III.
Chủ
nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể
Những người xã hội chủ nghĩa tin vào hai điều hoàn
toàn khác nhau,
và có lẽ thậm chí là mâu thuẫn với nhau: tự do và tổ
chức
Élie Halévy
Trước
khi tiếp tục cuộc hành trình, cần phải dỡ bỏ một trở ngại: Sự ngộ nhận vốn đóng
vai trò chính yếu trong việc để xảy ra những sự kiện mà tất cả mọi người đều
chẳng thích thú gì. Sự ngộ nhận này liên quan đến chính khái niệm xã hội chủ
nghĩa. Từ này thường được sử dụng để mô tả những lý tưởng về công bằng xã hội, về
bình đẳng cao hơn và an toàn hơn, đấy là các mục đích tối thượng của chủ nghĩa
xã hội. Nhưng nó còn có nghĩa là một số biện pháp đặc biệt, phần lớn những
người xã hội chủ nghĩa hi vọng sẽ dùng các biện pháp đó cho cuộc đấu tranh vì
các mục tiêu nêu trên, và những người am hiểu còn cho rằng chỉ có dùng các biện
pháp đó thì các mục tiêu nêu trên mới có thể đạt được một cách trọn vẹn và mau
chóng. Theo nghĩa này, chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với việc bãi bỏ kinh doanh cá
thể, bãi bỏ sở hữu tư nhân đối với các phương tiện sản xuất và thiết lập hệ
thống “kinh tế kế hoạch hoá”, trong đó các doanh nhân hoạt động vì lợi nhuận sẽ
được thay thế bằng cơ quan lập kế hoạch trung ương.
Có
nhiều người tự nhận là xã hội chủ nghĩa lại chỉ hiểu nghĩa thứ nhất của thuật
ngữ, mặc dù họ thực sự tin rằng cần phải đạt được những mục đích tối thượng của
chủ nghĩa xã hội, nhưng không để ý hoặc không hiểu phải làm như thế nào; đồng
thời, còn có những người tin tưởng chắc chắn rằng phải đạt bằng được các mục
tiêu như thế bằng bất cứ giá nào. Nhưng, đối với phần lớn những người mà chủ
nghĩa xã hội không chỉ có nghĩa là niềm hi vọng mà còn là lĩnh vực hoạt động
chính trị thì các biện pháp đặc trưng của chủ nghĩa xã hội cũng quan trọng
chẳng kém gì mục tiêu. Mặt khác, có nhiều người đánh giá cao những mục tiêu tối
thượng của chủ nghĩa xã hội chẳng khác gì những người xã hội chủ nghĩa, nhưng
lại không ủng hộ chủ nghĩa xã hội vì họ nhận thấy những biện pháp mà những
người xã hội chủ nghĩa đề xuất gây nguy hiểm cho những giá trị khác. Như vậy nghĩa
là, cuộc tranh luận về chủ nghĩa xã hội phần lớn liên quan đến các biện pháp
chứ không phải là mục tiêu - mặc dù các mục tiêu có thể đạt được cùng một lúc
hay không cũng bị lôi kéo vào.
Chỉ
riêng chuyện đó đã đủ gây ra ngộ nhận rồi, nhưng vấn đề còn bị làm cho phức tạp
thêm vì người ta phủ nhận sự kiện là những người bác bỏ phương tiện vẫn đánh
giá cao mục tiêu. Nhưng đấy không phải là tất cả. Tình hình còn phức tạp hơn vì
cùng một phương tiện, ví dụ, “kế hoạch hoá nền kinh tế”, biện pháp chủ yếu của
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, có thể được sử dụng cho các mục đích khác
nữa. Dĩ nhiên là, muốn phân phối thu nhập cho phù hợp với quan điểm hiện nay về
công bằng xã hội thì chúng ta phải điều khiển các hoạt động kinh tế từ trung
ương. Vì vậy, tất cả những người đòi hỏi rằng sản xuất phát triển không nhằm
mục đích kiếm lời mà vì “hạnh phúc của nhân dân” đều thích “kế hoạch hóa”.
Nhưng, chính cái kế hoạch hoá không thể nào tránh được đó, theo quan niệm của
chúng tôi hiện nay, lại có thể tạo ra phân phối thu nhập bất công. Nếu chúng ta
muốn rằng nhiều món đồ tốt của thế giới được dành cho giới tinh hoa của một
chủng tộc nào đó, cho người Nordic hay đảng viên một đảng nào đó hoặc cho giới
quí tộc thì nhất định chúng ta phải dùng các biện pháp mà người ta vẫn dùng để
bảo đảm phân phối theo lối bình quân.
Có
lẽ lầm lẫn là ở chỗ, đáng lẽ phải sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa xã hội” để mô tả
các biện pháp thì người ta lại dùng nó để nói về mục tiêu; sử dụng thuật ngữ mà
đối với nhiều người có nghĩa là lý tưởng cao nhất để chỉ các biện pháp đặc thù.
Có lẽ, nên dùng thuật ngữ chủ nghĩa tập thể để mô tả những biện pháp có thể
được dùng cho những mục đích vô cùng khác nhau, và coi chủ nghĩa xã hội là một
trong nhiều biến thể của nó. Mặc dù, đối với đa số những người theo trường phái
xã hội chủ nghĩa chỉ có một kiểu chủ nghĩa tập thể là có thể coi là chủ nghĩa
xã hội chân chính mà thôi, nhưng chúng ta phải luôn nhớ rằng chủ nghĩa xã hội
là một biến thể của chủ nghĩa tập thể và vì vậy điều gì đúng với chủ nghĩa tập
thể thì cũng đúng đối với chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, gần như tất cả các
vấn đề gây tranh cãi giữa những người xã hội chủ nghĩa và những người theo
trường phái tự do có liên quan đến các biện pháp của chủ nghĩa tập thể nói
chung, chứ không liên quan đến các mục tiêu cụ thể mà những người xã hội chủ
nghĩa đang nhắm tới. Và tác phẩm này sẽ thảo luận tất cả các vấn đề liên quan
đến hậu quả của việc sử dụng các biện pháp của chủ nghĩa tập thể mà không quan
tâm đến mục tiêu của các biện pháp đó. Cũng không được quên rằng hiện nay chủ
nghĩa xã hội không chỉ là hình thức của chủ nghĩa tập thể hay “kế hoạch hoá” có
ảnh hưởng nhất, nó còn làm cho nhiều người có tư tưởng tự do quay lại với ý
tưởng chế định đời sống kinh tế, vốn đã bị bác bỏ vì nếu nói theo lời của Adam
Smith thì nó đặt chính phủ vào tình trạng “để đứng được nó phải sử dụng các
biện pháp áp chế và bạo ngược[1]”
*
* *
Nhưng
ngay cả khi đồng ý dùng thuật ngữ “chủ nghĩa tập thể” để chỉ tất cả các kiểu
“kinh tế kế hoạch hoá”, không phụ thuộc vào mục đích của chúng, thì chúng ta
cũng chưa giải quyết được tất cả những khó khăn liên quan đến khái niệm chính
trị thường được sử dụng nhưng không hoàn toàn dễ hiểu. Có thể làm cho chính xác
thêm nếu nói rằng kế hoạch hoá là để thực hiện một lý tưởng phân phối nào đó.
Nhưng vì ý tưởng kế hoạch hoá nền kinh tế tập trung có sức hấp dẫn chủ yếu là
do tính mập mờ như thế cho nên cần phải làm rõ ý nghĩa chính xác của nó trước
khi thảo luận các hậu quả mà nó có thể gây ra.
Ý
tưởng “kế hoạch hoá” được nhiều người ủng hộ trước hết là vì mọi người, dĩ
nhiên, đều muốn giải quyết các vấn đề chung một cách hợp lý nhất, bằng năng lực
viễn kiến mà chúng ta có thể làm chủ được. Theo ý nghĩa này, tất cả những người
không hoàn toàn tin vào số phận đều suy tư theo lối “kế hoạch” hết. Và mọi hành
động chính trị đều là (hoặc phải là) hành động theo kế hoạch, khác nhau chỉ là
kế hoạch tốt hay xấu, thông minh hay ngu đần, nhìn xa trông rộng hay thiển cận
mà thôi. Nhà kinh tế học, người mà trách nhiệm nghề nghiệp là nghiên cứu hoạt
động của con người, nghiên cứu cách người ta lập kế hoạch cho những công việc
của mình, không bao giờ lại phản đối việc lập kế hoạch theo nghĩa này. Nhưng
đấy không phải là nghĩa mà những người say mê xã hội được kế hoạch hoá sử dụng
thuật ngữ này; nó cũng không chỉ có nghĩa là chúng ta phải lập kế hoạch, nếu
muốn phân phối thu nhập hoặc lợi ích theo những tiêu chuẩn cụ thể nào đó. Theo
các đồ đệ của lý thuyết kế hoạch hoá đương thời, cũng như để thực hiện các mục
đích của họ, thì việc thiết lập một hệ thống duy lý rồi để cho những người tham
gia tự hoạt động theo các kế hoạch của riêng mình là chưa đủ. Kế hoạch của phái
tự do, theo họ, không phải là kế hoạch - và quả thật, đây không phải là kế
hoạch nhằm đáp ứng quan niệm rằng người nào thì được phân phối cái gì. Cái mà
các đồ đệ của lý thuyết kế hoạch hoá yêu cầu là quản lý tập trung toàn bộ các
hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất, trong đó, cách thức sử dụng các
nguồn lực của xã hội để đạt các mục tiêu nhất định, bằng những biện pháp xác
định, đã được liệt kê đầy đủ.
Do
vậy, cuộc tranh luận giữa những người ủng hộ và phản đối kế hoạch hoá không phải là liệu chúng ta có nên lựa
chọn hình thức tổ chức xã hội một cách thông minh hay không, cũng không phải là
vấn đề áp dụng các dự báo và tư duy hệ thống vào việc lập các kế hoạch của
chúng ta. Vấn đề được đem ra thảo luận lại là: đâu là cách làm tốt nhất? Vấn đề
là để đạt được các mục đích như thế thì người nắm quyền lực cưỡng bức [chính
phủ -ND] phải tự giới hạn trong việc tạo ra những điều kiện, trong đó, kiến
thức và sáng kiến của các cá nhân có những cơ hội tốt nhất để họ có thể lập kế hoạch cho các hoạt
động của mình hay việc sử dụng các nguồn lực của chúng ta một cách hợp lý đòi
hỏi phải có sự quản lý tập trung và
tổ chức tất cả các hoạt động của chúng ta theo một bản “kế hoạch chi tiết” được
lập ra một cách tự giác từ trước. Những người xã hội chủ nghĩa thuộc mọi đảng
phái đều coi loại kế hoạch hoá thứ hai mới là kế hoạch hoá và hiện nay đấy
chính là ý nghĩa được nhiều người chia sẻ hơn cả. Dĩ nhiên, điều đó không có
nghĩa là phương pháp quản lý đời sống kinh tế duy lý kiểu đó là phương pháp duy
nhất. Những người ủng hộ kế hoạch hoá và những người theo phái tự do chia rẽ
nhau sâu sắc nhất là ở điểm này.
*
* *
Điều
quan trọng là không được lẫn lộn giữa quan niệm của những người phản đối kiểu
“kế hoạch hoá” này với thái độ laissez-fair giáo điều. Phái
tự do không ủng hộ quan điểm bỏ mặc cho mọi sự muốn ra sao thì ra; họ ủng hộ
việc sử dụng một cách tốt nhất các lực lượng cạnh tranh, coi đấy là biện pháp
phối hợp nỗ lực của con người. Nó xuất phát từ niềm tin rằng hệ thống cạnh
tranh hiệu quả chính là kim chỉ nam tốt nhất cho các cố gắng của từng cá nhân.
Nó không những không phủ nhận mà còn nhấn mạnh rằng để hệ thống cạnh tranh hoạt
động hiệu quả thì phải có một khung pháp lý thật rõ ràng và các điều luật, cả
trong quá khứ cũng như hiện tại, đều có những khiếm khuyết nghiêm trọng. Nó
cũng không phủ nhận sự kiện rằng trong những lĩnh vực không thể tạo được điều
kiện cho cạnh tranh hiệu quả thì phải dùng các biện pháp quản lý kinh tế khác.
Chủ nghĩa tự do kinh tế chỉ phản đối việc thay thế hệ thống cạnh tranh bằng
những biện pháp phối hợp hoạt động thô sơ hơn mà thôi. Chủ nghĩa tự do coi cạnh
tranh là ưu việt hơn không chỉ vì trong hầu hết các trường hợp đấy chính là
biện pháp hữu hiệu nhất, mà thậm chí hơn thế, còn vì đây là phương pháp không đòi hỏi sự can thiệp có tính cưỡng bức hoặc độc
đoán của chính quyền.
Nó bác bỏ “sự kiểm soát xã hội một cách tự giác” và dành cho cá nhân cơ hội quyết
định, liệu triển vọng của một công việc cụ thể có bù đắp được những thiệt hại
và rủi ro đi kèm với công việc đó hay không.
Sử
dụng một cách hiệu quả cạnh tranh – như nguyên tắc tổ chức xã hội - sẽ loại bỏ
được một số hình thức can thiệp mang tính cưỡng bức đối với đời sống kinh tế,
nhưng lại cho phép những sự can thiệp khác, những can thiệp mà đôi khi có tác
dụng hỗ trợ đáng kể cho hoạt động của nó và thậm chí là đòi hỏi chính phủ phải
có những hành động nhất định. Nhưng, có đầy đủ lí do để nhấn mạnh vì sao có
những tình huống không được sử dụng những biện pháp can thiệp mang tính cưỡng
bức. Trước hết là các bên tham gia thị trường phải có toàn quyền mua và bán hàng
hoá với giá bất kì, miễn là tìm được người muốn mua, và mọi người được tự do
sản xuất, bán và mua tất cả những thứ có thể được sản xuất và có người mua.
Quan trọng là, mọi lĩnh vực đều mở rộng cửa, trên cơ sở như nhau, cho tất cả
mọi người cùng tham gia và pháp luật phải ngăn chặn mọi hành vi của các cá nhân
hoặc các nhóm người, dù công khai hay bí mật, cố tình cản trở, không cho người
ta bước vào thương trường. Bất kì biện pháp kiểm soát giá cả hay sản lượng hàng
hoá nào cũng đều làm cho cạnh tranh mất khả năng điều phối hữu hiệu cố gắng của
các cá nhân vì sự dao động của giá cả, trong trường hợp đó, sẽ không phản ánh
được tình hình của thị trường và không còn là chỉ dẫn đáng tin cậy cho hoạt
động của các cá nhân nữa.
Tuy
nhiên, điều này không phải lúc nào cũng đúng. Các biện pháp hạn chế nhằm ngăn
chặn một số công nghệ là có thể chấp nhận được, miễn là được áp dụng cho tất cả
các nhà sản xuất tiềm năng và không phải là các biện pháp quản lý gián tiếp giá
cả hoặc sản lượng hàng hoá. Mặc dù việc kiểm soát phương pháp sản xuất như thế
thường dẫn đến các chi phí phụ trội (để sản xuất cùng một lượng hàng hoá phải
cần nhiều nguồn lực hơn), đây vẫn có thể là việc làm cần thiết. Việc cấm sử
dụng các chất độc hại hay yêu cầu áp dụng các biện pháp an toàn, giới hạn thời
gian làm việc và các quy tắc vệ sinh, có thể được áp dụng mà vẫn đảm bảo cạnh
tranh. Vấn đề ở đây chỉ là lợi ích thu được có lớn hơn các chi phí xã hội hay
không mà thôi. Cạnh tranh có thể đồng hành với một hệ thống dịch vụ công cộng
rộng khắp - miễn là tổ chức dịch vụ xã hội đó không được thiết kế nhằm làm cho
cạnh tranh trở thành không hiệu quả trong những lĩnh vực rộng lớn khác.
Đáng
tiếc là, mặc dù giải thích chuyện này không phải là việc khó, nhưng trong quá
khứ người ta thường chú ý đến các biện pháp cấm đoán hơn là các biện pháp tích
cực nhằm khuyến khích hệ thống cạnh tranh hoạt động hiệu quả. Cạnh tranh đòi
hỏi không chỉ tổ chức một cách phù hợp các thiết chế như tiền, thị trường và
các kênh thông tin – một số thiết chế vượt quá khả năng cung ứng của doanh
nghiệp tư nhân – mà trước hết nó cần hệ thống pháp luật thích hợp, tức là hệ
thống pháp luật được xây dựng nhằm bảo vệ và thúc đẩy cạnh tranh một cách hiệu
quả nhất. Mới chỉ có luật công nhận tư hữu và tự do kí kết hợp đồng thì chưa đủ;
phải có định nghĩa chính xác về quyền sở hữu cho những loại tài sản khác nhau.
Đáng buồn là, việc nghiên cứu một cách có hệ thống các thiết chế pháp lý nhằm
thúc đẩy hệ thống cạnh tranh hoạt động một cách hữu hiệu đã bị bỏ bê, kiến thức
trong lĩnh vực này vẫn còn nhiều thiếu sót, đặc biệt là trong lĩnh vực luật về
công ty và bằng sáng chế; điều này không những làm cho cạnh tranh trở nên kém
giảm hiệu quả, mà còn có thể phá huỷ cạnh tranh trong nhiều lĩnh vực.
Cuối
cùng, không nghi ngờ gì rằng có những lĩnh vực mà không một quy định pháp luật
nào lại có thể tạo ra được các điều kiện khiến cho việc sử dụng tài sản tư nhân
và cạnh tranh trở nên hữu dụng: cụ thể, đó là lĩnh vực mà người chủ sở hữu sẽ
được hưởng lợi từ mọi dịch vụ gắn với tài sản của anh ta và chuyển tất cả thiệt
hại trong quá trình sử dụng tài sản đó cho những người khác. Trong những lĩnh vực,
ví dụ, khi mà chất lượng dịch vụ không phụ thuộc vào giá cả của chúng thì cạnh
tranh sẽ bất lực; tương tự như thế, hệ thống giá cả sẽ trở thành vô hiệu nếu
không buộc được người chủ sở hữu đền bù những thiệt hại mà anh ta gây ra trong
khi sử dụng tài sản của mình. Trong tất cả những
trường hợp như thế, ta đều thấy có sự sai biệt giữa các số liệu trong các tính
toán của cá nhân và số liệu phản ánh phúc lợi của toàn xã hội, nếu sai biệt quá lớn thì không được sử dụng
các biện pháp cạnh tranh mà phải dùng các biện pháp khác. Ví dụ, trong đa số
trường hợp, từng người sử dụng không thể trả tiền cho các thiết bị chỉ đường, cũng
như không thể trả tiền xây dựng đường xá. Còn việc phá rừng, một số cách làm
đất, khói bụi hay tiếng ồn do nhà máy gây ra không chỉ làm cho các chủ sở hữu
bị thiệt hại hoặc chỉ gây thiệt hại cho những người sẵn sàng chịu đựng miễn là
được đền bù thoả đáng. Trong những trường hợp như thế, phải tìm được cơ chế
điều tiết khác thay thế cho cơ chế giá cả. Nhưng, việc chúng ta phải sử dụng
quyền lực trong những lĩnh vực mà chúng ta không thể tạo được điều kiện cho
cạnh tranh hoạt động không có nghĩa là chúng ta cần dẹp bỏ cạnh tranh trong
những lĩnh vực mà nó có thể hoạt động.
Tạo
điều kiện để cạnh tranh hoạt động một cách hiệu quả nhất, hỗ trợ cạnh tranh khi
nó không thể hoạt động và cung cấp các dịch vụ, mà theo lời Adam Smith thì,
“mặc dù rất hữu ích cho xã hội nói chung, nhưng lại là những dịch vụ mà lợi
nhuận không thể bù đắp được chi phí nếu đấy là do một cá nhân hay một nhóm cá
nhân làm” –
đấy là lĩnh vực hoạt động rộng lớn mà chính phủ không thể thoái thác được.
Không một hệ thống tổ chức hợp lý nào lại để cho nhà nước trở thành thất nghiệp
cả. Hệ thống cạnh tranh hiệu quả cần khuôn khổ pháp lý được thiết kế một cách
thông minh và hiệu chỉnh thường xuyên, như bất kì hệ thống nào khác. Thậm chí
điều kiện tiên quyết nhất cho việc vận hành của hệ thống cạnh tranh là ngăn
chặn gian lận và lừa đảo (trong đó có lợi dụng sự kém hiểu biết của đối tác) là
công việc cực kì to lớn nhưng chưa phải là toàn bộ đối tượng của hoạt động lập
pháp.
*
* *
Nhiệm
vụ thiết lập khuôn khổ cho cạnh tranh hoạt động theo lối có lợi chưa làm được
bao nhiêu thì tất cả các quốc gia trên thế giới đều quay lưng lại với nó, thay
thế nó bằng nguyên tắc khác, không thể dung hoà với cạnh tranh. Vấn đề không
phải là làm cho cạnh tranh hoạt động, cũng không phải là bổ sung mà là thay thế
hoàn toàn. Quan trọng là phải hiểu thật rõ: cái phong trào ủng hộ nguyên tắc kế
hoạch hoá hiện đại là phong trào bài bác cạnh tranh như nó vốn là, tất cả những
kẻ thù cũ của hệ thống cạnh tranh đều tập hợp dưới ngọn cờ mới này. Và, mặc dù,
dưới ngọn cờ này, các nhóm lợi ích khác nhau tìm cách giành lại cho bằng được
các đặc quyền đặc lợi mà kỉ nguyên tự do đã bãi bỏ, nhưng chính bộ máy tuyên
truyền cho kế hoạch hóa của phái xã hội chủ nghĩa đã khôi phục được thái độ tôn
trọng của những người có đầu óc tự do bài bác cạnh tranh và ru ngủ được tinh
thần cảnh giác lành mạnh mỗi khi có người muốn bãi bỏ hệ thống cạnh tranh[2]. Căm thù cạnh
tranh và ước muốn thay thế nó bằng một nền kinh tế chỉ huy là chất kết nối duy
nhất giữa những người xã hội chủ nghĩa cánh Hữu và cánh Tả. Và mặc dù “chủ
nghĩa tư bản” và “chủ nghĩa xã hội” là những thuật ngữ vẫn thường được sử dụng
để mô tả xã hội cũ và xã hội tương lai, những thuật ngữ này chẳng những không
làm rõ mà còn cố tình che dấu bản chất của cái giai đoạn mà chúng ta đang trải
qua.
Thế
nhưng, mặc dù tất cả những thay đổi mà chúng ta đang chứng kiến đều đi theo
hướng quản lý tập trung toàn bộ hoạt động kinh tế, cuộc chiến đấu chống cạnh
tranh mang tính toàn cầu hiện nay sẽ chỉ tạo ra một cái gì đó thậm chí còn kém
hơn về nhiều mặt và làm cho cả những người ủng hộ kế hoạch hoá lẫn những người
theo phái tự do bất mãn; đấy sẽ là hình thức tổ chức theo kiểu nghiệp đoàn hoặc
“phường hội”, trong đó cạnh tranh sẽ bị ngăn chặn phần nào, nhưng việc lập kế
hoạch sẽ rơi vào tay các công ty độc quyền độc lập, kiểm soát một số ngành
riêng biệt. Đấy sẽ là kết cục tất yếu dành cho những người liên kết với nhau
bởi lòng căm thù cạnh tranh, nhưng chỉ đồng ý được với nhau về rất ít vấn đề
khác. Chính sách phá huỷ cạnh tranh hết ngành công nghiệp này đến ngành công
nghiệp khác sẽ biến người tiêu dùng thành miếng mồi ngon của những hành động
độc quyền có phối hợp của các nhà tư bản và công nhân trong các xí nghiệp được
tổ chức một cách tốt nhất. Tình trạng này đã tồn tại trong nhiều lĩnh vực kinh
tế và mặc dù, phần lớn công tác tuyên truyền rối rắm (và đa số là vụ lợi) đang nhắm
tới mục đích đó; tình trạng này khó mà kéo dài được lâu và cũng chẳng thể nào
biện hộ nổi. Trên thực tế, các kế hoạch độc lập do các công ty độc quyền thực
hiện nhất định sẽ dẫn tới những hậu quả trái ngược hẳn với kết quả mà các luận
cứ ủng hộ kinh tế kế hoạch hoá nhắm tới. Một khi giai đoạn này được thực hiện
thì người ta hoặc phải quay về với cạnh tranh hoặc phải giao cho nhà nước kiểm
soát hoạt động của các công ty độc quyền – một sự kiểm soát, mà muốn có hiệu
quả thì phải ngày càng mở rộng ra và chi tiết hơn. Chúng ta đang nhanh chóng
tiến tới giai đoạn này. Ngay trước chiến tranh, một tờ tuần san đã chỉ ra rằng
rằng có nhiều chỉ dấu cho thấy các nhà lãnh đạo Anh quốc ngày càng có thói quen
tư duy về tương lai của đất nước bằng các thuật ngữ của các công ty độc quyền
được kiểm soát, lúc đó đánh giá như thế là có thể là đúng. Chiến tranh đã góp
phần thúc đẩy quá trình này và các mối nguy hiểm cũng như khiếm khuyết chết
người của nó sẽ trở nên hoàn toàn rõ ràng trong một ngày không xa.
Ý
tưởng về việc quản lý tập trung toàn bộ nền kinh tế vẫn làm nhiều người kinh
hãi không chỉ vì đây là vấn đề cực kì phức tạp mà còn vì họ sợ khi nghĩ rằng
tất cả mọi thứ đều được chỉ đạo từ một trung tâm duy nhất. Và nếu chúng ta, bất
chấp tất cả, vẫn tiếp tục lao theo hướng đó thì chỉ là vì nhiều người vẫn tin
rằng có thể tìm được biện pháp trung dung giữa cạnh tranh “cá thể” và chỉ đạo
từ trung ương. Mới nhìn thì đấy là quan điểm hợp lí hoặc hấp dẫn đối với những
người có tư duy duy lí, hơn là ý tưởng cho rằng mục đích của chúng ta phải là
hoặc là phi tập trung hoá hoàn toàn và
cạnh tranh tuyệt đối, hoặc là tập trung hoá và kế hoạch hoá hết tất cả mọi thứ,
mà là sự kết hợp một cách thông minh cả hai phương pháp. Nhưng hoá ra trong
trường hợp này lương tri là dẫn đường không đáng tin. Mặc dù cạnh tranh có thể chấp nhận một sự điều
tiết nào đó, nhưng không thể kết hợp với kế hoạch hoá mà không làm giảm hiệu
quả của nó, như một nhân tố của quá trình dẫn dắt sản xuất. “Kế hoạch hoá” cũng
không phải là một thứ thuốc có thể dùng với liều lượng nhỏ, chứ không áp dụng
đại trà, mà vẫn tạo được hiệu quả như người ta hi vọng. Sử dụng dưới dạng cắt
xén thì cả cạnh tranh lẫn kế hoạch hoá đều sẽ trở thành những công cụ tồi và
thiếu hiệu quả, đây là những nguyên tắc mà ta có thể lựa chọn để giải quyết
cùng một vấn đề, trộn lẫn hai cái vào với nhau có nghĩa là không có công cụ nào
thực sự hoạt động và kết quả sẽ tồi tệ hơn là chỉ áp dụng một cách nhất quán
một trong hai nguyên tắc nói trên. Nói một cách khác, có thể kết hợp giữa kế
hoạch hoá và cạnh tranh để lập kế hoạch cho cạnh tranh chứ
không phải lập kế hoạch để chống cạnh tranh.
Xin độc giả luôn luôn nhớ rằng kế hoạch hoá mà chúng ta phê phán trong
cuốn sách này trước hết và chỉ là kế hoạch hoá nhằm chống lại cạnh tranh, kế
hoạch hoá thay thế cạnh tranh. Điều này càng đặc biệt quan trọng vì chúng ta
không thể thảo luận ở đây biện pháp kế hoạch hoá cực kì cần thiết, tức là kế
hoạch hoá làm cho cạnh tranh trở thành hiệu quả và mang lại lợi ích cao nhất.
Vì trong cách nói hiện nay, thuật ngữ “kế hoạch hoá” gần như đồng nghĩa với kế
hoạch hóa nhằm chống lại cạnh tranh, để cho ngắn gọn chúng ta sẽ nói đơn giản
là “kế hoạch hoá” và thậm chí như thế có nghĩa là để cho các đối thủ của chúng
ta một từ rất hay, một từ xứng đáng được hưởng một số phận tốt đẹp hơn
[1] Trích từ nhận xét của Adam Smith năm 1755,
được Dugald Steward dẫn lại trong tác phẩm Memoir
of Adam Smith.
[2] Sự thật là gần đây một số học giả xã hội chủ
nghĩa, vì bị phê phán và lo sợ rằng trong xã hội được lập kế hoạch từ trung
ương sẽ không còn tự do, đã phát minh ra một luận điểm mới gọi là “chủ nghĩa xã
hội cạnh tranh” mà theo họ là sẽ tránh được các mối hiểm nguy của kế hoạch hoá
tập trung và kết hợp được bãi bỏ tư hữu với việc bảo vệ quyền tự do cá nhân. Mặc dù trên một vài tờ
tạp chí người ta có thảo luận loại hình chủ nghĩa xã hội này, chắc là chẳng có
mấy chính khách quan tâm. Mà có quan tâm đi chăng nữa thì cũng dễ dàng chứng
minh rằng đây là quan điểm viển vông và chứa đầy mâu thuẫn nội tại (tác giả đã
thử làm việc này, xem Economica,
1940). Không xác định được ai sẽ sử dụng các nguồn lực và sử dụng cho ai thì
không thể thiết lập được sự kiểm soát toàn bộ các nguồn lực của sản xuất. Và
mặc dù trong “chủ nghĩa xã hội cạnh tranh” kế hoạch hoá sẽ được thực hiện một
cách lắt léo nhưng kết quả thì vẫn vậy, nhân tố cạnh tranh chỉ là bình phong mà
thôi.
chủ nghĩa cá nhân rất nguy hại
ReplyDelete