong vũ trụ—và quan trọng hơn, đó chính là bản chất và nền tảng của khả năng biết hoặc trải nghiệm, tri giác hoặc chứng kiến. Quan trọng hơn nữa, ý thức là phẩm chất chính yếu, không thể quy giản của tất cả tồn tại —trường năng lượng vô hình tướng, không nhìn thấy được có chiều kích và tiềm năng vô hạn, không phụ thuộc vào thời gian, không gian hoặc vị trí, nhưng lại bao hàm tất cả và hiện diện khắp nơi.

Ý thức là phẩm chất phi cá nhân của Thần tính được thể hiện dưới dạng nhận thức và là phi nhị nguyên và phi tuyến tính. Nó giống như không gian vô hạn có khả năng nhận thức và là phẩm chất của Bản chất Thần thánh.

Bối cảnh: Toàn bộ trường quan sát, được khẳng định bởi một quan điểm. Bối cảnh bao gồm bất kỳ sự kiện quan trọng nào đủ sức làm rõ ý nghĩa của một lời tuyên bố hoặc sự kiện. Dữ liệu là vô nghĩa trừ khi xác định được bối cảnh của nó. “Lấy ra khỏi bối cảnh” là bóp méo ý nghĩa của một tuyên bố bằng cách không xác định các điều kiện phụ trợ góp phần làm rõ hàm ý của ý nghĩa.

Tính nhị nguyên: Thế giới của hình tướng có đặc điểm là tách biệt rõ ràng của các đối tượng, được phản ánh trong tách biệt mang tính khái niệm như “cái này/cái kia”, “ở đây/ở đó”, “lúc đó/bây giờ” hoặc “của bạn/của tôi”. Cảm giác về sự giới hạn của con người xuất phát từ các giác quan của chúng ta, bởi vì chúng ta thường có xu hướng nhìn từ một góc độ cố định.

Bản ngã (hay tự ngã (self) với chữ s viết thường): Bản ngã là người làm mà người ta tưởng tượng ra phía sau tư duy và hành động. Người ta tin chắc rằng nó là cần phải có nó và nó cực kỳ cần thiết cho sự sống còn. Lý do là phẩm chất chính của bản ngã là tri giác, và là tri giác, nó bị giới hạn bởi hệ hình nhân quả.

Bản ngã có thể được gọi là trung tâm xử lý và lập kế hoạch; là trung tâm tích hợp, điều hành, chiến lược và chiến thuật; chuyên làm công việc dàn xếp, đối phó, phân loại, lưu trữ và truy xuất. Nó có thể được coi là một tập hợp các thói quen tư duy đã ăn sâu bén rễ, là kết quả của sức cuốn hút của các trường năng lượng không nhìn thấy được đang chi phối ý thức của con người. Những thói quen tư duy này lại được củng cố bằng cách lặp đi lặp lại và sự đồng thuận của xã hội.

Bản ngã có thể được gọi là bộ xử lý trung tâm và trung tâm lập kế hoạch; trọng tâm tích hợp, điều hành, chiến lược và chiến thuật dàn dựng, đối phó, sắp xếp, lưu trữ và truy xuất. Nó có thể được coi là một tập hợp các thói quen tư duy cố thủ là kết quả của sự cuốn hút bởi các trường năng lượng vô hình thống trị ý thức con người. Chúng được củng cố bằng cách lặp lại và bằng sự đồng thuận của xã hội.

Chính ngôn ngữ cũng giúp củng cố bản ngả. Suy nghĩ bằng ngôn ngữ là một hình thức tự lập trình. Sử dụng đại từ “tôi” làm chủ ngữ, và do đó là nguyên nhân của mọi hành động, là sai lầm nghiêm trọng nhất và tự động tạo ra tính nhị nguyên của chủ thể và đối tượng.

Nói cách khác, bản ngã là tập hợp các chương trình, mà lý trí hoạt động thông qua một loạt các thuật toán phức tạp, nhiều lớp,  trong đó, suy nghĩ đi theo một số cây quyết định có trọng số khác nhau, đấy là do kinh nghiệm trong quá khứ, sự nhồi sọ và các lực lượng xã hội; do đó, nó không phải là hoàn cảnh tự tạo ra. Động lực mang tính bản năng gắn liền với các chương trình, do đó, làm cho các quá trình sinh lý phát huy tác dụng.

Chứng ngộ: Một trạng thái nhận thức khác thường, thay thế cho ý thức thông thường. Bản ngã được thay thế bằng Đại ngã. Trạng thái này nằm ngoài thời gian hoặc không gian, im lặng và tự thể hiện như một mặc khải. Trạng thái này xảy ra khi bản ngã bị xoá bỏ. Người ta thấy mọi thứ diễn một cách tự chủ chứ không phải là kết quả của quan hệ nhân quả.

Nghiệp: Về bản chất, nghiệp của mỗi cá nhân là một gói thông tin (tương tự như con chip máy tính) tồn tại trong miền phi vật chất của ý thức. Nó chứa mã thông tin được lưu trữ vốn có trong, và là một phần của, cơ thể tâm linh hay linh hồn. Nó là nơi ngưng tụ tất cả các trải nghiệm trong quá khứ, cùng với các sắc thái liên quan của suy nghĩ và cảm xúc. Linh hồn vẫn giữ được quyền tự do lựa chọn, nhưng phạm vi lựa chọn đã được định hình sẵn.

Nghiệp là tuyến tính, lan truyền qua linh hồn và được thừa hưởng như là hậu quả của những hành động quan trọng của ý chí. Thực ra “Nghiệp” có nghĩa là trách nhiệm giải trình—và, như đã trích dẫn trong các công trình nghiên cứu tâm linh trước đây, mọi thực thể đều phải trả lời trước vũ trụ. Tóm lại, như mọi người đều biết, nghiệp (số phận tâm linh) là hậu quả của những quyết định của ý chí và quyết định số phận tâm linh sau khi người ta chết về mặt thể xác (các tầng trời, địa ngục, luyện ngục hoặc cái gọi là cõi trung giới bên trong). Bao gồm cả lựa chọn tái sinh trong miền vật lý của con người, điều này, như được chứng minh bằng nghiên cứu hiệu chỉnh ý thức, chỉ có thể được thực hiện bắng cách thoả thuận với ý chí cá nhân. Vì vậy, tất cả mọi người, bằng thỏa thuận, đã chọn con đường này. Ngoài ra, nghiên cứu ý thức xác nhận rằng tất cả mọi người đều được sinh ra trong điều kiện tối ưu nhất cho quá trình tiến hóa tâm linh, không phụ thuộc vào hình dáng bên ngoài. Nếu bạn không đồng ý thì bạn đã không được sinh ra.

Tuyến tính: Đi theo tiến trình hợp logic theo vật lý Newton và do đó, có thể giải quyết được bằng toán học truyền thống bằng cách sử dụng các phương trình vi phân.

 

Phi nhị nguyên: Khi siêu việt được giới hạn của một vị trí cố định của nhận thức, thì sẽ không còn vọng tưởng về sự tách biệt, không còn không gian và thời gian như chúng ta biết. Ở tầng phi nhị nguyên, có quá trình quan sát nhưng không có người quan sát, vì chủ thể và đối tượng là một. Bạn và tôi trở thành Một Đại Ngã trải nghiệm tất cả như Thần thánh. Trong phi nhị nguyên, ý thức trải nghiệm chính nó như là cả hiển lộ và phi hiển lộ, nhưng không có người trải nghiệm. Trong thực tại này, thứ duy nhất có khởi đầu và kết thúc là hành động tri giác chính nó.

Định vị: Các định vị là những cấu trúc thiết lập toàn bộ cơ chế tư duy đang vận hành và kích hoạt nội dung của nó. Các định vị là các chương trình, không phải là Đại ngã thực sự. Thế giới nắm giữ một loạt quan điểm, đấy là những giả định tùy tiện và hoàn toàn sai lầm. Các định vị nguyên thủy là: (1) Những tư tưởng có ý nghĩa và vai trò quan trọng; (2) Có ranh giới phân chia giữa các mặt đối lập; (3) Có quyền tác giả—những suy nghĩ có giá trị vì chúng là “của tôi”; (4) Suy nghĩ là cần thiết nhằm kiểm soát, và sự sống còn phụ thuộc vào quyền kiểm soát. Tất cả các định vị thế đều là tự nguyện.

Đại ngã (Self – chữ S viết hoa): Đại ngã vượt ra ngoài - nhưng lại là bẩm sinh ở bên trong - mọi hình tướng—phi thời gian, không có khởi đầu hay kết thúc, bất biến, vĩnh cửu và bất tử. Từ đó xuất hiện nhận thức, ý thức và trạng thái vô biên vô tế của “ở nhà”. Đó là tính chủ quan tối thượng, từ đó xuất hiện ý thức về “tôi” của mọi người. Thực tại Vô biên Vô tế thậm chí không biết chính nó là “tôi” mà là chính  nền tảng của khả năng cho tuyên bố như thế. Nó vô hình và hiện hữu khắp nơi. Đại ngã là Thực tại của thực tại, là Nhất thể và Toàn thể của Bản sắc. Đó là “tôi” tối thượng của chính ý thức như là sự hiển lộ của cái phi hiển lộ. Do đó, cái không mô tả được lại được mô tả.

Tính chủ quan: Cuộc sống chỉ được sống ở tầng trải nghiệm và không có cách nào khác. Mọi trải nghiệm đều là chủ quan và phi tuyến tính; do đó, ngay cả việc mô tả “thực tại” theo lối tuyến tính, mang tính tri giác, tuần tự cũng không thể được trải nghiệm, ngoài trải nghiệm theo lối chủ quan. Mọi “sự thật” đều là một kết luận chủ quan. Mọi sự sống về bản chất đều là phi tuyến tính, không thể đo lường, không thể định nghĩa. Hoàn toàn mang tính chủ quan.

Sự thật: Sự thật là tương đối và chỉ “đúng” trong một bối cảnh nhất định. Mọi sự thật chỉ là sự thật trong một tầng ý thức nhất định. Ví dụ, tha thứ là điều đáng khen ngợi, nhưng ở giai đoạn sau, người ta thấy thực ra không có gì để tha thứ. Không có “người khác” nào để được tha thứ. Bản ngã của mọi người đều không thực như nhau, kể cả bản ngã của chính mình.

 

Trí giác không phải là thực tại. Sự thật xuất hiện từ tính chủ quan và hiển nhiên và là tự bộc lộ. Sự thật là chủ quan triệt để. Với sự sụp đổ của vọng tưởng về tính nhị nguyên, trong đó có “thực tại” được cho là của một “tự ngã” riêng biệt, thì chỉ còn lại trạng thái của “Tôi” Vô biên Vô tế, là sự hiển lộ của Phi Hiển Lộ như Đại ngã. Sự thật không có sự đối lập, chẳng hạn như dối trá hay “không đúng”.

Không có gì bị che giấu khỏi trường ý thức. Sự thật tối thượng vượt ra ngoài tính hiện hữu, hoặc bất kỳ động từ không cần bổ ngữ nào khác. Bất kỳ nỗ lực nào để định nghĩa Đại ngã, chẳng hạn như “Tôi là Cái mà Tôi là”—hoặc thậm chí chỉ là “Tôi là”—đều là thừa. Thực tại Tối thượng nằm ngoài mọi tên gọi. “Tôi” biểu thị tính chủ quan triệt đẻ của trạng thái Chứng ngộ. Nó chính là tuyên bố trọn vẹn về Thực tại.

VỀ TÁC GIẢ

 

Sir David R. Hawkins, M.D., Ph.D., là bác sĩ tâm thần, nhà nghiên cứu ý thức, diễn giả tâm linh và nhà huyền môn nổi tiếng thế giới. Ông là tác giả của hơn tám đầu sách, trong có cuốn bán chạy nhất Power vs. Force, các tác phẩm của ông đã được dịch ra hơn 17 thứ tiếng. Trong những năm 1970, ông là đồng tác giả cuốn Orthomolecular Psychiatry cùng với Linus Pauling, Khôi nguyên Nobel, đã tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực tâm thần học. Tiến sĩ Hawkins từng xuất hiện trên các chương trình truyền hình như The MacNeil/Lehrer NewsHour, The Barbara Walters Show, và the Today show. Ông đã thuyết trình tại Tu viện Westminster, Diễn đàn Oxford, Đại học Argentina, Notre Dame, Stanford và Harvard; đồng thời là cố vấn cho các tu viện Công giáo, Tin lành và Phật giáo. Là người đoạt giải thưởng Huxley Award, được Dòng Hiệp sĩ Thánh John của Jerusalem phong tước Hiệp sĩ, được đề cử trao giải Templeton Prize và được tôn vinh ở phương Đông với danh hiệu Tae Ryoung Sun Kak Tosa (“Đạo sư hàng đầu về con đường chứng ngộ”), công trình của Tiến sĩ Hawkins tiếp tục có ảnh hưởng sâu sắc đến toàn thể loài người.

 

Scott Jeffrey là tác giả của nhiều cuốn sách, trong đó có Creativity Revealed: Discovering the Source of Inspiration. Hiện tại ông đang soạn cuốn tiểu sử về Tiến sĩ David R. Hawkins.

No comments:

Post a Comment