Jim Powell
Phạm Nguyên Trường (dịch)
Ít người nhận thức được mối nguy hiểm của quyền lực chính trị rõ ràng như Lord Acton. Ông hiểu rằng
những người nắm quyền thường đặt quyền lợi của chính họ cao hơn tất cả và sẽ
làm tất cả mọi việc nhằm giữ được quyền lực. Họ thường xuyên nói dối. Họ vu cáo
những người cạnh tranh. Họ chiếm đoạt tài sản tư nhân. Họ phá hủy của cải. Đôi
khi họ còn giết người, thậm chí tàn sát nhiều người. Trong những bài viết và
bài giảng của mình, Acton chống lại xu hướng tập thể của thời đại mình và tuyên
bố rằng quyền lực chính trị là cội nguồn của cái ác, vô phương cứu chữa. Ông gọi
chủ nghĩa xã hội “là kẻ thù tệ hại nhất mà tự do từng gặp từ trước đến nay”.
Đôi khi Acton đạt được
đỉnh cao của thuật hùng biện, đấy khi ông khẳng định rằng tự do cá nhân là tiêu
chuẩn đạo đức để phán xét các chính phủ. Ông tin “rằng tự do là đỉnh cao nhất…
tự do hầu như, nếu chưa nói là hoàn toàn, là biểu hiện, phần thưởng và động cơ
trong quá trình đi lên của dân tộc… Dân tộc thù nghịch với sở hữu tư nhân là
dân tộc không có thành tố quan trọng nhất của tự do… Tự do không phải là phương
tiện để đạt tới mục đích chính trị cao nhất. Tự do chính là mục đích chính trị
cao nhất”.
Mặc dù Acton ngày càng
cô đơn, ông được người ta ngưỡng mộ vì kiến thức siêu phàm về lịch sử. Ông truyền
cho thế giới nói tiếng Anh quan niệm khắt khe – các học giả Đức thế kỉ XIX là
những người đi tiên phong – trong việc nghiên cứu lịch sử, càng tìm hiểu được
nhiều nguồn sử liệu ban đầu thì càng tốt. Ngôi nhà của ông ở Cannes (Pháp) có
hơn 3.000 đầu sách và bản thảo; ngôi nhà ở Tegernsee (Bavaria) có khoảng 4.000;
và ngôi nhà ở Aldenham (Shropshire, Anh) có gần 60.000 đầu sách và bản thảo.
Ông đánh dấu hàng ngàn đoạn mà ông coi là quan trọng. Năm 1873 ông được trường
Đại học Munich trao tặng danh hiệu Tiến sĩ triết học, năm 1889 ông được Đại học
Cambridge trao tặng danh hiệu Tiến sĩ luật và năm 1890 ông được Đại học Oxford
trao tặng danh hiệu Tiến sĩ luật dân sự – nhưng ông chưa bao giờ có bằng cấp
gì, thậm chí không có cả bằng tốt nghiệp phổ thông.
Chắc chắn là, Acton
không nắm được nhiều vấn đề. Khoa học không phải là mối bận tâm của ông. Mặc dù
lo lắng cho người nghèo, nhưng ông coi những người theo phái tự do chủ nghĩa ở
Manchester quan tâm tới việc nâng cao đời sống là những người duy vật không
đáng để ý. Ông biết rất ít về lịch sử kinh tế, tức là môn học nói cho ta biết
người dân bình thường làm ăn sinh sống như thế nào. Ông bị tiêm nhiễm tư tưởng
cho rằng thị trường làm cho người giàu ngày càng giàu thêm, trong khi người
nghèo ngày càng nghèo hơn, trong khi thực tế thị trường tự do – ví dụ, cuộc
Cách mạng công nghiệp thời ông – đã cứu hàng triệu khỏi bị chết đói.
Acton trông như thế nào? Những bức ảnh được công bố
đều cho thấy ông có một bộ râu dài. Ông có đôi mắt màu xanh, sắc sảo, trán cao.
“Ông là người cao trung bình và về già ông đẫy ra”, nhà viết tiểu sử David
Matthew nói. “Ông ấy là người hoạt ngôn nổi tiếng, nhưng khi nói về mô hình Đức
thì bao giờ ông cũng dẫn ra nhiều sự kiện và tài liệu tham khảo. . . ông rất
thích đi bộ, băng qua những sườn đồi thấp vùng núi Bavaria hoặc lang thang trên
sườn dốc vùng núi hướng ra biển ở Alpes Maritimes (Pháp)”.
Acton truyền cho người
nghe niềm đam mê cực kì to lớn. “Giọng ông có sức hút như nam châm”, một sinh
viên từng nghe ông giảng bài ở Cambridge nói. “Chưa bao giờ một thanh niên trẻ
có sức thuyết phục trong mỗi lời nói như Lord Acton từng thể hiện. Nó khống chế
toàn bộ đối tượng, dường như ôm trọn đối tượng trong ngọn lửa hừng hực của nó.
Và ngọn lửa nuôi dưỡng mỗi lời nói đó là vô cùng vô tận, chí ít là những người
có mặt cảm thấy như thế. Trên hết, có lẽ chính niềm tin này đã tạo cho những
bài giảng của Lord Acton sức hấp dẫn và sức sống. Ông nói từng câu như thể ông
đang cảm thấy nó, treo nó lên một cách nhẹ nhàng và thốt ra với sự thận trọng
nhất định. Tình cảm của ông được truyền cho cử tọa, họ như nuốt lấy từng lời”.
Hoàn
cảnh gia đình
John Emerich Edward
Dalberg-Acton sinh ngày 10 tháng 1 năm 1834, ở Naples. Mẹ ông, bà Marie Pelline
de Dalberg được sinh ra trong một gia đình Công giáo ở Bavaria, thuộc dòng dõi
quý tộc Pháp. Cha ông, Ferdinand Richard Edward Acton, là một nhà quý tộc người
Anh. Bố của Acton mất khi ông vừa tròn ba tuổi, và khi ông lên sáu thì mẹ ông
tái giá với Lord Leveson, ông này sau được phong là Earl of Granville, một đảng
viên tự do (Whig) Anh có nhiều ảnh hưởng và từng giữ chức bộ trưởng ngoại giao
trong nội các theo đường lối tự do của John Russell và William Ewart Gladstone.
Acton được giáo dục chủ
yếu như một tín đồ Công giáo – ở Saint Nicholas (Pháp), St. Mary’s, Oscott
(Anh), Đại học Edinburgh (Scotland), ông học ở đây hai năm, và đại học Munich (Bavaria),
ông tới đây sau khi không được ban giám hiệu Cambridge và Oxford chấp nhận vì
là người Công giáo.
Johann Ignaz von
Dollinger, một trong các nhà sử học lỗi lạc nhất của Châu Âu là người thày quan
trọng nhất của Acton. Chẳng bao lâu sau khi Acton đến Munich vào tháng 6 năm
1850, ông bắt đầu rèn luyện để trở thành nhà sử học. “Con ăn sáng lúc 8 giờ”,
ông viết cho bố dượng, “sau đó học tiếng Đức hai giờ – một giờ đọc Plutarch và
một giờ đọc Tacitus. Giáo sư đặt ra tỷ lệ như thế. Con và giáo sư ăn cơm trưa
trước 2 giờ chiều một chút, đây là lần đầu tiên con gặp ông trong ngày. Lúc 3
giờ thì thày dạy tiếng Đức tới. Từ 4 giời đến 7 giờ tối con được tự do – con đọc
lịch sử hiện đại trong khoảng một tiếng đồng hồ – và đọc lịch sử cổ đại trong một
tiếng đồng hồ ngay trước bữa ăn tối. Con uống trà lúc 8 giờ tối, rồi nghiên cứu
văn học Anh và sáng tác đến khoảng 10 giờ thì đi ngủ”.
Acton và Dollinger đã
đi du lịch ở Áo, Anh, Đức, Thụy Sĩ, đã đến các thư viện và nhà sách. Họ tiến
hành phân tích các bản thảo, gặp gỡ các nhà thơ, nhà sử học, nhà khoa học và
chính khách.
Sư khiếm khuyết của ông
thể hiện rõ trong những nhận xét của ông về nước Mĩ mà ông đã cùng với bố dượng
tới thăm vào tháng 6 năm 1853. Là một nhà quý tộc, ông tỏ ra bàng quan vì cách
hành xử thô lậu và quá chú ý tới những vấn đề thực tế. Ông không nhận thức được
năng lực vô cùng to lớn của ngành thương mại Mĩ khi ông viết về New York:
“Không thể nhìn thấy thành phố vì nó quá bằng phẳng và xung quanh đầy tàu thuyền”.
Khi Acton bắt đầu học với
Dollinger, ông đã bị Thomas Babington Macaulay – một nhà sử học theo phái tự do
có tài hùng biện, đang đấu tranh cho tự do và tiến bộ – lôi cuốn. Acton tự mô tả
là “cậu học trò người Anh thô lậu, say sưa nền chính trị của Đảng tự do”. Nhưng
Dollinger giằng Acton ra khỏi Macaulay, và chàng trai trẻ đã trở thành người
hâm mộ Edmund Burke, người trước đây từng phản đối cuộc Cách mạng Pháp. Trong
khi học với Dollinger, Acton còn nghe các bài giảng của các nhà sử học vĩ đại
người Đức, Leopold von Ranke, môt người luôn luôn nhấn mạnh rằng vai trò của một
nhà sử học là giải thích chứ không phải là phán xét quá khứ.
Chủ
nghĩa bảo thủ thời gian đầu
Những người đã biết những
bài phát biểu hùng hồn nổi tiếng của Acton nhằm chống lại chế độ độc tài sẽ phải
giật mình khi biết rằng hồi đầu ông là người theo trường phái bảo thủ.
Ví dụ, khác với những
người theo phái tự do ở Manchester như Richard Cobden và John Bright, cùng với
đa số người Anh khác, Acton đứng về phía các bang miền Nam trong cuộc nội chiến
Mỹ. “Không thể dựa trên cở sở tôn giáo để thông cảm với việc cấm tuyệt đối chế
độ nô lệ, cũng không thể dựa trên cơ sở chính trị để chia sẻ quan điểm của chủ
nghĩa bãi nô”, ông viết như thế trong tiểu luận nhan đề “Những nguyên nhân
chính trị của cách mạng Mỹ” (1861). Năm năm sau, trong một bài giảng về cuộc Nội
chiến, Acton nhận xét rằng chế độ nô lệ “đã là một công cụ đầy sức mạnh không
chỉ để làm điều ác mà còn để làm điều thiện là giữ trật tự thế giới. . . . bằng
cách đánh thức, một mặt, sự hy sinh và mặt kia, lòng từ bi”. Acton từng nói với
một người bạn: “Tôi đã tan nát cõi lòng khi nghe tin tướng Lee đầu hàng”.
Trong tác phẩm “Thuyết
Tin lành về ngược đãi” (1862), ông từ chối lên án cuộc đàn áp trên mọi lĩnh vực.
Dường như ông bảo vệ những nhà cầm quyền Công giáo, những người tuyên bố rằng
khủng bố là biện pháp gắn kết xã hội duy nhất. Ông cho rằng người theo đạo Tin
Lành, như John Calvin, là những người xấu hơn vì họ khủng bố nhân dân là nhằm dập
tắt những quan điểm trái ngược với họ. Trong chỗ riêng tư, Acton nói thẳng hơn:
“Nói khủng bố là sai, nói trắng ra, trước hết, tôi cho là không đúng. . .
Tuy nhiên, Dollinger và
Acton đã trở thành những người phê bình thẳng thắn thái độ bất dung của Công
giáo. Đối tượng của họ lúc đó là những người theo phái ủng hộ quyền lực tuyệt đối
của Giáo hoàng (Ultramontanes), tức là những người tìm cách đàn áp tự do trí tuệ.
Dollinger và Acton đã bàn về chính sách của Vatican, đặc biệt là sau khi Giáo
Hoàng Pius IX ban hành Bản Cáo Trạng Những Sai Lầm (Syllabus of Errors) khét tiếng
(1864), cáo buộc chủ nghĩa tự do cổ điển là dị giáo, trong đó có tư tưởng “Đức
Thánh Cha ở Rome có thể và phải chấp nhận, và đồng ý với tiến bộ, tự do và nền
văn minh”.
Acton đã có đóng góp vào
việc xuất bản một loạt tờ tạp chí Công giáo với nhiệm vụ là giúp tự do hóa Nhà
thờ: Tờ Rambler ra hai tháng một lần (1858-1862), tờ Home and Foreign Review
(1862-1864) ra hàng quý và tờ Chronicle ra hàng tuần (1867-1868). Những nỗ lực
này đã bị thất bại vào năm 1870, đấy là khi Hội đồng Vatican tuyên bố rằng Giáo
Hoàng có uy quyền tuyệt đối, không thể sai lầm về tín điều của Giáo Hội. Bởi vì
Dollinger là một thày tu, việc ông chấp nhận điều này làm cho ông bị rút phép
thông công. Acton, chỉ là giáo dân bình thường, không bị yêu cầu chính thức thừa
nhận các nghị định của Hội đồng Vatican, và ông vẫn ở trong Giáo Hội.
Cũng trong thời gian
này, Acton viết một tiểu luận có tính tiên tri nhất của ông, nhan đề Quốc tịch
(1862), một lời báo động sớm về chế độ toàn trị: “Bất cứ khi nào một đối tượng
xác định duy nhất được đưa lên thành mục đích tối thượng của nhà nước, dù đấy
có là quyền lợi của một giai cấp, sự an toàn hay sức mạnh của quốc gia, hạnh
phúc lớn nhất cho nhiều người nhất, hay ủng hộ bất kỳ tư tưởng tư biện nào thì
cùng với thời gian, nhà nước chắc chắn sẽ trở thành độc đoán. Để có tự do, chỉ
cần hạn chế quyền lực công, vì tự do là cái duy nhất làm lợi cho tất cả mọi người
như nhau và không tạo ra phe đối lập”.
Năm 1865, ở tuổi 31,
Acton kết hôn với người em họ, nữ Bá tước Marie Anna Ludmilla Euphrosyne
Arco-Valley. Cô dâu vừa tròn 24 tuổi, là con của Bá tước Johann Maximilian
Arco-Valley. Bá tước là người giới thiệu Dollinger với Acton, vì vậy Acton và nữ
bá tước trẻ tuổi đã biết nhau ngay từ khi ông bắt đầu học tập ở Bavaria. Dường
như nữ Bác tước cũng chia sẻ mối quan tâm của chồng về tôn giáo và lịch sử. Họ
sinh được sáu người con, bốn người sống đến tuổi trưởng thành. Trong các bữa
ăn, Acton thường nói tiếng Đức với vợ, nói tiếng Ý với mẹ vợ, tiếng Pháp với chị
dâu, tiếng Anh với các con và có thể nói một ngôn ngữ châu Âu khác với khách.
Tôn giáo luôn luôn nằm
trong tâm trí Acton, và ông trở thành người cứng rắn hơn Dollinger, ông tuyên bố
rằng các nhà sử học phải lên án cái ác. Tháng 2 năm 1879, ông đoạn tuyệt với
Dollinger sau khi vị giáo sư lùi về quan điểm cho rằng vai trò của nhà sử học
chỉ là giải thích sự kiện, thậm chí nếu điều đó có nghĩa là không bàn về những
tội ác khủng khiếp. Acton khẳng định rằng những hành động tội ác, như giết người,
bao giờ cũng là tội ác. Ông viết về Tòa án dị giáo như sau: “Tòa thánh đã gây
ra những vụ giết người và tàn sát hàng loạt với quy mô lớn nhất và mức độ tàn bạo
và phi nhân nhất. Họ không chỉ là những kẻ sát nhân hàng loạt, mà họ còn đưa
nguyên tắc sát nhân thành luật của Giáo Hội Kitô giáo và điều kiện cho sự cứu rỗi”.
Acton than thở: “Trong
quan niệm đạo đức nền tảng của mình tôi hoàn toàn cô đơn”. Ông tâm sự với người
bạn của mình là Charlotte Blennerhassett như sau: “Hãy để tôi cố gắng nói càng
ngắn càng tốt và không cần lập luận với bạn rằng trên thực tế cái đó rất đơn giản,
rõ ràng, và không phải là câu chuyện thú vị. Đấy là câu chuyện về người đàn ông
bắt đầu cuộc sống với niềm tin rằng mình là người Công giáo chân thành và người
theo phái tự do chân thành; do đó ông ta từ bỏ tất cả những thứ không tương
thích với tự do trong đạo Công giáo và tất cả mọi thứ không tương thích với
Công giáo trong chính trị. . . . Vì vậy, tôi là một trong số những người ít suy
nghĩ về những cái đang là, mà suy nghĩ nhiều về những thứ nên là, những người
hi sinh thực tế vì lý tưởng, hi sinh quyền lợi vì nghĩa vụ, hi sinh quyền lực
vì đạo đức”.
Trong những năm 1870,
Acton không chỉ bị sốc về trí tuệ mà còn trải qua giai đoạn khó khăn trong cuộc
sống. Số là, phần lớn tu nhập của ông là từ đất nông nghiệp do cha mẹ để lại,
nhưng thu nhập từ trang trại lại giảm trong giai đoạn suy thoái kéo dài. Năm
1883, ông phải bán một số tài sản. Ông phải cho thuê bất động sản ở Aldenham.
Tuy nhiên, ông cũng đã tìm việc làm được trả lương cao.
Acton
và Gladstone
Nhờ ông bố dượng mà
Acton trở thành nghị viên trong khoảng 6 năm, kể từ năm 1859 và đã gặp
Gladstone ở đây. Galdstone làm thủ tướng tới ba nhiệm kì. Năm 1869, tức là ba
năm sau khi Acton thất cử, Gladstone phong cho Acton chức Nam tước và ông có
chân trong Viện Nguyên Lão, nhưng trong suốt thời gian ở trong quốc hội, ông chưa
bao giờ tham gia tranh luận. Acton coi Gladstone là người lãnh đạo tinh thần vĩ
đại và thường lặng lẽ ủng hộ ông này. Hai người đều say mê thảo luận về lịch sử
và tôn giáo.
Trong những bài phê
bình, Acton trách linh mục Anh giáo là Mandell Creighton, tác giả cuốn Lịch sử
Giáo hoàng trong thời kỳ Cải cách, là không lên án các Giáo hoàng thời Trung Cổ
– những người khởi xướng Tòa Án Dị Giáo. Nhưng Acton và Creighton đã trao đổi với
nhau một cách chân tình, và Actons đã viết những dòng khó quên nhất vào ngày 05
tháng 4 năm 1887:
“Tôi không thể chấp nhận
quy tắc của ông rằng chúng ta phải đánh giá Giáo hoàng và nhà vua khác với đánh
giá những người khác, với một giả định có lợi cho họ là họ không có gì sai. Nếu
có bất kỳ giả định nào thì đó phải là sử dụng biện pháp khác nhằm chống lại những
người nắm giữ quyền lực, biện pháp tăng khi quyền lực tăng. Không chịu trách
nhiệm trước pháp luật thì phải chịu trách nhiệm trước lịch sử. Quyền lực dẫn đến
tha hóa, quyền lực tuyệt đối tha hóa tuyệt đối”.
Acton là người Công
giáo mộ đạo, và ông đã đưa quan điểm của mình đi xa đến mức trách cứ bạn là
Gladstone, khi ông này viết bài mà ông cho là chưa xứng tầm nhằm bảo vệ Kitô
giáo trước cuộc tấn công của những tiểu thuyết gia nổi tiếng. Acton nhận xét rằng
những người không có tín ngưỡng đáng bị coi là đã gây ra cuộc chiến dẫn đến kết
quả là Giáo Hội Kitô đã trở thành “tổ chức bất dung, chuyên chế và tàn ác kinh
khủng như thế”.
Việc học tập không mệt
mỏi của ông thì sao? Acton theo đuổi tư tưởng từ cuốn này sang quyển sách khác,
để rồi sau đó thì bỏ. Ông đã nghiên cứu về lịch sử các Giáo hoàng, lịch sử những
cuốn sách bị Giáo Hội Công Giáo cấm, lịch sử nước Anh thời James II và lịch sử
Hiến pháp Mĩ. Ông đã nghĩ tới cuốn lịch sử phổ quát, chủ đề của nó sẽ là quyền
tự do của con người. Nó đã trở thành giấc mơ của ông về lịch sử của tự do.
Tác giả James Bryce nhớ
lại, Acton “nói như một người đầy cảm hứng, dường như đang phát biểu trên đỉnh
núi cao trong không trung, ông nhìn thấy ở bên dưới con đường tiến bộ của nhân
loại quanh co khúc khuỷu từ thời tiền sử tối tăm đến thời hiện đại sáng sủa
hơn, nhưng vẫn còn thất thường và đôi khi bị gián đoạn. Khả năng hùng biện của
ông thật là tuyệt vời, nhưng hơn cả tài hùng biện là tầm nhìn xuyên thấu, giúp
– thông qua tất cả các sự kiện và các thời đại – nhận ra trò chơi của những lực
lượng tinh thần, khi thì sáng tạo, khi thì phá hủy, luôn luôn chuyển hóa, tạo
ra và tái tạo các thiết chế và trao cho linh hồn của nhân loại những hình thức
hoạt động không ngừng thay đổi của mình. Dường như toàn bộ lịch sử đột nhiên
lóe lên trước luồng ánh sáng mặt trời rực rỡ”./.
Lịch
sử của tự do
Acton gói gọn một phần
của chủ đề yêu thích của mình trong hai bài giảng nhan đề: “Lịch sử của Tự do
trong thời Cổ đại” (The History of Freedom in Antiquity) và “Lịch sử của Tự do
trong thời Kitô giáo” (The History of Freedom in Christianity), cũng như trong
bài điểm cuốn Dân chủ ở châu Âu của Sir Erskine May (1878 ). Ông đã tìm được
nguồn gốc của tự do trong các học thuyết của người Hebrew cổ về “luật cao hơn”
áp dụng cho tất cả mọi người, thậm chí cả những người cai trị. Ông giải thích
cách thức – chỉ có ở phương Tây – mà các tôn giáo cạnh tranh với nhau đã tạo ra
cơ hội cho các cá nhân vươn tới tự do. Ông nói về con đường đưa đến chế độ dân
chủ ở các thị trấn thương mại. Ông nói về những học thuyết cấp tiến, theo đó,
các cá nhân có thể nổi loạn khi nhà cầm quyền tiếm đoạt quyền lực một cách bất
hợp pháp. Ông ghi lại theo trình tự thời gian những cuộc chiến đấu anh hùng nhằm
chống lại các bạo chúa”.
Những bài tiểu luận này có rất nhiều nhận xét đáng
ghi nhớ. Ví dụ:
“[Tự
do] là quả ngọt của nền văn minh đã chín muồi . . . Trong tất cả các thời đại sự,
tiến bộ của nó thường bị những kẻ thù tự nhiên của nó, bị sự dốt nát và mê tín
dị đoan, bị ham muốn chinh phục và thích nhàn nhã, tham đắm quyền lực của kẻ mạnh
và tham ăn của người nghèo cản trở. . . . Trong tất cả các giai đoạn, những người
bạn chân thành của tự do bao giờ cũng hiếm, và nó chiến thắng là nhờ thiểu số,
mà thắng bằng cách liên kết với những phụ tá có mục đích khác với mục đích của
những người yêu chuộng tự do; và hiệp hội này luôn luôn nằm trong vòng nguy hiểm,
đôi khi là tai họa nữa. . . . Bài kiểm tra chắc chắn nhất mà chúng ta dùng để
đánh giá xem đất nước có thực sự tự do hay không là mức độ an toàn mà những
nhóm thiểu số được hưởng….”
Tại sao ở Mĩ tự do lại được bảo đảm hơn hầu hết các
nơi khác? “Tự do”, Acton viết cho Mary, con gái của Gladstone, “phụ thuộc phân
chia quyền lực. Chế độ dân chủ có xu hướng dẫn tới tập trung quyền lực… Thể chế
liên bang là biện pháp kiểm soát sự tập trung và tập quyền khả dĩ duy nhất”.
Đáng tiếc là Acton không chú tâm vào dự án lớn nào.
Những tập giấy tờ đồ sộ mà ông để lại thậm chí không có bản phác thảo về lịch sử
của tự do. Ông chưa khởi thảo. Ông để lại khoảng 500 hộp màu đen và những cuốn
vở, chủ yếu là những đoạn lộn xộn từ những tác phẩm khác nhau. Nhiều tài liệu
bàn về những ý tưởng trừu tượng chứ không phải là sự kiện lịch sử. Sau này, sử
gia E.L. Woodward nhận xét rằng cuốn lịch sử về tự do của Acton đã có thể là
“cuốn sách vĩ đại nhất không bao giờ được viết ra”.
Năm 1895, nhà sử học
John Seeley ở Đại học Cambridge chết và thủ tướng Rosebery phải bổ nhiệm vị
giáo sư Hoàng gia mới về lịch sử hiện đại. Mặc dù Acton chưa từng dạy học bao
giờ, người ta đã đề nghị ông vì kiến thức, lòng trung thành đối với tự do và
ông đang cần tiền. Và vì vậy mà Acton, người không được nhận vào học ở
Cambridge, lại được bổ nhiệm vào vị trí đầy uy tín ở trường này.
Trong bài giảng nhân
ngày nhậm chức nổi tiếng, ông nhấn mạnh rằng cần đánh giá các chính trị gia như
những người bình thường: “Tôi khuyên các bạn không bao giờ được làm mất giá
tiêu chuẩn đạo đức hoặc hạ thấp các tiêu chuẩn về tính chính trực, mà phải phán
xét những người khác bằng những câu châm ngôn mà bạn dùng để hành xử trong cuộc
sống của chính mình và không để ai hay lý do gì thoát khỏi hình phạt vĩnh cửu
mà lịch sử có quyền trừng phạt những kẻ làm sai”.
“Lịch sử,” ông nói tiếp,
“dạy rằng sai và đúng là khác nhau. Ý kiến thay đổi, phong tục thay đổi, tín điều
xuất hiện rồi biến mất, nhưng luật đạo đức thì được viết trên những tấm biển
còn mãi với thời gian”.
“Nguyên tắc của nền
chính trị đúng đắn cũng là những nguyên tắc của đạo đức được mở rộng ra, hiện
nay tôi không chấp nhận, cũng như sẽ mãi mãi không bao giờ chấp nhận nguyên tắc
nào khác”.
Ttong những năm làm việc
cuối cùng ở Cambridge, Acton chỉ giảng có hai loạt bài – về lịch sử hiện đại và
về Cách mạng Pháp – nhưng các đồng nghiệp rất kính trọng ông. Nhà sử học George
Macaulay Trevelyan nhớ lại:
Kiến thức, trải nghiệm
và quan điểm của ông mang đặc trưng của người châu Âu lục địa, nhưng chủ nghĩa
tự do Anh lại là phần quan trọng trong triết học của ông. Ông đã tạo được ấn tượng
sâu sắc trong cái xã hội phần nào có tính tỉnh lẻ của chúng tôi. Những giáo sư
thuộc đủ các lĩnh vực thường tụ tập lại để nghe những bài giảng bí hiểm, có thể
làm người ta bối rối, nhưng rất ấn tượng của ông. Ông đã có vầng trán của Plato
và phong cách của một nhà hiền triết và là một người vĩ đại. Nhiều tư tưởng của
chúng ta cũng là tư tưởng của ông, nhưng tư tưởng của ông đã được rút ra từ những
nguồn khác và từ kinh nghiệm rộng lớn hơn. Những điều ông nói bao giờ cũng thú
vị, nhưng đôi khi có vẻ kì lạ. Tôi nhớ, ví dụ, ông nói với tôi rằng các quốc
gia được xây dựng trên sự thống nhất của một chủng tộc duy nhất, như nước Ý và
nước Đức hiện đại, sẽ là mối nguy cho tự do; lúc đó tôi không hiểu ông nói gì,
nhưng bây giờ thì hiểu!
Ông nhận chức
Professorial Fellowship ở Đại học Trinity, thời gian đầu ông sống trong phòng của
mình ở Nevile’s Court. Lúc nào ông cũng ở đó, sẵn sàng tiếp bất cứ nhà sử học
nào của Cambridge, từ [Frederic] Maitland hay [William] Cunningham đến những
sinh viên chưa tốt nghiệp khiêm tốn nhất, sẵn sàng giúp đỡ bất cứ ai với kho
tàng kiến thức sâu sắc của mình. Ông ngồi sau bàn làm việc, khuất sau một mê
cung các kệ sách cao mà ông dùng để xếp các cuốn sách lịch sử, mỗi cuốn lại có
những mảnh giấy dán thò ra ngoài để đánh dấu những đoạn quan trọng.
Ông rất ân cần đối với
tôi. Tôi nhớ lần hai người đi cùng nhau và cái chỗ trên đường Madingley, nơi
ông nói với tôi rằng đừng bao giờ tin những người đánh giá thấp ông chú tôi
[Thomas Babington Macaulay], vì mặc dù ông có những sai lầm như thế, nhưng nói
chung ông vẫn là người vĩ đại nhất trong số các nhà sử học.
Từ khi Acton công nhận
rằng ông sẽ không bao giờ viết lịch sử về tự do, ông đồng ý biên tập một loạt
cuốn sách tập hợp đóng góp của nhiều người cầm bút đáng kính. Bộ Lịch Sử Hiện Đại
do Cambridge ấn hành ra đời như thế đấy, bộ sách này đã rút cạn sức lực của
ông.
Acton bị cao huyết áp và tháng 4 năm 1901, sau khi
biên tập được hai tập đầu, ông bị đột quỵ và bị liệt. Ông về hưu và sống trong
ngôi nhà ở Tegernsee, Bavaria. Ông qua đời ngày 19 tháng 6 năm 1902. Ông được
chôn trong sân nhà thờ gần đó.
Di
sản của Acton
Sai khi Acton qua đời,
thư viện với 60.000 cuốn sách của ông ở Aldenham – bộ sưu tập chính của ông về
đề tài tự do – được một doanh nhân người Mĩ trong lĩnh vực sắt thép là Andrew
Carnegie mua và tặng cho John Morley, một trong những người theo phái tự do cổ
điển cuối cùng của Mĩ. Đến lượt mình, Morley lại tặng những cuốn sách này cho
Cambridge với mong ước rằng chúng sẽ được lưu trữ cùng nhau.
Trong mấy năm sau đó, hai giảng viên của Cambridge
là John Neville Figgis và Reginald Vere Lawrence thu thập những công trình quan
trọng nhất của Acton và kết quả là những tác phẩm với nhan đề Những bài giảng về
lịch sử hiện đại (1906), Lịch sử của tự do và những tiểu luận khác (1907), Những
tiểu luận và công trình nghiên cứu sử học (1908), Những bài giảng về Cách mạng
Pháp (1910), sau đó là Tuyển tập thư từ của Lord Acton (1917).
Nhưng ông bị người đời
lãng quên vì những người gọi là “tiến bộ”, những người ủng hộ chính sách kinh tế
mới, những người xã hội chủ nghĩa và cộng sản, phát xít, quốc xã và những người
theo phái tập thể khác nắm được quyền lực chính trị khổng lồ, quyền lực này đã
hi sinh tự do nhân danh điều thiện.
Sau đó là số người chết: gần 10 triệu người trong Thế
chiến I, 50 triệu người trong Thế chiến II, cộng với hàng chục triệu người bị
Stalin ở Nga và Mao ở Trung Quốc – những tên sát nhân lớn nhất trong lịch sử –
sát hại. Hàng trăm triệu người nữa là thần dân của những quốc gia đầy sức mạnh,
những người thu thuế ở đó thu 40%, 50%, 60% hoặc hơn khoản tiền mà khó khăn lắm
họ mới kiếm được.
Trong khi xảy ra những
vụ thảm sát do những người theo chủ nghĩa tập thể gây ra, đã có một số người nhớ
đến lời cảnh báo của Acton về sự khủng khiếp của quyền lực chính trị và lời kêu
gọi tôn trọng quyền tự do nhân bản của ông. “Dường như chúng ta những người có
vinh dự là hiểu ông, trong khi những người đương thời với ông thì không. Ông là
người của thời nay, hơn là của thời ông. Ông là một trong những người đương thời
vĩ đại nhất của chúng ta”, nhà sử học Gertrude Himmelfarb nhận xét như thế./.
Jim Powell - biên tập viên của Laissez Faire Books và là
cộng tác viên cao cấp của Cato Institute. Ông từng viết cho The New York Times,
The Wall Street Journal, Barron’s, American Heritage và hơn ba chục tòa soạn
báo khác.
Nguồn bài viết https://fee.org/articles/lord-acton-political-power-corrupts/
No comments:
Post a Comment