Richard
Pipes
Phạm Nguyên Trường dịch
Richard Edgar Pipes (Polish: Ryszard Pipes; July 11, 1923 – May 17, 2018) vừa qua đời, đăng lại toàn bộ tác phẩm Chủ nghĩa cộng sản, như nén tâm nhang trước hương hồn ông.
Richard Pipes (1923-2018)
Điều
làm người ta phấn chấn nhất trong chế độ Xô Viết là sự sụp đổ của nó. Nếu nó thành công… thì tôi đã biết rằng mức độ
chịu đựng khủng bố và nô lệ của con người là vô giới hạn.
Malcolm
Muggeridge[1]
Lời nói đầu
Từ chủ nghĩa cộng sản
xuất hiện ở Paris trong những năm 1840, liên quan đến ba khái niệm khác nhau
nhưng gắn bó mật thiết với nhau: lý tưởng, cương lĩnh hành động và chế độ nhận
lãnh trách nhiệm biến lý tưởng thành hiện thực.
* Không
có sự phân biệt rõ ràng giữa “chủ nghĩa xã hội” và “chủ nghĩa cộng sản”. Marx
đưa ra hai giai đoạn tiến lên chủ nghĩa cộng sản: giai đoạn đầu, giai đoạn
chuyển tiếp, trong đó, vẫn còn bất bình đẳng mặc dù nền tảng của nó đã bị triệt
tiêu; rồi đến giai đoạn hai, cao hơn, trong đó, nguyên tắc “Làm theo năng lực,
hưởng theo nhu cầu” thay thế cho nguyên tắc “Làm như nhau, hưởng như nhau”.
Lenin gọi giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội, giai đoạn sau là chủ nghĩa cộng
sản. Nhưng ngay sau khi giành được chính
quyền, ông ta liền đổi tên đảng của mình từ “đảng Dân chủ Xã hội” thành
“đảng Cộng sản”, chúng ta sẽ sử dụng thuật ngữ Chủ nghĩa cộng sản để nói về lý thuyết và thực hành của Lenin. Xin
mời đọc, Marxism and the Leap to the Kingdom of Freedom (Chủ nghĩa Marx và cú
nhảy vào vương quốc của tự do), Stanford, 1995, trang 93.
Lý tưởng bình đẳng tuyệt đối (ví dụ, trong một số trước tác của Plato) đòi
hỏi cá nhân phải tan biến vào cộng đồng. Vì bất bình đẳng về mặt xã hội và kinh
tế có nguyên nhân chủ yếu từ sự bất bình đẳng về tài sản, muốn bình đẳng thì
từng người phải từ bỏ “của tôi” và “của anh”, nói cách khác, từ bỏ tư hữu. Lý
tưởng này có nguồn gốc lịch sử lâu đời và thỉnh thoảng lại tái xuất hiện trong
lịch sử tư tưởng phương Tây, kể từ thế kỷ thứ VII trước công nguyên cho đến tận
ngày nay.
Cương lĩnh cộng sản xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ XIX và gắn bó trước hết với tên
tuổi của Karl Marx và Friedrich Engels. Trong Tuyên ngôn cộng sản năm
1848, Marx và Engels viết: “những người cộng sản có thể tuyên bố học thuyết của
mình bằng một câu thôi: bãi bỏ tư hữu”. Engels khẳng định rằng bạn ông đã đưa
ra một lý thuyết khoa học chứng minh sự sụp đổ không thể nào tránh được của
những xã hội dựa trên khác biệt về mặt giai cấp.
Mặc dù trong lịch sử loài người, lý tưởng cộng sản cũng đã đôi ba
lần được đưa vào thực tiễn, nhưng, sử dụng toàn bộ sức mạnh của nhà nước cho
một thí nghiệm như thế chỉ được thực hiện lần đầu tiên ở nước Nga từ năm 1917
đến năm 1991. Vladimir Lenin, người sáng lập chế độ đó, cho rằng đấy là một xã hội bình đẳng, không còn tư hữu,
sinh ra nhờ “chuyên chính vô sản”, một nền chuyên chính gánh trên vai trách
nhiệm bãi bỏ tư hữu và đặt nền móng cho con đường tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Chúng ta sẽ theo dõi chủ nghĩa cộng sản theo đúng trình tự như thế
vì làm thế là hợp logic và vì chủ nghĩa này cũng xuất hiện theo trình tự: đầu
tiên là lý tưởng, sau đó là kế hoạch thực hiện và cuối cùng là biến lý thuyết
thành hiện thực. Nhưng, chúng ta sẽ quan tâm chủ yếu vào việc thực hiện, bởi vì,
tự bản thân lý tưởng và cương lĩnh là những thứ vô hại, trong khi việc thực
hiện chúng, nếu lại sử dụng toàn bộ sức mạnh của nhà nước, có thể dẫn tới những
hậu quả cực kỳ khủng khiếp.
I.
Lý thuyết và cương lĩnh của chủ nghĩa cộng sản
Tư tưởng về một
xã hội phi giai cấp, hoàn toàn bình đẳng, xuất hiện lần đầu tiên tại Hy Lạp cổ
đại. Hy Lạp cổ đại là nước đầu tiên trên thế giới công nhận quyền tư hữu ruộng
đất và coi ruộng đất là hàng hoá, vì vậy, cũng là nơi đầu tiên đối mặt với sự
bất bình đẳng xã hội có nguồn gốc từ quyền tư hữu. Hesiod, một người đương thời
với Homer (thế kỷ thứ VII trước công nguyên), trong trường ca Lao động
và ngày tháng đã ca ngợi “Thời đại hoàng kim” huyền thoại, khi con
người chưa “nhiễm thói xấu là chạy theo đồng tiền”, khi của cải vẫn còn dư thừa
và mọi người đều được quyền sử dụng như nhau, nhân loại sống trong một nền hoà
bình vĩnh cửu. Đề tài “Thời đại hoàng kim” còn trở lại trong tác phẩm của hai
thi sĩ người Rome là Vergil và Ovid; Ovid viết về những giai đoạn khi con người
chưa biết đến các khái niệm như “cột mốc biên giới và hàng rào”.
Lý tưởng cộng sản
lần đầu tiên được Plato định danh về mặt lý luận trong các trước tác của mình.
Trong tác phẩm Cộng hoà, thông qua Socrates, Platon khẳng định rằng
bất hoà và chiến tranh có nguồn gốc từ sở hữu:
Sự khác nhau như
thế thường xảy ra do bất đồng về những từ như ‘của tôi’ và ‘không phải của
tôi’, ‘của anh ta’ và ‘không phải của anh ta’… Chả lẽ nhà nước, trong đó đa số
người cùng sử dụng những từ như ‘của tôi’ và ‘không phải của tôi’ đối với cùng
một loại đồ vật không phải là nhà nước có kỉ cương nhất hay sao?
Trong các
phẩm Luật Pháp, Platon còn dự báo một xã hội, trong đó, người
ta sở hữu chung tất cả của cải, cũng như vợ con, mà còn:
Riêng tư và tư
hữu bị loại bỏ khỏi đời sống, và những thứ về bản chất là riêng, ví dụ, mắt,
tai và tay cũng trở thành của chung và ở mức độ nào đó, người ta cùng nhìn,
cùng nghe và cùng hành động, tất cả mọi người cùng ca tụng hay cùng lên án,
cùng vui cùng buồn vì cùng những lý do như nhau.
Aristotle, học
trò của Plato, lại ngờ rằng cái Utopia [Không tưởng] cộng sản đó sẽ không đem
lại hoà bình vì một lý do đơn giản: Khi cùng sở hữu thì người ta dễ sinh ra cãi
cọ hơn là tư hữu. Hơn nữa, ông khẳng định rằng nguồn gốc của tranh chấp không
nằm ở tư hữu mà ở ước muốn được sở hữu: “không cần cào bằng sở hữu mà phải san
bằng ước muốn của con người”.
Nhiều người có quan niệm lầm lẫn rằng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản chỉ là kiến giải mang tính thế tục, hiện đại, của Thiên chúa giáo. Nhưng sự khác nhau, như triết gia người Nga, Vladimir Sovoliev đã chỉ rõ, nằm ở chỗ, nếu Chúa Giêsu chỉ kêu gọi các đồ đệ của Ngài từ bỏ sở hữu của chính họ, thì những người xã hội chủ nghĩa và cộng sản lại muốn tước đoạt sở hữu của người khác. Hơn nữa, Chúa Giêsu chưa bao giờ kêu gọi người ta phải sống trong nghèo đói, ông chỉ nói rằng người nghèo thì dễ được cứu chuộc hơn mà thôi. Câu nói nổi tiếng của Thánh Paul về tiền bạc cũng hay bị người ta trích dẫn sai: ông không nói rằng “tiền là nguồn gốc của tội lỗi” mà cho rằng nguồn gốc của tội lỗi là “tình yêu đối với tiền bạc”, nói cách khác, nguồn gốc của tội lỗi là lòng tham. Thánh Augustine từng hỏi: “Vàng là vật không tốt sao?” và ông trả lời: “Không, vàng là tốt. Nhưng kẻ ác dùng vàng để làm điều ác, còn người thiện thì dùng vàng vào việc thiện”.
Nhiều người có quan niệm lầm lẫn rằng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản chỉ là kiến giải mang tính thế tục, hiện đại, của Thiên chúa giáo. Nhưng sự khác nhau, như triết gia người Nga, Vladimir Sovoliev đã chỉ rõ, nằm ở chỗ, nếu Chúa Giêsu chỉ kêu gọi các đồ đệ của Ngài từ bỏ sở hữu của chính họ, thì những người xã hội chủ nghĩa và cộng sản lại muốn tước đoạt sở hữu của người khác. Hơn nữa, Chúa Giêsu chưa bao giờ kêu gọi người ta phải sống trong nghèo đói, ông chỉ nói rằng người nghèo thì dễ được cứu chuộc hơn mà thôi. Câu nói nổi tiếng của Thánh Paul về tiền bạc cũng hay bị người ta trích dẫn sai: ông không nói rằng “tiền là nguồn gốc của tội lỗi” mà cho rằng nguồn gốc của tội lỗi là “tình yêu đối với tiền bạc”, nói cách khác, nguồn gốc của tội lỗi là lòng tham. Thánh Augustine từng hỏi: “Vàng là vật không tốt sao?” và ông trả lời: “Không, vàng là tốt. Nhưng kẻ ác dùng vàng để làm điều ác, còn người thiện thì dùng vàng vào việc thiện”.
Những người sáng lập nhà thờ
Thiên chúa giáo và các nhà thần học sau này đều có quan điểm thực dụng đối với vấn đề sở hữu. Theo Thánh Augustine, xã
hội không có sở hữu chỉ có thể tồn tại trên Thiên đường - chỉ tồn tại trong
“Thời đại Hoàng kim”, nhưng do mắc tội tổ tông mà loài người đã đánh mất. Vì con
người chưa hoàn thiện, cho nên, sở hữu là phù hợp với đạo lý, nếu người ta sử
dụng nó một cách thông minh và cho những mục đích từ thiện. Nhà thờ Thiên chúa
giáo không những không cổ xuý cho tình trạng nghèo đói mà còn khai trừ, thậm
chí, săn đuổi những kẻ cố tình làm như thế. Những người sáng lập đạo Tin lành,
đặc biệt là Calvin, coi của cải là hạnh phúc và biểu hiện của lòng nhân từ của
Chúa.
Nhưng quan niệm
về “Thời đại Hoàng kim” luôn luôn hiện diện trong tâm trí người châu Âu. Các
nhà hàng hải thời xa xưa khát khao tìm kiếm không chỉ Eldorado (Vùng đất thần
tiên – ND) và các vùng đất huyền thoại khác, nơi vàng bạc nằm đầy dưới
chân, chẳng khác gì bụi đất, mà còn khát khao tìm kiếm những hòn đảo thiên
đường trên trái đất, truyền thuyết về những vùng đất như thế từng lưu hành ở
châu Âu thời Trung cổ. Và, khi lần đầu tiên cập cảng châu Mỹ, nhìn thấy những
người Da Đỏ trần truồng thì họ tin chắc rằng đã thành công: không có cảm giác
xấu hổ không phải là dấu hiệu của cuộc sống trước khi phạm tội tổ tông ư? Nếu
quả thật các thổ dân đó sống trong thiên đường thì nhất định họ không có khái
niệm gì về sở hữu. Khi quay trở về, Columbus nói rằng thổ dân ở đấy là những
người “chất phác” và “nếu hỏi xin, thì không bao giờ họ từ chối chia sẻ những
thứ họ có; ngược lại, ai họ cũng mời”. Ông không rõ họ có khái niệm về tư hữu
hay không, nhưng nhận xét thêm: “Một người có thì tất cả mọi người đều chia sẻ,
nhất là thức ăn”.
Những cảm giác
ngây thơ đầu tiên về người da đỏ châu Mỹ mau chóng nhường chỗ cho những đánh
giá thực tế hơn, nhưng, chúng đã kịp giúp tạo ra một nền văn chương không
tưởng, một phần không thể tách rời của tư tưởng phương Tây từ đó đến nay. Vùng
đất Utopia đặc trưng nhất được mô tả trong tác phẩm cùng tên của Thomas More, xuất bản năm 1516, theo ý kiến của nhiều chuyên gia, chính là
lấy cảm hứng từ báo cáo của Columbus và các nhà thám hiểm khác. Nhưng đấy không
phải là vùng đất tốt đẹp như ngày nay ta quan niệm về Utopia, đấy là một xã hội rất nghiêm khắc và tuân theo những quy
định rất khắt khe, tất cả mọi người đều mặc như nhau, đều sống trong những ngôi
nhà giống nhau, không được đi đâu nếu chưa có giấy thông hành, thảo luận các
vấn đề xã hội có thể bị tử hình. Tiền bị bãi bỏ, vàng bạc được dùng để làm ra
những cái bô dùng vào ban đêm. Đề tài chung của những tác phẩm không tưởng sau
này, cũng như của More, đều xoay quanh việc thiếu vắng của cải cá nhân, cũng
như việc sử dụng bạo lực của xã hội đối với cá nhân con người: cả trong lý
thuyết lẫn trên thực tế, Utopia nghĩa là, cá nhân phải khuất phục chính quyền,
con người buộc phải làm cái mà nếu được tự do anh ta có thể không muốn
làm.
* Vì quan niệm về xã hội không có sở hữu là trung tâm của hầu
như tất cả các lý thuyết không tưởng, quan niệm này chỉ có thể xuất hiện trong
những xã hội mà sở hữu tư nhân giữ thế thượng phong. Cho đến tận thời gian gần
đây điều đó có nghĩa là châu Âu hay những khu vực có nhiều người châu Âu sinh sống.
Cần phải nói rằng
lý tưởng về một “Thời đại Hoàng kim”, không có tư hữu, chỉ là một huyền thoại,
một sản phẩm của ước mơ chứ không phải là sản phẩm của trí nhớ vì các nhà sử
học, các nhà khảo cổ học và các nhà nhân chủng học đã thống nhất rằng, chưa ở
đâu và chưa bao giờ có chuyện tư liệu sản xuất từng là của chung. Tất cả các
sinh vật sống, từ những thực thể đơn giản nhất cho đến những sinh vật phát
triển nhất đều cần phải kiếm thức ăn, mà như thế, phải có quyền sở hữu không
gian sinh tồn. Trong hàng ngàn năm, trước khi định cư và chuyển sang chăn nuôi
và làm nông nghiệp, con người đã sống bằng săn bắn và hái lượm, các nhóm người
gắn bó với nhau bằng quan hệ họ hàng đã khẳng định độc quyền chiếm hữu của mình
trên những vùng đất nhất định, họ luôn luôn xua đuổi hoặc giết hại những kẻ xâm
lấn. Yêu sách về sở hữu càng căng thẳng thêm khi người ta chuyển sang sản xuất
nông nghiệp, tức là cách đây khoảng mười ngàn năm về trước, vì làm đất là một
công việc nặng nhọc và không thể có kết quả tức thời.
Trong những nền
văn minh cổ đại, cách đây khoảng năm ngàn năm về trước, ở Ai Cập và Lưỡng Hà,
ruộng đất là tài sản của triều đình hay nơi thờ tự. Chúng ta có thể khẳng định
chắc chắn rằng Israel cổ đại là nước đầu tiên có sở hữu tư nhân về ruộng đất.
Chúa Trời trong Cựu Ước nguyền rủa bất cứ kẻ nào dám di chuyển các phiến đá
ngăn cách những khoảnh ruộng với nhau (“Đáng rủa xả thay người nào dời mốc giới
của kẻ lân cận mình!” Phục truyền luật lệ ký 27:17), trong Kinh Cựu Ước còn có
mấy cuốn có những đoạn nói về các gia đình hoặc một số người có ruộng đất và bãi
chăn thả riêng. Nhưng việc sở hữu ruộng đất ở Israel cổ đại còn bị hạn chế bởi
một loạt quy ước về tôn giáo và chủng tộc. Chỉ ở Hy Lạp cổ đại là từ xa xưa đất
đai đã là tài sản riêng. Nói cách khác, không có bằng chứng nào chứng tỏ rằng ở
một thời rất xa nào đó đã từng có những xã hội không biết đến “cột mốc biên
giới và hàng rào”, chưa từng có xã hội nào không công nhận “của tôi” và “của
anh”.
Bằng cách đưa ra
quan niệm về bản chất của con người, các nhà tư tưởng thời Khai sáng đã có đóng
góp to lớn vào lý thuyết của chủ nghĩa xã hội. Ở phương Tây, người ta thường
quan niệm rằng con người gồm có hai phần là thể xác và linh hồn, do Chúa Trời
sáng tạo nên; người ta tin rằng, linh hồn đã mang sẵn các tư tưởng và giá trị
ngay từ khi lọt lòng mẹ. Đấy là quan điểm bảo thủ, vì nó khẳng định sự bất biến
của bản chất con người: bản chất của một người đã và sẽ mãi mãi như thế. Nói
cách khác, nếu một người nào đó có máu tham thì anh ta sẽ mãi mãi là một người
tham lam.
John Locke, triết
gia người Anh đã phản đối quan điểm như thế; trong tác phẩm Essay Concerning Human Understanding (Luận
về hiểu biết của con người - 1690), ông đã phủ nhận
sự tồn tại của “các tư tưởng bẩm sinh”. Theo Locke, trí óc (hay tâm hồn) khi
mới sinh ra vốn là một tờ giấy trắng: tất cả các tư tưởng và giá trị đều có
nguồn gốc từ kinh nghiệm. Lý thuyết này cho rằng bản chất của con người là mềm
dẻo chứ không cố định, vì vậy có thể giáo dục được, trong khuôn khổ mà tính
thiện của họ - các nhà triết học công nhận rằng bản chất con người vốn là thiện
– có thể lấn lướt được thói ích kỉ. Claude-Adrien Helvétius, một tư tưởng gia
người Pháp thế kỷ XVIII, còn khẳng định rằng, giáo dục đúng cách và pháp luật
không những có thể tạo điều kiện mà còn bắt buộc người ta đạt được phẩm hạnh
hoàn hảo. Lý thuyết về tâm lý học cực kì đáng ngờ này đã trở thành di sản của
chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; các chủ nghĩa này, ở
những mức độ khác nhau, đều dựa vào giáo dục và/hoặc bạo lực nhằm đạt được những
mục đích đáng mong muốn. Ở một số khía cạnh nào đó, nhà nước cộng sản do Lenin
thành lập ở nước Nga tháng 11 năm 1917 chính là một cuộc thí nghiệm vĩ đại
trong việc giáo hoá xã hội, theo mô hình của Helvétius nhằm tạo ra con người
hoàn toàn mới, con người đã giải thoát khỏi những thói hư tật xấu cũ, trong đó
có ước muốn tìm kiếm của cải.
Các nhà tư tưởng
cấp tiến người Pháp thế kỷ XVIII là những người đầu tiên đưa ra cương lĩnh cộng
sản, kêu gọi bãi bỏ tư hữu vì đấy là nguyên nhân của mọi tai hoạ trên đời.
Morelly, trong tiểu luận có nhiều ảnh hưởng, nhan đề: Le Code de la Nature
(Bộ luật
của tự nhiên -1755), viết như sau:
Thói xấu duy nhất
ở trên đời mà tôi biết chính là lòng tham, tất cả những cái khác, dù có gọi là
gì thì cũng chỉ là hình thức hoặc mức độ của nó mà thôi… Hãy phân tích thói háo
danh, tính kiêu ngạo, giả dối, đạo đức giả, sự độc ác; hãy khảo sát phần lớn
các đức tính phức tạp của chúng ta, hoá ra tất cả đều hoà tan trong cái bản
năng qủy quyệt và tai hại, là khát vọng
chiếm hữu.”
Như vậy, luận
điểm cho rằng tâm lý của con người được quyết định bởi các điều kiện kinh tế
chính là nền tảng của tất cả các học thuyết xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa.
_________
Cho đến giữa thế
kỷ XIX, lý tưởng bình đẳng vẫn chỉ là hoài bão, đôi khi cũng gây ra những vụ
bạo lực, nhưng chưa hề có lý luận hay chiến lược gì. Ví dụ, thế kỷ XVII ở Anh
có Winstanley, lãnh tụ của một nhóm cấp tiến lấy tên là Digger, kêu gọi những
ngưởi ủng hộ mình chiếm công điền và biến chúng thành các khu chăn nuôi gia
súc. Ông ta đưa ra lý luận tương tự như học thuyết cộng sản: bãi bỏ buôn bán
đất đai và các sản phẩm của nó. Một thế kỷ rưỡi sau, trong thời Cách mạng Pháp,
một nhà cách mạng cấp tiến, Franҫois-Noël Babeuf, đã thành lập một tổ chức gọi là “Âm mưu vì Công bằng”,
kêu gọi tập thể hoá toàn bộ tài sản. Nhưng cả hai ông này đều không thể đưa ra
được lý luận chứng tỏ cho người ta thấy cuộc cách mạng xã hội mà họ hướng tới
sẽ được thực hiện như thế nào. Vào đầu thế kỷ XIX, những nhà xã hội chủ nghĩa
không tưởng khác, như Comte de Saint-Simon và Charles Fourier, hy vọng có thể
thuyết phục được những người giàu có từ bỏ một phần tài sản của mình.
Thỉnh thoảng ở
phương Tây lại xuất hiện các công xã cộng sản tự nguyện. Một trong những công
xã như thế là Công ty Virgin ở Jamestown, được thành lập vào năm 1607; năm 1825
Robert Owen thành lập một công xã lấy tên là “Sự hoà hợp mới” ở Indiana. Tất cả
các thử nghiệm như thế trước sau gì cũng thất bại, vì không thể giải quyết được
vấn đề “những kẻ ăn bám”, tức là những thành viên công xã chỉ muốn ăn mà không
muốn làm.
Đóng góp của Karl
Marx và Friedrich Engels cho chủ nghĩa xã hội là lý thuyết chứng tỏ rằng thiên
đường bình đẳng không những là đáng mong muốn và có thể xây dựng được; hơn nữa,
còn là tất yếu. Để chứng minh, họ đã sử dụng các phương pháp của khoa học tự
nhiên là những môn khoa học đã có uy tín rất cao trong xã hội lúc đó.
Marx và Engels
đưa ra học thuyết “chủ nghĩa xã hội khoa học”, nói rằng, lý tưởng về một xã hội
bình đẳng không còn tư hữu không những có thể thực hiện được mà nhất định sẽ
phải được thực hiện, đấy chỉ là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên của
nền kinh tế mà thôi. Quan điểm Marxist về tiến hoá xã hội xuất hiện dưới ảnh
hưởng của học thuyết Darwin, được trình bày trong On the Origin of Species (Nguồn
gốc các loài - 1859). Cuốn sách của Darwin giải thích sự xuất
hiện của các loài sinh vật như là kết quả của quá trình chọn lọc tự nhiên,
chính quá trình chọn lọc tự nhiên này đã giúp cho các loài thích nghi với môi
trường thù địch. Đây là một quá trình động, các loài phát triển từ thấp lên cao
theo các quy luật đã được xác định. Các nhà nghiên cứu về hành vi của con người
lập tức chớp lấy lý thuyết này, họ còn thành lập cả trường phái gọi là “Xã hội
học tiến hoá”, mô tả lịch sử như là quá trình phát triển theo “giai đoạn”, từ
thấp đến cao. Ảnh hưởng của Darwin đối với Marx và Engels cao đến nỗi Engels,
trong đám tang bạn mình, đã nói: “Giống như Darwin phát minh ra quy luật phát
triển của thế giới hữu cơ, Marx phát minh ra quy luật phát triển của lịch sử
loài người”.
Đưa tư duy về quá
trình tiến hoá vào lý thuyết xã hội chủ nghĩa làm nảy sinh khái niệm không thể
đảo ngược. Theo “chủ nghĩa xã hội khoa học”, hoạt động của con người chỉ góp
phần thúc đẩy hay làm chậm lại sự tiến hoá của xã hội, nhưng không thể làm thay
đổi được xu hướng, vì xu hướng tiến hoá phụ thuộc vào các nhân tố khách quan.
Như thế, theo các nguyên nhân sẽ được trình bày dưới đây, chủ nghĩa tư bản nhất
định phải nhường chỗ cho chủ nghĩa xã hội. Tác động về mặt tình cảm của niềm
tin này cũng chẳng khác gì niềm tin vào ý Chúa, nó là nguồn động viên rất lớn
đối với những người tin tưởng tuyệt đối rằng, dù có phải vượt qua biết bao
nhiêu trở ngại, nhất định họ sẽ giành được thắng lợi cuối cùng. Lý thuyết này
đã có một hấp lực rất mạnh đối với các nhà trí thức, vì nó hứa hẹn sắp xếp lại
cuộc đời đầy lộn xộn này, biến đời sống thành ra có trật tự mà trí thức chính
là những người thày, người hướng dẫn cho cái trật tự đáng mong ước đó. Marx đã
giải thích điều đó bằng một câu nổi tiếng sau đây: “Các nhà triết học giải
thích thế giới bằng những cách khác nhau, nhưng vấn đề là cải tạo nó”. Ai là
người sẵn sàng cho việc cải tạo thế giới? Không phải trí thức thì còn ai
nữa?
Dù tuân theo
phương pháp khoa học, nhưng, chủ nghĩa Marx đã vi phạm một yêu cầu căn bản của
phương pháp này, đấy là không định kiến và sẵn sàng làm cho lý thuyết thích
nghi với những nhân tố mới. (Theo Bertrand Russell, chủ nghĩa Bolshevik, con đẻ
của chủ nghĩa Marx, là một “tôn giáo” vì “không được phép tranh luận, ngay cả
khi nói về những vấn đề còn chưa rõ ràng về mặt khách quan”). Đây là một học
thuyết cứng nhắc, không chấp nhận bất kỳ một quan điểm khác biệt nào. Marx
không hề che giấu thái độ đối với những người bất đồng ý kiến với ông: phê
bình, có lần ông đã viết “không phải là con dao mổ mà là vũ khí. Đối tượng của
nó cũng là kẻ thù của nó, một đối tượng mà nó không muốn cải chính mà là muốn
tiêu diệt”. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, chủ nghĩa Marx là một giáo điều mang
mặt nạ khoa học.
Làm cho chủ nghĩa
Marx thích nghi với truyền thống khoa học chỉ là một trong những khía cạnh hấp
dẫn của nó mà thôi. Khía cạnh khác, có liên quan đến những biến đổi của điều
kiện xã hội, cũng diễn ra trong thời gian đó. Trước cuộc cách mạng công nghiệp,
sản xuất nông nghiệp là cơ sở của nền kinh tế thế giới. Cho đến lúc đó, 80 cho
đến 90% người châu Âu và Mỹ sống bằng canh tác nông nghiệp hoặc nhờ canh tác
nông nghiệp: họ giàu là nhờ thu hoạch từ ruộng đất hoặc phát canh thu tô. Dĩ
nhiên, công thương nghiệp đã từng tồn tại từ những ngày xa xưa, nhưng chỉ có
vai trò thứ yếu trong nền kinh tế. Đất là tài sản chủ yếu, cho nên các phong
trào đòi bình đẳng cũng dành nhiều sức lực cho đòi hỏi bãi bỏ quyền tư hữu
ruộng đất.
Quan điểm của các
phong trào đòi bình đẳng đã thay đổi hoàn toàn kể từ khi xuất hiện nền sản xuất
công nghiệp đại trà. Tiền từ công thương nghiệp, chứ không phải địa tô, đã trở
thành tài sản chủ yếu. Nó tạo ra hình thức nghèo đói mới, vì quá trình cơ khí
hoá làm hạ giá thành sản phẩm, các nghề sản xuất truyền thống trở nên lỗi thời,
nhiều thợ thủ công thất nghiệp.
Công nghiệp hoá
không chỉ tạo ra những xáo động đầy đau đớn trong xã hội mà còn làm thay thay
đổi một cách căn bản và thường xuyên quan hệ giữa người sử dụng lao động và kẻ
làm thuê. Điền chủ và tá điền là những người hàng xóm và theo một nghĩa nào đó
thì họ chính là những đối tác của nhau. Mặc dù thỉnh thoảng tá điền vẫn bị đuổi
hàng loạt, ví dụ như ở Anh thời kì có Luật hàng rào, nhưng nói
chung, cuộc sống nông thôn tương đối ổn định, đặc biệt là những nước như Mỹ,
nơi đa số nông dân cũng là chủ mảnh đất mà họ canh tác.
Sự phát triển như
thế đã làm phát sinh lòng căm thù đối với “chủ nghĩa tư bản”. Chủ nghĩa xã hội,
cho đến lúc đó mới là một lý tưởng được giới trí thức chia sẻ, bắt đầu nhận
được sự ủng hộ của những nhóm công nhân nhất định.
Các trước tác của
Marx và Engles, gồm hàng chục tập, riêng bộ Das Kapital (Tư bản luận) đã là một ngàn bốn trăm trang in,
với rất nhiều thuật ngữ chuyên môn. Ít người đủ sức đọc hết những tác phẩm cực
kì khó như thế, và vì vậy mà người ta phải lấy làm ngạc nhiên làm sao giải
thích được ảnh hưởng to lớn đến như thế của nó. Câu trả lời là, các nguyên lý
căn bản của học thuyết về “chủ nghĩa xã hội khoa học” có thể quy về một vài
luận điểm tương đối đơn giản.
Trong điếu văn
đọc tại đám tang của Marx, Engles trình bày “quy luật của lịch sử nhân loại”,
theo lời ông là được Marx phát minh như sau:
Người ta trước
hết phải ăn, uống, có nhà ở và quần áo mặc, trước khi có thể làm chính trị,
khoa học, nghệ thuật, tôn giáo v.v…, nghĩa là sản xuất các tư liệu trực tiếp
của đời sống và như vậy, mỗi một nấc phát triển kinh tế của một dân tộc hay một
thời đại đều tạo ra hạ tầng cơ sở, trên đó, sẽ phát triển các cơ quan nhà nước,
các quan điểm pháp lý, nghệ thuật và ngay cả các quan niệm tôn giáo của người
dân, vì vậy, chúng phải được giải thích trên cơ sở đó chứ không phải ngược lại như người ta vẫn làm lâu
nay.”
Tóm lại kinh tế
là hạ tầng cơ sở của một đời sống có tổ chức, tất cả những cái khác đều là
“thượng tầng kiến trúc”.
Từ tiền đề đó,
Marx và Engels đưa ra lý thuyết về cách mạng xã hội, luận điểm cơ bản của lý
thuyết này nói rằng, chính tư hữu tư liệu sản xuất đã dẫn đến việc hình thành các
“giai cấp” xã hội. Khởi thuỷ, chưa có tư hữu tư liệu sản xuất: mọi người cùng
nhau sở hữu ruộng đất. Nhưng cùng với thời gian, chế độ “cộng sản nguyên thuỷ”
nhường chỗ cho sự phân chia giai cấp, một nhóm người đã giành được độc quyền
đối với các nguồn tài nguyên quan trọng sống còn này và sử dụng sức mạnh kinh
tế của mình để bóc lột và áp bức nhân dân bằng cách xây dựng các thiết chế
chính trị và pháp lý để bảo vệ những quyền lợi giai cấp của họ. Nhóm người này
đã sử dụng văn hoá - tôn giáo, luân lý, văn học và nghệ thuật - cho cùng mục
đích như thế. Các phương tiện này đã tạo điều kiện cho giai cấp cầm quyền bóc
lột nhân dân.
Dĩ nhiên là, các
giai cấp hạ lưu không chấp nhận bị bóc lột; họ luôn đấu tranh chống lại, nhưng
khi còn tư hữu thì thành quả của họ chỉ là thay một hình thức bóc lột này bằng
hình thức bóc lột khác mà thôi. Vì vậy, nói theo Communist Manifesto (Tuyên ngôn Cộng sản), cho đến nay, lịch
sử xã hội loài người là lịch sử của những cuộc đấu tranh giai cấp.
Những suy tư như
thế về quá khứ chỉ là khúc dạo đầu của vấn đề mà Marx quan tâm hơn cả, đấy là
phân tích thế giới “tư bản” đương thời. Ông đã bỏ ra nhiều năm ròng để nghiên
cứu lịch sử kinh tế nước Anh, nhằm tìm cách chứng minh rằng “chủ nghĩa tư bản”
là giai đoạn cuối cùng của xã hội có giai cấp và chế độ này sẽ phải sụp đổ
trong một cuộc cách mạng do những người công nhân công nghiệp đang bị bóc lột
tiến hành. Đấy sẽ là cuộc cách mạng cuối cùng vì nó sẽ dẫn đến việc thành lập
xã hội không còn giai cấp nữa. Và lịch sử sẽ hoàn toàn chấm dứt tại đây.
Hệ thống tư bản
đặt cơ sở trên chế độ bóc lột lao động làm thuê, theo nghĩa là nhà tư sản chiếm
đoạt “giá trị thặng dư” của món hàng mà người công nhân sản xuất ra. Theo
Engels, khái niệm “giá trị thặng dư” là phát hiện vĩ đại thứ hai của Marx, giúp
ta hiểu được xã hội loài người. Toàn bộ giá trị đều do lao động mà ra. Nhưng,
trong hệ thống tư bản, người sử dụng lao động chỉ trả cho công nhân một phần
nhỏ giá trị mà người công nhân làm ra, chỉ đủ cho người lao động sống qua ngày
mà thôi. Phần còn lại, tức là “thặng dư” thì người chủ đút vào túi mình.
Cùng với việc
giảm liên tục số nhà đại tư bản… thì quần chúng nghèo khổ, bị áp bức, nô lệ,
suy đồi, bị bóc lột lại tăng thêm, nhưng đồng thời cũng làm gia tăng thái độ
bất mãn của giai cấp công nhân, một giai cấp đang ngày càng tăng về số lượng,
họ sẽ học tập, sẽ liên kết lại và tham gia tổ chức theo đúng cơ chế của chính
quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. Độc quyền tư bản sẽ trở thành gông cùm đối
với phương thức sản xuất đã từng phát triển từ bên trong và bên dưới nó… Việc
tập trung phương tiện sản xuất và xã hội hoá lao động sẽ đạt đến mức mà tự
chúng sẽ trở thành không còn phù hợp với vỏ bọc tư bản chủ nghĩa nữa. Nó sẽ nổ
tung. Giờ cáo chung của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đã điểm. Những kẻ tước
đoạt sẽ bị tước đoạt.”[2]
Những cuộc cải
cách của chủ nghĩa tư bản cũng không có khả năng ngăn chặn cái kết cục ấy: sự
cáo chung của chủ nghĩa tư bản là tất yếu.
Kết quả cuối cùng
của cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ là sự giải phóng hoàn toàn con người. “Tự do”
trong quan niệm của Marx và Engels không có gì chung với quan điểm của chủ
nghĩa tự do về quyền công dân và sự bảo vệ những quyền đó từ phía nhà nước: “Tự
do chính trị là tự do ảo”, Engels viết, “là một dạng nô lệ thấp kém nhất; nó
chỉ có vẻ tự do và vì vậy mà, trên thực tế, là nô lệ ”[3]. Tương tự như Engels, Marx
cũng coi các quyền tự do và quyền công dân là sự lừa mị vì chúng làm cho con
người trở thành nô lệ của phúc lợi vật chất; tự do chân chính sẽ giải phóng con
người khỏi tình trạng nô dịch như thế. George Lukacs, một lý thuyết gia Marxist,
giải thích điều đó như sau:
“Tự do” của những
người đang sống hiện nay là tự do của các cá nhân, bị cách ly với nhau bởi sở
hữu, là cái vừa vật chất hóa (reify) vừa được vật chất hóa*. Đấy là tự do của
những cá nhân vis-à-vis (so với) những người khác. Tự do của một kẻ ích kỉ; tự
do của một người tự tách mình khỏi những người khác”[4].
* Vật chất hóa (reify) nghĩa là gán hiện thực
cho cái trừu tượng. Marx, học theo Ludwig Feurbach, đưa ra ví dụ về xu hướng
gán tất cả những điều mà họ cho là tốt đẹp và đáng mong ước cho cái không tồn
tại (theo quan niệm của Marx) mà họ gọi là “Chúa Trời”. Ví dụ khác là lời tuyên
bố “Lịch sữ sẽ phán xét” chứ không phải là “Các nhà sử học sẽ phán xét”.
Vì vậy việc loại
bỏ tư hữu chính là điều kiện tiên quyết cho quyền tự do chân chính. Phải giải
thoát khỏi sự phụ thuộc đó thì nhân loại mới đạt đến sự tự thể hiện một cách
đầy đủ. Phân công lao động sẽ biến mất và người ta có thể tự do chuyển từ công
việc này sang công việc khác. Marx mơ mộng:
Trong xã hội cộng
sản, nơi không có ai bị giới hạn lĩnh vực hoạt động nhất định… xã hội điều tiết
toàn bộ quá trình sản xuất và vì vậy, sẽ tạo điều kiện cho tôi hôm nay làm việc
này, ngày mai làm việc khác, sáng đi săn, giữa trưa đi câu cá, chiều chăn gia
súc, sau bữa ăn tối thì làm phê bình - tuỳ thích – và không vì thế mà biến tôi
thành thợ săn, ngư dân, người chăn nuôi hay nhà phê bình.”[5]
__________
Lý thuyết của
Marx và Engels đặt nền móng cho cương lĩnh của Hiệp hội Công nhân Quốc tế, vẫn
thường được gọi là Quốc tế I, do họ lập ra ở London vào năm 1864 nhằm chuẩn bị
cho người lao động ứng phó với cuộc khủng hoảng tư bản chủ nghĩa đang đến gần.
Tổ chức này đã bị chia rẽ ngay từ đầu bởi những cuộc tranh cãi bất tận giữa
những người xã hội chủ nghĩa và những người vô chính phủ. Mặc dù những người vô
chính phủ và những người xã hội chủ nghĩa có chung mục đích là xã hội phi giai
cấp, không còn chính phủ và cùng coi cách mạng bạo lực là phương tiện, nhưng họ
lại khác những người xã hội chủ nghĩa ở ba điểm. Những người vô chính phủ cho
rằng không chỉ công nhân công nghiệp mà nông dân không có ruộng và những người
vô nghề nghiệp cũng là lực lượng tiềm tàng của cách mạng. Thứ hai, những người
xã hội chủ nghĩa cho rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có một
giai đoạn chuyển tiếp (đôi khi vẫn được gọi là “chuyên chính vô sản”), đấy là
giai đoạn mà giai cấp cầm quyền mới sử dụng sức mạnh cưỡng bức của nhà nước
nhằm tước đoạt giai cấp tư sản và tiến hành quốc hữu hoá tư liệu sản xuất.
Trong khi đó, những người vô chính phủ phủ nhận mọi hình thức nhà nước, họ tiên
đoán rằng “chuyên chính vô sản” sẽ biến thành phương tiện nô dịch mới, lần này,
là do những người trí thức giật dây vì quyền lợi của chính họ. Cuối cùng, nếu
những người xã hội chủ nghĩa tin vào sự tiến bộ diễn ra một cách tự nhiên trong
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và chính sự tiến bộ này sẽ dẫn tới cách mạng thì
những người vô chính phủ lại kêu gọi “hành động trực tiếp”, nói cách khác, tấn
công ngay lập tức vào hệ thống hiện hành.
Thời gian đã
chứng tỏ rằng, những người vô chính phủ đã dự đoán đúng cả ba vấn đề: các cuộc
cách mạng xã hội không bùng nổ trong các nước công nghiệp mà diễn ra trong các
nước nông nghiệp, còn “chuyên chính vô sản” thì biến nhà nước cộng sản thành
một nền chuyên chính vĩnh cửu của những người không phải là công nhân đối với
những người lao động chân tay và tầng lớp nông dân. Cách mạng Bolshevik vào năm
1917 ở Nga là kết quả của cuộc tấn công trực diện vào chính phủ của một nước,
nơi chủ nghĩa tư bản còn đang ở trong giai đoạn phát triển ban đầu.
Như vậy nghĩa là,
hoá ra trên thực tế, tất cả các dự đoán của Marx đều sai, ngay từ khi Marx còn
sống, điều đó ngày càng trở nên rõ ràng và sau khi ông mất thì trở thành sự
kiện không thể tranh cãi.
Mặc dù chủ nghĩa
tư bản đã trải qua những cuộc khủng hoảng mang tính chu kì, nhưng khủng hoảng
có thể dẫn tới sụp đổ thì chưa. Đấy là nhờ một phần ở các bộ luật chống độc
quyền, phần khác là nhờ sự phát triển của kỹ thuật, mở ra khả năng mới cho các
doanh nghiệp nhỏ, phần nữa là nhờ sự phát triển không ngừng của lĩnh vực dịch
vụ, một lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn ngành công nghiệp chế biến,
quá trình tập trung tư bản và sản xuất đã không dẫn đến việc bóp chết các xí
nghiệp nhỏ và chỉ còn lại các tập đoàn khổng lồ. Sự ra đời của các công ty cổ
phần lại góp phần vào việc tái cấu trúc tài sản của xã hội.
Những người lao động cũng không
trở thành nạn nhân của quá trình bần cùng hoá. Ngay trong
giai đoạn Marx chấp bút Tư bản luận, ở Anh đã có những bằng chứng chứng
tỏ rằng tiền lương của người lao động đã gia tăng, nhưng Marx đã lờ đi. Một sự
kiện còn quan trọng hơn, đấy là các chương
trình an sinh xã hội do chính phủ tài trợ. Các nước dân chủ đã công nghiệp hoá
lo lắng về những bước tiến của những người xã hội chủ nghĩa trong việc tổ chức
của người lao động, cũng như việc các đại biểu của họ trúng cử vào quốc hội, đã
phải ban hành các đạo luật về bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế, cũng như
các ưu tiên ưu đãi khác, không để giai cấp công nhân bị chìm đắm mãi trong cảnh
bần hàn. Đức là nước đầu tiên bước chân lên con đường ấy, Đảng Dân chủ Xã hội
Đức là một đảng rất mạnh, có thể giành được đa số trong quốc hội. Cùng với việc
nhiều nước châu Âu theo gương Đức, công nhân cũng ngày càng quan tâm hơn đến
việc giữ nguyên hiện trạng (Status-Quo), họ không còn nghe theo lời hiệu triệu
cách mạng của những người xã hội chủ nghĩa nữa: họ có thái độ hoàn toàn ngược
lại với khẳng định của Tuyên ngôn cộng sản rằng, “giai cấp vô
sản không có tổ quốc”. Người lao động đã không còn là vô sản theo nghĩa ban đầu
của từ này nữa, nghĩa là không còn là giai cấp chỉ có nhiêm vụ sinh con (cu li)
cho nhà nước nữa. Người lao động coi trọng hoạt động công đoàn hơn, họ chấp
nhận trật tự tư bản chủ nghĩa và hướng tất cả cố gắng của mình vào việc giành miếng
bánh to hơn từ lợi nhuận mà chủ nghĩa tư bản mang lại. Như vậy là, người lao
động đã trở thành một phần của chính cái hệ thống mà những người Marxist muốn
họ lật đổ.
Vì tất cả những lý
do đó, cách mạng đã không nổ ra ở bất cứ nước tư bản chủ nghĩa phát triển nào:
trong suốt một trăm năm sau khi Marx qua đời, những cuộc cách mạng như thế chỉ
diễn ra, theo đúng dự đoán của những người vô chính phủ, tức là trong các nước
thuộc Thế giới Thứ ba, những nước có nền kinh tế tư bản vừa mới thành hình, với
khối quần chúng nông dân không có hoặc có rất ít ruộng đất và chế độ độc
tài.
Các khiếm khuyết
của học thuyết Marxist sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu nó vẫn nằm trên giấy như một
sơ đồ lý luận. Nhưng, vì đây còn là một cương lĩnh hành động, cho nên, ngay khi
các dự đoán của nó mới dường như là sai - chuyện này đã trở nên rõ ràng ngay
sau khi Marx mất năm 1883 – thì những người xã hội chủ nghĩa và sau đó là chính
những người cộng sản, dù vẫn tuyên bố trung thành với học thuyết, đã bắt đầu
xem xét lại học thuyết của Marx. Trong các nước dân chủ phương Tây, việc xét
lại này thường chỉ làm giảm đi tinh thần cách mạng và đưa chủ nghĩa xã hội đến
gần hơn với chủ nghĩa tự do mà thôi. Kết quả là sự xuất hiện của phong trào dân
chủ xã hội. Ngược lại, trong các nước Đông Âu và các nước thuộc Thế giới Thứ ba,
việc xét lại lại làm nổi rõ thêm thành tố bạo lực trong chủ nghĩa Marx. Chủ nghĩa
cộng sản đã xuất hiện như thế đấy. Còn chủ nghĩa Marx nguyên chất, không pha
tạp thì chưa được chấp nhận ở bất kì đâu như một cương lĩnh chính trị vì nó
không phù hợp với thực tế.
_________
Quốc tế I tan rã
vào năm 1876, nhưng được tái sinh vào năm 1889, sau khi Marx đã qua đời. Đấy là
Quốc tế II, tổ chức tập hợp các đảng xã hội chủ nghĩa của tất cả các nước
(không còn những người vô chính phủ nữa), với hạt nhân là Đảng Dân chủ Xã hội
Đức. Cách mạng trên các biểu ngữ, tiệm tiến trong thực tế, trước Thế chiến I,
Quốc tế II đã giữ thế thượng phong trong chính sách của những người xã hội chủ
nghĩa. Cương lĩnh chính thức của tổ chức này, thường được gọi là Cương lĩnh
Erfurt, được thông qua vào năm 1891, tuyên bố rằng quyền lợi của nhà nước “tư sản”
và quyền lợi của giai cấp công nhân là không thể dung hoà, người công nhân
không có trách nhiệm gì đối với đất nước: họ chỉ trung thành với giai cấp mình
mà thôi. Cương lĩnh khẳng định tình đoàn kết quốc tế của những người lao động
và tính tất yếu của cách mạng, một cuộc cách mạng sẽ đập tan chủ nghĩa tư bản
và giai cấp tư sản trên toàn thế giới.
Không phải tất cả
những người xã hội chủ nghĩa đều chấp nhận cương lĩnh cấp tiến này. Trên khắp
châu Âu, đã vang lên những lời cảnh báo rằng điều kiện sống của giai cấp công
nhân sẽ được cải thiện bằng các biện pháp chính trị và kinh tế chứ không phải
bằng một cuộc cách mạng bạo lực. Jean Jaurès, một đảng viên xã hội người Pháp
tiên đoán:
Giai cấp vô sản
sẽ giành được quyền lực không phải bằng một cú bùng nổ bất ngờ của công tác cổ
động chính trị, mà phải dựa vào việc tổ chức công khai, có phương pháp, lực
lượng của mình trong điều kiện của chế độ dân chủ và phổ thông đầu phiếu. Xã
hội của chúng ta sẽ tiến dần đến chủ nghĩa cộng sản không phải bằng cách đập
tan chế độ tư bản mà bằng quá trình củng cố lực lượng của giai cấp vô sản một
cách thường xuyên và liên tục.
Ủng hộ mạnh mẽ
nhất cho đường lối này là Tổ chức Fabian ở Anh, trong đó có những thành viên
vốn là những danh nhân văn học như George Bernard Shaw và Herbert George Wells.
Cương lĩnh của tổ chức này yêu cầu “thuyết phục” đất nước giải thoát khỏi chủ
nghĩa tư bản bằng cách quốc hữu hoá nền công nghiệp; cũng như các nhà xã hội
chủ nghĩa tiền Marxist, những người Fabian cũng hướng đến lương tâm của dân
tộc.
E. Bernstein là
người tiến hành một cuộc công kích táo bạo nhất vào các nguyên lý và cương lĩnh
của chủ nghĩa Marx. E. Bernstein là một yếu nhân của Đảng Dân chủ Xã hội Đức,
người đặt nền móng cho “chủ nghĩa xét lại” trong phong trào xã hội chủ nghĩa. Bernstein
từng sống nhiều năm ở Anh và đã từng tiếp xúc với phong trào Fabian. Cuối những
năm 1890, ông kêu gọi những người dân chủ xã hội cải tiến lý thuyết của mình
cho phù hợp với thực tiễn là chủ nghĩa tư bản chưa thể sụp đổ, còn quần chúng
lao động cũng không rơi vào cảnh bần hàn. Vẫn tin vào chủ nghĩa xã hội, nhưng tương
tự như Jaurès, ông coi đấy là kết quả của quá trình phát triển kinh tế và chính
trị một cách hoà bình trong lòng chủ nghĩa tư bản.
Đảng Dân chủ Xã
hội Đức, đảng mạnh nhất và có ảnh hưởng nhất ở châu Âu phủ nhận lý thuyết xét
lại của Bernstein và tiếp tục đi theo cương lĩnh cách mạng, được thông qua tại
Erfurt. Nhưng, trên thực tế, đảng này lại làm chính những điều mà Bernstein bảo
vệ, tức là dành nhiều sức lực cho phong trào công đoàn và các cuộc bầu cử vào
quốc hội. (Mãi đến năm 1959, đảng này mới chính thức ly khai chủ nghĩa
Marx).
Như vậy là, trong
giai đoạn sung sức nhất, tức là khoảng một phần tư thế kỷ trước khi nổ ra Thế chiến
I, phong trào xã hội chủ nghĩa ở phương Tây, trên thực tế, đã từ bỏ cách mạng
bạo lực và chuyển sang phương pháp cảo tạo xã hội một cách hoà bình, tuy về mặt
lý luận, không phải lúc nào họ cũng nói như thế. Phong trào giữ vững niềm tin
vào tình đoàn kết quốc tế của những người lao động. Quốc tế II cho rằng, công
nhân tất cả các nước đều là anh em và nhiệm vụ cao cả nhất của họ chính là ngăn
chặn các cuộc chiến tranh mà chủ nghĩa tư bản cố tình gây ra. Đề tài này thường
được đưa ra thảo luận tại các cuộc hội nghị của Quốc tế. Người ta đã đưa ra
nhiều đề nghị nhằm ngăn chặn chiến tranh, cũng như đã thảo luận về những hành
động cần phải làm nếu chiến tranh vẫn cứ bùng nổ. Nghị quyết được thông qua tại
Hội nghị ở Stuttgart vào năm 1907 (có V. Lenin và L. Martov, hai nhà Marxist
hàng đầu của Nga, tham gia) kêu gọi, trong trường hợp xảy ra chiến tranh, “phát
động quần chúng và bằng cách đó đẩy nhanh quá trình sụp đổ của chính quyền tư
sản”, nói cách khác, biến chiến tranh giữa các nước thành nội chiến giữa các
giai cấp. Trong hội nghị tiếp theo vào năm 1910, các đại biểu thống nhất thông
qua nghị quyết đòi các nghị sĩ xã hội chủ nghĩa biểu quyết phản đối ngân sách
chiến tranh.
Nhưng hoá ra các
đảng viên xã hội chủ nghĩa, cũng như Quốc tế II của họ không đủ sức ngăn chặn
sự bùng phát của cuộc chiến tranh trên toàn châu Âu vào mùa hè năm 1914. Những
câu chuyện về một cuộc tổng đình công chẳng đưa đến đâu. Hơn thế nữa, cả những
người dân chủ xã hội Đức lẫn các đảng viên xã hội chủ nghĩa Pháp, trái ngược
với những thề bồi trước đây, đều biểu quyết thông qua ngân sách chiến tranh và
bằng cách đó, đã làm mất uy tín của chính tư tưởng về tình đoàn kết quốc tế của
giai cấp vô sản. Lòng trung thành với tổ quốc hoá ra cao hơn tình hữu ái giai
cấp; A. Hitler và B. Mussolini, hai kẻ mị dân và rất háo danh, sau khi chiếm
được chính quyền dựa vào cơ sở cương lĩnh hợp nhất giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa dân tộc, đã không bỏ qua sự kiện này.
Số phận của Quốc
tế II đã được định đoạt khi nó không có khả năng thực hiện những lời hứa chống
chiến tranh của mình. Chiến tranh rồi cũng qua đi, các đảng xã hội chủ nghĩa
vẫn còn tồn tại, nhưng họ ngày càng gắn bó với đất nước của mình hơn.
Sự nghiệp của
quốc tế xã hội chủ nghĩa chuyển từ phương Tây, lúc đầu là sang Nga và sau đó là
sang các nước ngày càng xa phương Tây hơn.
II.
Chủ nghĩa Lenin
Bắt đầu từ năm
1709, khi Peter Đại Đế đánh bại Thuỵ Điển ở Poltava và chấm dứt giai đoạn bá
quyền của họ ở vùng Baltic, nước Nga được coi và cũng tự coi là siêu cường và
đòi hỏi vị trí siêu cường của mình trên lục địa châu Âu.
Ở khía cạnh nào đó, đòi hỏi này là chính đáng. Saint-Peterburg,
thủ đô của nước Nga, được xây dựng theo mô hình của Amsterdam, trên thực tế, là
một thành phố châu Âu, còn giới thượng lưu Nga, nói thông thạo tiếng Pháp,
không xa lạ gì với văn hoá phương Tây. Văn học, nhạc, nghệ thuật và khoa học
Nga xuất hiện vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX có thể so sánh với văn hoá châu
Âu và trong một vài lĩnh vực còn đi tiên phong, điều này dễ làm người ta ngộ
nhận.
Nhưng, nền văn hoá cao đó chỉ là tài sản của một giai tầng hạn hẹp
của xã hội, đấy là giới quý tộc, trí thức và tầng lớp quan chức cao cấp. Ba
phần tư dân chúng của đế chế là nông dân, mà phần đông trong số họ vẫn sống
trong một thế giới riêng, chưa hề bị nền văn minh châu Âu đụng chạm tới. Họ
không có tiếng nói chung với những người có học, thậm chí còn coi giới trí thức
như người ngoại quốc. Đa số nông dân Nga không phải là các điền chủ, tự canh
tác trên khoảnh đất của mình; họ là thành viên của các công xã nông thôn và
thường phân chia lại ruộng đất theo định kì, tuỳ thuộc vào sự thay đổi số nhân
khẩu trong từng gia đình. Theo quan niệm của nông dân, ruộng đất không phải là
hàng hoá mà là nguồn sống, chỉ có những người canh tác mới có quyền sở hữu
ruộng đất.
Nông dân còn có đặc điểm là bảo thủ, trung thành với Hoàng đế và
nhà thờ Chính thống giáo. Chỉ có một khía cạnh và là khía cạnh duy nhất, trong
đó người nông dân có thể trở thành động lực của cách mạng, mà cụ thể là: họ là
những người không đủ ruộng đất canh tác. Người nông dân Nga không phải là giai
cấp vô sản bị áp bức ở nông thôn: năm 1916 họ chiếm tới 89,1% đất canh tác tại
phần châu Âu của nước Nga[6].
Nhưng số lượng nông dân lại tăng nhanh hơn phần diện tích canh tác nằm dưới
quyền sử dụng của họ: nếu giữa thế kỷ XIX, một diện tích đất dành cho hai nhân
khẩu thì sau 50 năm phải nuôi đến ba nhân khẩu. Phương pháp quảng canh truyền
thống cùng với điều kiện khí hậu khắc nghiệt làm cho năng suất không cao. Nông
dân tin rằng một ngày nào đó Sa hoàng, mà họ coi là người chủ hợp pháp của toàn
bộ đất đai, sẽ thu hồi đất của địa chủ và cả những nông dân sở hữu ruộng đất để
phân chia cho các công xã. Nếu ông ta không làm như thế, đầu những năm 1890 đã
xuất hiện những ngờ vực là ông ta không làm như thế, thì nông dân sẵn sàng
chiếm ruộng đất bằng vũ lực. Các tác nhân khác cũng góp phần ngăn chặn việc
biến Nga thành một nước phương Tây. Trong suốt quá trình lịch sử của mình,
chính quyền Nga là chính thể chuyên chế, Sa hoàng không chỉ có toàn quyền trong
các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp mà còn sở hữu toàn bộ đất nước theo
đúng nghĩa đen của từ này, ông ta có thể sử dụng cả nhân tài và vật lực của
quốc gia theo ý mình; đấy là một chế độ mà Max Weber, nhà xã hội học Đức, gọi
là “patimonial” (tạm dịch: làng xã - là các hệ thống nhỏ, mang tính truyền
thống, quyền lực mang tính cá nhân và độc đoán biến người dân thường thành
khách hàng của người cai trị chứ không còn là công dân có các quyền - ND). Việc quản lý đế chế rộng lớn này được giao cho tầng lớp quan
lại, cùng với lực lượng cảnh sát và quân đội làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự, họ
không bao giờ phải báo cáo hay chịu trách nhiệm gì trước dân chúng. Cho đến năm
1905 - khi các phong trào nổi dậy của dân chúng buộc Sa hoàng phải ban bố hiến
pháp và các quyền dân sự - người dân Nga có thể bị bắt và lưu đày mà không cần
xét xử chỉ vì những suy tư về việc thay đổi hiện trạng.
Cuối thế kỷ XVIII, sở hữu tư nhân về ruộng đất mới được áp dụng ở
nước Nga, mà cũng chỉ giới quý tộc mới được hưởng quyền này, còn trước đó, tất
cả ruộng đất đều là sở hữu của nhà vua. Trong khi đó, ở phương Tây, ngay từ
thời Trung cổ, phần lớn ruộng đất đã thuộc quyền sở hữu tư nhân. Các thiết chế
pháp lý, thường phát triển song hành với quyền tư hữu, cũng mãi sau này mới xuất
hiện: các bộ luật đầu tiên xuất hiện vào năm 1830 và mãi đến năm 1860 mới có
các toà án thực sự. Cho đến lúc đó, đa số người dân Nga vẫn là nông nô của nhà
nước hay của tầng lớp quý tộc, không được hưởng quyền tư pháp và quyền sở hữu
tài sản. Các cơ quan đại diện có mục đích ngăn chặn bớt quyền lực của ngai vàng
xuất hiện vào năm 1906, nghĩa là chậm một thế kỷ so với quốc hội phương Tây.
Chưa có bộ luật dân sự. Điều đó chứng tỏ rằng, đa số người Nga, cũng như các
dân tộc bị họ cai trị, không thể trông cậy gì vào chính phủ của mình. Họ phục
tùng vì không có con đường nào khác, lý tưởng của họ là vô chính phủ.
Các Sa hoàng, trong khi bóp nghẹt đất nước như thế, nhưng lại muốn
giữ địa vị siêu cường, đã buộc phải thực hiện những bước đi mà chắc chắn sẽ làm
lung lay quyền lực của chính hoàng gia. Các trường đại học Nga, trong khi tiến
hành công việc phổ biến kiến thức và phương pháp tư duy có tính phê phán, đã
góp phần tạo ra một tầng lớp công dân không chấp nhận việc bóp nghẹt tự do ngôn
luận. Alexander Herzen viết về nan đề của thế hệ ông như sau:
Người ta dạy chúng tôi kiến thức, người
ta gieo vào lòng chúng tôi ước mơ, khát vọng và nỗi đau của thế giới đương đại,
nhưng sau đó họ lại hạ lệnh: “Hãy tiếp tục làm nô lệ, tiếp tục là những người
câm, những người bất động nếu không các ngươi sẽ chết”.
Chính sách mâu thuẫn như thế đã tạo ra một tầng lớp trí thức đặc
trưng bởi thái độ thù địch với toàn bộ trật tự xã hội và thể chế chính trị hiện
hành, họ tin rằng hành động như thế chính là cách nói thay cho người dân thấp
cổ bé miệng. Môi trường hoạt động của các nhà cách mạng, từ những “thánh tông
đồ” của các biện pháp bất bạo động đến những kẻ khủng bố cực đoan, không phải
là công trường hay nhà máy mà chính là các trường đại học.
Các Sa hoàng còn khuyến khích phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa,
đây cũng là chính sách góp phần làm lung lay hệ thống quyền lực của ngai vàng.
Nước Nga đã thua các nước dân chủ và công nghiệp hoá trong cuộc chiến tranh Krimea
năm 1854-1855, cuộc chiến tranh được tiến hành ngay trên lãnh thổ của mình.
Thất bại nhục nhã này một lần nữa chứng tỏ rằng, trong thế giới hiện đại, một
nước thiếu nền công nghiệp và hệ thống giao thông vận tải phát triển thì không
thể tranh giành hay giữ được vị thế siêu cường. Thất bại đã thúc đẩy các Sa
hoàng khuyến khích phát triển cả công nghiệp lẫn hệ thống giao thông bằng nguồn
vốn trong và ngoài nước. Hậu quả là đã xuất hiện các trung tâm ra quyết định độc
lập chính phủ và bộ máy quan liêu.
Giáo dục phát triển, công nghiệp hoá nhằm đáp ứng tham vọng của
nước Nga đã xói mòn quyền lực của chế độ đối với đất nước.
Những tác nhân đó giúp ta hiểu được vì sao cách mạng cộng sản - theo
Marx phải diễn ra ở các nước phương Tây công nghiệp hoá - lại nổ ra ở nước Nga
nông nghiệp. Ở Nga, không có các tác nhân ngăn chặn những cuộc cách mạng xã
hội: đấy là tinh thần thượng tôn pháp luật và tôn trọng quyền tư hữu, ngoài ra,
ở phương Tây, dân chúng còn tôn trọng chính phủ vì chính phủ của họ luôn bảo vệ
quyền tự do của người dân và cung cấp các dịch vụ xã hội. Tầng lớp trí thức cấp
tiến say mê lý tưởng, một bên và giai cấp nông dân, những người luôn khát khao
chiếm đoạt lấy một mảnh ruộng riêng, một bên, đã tạo ra tình trạng căng thẳng
thường trực, sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào, nhất là khi chính phủ trung ương
rơi vào tình trạng khó khăn. Ở đây, các tác nhân kinh tế mà Marx và Engels đưa
ra chẳng có vai trò gì.
Những tác nhân dẫn nước Nga đến cách mạng cũng chính là những tác
nhân quyết định hình thức của chế độ cộng sản sẽ xuất hiện tại đây. Hoá ra chủ
nghĩa xã hội được đưa vào đất nước chưa hề biết đến những truyền thống có thể
giúp đạt được lý tưởng do Marx đặt ra sẽ tự phát và nhanh chóng tiếp thu những
khía cạnh xấu xa nhất của chế độ Sa hoàng mà nó vừa lật đổ. Ở phương Tây, các
khẩu hiệu xã hội chủ nghĩa ngày một mờ nhạt dần và trở thành một phần không thể
tách rời của những người theo chủ nghĩa tự do, thì ở Nga và các nước ngoài
phương Tây, lại được lèo lái theo những khái niệm quen thuộc về quyền lực vô
giới hạn của nhà nước đối với các công dân và tài sản của họ. Chủ nghĩa toàn
trị Xô Viết, sinh ra từ hạt giống Marxist, nhưng được gieo trên cánh đồng làng
xã của chế độ Sa hoàng, đã hình thành như thế đấy.
Phong trào cách mạng Nga xuất hiện trong những năm 1870, dưới ảnh hưởng của các học thuyết vô chính phủ và xã hội chủ nghĩa phương Tây, đã tìm được những đồ đệ chủ yếu trong hàng ngũ sinh viên. Những người thanh niên đó thâm nhập về nông thôn, tưởng rằng sẽ được nông dân đón tiếp nồng hậu, nhưng họ đã thất vọng. Hoá ra nông dân không chỉ căm thù những người hàng xóm giàu có hơn, những người được gọi là “kulak”, mà chính họ cũng lại muốn trở thành những người như thế. Họ tin Sa Hoàng, tin rằng ông ta sẽ chia ruộng đất cho mình.
Thất vọng, đa số những thanh niên này đã rời bỏ phong trào. Nhưng một nhóm nhỏ, liên kết thành Đảng “Ý Dân”; đảng này tập trung tất cả cố gắng vào việc làm cho nhân dân không còn sợ hãi và kính trọng Sa hoàng nữa. Để đạt mục đích đó, họ bắt đầu bằng những vụ ám sát các viên chức cao cấp của chính phủ. Ý Dân là tổ chức đầu tiên trong lịch sử đã gây ra hàng loạt những vụ khủng bố chính trị. Tháng 3 năm 1881, đảng này ám sát Sa hoàng Alexander II, một ông vua mà trước đấy 20 năm đã giải phóng những người nông nô Nga. Vụ ám sát không đạt được mục đích. Nó còn có tác dụng ngược: không những không kêu gọi được nhân dân vùng lên chống lại chế độ, vụ ám sát còn làm cho nhiều người bất mãn và làm mất niềm tin vào các biện pháp cách mạng trong một thời gian.
Phong trào cách mạng Nga xuất hiện trong những năm 1870, dưới ảnh hưởng của các học thuyết vô chính phủ và xã hội chủ nghĩa phương Tây, đã tìm được những đồ đệ chủ yếu trong hàng ngũ sinh viên. Những người thanh niên đó thâm nhập về nông thôn, tưởng rằng sẽ được nông dân đón tiếp nồng hậu, nhưng họ đã thất vọng. Hoá ra nông dân không chỉ căm thù những người hàng xóm giàu có hơn, những người được gọi là “kulak”, mà chính họ cũng lại muốn trở thành những người như thế. Họ tin Sa Hoàng, tin rằng ông ta sẽ chia ruộng đất cho mình.
Thất vọng, đa số những thanh niên này đã rời bỏ phong trào. Nhưng một nhóm nhỏ, liên kết thành Đảng “Ý Dân”; đảng này tập trung tất cả cố gắng vào việc làm cho nhân dân không còn sợ hãi và kính trọng Sa hoàng nữa. Để đạt mục đích đó, họ bắt đầu bằng những vụ ám sát các viên chức cao cấp của chính phủ. Ý Dân là tổ chức đầu tiên trong lịch sử đã gây ra hàng loạt những vụ khủng bố chính trị. Tháng 3 năm 1881, đảng này ám sát Sa hoàng Alexander II, một ông vua mà trước đấy 20 năm đã giải phóng những người nông nô Nga. Vụ ám sát không đạt được mục đích. Nó còn có tác dụng ngược: không những không kêu gọi được nhân dân vùng lên chống lại chế độ, vụ ám sát còn làm cho nhiều người bất mãn và làm mất niềm tin vào các biện pháp cách mạng trong một thời gian.
Phong trào dân chủ-xã hội thâm nhập vào nước Nga trong những năm
1890. Phong trào này có sức hấp dẫn vì trong mười năm đó, nước Nga đã trải qua
quá trình công nghiệp hoá một cách nhanh chóng, khả năng xuất hiện nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa với những hậu quả xã hội đi kèm với nó, được Marx mô tả trong Tư
bản luận, đang đến rất gần. Tại các trường đại học, các nhóm thanh niên có
xu hướng dân chủ-xã hội mọc lên như nấm sau mưa, các nhóm này coi khủng bố là
sách lược không có tương lai, họ hy vọng vào quá trình phát triển tự nhiên của
nền kinh tế. Cùng với thời gian, thành viên của các nhóm này tin rằng nước Nga
đang trải qua tất cả các mâu thuẫn đặc trưng của chủ nghĩa tư bản và cách mạng nhất
định sẽ nổ ra.
Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga được thành lập tại một đại hội
bí mật, bị cảnh sát giải tán, vào năm 1898. Tuyên ngôn của đại hội, do Peter
Struve chấp bút, nói rằng nước Nga sẽ giành được tự do không phải bằng những cố
gắng của giai cấp tư sản khiếp nhược mà bằng sức mạnh của giai cấp công nhân
công nghiệp. Giai cấp công nhân sẽ giải phóng đất nước khỏi chế độ độc tài và
khai phá con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tiên đề này sẽ trở thành luận
điểm chủ yếu của phong trào dân chủ xã hội Nga: cách mạng sẽ trải qua hai giai
đoạn; giai đoạn thứ nhất có nhiệm vụ lật đổ chế độ chuyên chế Sa hoàng và thành
lập chế độ dân chủ “tư sản”, giai đoạn hai có nhiệm vụ lật đổ chính chế độ này
và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là chiến lược sao chép phương châm của Marx
và Engels, hai ông này từng kêu gọi lập các liên minh chiến thuật với những
người theo chủ nghĩa tự do trong cuộc đấu tranh chống lại các chế độ độc tài.
Về mặt hình thức, Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga được thành lập
tại đại hội ở London, năm 1903. Ngay tại đây, phong trào đã chia thành hai
phái, một phái do Martov đứng đầu, gọi là “Menshevik”, phái kia do Lenin đứng
đầu, gọi là “Bolshevik”. Dù đã có những cố gắng hoà giải, nhưng hai phái này
không bao giờ hoà thuận được vì thái độ thù địch không khoan nhượng của Lenin
đối với bất kì người nào có ý chống lại sự lãnh đạo của ông ta. Vì người ta
thường liên tưởng chủ nghĩa cộng sản
với tên tuổi của Lenin và Đảng của ông, xin dừng lại một chút và xem xét kĩ hơn
con người này, một người từng có ảnh hưởng bao trùm đối với nền chính trị thế
giới trong suốt thế kỷ XX.
____________
Vladimir Ilych Ulyanov Lenin sinh năm 1870 tại thành phố Simbirsk,
bố ông ,vốn xuất thân từ thành phần quý tộc, được bổ nhiệm làm thanh tra viên
trong ngành giáo dục và cũng là một người có quan điểm bảo thủ và rất trung
thành với nhà thờ Chính thống giáo. Trong buổi hoàng hôn của đế chế Nga, rõ
ràng là, con cái của những gia đình quan chức cao cấp như thế cảm thấy như có
lỗi vì những đặc quyền đặc lợi và dễ trở thành những người có tư tưởng cấp
tiến. Năm 1887, người anh của Lenin, Alexander, bị kết án tử hình vì tham gia
vào vụ mưu sát Sa hoàng Alexander III. Các chị em gái của Lenin cũng không
tránh được rắc rối và cũng từng bị tù đày. Nhưng, trong những năm còn học phổ
thông, Lenin không hề quan tâm đến chính trị: là một học sinh có năng khiếu,
cậu học trò Volodia mỗi năm lại lên một lớp và năm nào cũng được nhận bằng khen
không những vì đã có thành tích trong học tập mà còn chứng tỏ là một học trò
ngoan.
Rắc rối xuất hiện vào năm 1887, đấy là năm Lenin thi vào trường
đại học tổng hợp Kazan. Cảnh sát bắt đầu chú ý đến Lenin khi ông tham gia vào
những vụ lộn xộn của sinh viên nhằm phản đối các quy định của nhà trường. Sau
khi bị nhận diện là em của một kẻ khủng bố đã bị tử hình, Lenin bị đuổi học và
mặc dù bà mẹ đã nhiều lần làm đơn xin, ông ta không bao giờ được nhận trở lại
trường nữa. Lenin phải ăn không ngồi rồi suốt ba năm trời, lòng căm thù chế độ
cũng ngày một dâng cao. Chỉ vì một lỗi nhỏ mà chế độ trừng phạt một cách quá
nghiêm khắc và như thế đã chặn đứng vĩnh viễn con đường hoạn lộ của ông ta. Ông
ta không chỉ căm thù chế độ mà còn căm thù “giai cấp tư sản”, giai cấp đã chối
bỏ gia đình ông chỉ vì có một người anh bị tử hình. Điều đó đã biến ông ta
thành một nhà cách mạng cuồng tín, một người quyết tâm đập phá tan tành chế độ
chính trị và xã hội hiện hành. Như vậy nghĩa là, nhiệt tình cách mạng của Lenin
không phải xuất phát từ lòng yêu thương giai cấp cần lao. Trên thực tế, năm
1891-1892, ở vùng Volga xảy ra nạn đói thì chỉ có ông ta là người trí thức duy
nhất trong vùng phản đối việc giúp đỡ những người nông dân nghèo đói vì cho
rằng nạn đói có vai trò tích cực trong việc phá huỷ nền kinh tế tiểu nông cổ truyền,
dọn đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệt tình cách mạng của ông ta cũng không
được hâm nóng bởi viễn kiến về một tương lai tươi sáng hơn. Nền tảng của nó là
lòng hận thù và khát khao báo thù. Struve, người từng cộng tác với Lenin trong
những năm 1890, sau này đã viết rằng, đặc điểm chủ yếu của Lenin là lòng hận
thù. Tố chất bẩm sinh đó của con người Lenin, một người mà động lực chủ yếu là
sự ác cảm và thù địch đối với tất cả những gì xa lạ, dù đấy là những giai cấp
hay các dân tộc và sắc tộc khác, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống chính
trị thế giới trong suốt thế kỷ XX.
Năm 1891, chính quyền đã tỏ ra độ lượng và cho phép Lenin thi lấy
bằng luật sư như một thí sinh tự do. Lenin thi đỗ và chuyển về sống ở
Saint-Petersburg. Ông ta có làm công việc tranh tụng một thời gian, nhưng đấy
chỉ là bức bình phong cho hoạt động cách mạng của ông ta mà thôi. Những người
dân chủ xã hội ở đây không những không coi Lenin là một người Marxist mà còn
coi là một người thuộc phái “Ý dân”, một người ủng hộ khủng bố, nôn nóng, muốn
bắt đầu cách mạng ngay mà không chờ cho chủ nghĩa tư bản phát triển chín muồi.
Qua giao tiếp với những người được chuẩn bị kĩ lưỡng hơn về mặt lý luận, có
thời gian Lenin đã ngả sang tư tưởng về hai giai đoạn cách mạng. Là một người
có kỉ luật, năng nổ và hết mình vì sự nghiệp của chủ nghĩa xã hội, Lenin nhanh
chóng giành được địa vị cao trong phong trào dân chủ xã hội đang còn trong vòng
bí mật.
Vì những vụ sách động công nhân đình công, năm 1896 Lenin bị bắt
và bị đầy đi Siberia. Ông ta sống trong ngôi nhà thuê của một gia đình nông
dân, khá đầy đủ tiện nghi, với người vợ chưa cưới là Nadezhda Krupskaya. Trong
ba năm đó, ông ta chuyên tâm vào việc viết lách, dịch và trao đổi thư từ với
bạn bè. Trong những năm Lenin bị lưu đầy (1897-1900), ở Đức nổi lên phong trào
xét lại chủ nghĩa Marx và từ đó, phong trào này thâm nhập vào nước Nga. Cương
lĩnh xét lại làm Lenin choáng váng, ông coi coi đây là sự phản bội sự nghiệp đã
làm cho ông ta trở thành một người xã hội chủ nghĩa. Ông ta còn cảm thấy cay
đắng hơn khi nhận ra rằng phong trào công nhân đang hình thành ở Nga lại thiên
về các hoạt động công đoàn theo đường lối hoà bình chứ không có ý định lật đổ
chủ nghĩa tư bản. Diễn biến của các sự kiện như thế làm Lenin rơi vào một cuộc
khủng hoảng nội tâm sâu sắc. Cuối cùng, ông ta tự khẳng định rằng, nếu không
đưa được những người dân chủ xã hội quay sang con đường cách mạng thì chính ông
ta sẽ ly khai và thành lập đảng riêng của mình.
Vừa ra khỏi tù, Lenin lập tức đi sang Đức và cùng với Martov lập
ra tờ báo Iskra (Tia lửa nhỏ) nhằm
truyền bá chủ nghĩa Marx chính thống, chống lại trào lưu xét lại lúc đó. Nhưng,
chính cách hiểu chủ nghĩa Marx của ông ta lại chẳng chính thống một chút nào.
Năm 1902, với tác phẩm Что
делать? (Làm gì?), Lenin đã đưa ra những
luận điểm chủ yếu của cái học thuyết mà sau này được gọi là chủ nghĩa
Bolshevik. Trong tác phẩm này, ông ta đã phủ nhận một cách dứt khoát quan điểm
chủ yếu của chủ nghĩa Marx, tức là quan điểm nói rằng nhất định giai cấp công
nhân sẽ nổi dậy: Tự mình, giai cấp công nhân sẽ không vượt qua khuôn khổ của
các hoạt động công đoàn, ông ta khẳng định như thế. Nhiệt tình cách mạng phải
được đưa vào từ bên ngoài, phải nhờ vào một đảng cố kết của những nhà cách mạng
chuyên nghiệp. Mặc dù Lenin không nói rõ, nhưng những nhà cách mạng chuyên
nghiệp phải là các trí thức, vì công nhân không có thì giờ và cũng chẳng có
kiến thức để thực hiện sứ mệnh này*. Trên thực tế, ban lãnh đạo đảng của Lenin
chỉ có một người từng là công nhân, nhưng hóa ra lại là chỉ điểm của cảnh sát.
*
Benito Mussolini, người lập ra Đảng Fascist, nhưng trước Thế chiến I lại là
lãnh tụ của cánh cực đoan của phong trào dân chủ xã hội Italy lúc đó cũng có
cùng quan điểm như thế.
Năm 1903, Lenin đến đại hội với tinh thần sẵn sàng chia rẽ đảng và
đoạn tuyệt với đa số có xu hướng hoà bình chủ nghĩa. Về mặt hình thức, nguyên
nhân của sự phân liệt là do Lenin đòi hỏi rằng một người muốn trở thành đảng
viên thì không những phải ủng hộ cương lĩnh của đảng mà còn phải cống hiến trọn
đời cho hoạt động cách mạng. Đảng được tổ chức như một đạo quân, với hệ thống
kỉ luật và phục tùng tuyệt đối sẽ lãnh đạo chứ không phải theo đuôi phong trào
công nhân. Vừa giành được một đa số tạm thời tại đại hội, Lenin lập tức gọi
phái của mình là “Bolshevik”, nghĩa là “đa số”, còn những người phản đối ông
ta, dưới sự dẫn dắt của Martov, đành chấp nhận nhãn hiệu “Menshevik”, nghĩa là “thiểu
số”.
Lịch sử mười năm tiếp theo của Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga
chứa đầy các âm mưu và những cuộc cãi vã nhảm nhí. Lenin gọi những người
Menshevik là “bọn phản bội”, “bọn đầu hàng” và những danh từ mang tính nhục mạ
tương tự như thế. Muốn lập đảng của những nhà cách mạng chuyên nghiệp thì cần
phải có tiền, Lenin đã kiếm tiền bằng những cách phải nói là chẳng hay ho gì,
kể cả cướp bóc ngân hàng và tranh đoạt tài sản kế thừa của người khác.
Ngay trước Thế chiến I, Lenin đã đưa ra hai lý thuyết mới. Thứ
nhất, nước Nga không cần cách mạng “tư sản” vì chủ nghĩa tư bản đã làm đất nước
chấn động và đã sẵn sàng thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa rồi. Thứ hai,
trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ chế độ hiện hành, những người xã hội chủ nghĩa
có thể tham gia liên minh tạm thời với mọi lực lượng, tức là những lực lượng vì
quyền lợi của mình mà đấu tranh chống lại chế độ hiện hành, đặc biệt là nông
dân và các dân tộc thiểu số.
Những người Marxist coi nông dân là giai cấp “tiểu tư sản” và vì
vậy, về bản chất, là kẻ thù của giai cấp công nhân công nghiệp. Nhưng, Lenin
lại cho rằng người nông dân chỉ ước mong có ruộng và sẵn sàng đứng lên làm cách
mạng, ông ta tin rằng chỉ cần nắm được quyền lực là có thể buộc nông dân phải
đi theo bằng cách quốc hữu hoá ruộng đất. Về các sắc dân thiểu số, Lenin, cũng
như tất cả những người xã hội chủ nghĩa khác, đều coi thường mọi biểu hiện của
chủ nghĩa dân tộc. Nhưng ông ta cũng cho rằng tinh thần dân tộc của người Ba
Lan, người Phần Lan và các sắc dân thiểu số khác lại góp phần vào việc lật đổ
chế độ. Vì vậy, ông ta đã hứa bảo đảm cho tất cả các dân tộc nằm dưới sự cai
trị của người Nga quyền dân tộc tự quyết, kể cả quyền thành lập nhà nước độc
lập. Trả lời câu hỏi có phải như thế là “Balkan hoá” nước Nga hay không, ông ta
nói rằng các mối liên kết kinh tế gắn bó đế chế Nga mạnh đến nỗi khuynh hướng
phân liệt không thể có cơ may thành công, mà nếu có một hai khu vực biên thuỳ
nào đó làm được chuyện này thì vẫn có thể dùng vũ lực để bắt họ quay trở lại vì
“quyền vô sản tự quyết” phải cao hơn “quyền dân tộc tự quyết”.
Từ năm 1900 đến năm 1917, Lenin hầu như chỉ sống ở nước ngoài. Dù
ở Đức, ở Áo, Italy hay Thuỵ Sĩ ông ta đều tìm cách chia rẽ Quốc tế II như đã
từng chia rẽ Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga, nhưng kết quả không đáng là
bao. Ông ta vẫn giữ mối liên hệ với các đệ tử ở Nga và dành nhiều thời gian
viết báo để mạt sát những người bất đồng quan điểm. Trừ những học trò gần gũi –
ông ta thường cố gắng thuyết phục khi những người này lầm lạc – tất cả những
người bất đồng ý kiến đều bị ông ta gọi là bọn phản bội giai cấp công nhân.
Suốt thời gian đó, ông ta chỉ về Nga có một lần, đấy là trong thời
gian diễn ra cuộc Cách mạng năm 1905. Lợi dụng những quyền tự do được chế độ
nới rộng trong thời kì cách mạng, các đảng viên Bolshevik lập tức công khai
thành lập các tổ chức của mình. Quần chúng không ủng hộ bất kì phái dân chủ xã
hội nào: năm 1907, tổng số đảng viên của tất cả các phái cũng chỉ là 84.000
người, khi cách mạng rơi vào thoái trào thì con số này cũng giảm, năm 1910 chỉ
còn lại 10.000 đảng viên, đấy là trong một nước có 150 triệu dân. Những người
ủng hộ Bolshevik đa phần là dân Nga, còn những người thiểu số, thí dụ như người
Do Thái hoặc Georgia, thì ngả về phía Menshevik. Cả hai phái đều chẳng có mấy
công nhân, đa số đảng viên đều thuộc tầng lớp trí thức.
Chiến tranh thế giới xảy ra. Những người dân chủ xã hội Nga, cả
Bolshevik lẫn Menshevik, là những người duy nhất, nếu không kể đến người Serbi,
biểu quyết phản đối ngân sách chiến tranh. Các đại biểu quốc hội là đảng viên
Bolshevik đều bị bắt và bị lưu đầy vì tội hoạt động đối lập. Tổ chức đảng của
họ gần như không còn.
Khi chiến tranh nổ ra, lập trường của Lenin là rất rõ ràng: phải
biến chiến tranh giữa các nước thành chiến tranh giữa các giai cấp. Giai cấp công
nhân các nước không được bắn giết lẫn nhau mà phải quay súng chống lại những kẻ
bóc lột mình. Có một số người thuộc Quốc tế II ủng hộ quan điểm này, họ lập tức
tụ họp ở Thuỵ Sĩ, một nước giữ thái độ trung lập. Người Nga có một phái đoàn
rất mạnh tại các cuộc gặp gỡ này và Lenin đã giành được quyền lãnh đạo phái tả
cấp tiến. Mặc dù các nghị quyết do ông ta đề xuất đã không được thông qua,
nhưng ông đã có ảnh hưởng rất lớn đối với các cuộc thảo luận và đấy là cơ sở
cho việc thành lập Quốc tế III hay còn gọi là Quốc tế Cộng sản vào năm 1919.
_______________
Nước Nga là đồng minh của Anh và Pháp. Nga tham gia liên minh vì
sợ rằng Đức và Áo sẽ mở rộng sang phía Đông và phía Nam và sẽ chiếm một phần
lãnh thổ, biến Nga thành một nước loại hai. Pháp phải hợp tác với Nga vì sợ
Đức, Pháp chỉ có thể đứng vững được nếu Đức phải chiến đấu trên cả hai mặt
trận. Thoả thuận mà Pháp kí với Nga có điều khoản là Nga sẽ tấn công Đức và
tiến nhanh về hướng Berlin một khi quân Đức tràn vào Pháp.
Nhưng hoá ra kế hoạch của các bên tham chiến đều không được thực
hiện. Kế hoạch của Đức là giành thắng lợi nhanh chóng trên mặt trận phía Tây và
sau đó chuyển sang mặt trận phía Đông để tiêu diệt quân Nga đã thất bại: chiến
dịch bên phía Tây trở thành những trận đánh giành giật nhau từng chiến hào và
không biết bao giờ mới kết thúc. Trong khi đó, quân Nga tấn công mãnh liệt trên
mặt trận Đông Phổ, nhưng bị rơi vào bẫy và bị quân Đức đánh tan.
Cuối năm 1914, Bộ Chỉ huy tối cao Đức kết luận rằng, họ chỉ có thể
chiến thắng nếu đánh bại Nga và sau đó sẽ tập trung toàn lực cho mặt trận phía
Tây. Mùa xuân năm 1915, liên quân Đức-Áo tấn công Ba Lan, lúc đó thuộc Nga, và
đẩy quân Nga lùi sâu hàng trăm kilomet. Mặc dù lực lượng quân sự chủ yếu vẫn
được bảo toàn và trên danh nghĩa, Nga vẫn còn tham chiến, nhưng nước này đã
đánh mất những khu vực giàu có nhất và đông dân nhất.
Thất bại đã làm cho cả những người theo chủ nghĩa tự do lẫn những
người bảo thủ bất bình. Các đại biểu quốc hội (Duma) theo chủ nghĩa tự do đòi
chính phủ giao chọ họ quyền bổ nhiệm các bộ trưởng. Những người bảo thủ thì
muốn Sa hoàng Nikolai II thoái vị và nhường ngôi cho một hoàng thân có năng lực
hơn. Trong quân đội, cũng như trong dân chúng, loan truyền các tin đồn về những
hành động phản bội trong tầng lớp chóp bu: người ta nghi ngờ hoàng hậu, vốn là
một người Đức, chuyển bí mật quân sự cho kẻ thù. Chính phủ còn gặp khó khăn hơn
nữa vì nạn lạm phát ở các thành phố, hoạt động đường sắt bị rối loạn gây ra nạn
thiếu lương thực và nhiên liệu, nhất là tại Petrograd (Saint-Petersburg cũ).
Các tin tức xấu từ mặt trận đưa về, cùng với những bất mãn về chính trị và khó
khăn về kinh tế trong các thành phố (nông thôn vẫn yên tĩnh vì nông dân được
lợi khi giá lương thực leo thang) đã tạo ra tình thế cách mạng ngay trong tháng
10 cuối năm 1916.
Có thể nói rằng cuộc Cách mạng năm 1917 đã bắt đầu vào tháng 11
năm trước, khi chính phủ chịu áp lực rất lớn từ cả thành phần tự do lẫn thành
phần bảo thủ trong Duma quốc gia. Maliukov, lãnh tụ phe tự do, tố cáo chính phủ
phản bội. Những cuộc tấn công như thế của giới chính trị cao cấp làm cho đất
nước rơi vào tình trạng hỗn loạn, mọi người đều tin rằng đã đến lúc phải có
những biện pháp quyết liệt. Trong khi đó, Sa hoàng, một người tin vào số mệnh,
đã chẳng đưa ra được biện pháp củng cố quyền lực nào.
Sự bất mãn của đơn vị đồn trú ở Petrogard vào tháng 3 năm 1917 đã
thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng. Đơn vị này gồm toàn lính quân dịch đã lớn
tuổi, đáng lẽ không còn phải đi nghĩa vụ nữa; họ đã nổi loạn khi được lệnh bắn
vào đám đông tay không tấc sắt. Vì sợ cuộc bạo loạn sẽ lan ra mặt trận, để cứu
nước Nga khỏi thất bại nhãn tiền, các tướng lĩnh đã thuyết phục Sa hoàng
Nicholas thoái vị. Là một người yêu nước, ông nghe theo lời khuyên và thoái vị
vào ngày 15 tháng Ba.
Ngay sau khi Sa hoàng thoái vị, quyền lực được chuyển vào tay
chính phủ lâm thời. Cũng thời gian đó, những người trí thức theo phái xã hội
chủ nghĩa thành lập ở Petrogard Xô Viết đại biểu binh lính và thợ thuyền. Xô Viết
có trách nhiệm theo dõi hoạt động của “chính phủ tư sản”, không để cho nó thực
hiện các chính sách phản động. Trong suốt bảy tháng sau đó, nước Nga được quản
lý bởi - nếu có thể gọi đó là một sự quản lý – hai chính quyền song song tồn
tại, trong đó Xô Viết luôn tìm cách làm mất uy tín của chính phủ nhưng lại
chẳng chịu bất kì trách nhiệm nào. Những người trí thức xã hội chủ nghĩa nắm
các Xô Viết đã cố tình phá hoại quân đội bằng cách giảm bớt quyền lực của các
sĩ quan, họ cho rằng các sĩ quan chính là lực lượng phản cách mạng. Trong khi
đó, họ lại đòi phải chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng.
Chính phủ lâm thời hứa sẽ sớm tổ chức bầu cử quốc hội lập hiến để
tạo ra các cơ quan quyền lực của nền cộng hoà, nhưng vì có quá nhiều việc khẩn
cấp nên cuộc bầu cử cứ bị hoãn đi hoãn lại mãi. Công cuộc cải cách ruộng đất
cũng được tiến hành rất chậm. Quá sốt ruột, nông dân bắt đầu tấn công các trang
trại, còn binh lính thì bỏ mặt trận về nhà để không lỡ dịp nhận phần trong vụ
tái phân phối ruộng đất đang sắp diễn ra. Các dân tộc thiểu số cũng bắt đầu đòi
quyền tự quản, có cả những trường hợp đòi được độc lập hoàn toàn. Trong lúc đó,
chính phủ lâm thời tiếp tục kêu gọi tiến hành chiến tranh, một cuộc chiến ngày
càng mất lòng dân hơn. Chính quyền chứ không phải tình đoàn kết xã hội đã giữ
cho nước Nga thống nhất trong hàng thế kỷ, nay quyền lực ấy không còn, đất nước
trượt dần vào cảnh hỗn loạn vô chính phủ.
Đấy chính là vận may của Lenin. Đầu năm 1917 ông ta vẫn còn sống ở
Thuỵ Sĩ. Vừa nhận được tin về cuộc Cách mạng tháng Ba, ông ta lập tức đánh điện
cho các đồ đệ ở Nga, hạ lệnh cho họ bất tín nhiệm chính phủ lâm thời, không
được liên minh với các đảng xã hội chủ nghĩa khác và tiến hành vũ trang cho
công nhân. Ông ta chỉ muốn mau chóng quay về để nắm trực tiếp quyền điều hành
cách mạng.
Quân Đức và quân Áo, bị kìm chân trên mặt trận phía Tây trong một
cuộc chiến hao người tốn của, đã theo dõi rất kĩ mọi động tĩnh của các di dân
phản chiến người Nga, trong đó có Lenin. Lenin đã liên hệ với đại sứ quán Đức ở
Thuỵ Sĩ để nhờ giúp đỡ trong việc trở về nước. Berlin không chỉ cho ông ta và
những người xã hội chủ nghĩa khác đi qua nước Đức mà còn cung cấp cho ông ta
tiền để khôi phục hoạt động của đảng. Lenin, một người không bao giờ quan tâm
đến nguồn gốc của đồng tiền, miễn là đồng tiền đó phục vụ cho mục đích của ông
ta, đã nhận lời. Sau đó, qua trung gian và rất kín đáo, ông ta được người Đức
bảo trợ suốt một năm rưỡi.
Vừa về đến Petrograd, Lenin đã vội vã tập trung tấn công một cách
không khoan nhượng vào chính phủ lâm thời, đòi phải lật đổ chính phủ này ngay lập
tức: không được để cho nó thiết lập ở Nga chế độ “tư sản”, tức là ông ta có ý
kiến trái ngược hẳn với những người Menshevik và đa số ủng hộ viên của chính
mình. Tháng 7 năm 1917, Đảng Bolshevik đã thực hiện một cuộc đảo chính, nhưng
chính phủ đã kịp thời đập tan vụ bạo loạn và sau đó cho công bố một loạt thông
tin tình báo về mối liên hệ của Lenin với Đức. Đã có lệnh bắt giam Lenin và một
loạt lãnh tụ Bolshevik khác, kể cả Trotsky, một người vừa ra nhập đảng của
Lenin trước đó không lâu. Trotsky bị bắt, nhưng Lenin thì kịp trốn qua Phần Lan
và ẩn náu ở đó cho mãi đến sát ngày đảo chính vào tháng 11 năm 1917 mới trở về.
Lenin không được nhiều người ủng hộ, nhưng họ là những người rất
đoàn kết và thực hiện nghiêm chỉnh mọi chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương.
Không đảng nào có tổ chức chặt chẽ như thế: Đảng Dân chủ Cách mạng tuy được
lòng quần chúng hơn, nhưng tổ chức lại lỏng lẻo, không đủ sức động viên quần
chúng. Menshevik và những đảng theo đường lối dân chủ lập hiến khác cũng ở
trong tình trạng tương tự. Hơn nữa, chỉ có Lenin là có khát vọng nắm quyền lực,
ngoài ông ta, không có chính khách nổi tiếng nào sẵn sàng nhận lãnh trách niệm
quản lý một đất nước đã mất kiểm soát về mọi phuơng diện. Lenin, người suốt đời
chuẩn bị cho giây phút ấy, đã theo dõi sát sao sự phát triển của các sự kiện và
chọn được đúng thời điểm ra đòn.
Đấy là cuối mùa hè, khi Aleksander Kerensky, trên danh nghĩa là
một nhà độc tài, nhưng ít quyền lực, bất hoà với tướng Lavr Kornilov, tổng chỉ
huy quân đội Nga, vu cho ông ta chuẩn bị đảo chính. Vì những hành động thiếu
trách nhiệm như thế, Kerensky đánh mất sự ủng hộ của quân đội, một điều tối cần
thiết nếu những người Bolshevik có ý định cướp chính quyền một lần nữa. Ông ta
lại còn dung túng Đảng Bolshevik như thả họ ra khỏi nhà tù và phát vũ khí để họ
chiến đấu chống lại cuộc bạo loạn giả định của Kornilov. Đảng Bolshevik đã
giành thắng lợi vang dội trong cuộc bầu cử Xô Viết, Lenin coi đây là tín hiệu
để ra đòn quyết định. Nghị quyết về việc cướp chính quyền được thông qua tại
cuộc họp bí mật của các lãnh tụ Bolshevik vào đêm ngày 23 sang ngày 24 tháng 10
năm 1917. Lenin phải đấu tranh rất lâu mới thuyết phục được những người dao
động, họ sợ sẽ lại thất bại như hồi tháng 7.
Cuộc đảo chính diễn ra vào ngày 7 tháng 11, các đơn vị thân
Bolshevik đã chiếm được tất cả các vị trí chiến lược ở thủ đô mà không phải bắn
một phát súng nào. Ở Moskva có xảy ra vài cuộc đụng độ, còn tại các vùng khác,
việc chuyển giao quyền lực diễn ra một cách êm thấm. Sau này, Lenin nói rằng
việc cướp chính quyền ở Nga dễ dàng chẳng khác gì “nhặt một cái lông chim”.
Nguyên nhân ở đây là việc cướp chính quyền được ông ta che đậy một cách khéo
léo bằng khẩu hiệu “tất cả chính quyền về tay Xô Viết”, hứa hẹn cho nhân dân
chế dân chủ chứ không phải chính quyền độc tài. Ngay cả những đảng theo xu
hướng xã hội chủ nghĩa cạnh tranh với Lenin, những người vốn nghi ngờ ông ta,
cũng không tỏ ra lo lắng vì họ tin rằng chế độ chuyên chính độc đảng không thể
đứng vững được lâu, trước sau gì cũng sẽ phải nhường chỗ cho liên hiệp các đảng
xã hội chủ nghĩa mà thôi. Họ chấp nhận để Lenin sử dụng quyền lực một thời
gian, miễn là không xảy ra nội chiến vì như thế sẽ chỉ có lợi “cho lực lượng
phản cách mạng”.
Kết quả là. những người Bolshevik nắm được quyền lực trong suốt 74
năm trời. Như vậy nghĩa là chế độ cộng sản được thiết lập ở Nga không phải là
do kết quả của một cuộc khởi nghĩa của quần chúng: nó được áp đặt từ trên xuống
bởi một nhúm người nấp sau các khẩu hiệu dân chủ. Yếu tố mà ai cũng thấy đó đã
ghi dấu ấn lên toàn bộ lịch sử chế độ cộng sản ở Nga.
______________
Xem xét vụ cướp chính quyền của những người cộng sản trong hoàn
cảnh lịch sử lúc đó ta sẽ cảm thấy kinh ngạc vì sự liều lĩnh của họ. Tất cả các
lãnh tụ cộng sản đều chưa hề có kinh nghiệm quản lý hành chính trong bất kì
lĩnh vực nào, thế mà họ sẵn sàng nhận trách nhiệm quản lý đất nước có diện tích
lớn nhất thế giới. Không hề có kinh nghiệm kinh doanh, nhưng họ lập tức tiến
hành quốc hữu hoá toàn bộ nền kinh tế và sẵn sàng nhận trách nhiệm quản lý nền
kinh tế đứng thứ năm thế giới. Về nguyên tắc, họ coi giai cấp tư sản và các
điền chủ là kẻ thù, còn trên thực tế, đa số nông dân và trí thức cũng bị coi là
kẻ thù của giai cấp công nhân công nghiệp, họ tự nhận mình là người đại diện
của giai cấp này. Công nhân chiếm một tỉ lệ rất nhỏ, nhiều nhất cũng chỉ từ một
đến hai phần trăm dân số. Công nhân đã ít như thế, mà số công nhân theo
Bolshevik còn ít hơn nhiều: ngay trước cuộc đảo chính tháng 11, chỉ có 5,3%
công nhân là đảng viên Bolshevik[7].
Điều đó có nghĩa là, chính quyền mới không có sự lựa chọn nào khác ngoài chế độ
chuyên chính, nhưng đấy không phải là chuyên chính vô sản mà là chuyên chính
đối với giai cấp vô sản và tất cả các giai cấp khác. Sau một thời gian, nền
chuyên chính này đã biến thành chế độ toàn trị. Như vậy nghĩa là, chuyên chính
xuất phát từ bản chất của cuộc đảo chính Bolshevik. Nếu những người cộng sản
muốn giữ quyền lực thì họ buộc phải cai trị bằng những biện pháp chuyên chế tàn
bạo, không bao giờ họ dám buông lỏng. Và đây cũng trở thành nguyên tắc của các
chế độ cộng sản sinh ra sau này.
Lenin hiểu là đang áp đặt cho đất nước một chế độ độc tài cực kì
tàn nhẫn, nhưng lương tâm ông ta không hề cắn rứt. Lenin định nghĩa mọi chế độ
“chuyên chính”, trong đó có “chuyên chính vô sản” là “chính quyền dựa trực tiếp
vào vũ lực, không bị hạn chế bởi bất cứ luật lệ nào, không bị gò bó bởi bất cứ
nguyên tắc nào”[8].
Ông ta sẵn sàng áp dụng những biện pháp khủng bố khốc liệt nhất nhằm tiêu diệt
kẻ thù cũng như doạ dẫm dân chúng. Ông ta làm như thế một phần là do thái độ
thờ ơ đối với đời sống của con người và một phần là do lịch sử đã dạy rằng các
cuộc cách mạng trong quá khứ thường thất bại là vì đã dừng lại ở giữa đường,
không tiêu diệt hết kẻ thù giai cấp, để cho chúng tập hợp lại lực lượng. Bạo
lực – dùng bạo lực một cách phổ biến và tàn bạo (hình dung từ thường được ông
ta sử dụng) - sẽ tạo nền móng cho chế độ mới. Nhưng ông ta tin rằng bạo lực sẽ
không kéo dài: có lần ông ta đã dẫn lời Machiavelli: “Nếu vì mục đích chính trị
mà cần áp dụng một số biện pháp tàn bạo thì phải làm một cách kiên quyết và
thật nhanh vì quần chúng không thể chịu nổi bạo lực trong một thời gian dài”.
Trái ngược với dự đoán của ông ta, bạo lực đã trở thành đặc điểm thường trực
của chế độ do ông ta lập nên.
Thái
độ quyết liệt và năng lực hoạt động của Lenin trái ngược hoàn toàn với sự bất
lực của chính phủ lâm thời vừa bị lật đổ. Ông ta lập
tức quyết định ngày bầu cử quốc hội. Đảng Bolshevik chỉ nhận được 24% số phiếu,
trong khi Đảng Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa có số phiếu bầu hơn gấp hai lần.
Nhưng đấy không phải là điều ông ta bận tâm: tuyên bố rằng đa số binh lính và
công nhân bầu cho Đảng Bolshevik, ông ta chỉ để cho quốc hội vừa được bầu họp
đúng một ngày và sau đó giải tán. Chính phủ do ông ta thành lập, gọi là Xô Viết
Dân uỷ, gồm toàn đảng viên Bolshevik. Thực chất, đây chỉ là cơ quan-bình phong,
có trách nhiệm thực hiện các mệnh lệnh của Đảng Bolshevik mà thôi. Ông ta bãi
bỏ tất cả các thủ tục pháp lý, chuyển công việc xét xử vào tay các toà án cách
mạng, do những người không có kiến thức, nhưng “giác ngộ cách mạng” lãnh đạo,
cũng như vào tay cảnh sát mật vừa được thành lập, lấy tên là Uỷ ban Khẩn cấp
(Cheka). Khủng bố bắt đầu ngay từ khi Lenin vừa cướp được chính quyền.
Nhận
thức được rằng việc thành lập một cơ sở chính trị vững chắc và thực hiện cương
lĩnh cách mạng phải cần thời gian, tháng 3 năm 1918,
Lenin hạ lệnh cho các cộng sự kí ở Brest-Litovsk một hoà ước rất mất lòng dân
với Đức, Áo, Thổ và Bulgaria, nhường cho các nước này những vùng lãnh thổ rộng
lớn.
Ông ta phát động cuộc nội chiến như là một cách khơi mào cách mạng
thế giới. Sau này, những người Bolshevik đã gán cho bọn phản cách mạng trong và
ngoài nước là đã gây ra cuộc nội chiến làm tan hoang nước Nga và giết chết mấy
triệu người. Nhưng như chúng ta đã thấy, từ trước năm 1917, việc biến chiến
tranh giữa các nước thành nội chiến giữa các giai cấp là một trong những luận
điểm cơ bản của đường lối Bolshevik. Trotsky đã công nhận như thế khi viết:
“Chính quyền Xô Viết là một cuộc nội chiến có tổ chức”. Có thể nói rằng, những
người Bolshevik cướp chính quyền ở nước Nga là để phát động cuộc nội chiến.
Ban đầu, Lenin đã sử dụng các khẩu hiệu vô chính phủ nhằm tranh
thủ sự ủng hộ hay ít nhất cũng vô hiệu hoá giai cấp công nhân và nông dân. Ông
ta khuyến khích nông dân tịch thu và chia nhau ruộng đất không chỉ thuộc quyền
sở hữu của nhà nước hay địa chủ mà cả ruộng đất của những người nông dân khác.
Sắc lệnh, công bố vào ngày đảo chính, tuyên bố quốc hữu hoá toàn bộ ruộng đất,
nhưng tạm thời không động đến phần đất do nông dân canh tác. Ông ta khuyến
khích công nhân chiếm các nhà máy xí nghiệp; đây là lập trường của các công
hội, chẳng liên quan gì đến chủ nghĩa Marx. Nhưng đấy chỉ là những biện pháp
tạm thời, một khi chính quyền được củng cố ông ta sẽ đoạn tuyệt ngay. Vì mục
đích cuối cùng của ông ta là quốc hữu hoá toàn bộ nhân tài vật lực của quốc
gia, nhằm buộc toàn bộ nền kinh tế phải tuân theo một kế hoạch duy nhất.
Chúng ta sẽ không dừng lại lâu trong giai đoạn lịch sử từ năm 1917
đến năm 1920. Chỉ xin nói rằng, cộng sản - từ năm 1918, những người Bolshevik
tự gọi mình như thế - đã thắng, một phần vì kiểm soát được các khu vực dân cư
đông đúc với những nguồn lực to lớn về công nghiệp (và quân sự), một phần vì
các nước phương Tây đã không dành cho “Bạch vệ” một sự ủng hộ đúng mức. Trong
thời kì nội chiến và sau đó không lâu, chế độ của Lenin đã giành lại phần lớn
vùng biên thuỳ như Ukraine, Caucasus và Trung Á, là những vùng trước đó đã tách
khỏi Nga. Các vùng này được hợp nhất với Nga và hình thành Liên bang Cộng hoà
Xô viết Xã hội Chủ nghĩa vào năm 1924. Trên thực tế, Đảng Cộng sản Nga, với
tổng hành dinh ở Moskva, đã quản lý tất cả các vùng đất của đế chế vừa được
thành lập. Đại diện của các tổ chức Đảng có mặt trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống, thực hiện nhiệm vụ “mao mạch” của chế độ - theo cách nói của
Mussolini, kẻ đã xây dựng chế độ phát xít theo mô hình của Lenin. Không một tổ
chức xã hội nào có thể tránh được sự kiểm soát của Đảng Cộng sản Liên Xô. Nhà
nước độc đảng đầu tiên trong lịch sử đã xuất hiện như thế đấy.
________________
Những người Bolshevik đã giữ được chính quyền, nhưng lại chịu thất bại trong hầu hết các lĩnh vực khác. Hoá ra, cuộc sống chẳng ăn nhập gì với lý thuyết. Nhưng họ không chịu công nhận rằng mình sai: nếu công việc diễn ra không như ý, họ không những không chịu nhân nhượng mà còn sử dụng bạo lực điên cuồng hơn. Việc công nhận sai lầm nhất định sẽ làm lung lay toàn bộ cơ sở học thuyết, vì họ cho rằng các bộ phận cấu thành học thuyết đã được kiểm chứng một cách khoa học.
Trước hết xin nói về nhà nước.
Việc xuất hiện bộ máy quan liêu đồ sộ, tự tư tự lợi và không thể
kiểm soát nổi, là một trong những thất vọng của Lenin. Theo lý thuyết Marxist,
nhà nước chỉ là công bộc của giai cấp nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất, bản thân
nhà nước không có quyền lợi riêng tư nào. Chỉ có thể nói đấy là một sự ngu tín,
vì lịch sử thế giới, kể từ thời các Pharaoh Ai Cập, có đầy dẫy các bằng chứng,
chứng tỏ rằng các viên chức nhà nước quan tâm trước hết đến quyền lợi của chính
mình, họ đã từng tạo ra những nhóm lợi ích có quyền lực, nhiều khi còn mạnh hơn
cả giai cấp hữu sản. Sự phát triển với tốc độ chóng mặt của bộ máy quan liêu Xô
Viết, do Lenin tạo ra, đã làm ông ta phát hoảng. Cùng với việc Đảng Cộng sản
nắm quyền lãnh đạo toàn diện đời sống của đất nước, quốc hữu hoá toàn bộ nền
công nghiệp, hệ thống bán buôn và bán lẻ, phương tiện giao thông vận tải và
dịch vụ, văn hoá và giáo dục thì tầng lớp viên chức thay thế cho các chủ sở hữu
tư nhân và các nhà quản lý cũ cũng phát triển theo cấp số nhân. Chỉ xin dẫn ra
một ví dụ, đấy là tổ chức chịu trách nhiệm quản lý ngành công nghiệp, gọi là
Hội đồng Kinh tế Tối cao, vào năm 1921 đã có hai trăm năm mươi ngàn viên chức,
trong khi sản xuất công nghiệp chỉ bằng một phần năm năm 1913. Năm 1928, bộ máy
quan liêu của Đảng và nhà nước có tổng số 4 triệu viên chức.
Phần lớn những người chui vào hàng ngũ công chức Xô Viết - nhiều
người đã từng phục vụ chế độ cũ – là vì làm ở đây thì được an toàn và đủ sống.
Chẳng bao lâu sau, họ đã tạo thành một giai tầng đặc biệt, giai tầng đặt quyền
lợi tập thể của mình cao hơn không chỉ quyền lợi của toàn dân, mà còn cao hơn
cả quyền lợi của chủ nghĩa cộng sản, mà trên danh nghĩa họ phải phục vụ.
Joseph Stalin là người đầu tiên nhận thức được rằng có thể sử dụng
sức mạnh tiềm tàng của bộ máy quan liêu Xô Viết làm vũ khí nhằm củng cố địa vị
của mình. Ông ta là người Georgia, một người học hành không đến nơi đến chốn,
đã từng bị đuổi khỏi trường dòng, nhưng được Lenin tin cậy vì có biệt tài trong
lĩnh vực tổ chức và rất trung thành với cá nhân lãnh tụ. Khác với Trotsky, hay
Kamenev, Zinoviev; Stalin luôn luôn tôn trọng các ý kiến của Lenin và trong khi
những người kia viết sách hay diễn thuyết thì ông ta lặng lẽ quan sát tầng lớp
cán bộ. Lenin ngày càng đưa ông ta lên các chức vụ cao hơn, đến năm 1922 thì
đặt ông ta vào chiếc ghế Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tạo cho ông
ta điều kiện kiểm soát toàn bộ công tác cán bộ của Đảng.
Stalin sử dụng ngay vị trí của mình để thăng chức cho những người
trung thành với mình, những người mà ông ta có thể dựa dẫm trong cuộc đấu tranh
giành quyền lãnh đạo, cuộc tỉ thí này nhất định sẽ diễn ra nay mai vì sức khoẻ
của Lenin đang xấu đi từng ngày. Chính ông ta là người tạo ra thiết chế gọi là nomenclatura: tầng lớp cán bộ cộng sản
có thể được bổ nhiệm vào các vị trí quan trọng trong bộ máy chính quyền và
hưởng các ưu đãi, như được vào những cửa hàng đặc biệt, được chữa trong những
bệnh viện cao cấp, có các khu nghỉ mát riêng, thậm chí có cả thợ may và nghĩa
địa riêng. Chính việc tạo ra tầng lớp ưu tú đặc quyền đặc lợi đó đã giữ cho chế
độ cộng sản tồn tại trong suốt bảy mươi năm, buộc giai cấp những kẻ làm công
việc quản lý đó phải coi việc bảo vệ chế độ là quyền lợi sống còn của mình.
Nhưng chính sách đó lại đã biến lý tưởng cộng sản về bình đẳng xã hội thành
những khẩu hiệu rỗng tuếch.
Việc quản lý nền kinh tế cũng làm những người Bolshevik thất vọng
không kém. Sách báo xã hội chủ nghĩa bảo họ rằng chủ nghĩa tư bản, chỉ chạy
theo lợi nhuận, không thể hữu hiệu bằng nền kinh tế do nhà nước nắm độc quyền.
Họ cho rằng xí nghiệp càng lớn thì càng hiệu quả. Họ còn tin rằng không dùng
tiền vẫn có thể quản lý được nền kinh tế.
Nhưng hoá ra tất cả các luận điểm đó đều sai. Mọi cố gắng nhằm ép
buộc nền kinh tế tuân theo một kế hoạch duy nhất đều thất bại. Việc đưa công
nhân, rồi sau đó là các cán bộ Đảng nắm quyền quản lý xí nghiệp đã làm cho năng
suất lao động ngày một giảm đi. Dùng các uỷ ban khẩn cấp (Cheka) để bóp chết tư
thương cũng không đạt kết quả, vì người sản xuất và thương lái đã tìm mọi cách
lách luật; thị trường tự do mà những người cộng sản coi là bản chất của chủ
nghĩa tư bản và quyết tâm tiêu diệt, không những không biến mất mà đi vào hoạt
động chợ đen. Chẳng bao lâu sau, nền kinh tế ngầm đã lớn hơn nền kinh tế chính
thức. Lạm pháp phi mã, do cố tình tung ra một lượng tiền giấy quá lớn, đến năm
1923 người dân có tiền gửi tiết kiệm đã hoàn toàn trắng tay, giá cả so với năm
1917 đã tăng hơn 100 triệu lần. Nhưng bãi bỏ tiền tệ lại làm cho ngân sách và
việc thanh toán giữa các xí nghiệp không thể thực hiện được.
Cách quản lý mang tính nghiệp dư như thế, cộng với nội chiến, đã
dẫn đến kết quả là tất cả các chỉ tiêu sản xuất đều sụt giảm một cách không thể
cứu vãn được. Năm 1920, tổng sản phẩm của ngành công nghiệp nặng chỉ bằng 20%
năm 1913; than còn 27%, sắt 2,4%. Năm 1921, số công nhân làm việc trong ngành
công nghiệp giảm một nửa, mức sống của họ giảm chỉ bằng một phần ba trước chiến
tranh[9].
Một chuyên gia cộng sản nói rằng kinh tế Liên Xô giai đoạn 1917-1920 đã rơi vào
thảm hoạ “chưa từng có trong lịch sử loài người”[10].
Trong điều kiện tan hoang như thế, bản năng sinh tồn đã mách bảo
Lenin là phải sử dụng các đội hành quyết. Isaak Steinberg, một đảng viên cách
mạng xã hội cánh tả, có thời là dân uỷ tư pháp trong chính phủ Bolshevik đã mô
tả một cuộc họp của Hội đồng Dân uỷ vào tháng 2 năm 1918 như sau: Lenin đưa ra
dự thảo nghị định “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa lâm nguy!”, trong đó có yêu cầu bắn
“tại trận”, nghĩa là không cần xét xử, một loạt tội phạm được gọi một cách
chung chung là “gián điệp của kẻ thù, bọn ăn cắp, bọn lưu manh, tuyên truyền
phản cách mạng và gián điệp của Đức”. Steinberg phản đối nghị định vì nó chứa
đựng “mối đe doạ… những vụ khủng bố mà hậu quả không thể lường được”.
Lenin nhân danh chính nghĩa của cách mạng, bác bỏ phản đối của
tôi. Quá tuyệt vọng, tôi phải kêu lên: “Thế thì chúng ta còn dùng tên Dân uỷ Tư
pháp làm gì? Hãy gọi thẳng là Dân uỷ Huỷ diệt Xã hội là xong”. Mặt Lenin bỗng
tươi tỉnh hẳn lên, ông ta bảo: “Nói hay quá… đúng là phải như thế đấy… nhưng chúng
ta không thể nói như thế”[11].
Sụt giảm sản lượng lương thực là bi đát nhất.
Như đã nói bên trên, cộng sản cũng như những người Marxist khác,
coi nông dân là giai cấp tiểu tư sản, kẻ thù không đội trời chung của giai cấp
công nhân, mặc dù đa số công nhân Nga xuất thân từ nông thôn và vẫn giữ quan hệ
gắn bó với nông thôn. Cộng sản tuyên chiến với nông dân nhằm hai mục đích: cướp
đoạt lương thực cho thành phố và Hồng quân và mở rộng quyền lực của mình về
nông thôn là vùng mà cuộc đảo chính chưa hề động chạm tới.
Mùa hè năm 1918, Moskva bắt đầu chiến dịch tịch thu lúa mì, nông
dân không chịu bán lúa mì cho chính phủ vì giá quy định quá thấp. “Uỷ hội dân
nghèo” được thành lập tại các làng xã, các uỷ hội này sẽ giúp chính phủ tước
đoạt những người nông dân có của ăn của để (kulak), bị nghi là có hành vi che
giấu lương thực. Uỷ hội dân nghèo sẽ được chia một phần lương thực tước đoạt
được. Moskva còn gửi về nông thôn các đội vũ trang để thu gom “lương thực
thừa”. Các vụ đụng độ giữa nông dân, nhiều người đã từng đi lính, với các đơn
vị thu gom lương thực diễn ra thường xuyên. Nhiều vùng rơi vào nội chiến, một
cuộc nội chiến còn thảm khốc hơn cả chiến tranh giữa Hồng quân và Bạch vệ. Bất
cứ người nông dân nào chống lại chính quyền Xô Viết cũng đều bị Lenin gọi là
kulak, ông ta nổi điên và hạ lệnh tiến hành những vụ tàn sát quy mô lớn. Chỉ
xin dẫn ra dưới đây hai chỉ thị của ông ta, cả hai đều diễn ra vào tháng 8 năm
1918, chỉ thị thứ nhất lấy từ bài nói chuyện của ông ta với công nhân, chỉ thị
thứ hai là một tài liệu mật gửi cho các cán bộ Đảng tỉnh Penza:
Kulak căm thù chính quyền Xôviết và sẵn
sàng bóp cổ, sẵn sàng cắt cổ hàng trăm ngàn công nhân… Hoặc là kulak cắt cổ rất
nhiều công nhân hoặc là công nhân đập tan cuộc bạo loạn của kulak, cuộc bạo
loạn của thiểu số dân chuyên nghề ăn cướp chống lại chính quyền của nhân dân
lao động… Kulak là bọn bóc lột thô lỗ nhất, tàn bạo nhất, man rợ nhất… Bọn uống
máu người đó đã làm giàu trên sự đói khổ của nhân dân trong thời chiến… Bọn nhện
độc đó đã béo lên vì bóc lột những người nông dân bị phá sản trong thời chiến,
béo lên vì bóc lột những người công nhân đói khát. Những con đỉa đó đã hút máu
quần chúng lao động, chúng càng giàu thì công nhân trong các thành phố và các
công xưởng càng đói khát thêm. Những con qủy hút máu người đó đã giành được các
khu đất của địa chủ, chúng tiếp tục nô dịch những người nông dân nghèo khổ.
Hãy thẳng tay với bọn kulak! Hãy giết chết chúng![12]
Hãy thẳng tay với bọn kulak! Hãy giết chết chúng![12]
Các đồng chí! Phải đàn áp cuộc bạo loạn của kulak ở năm
huyện một cách không khoan nhượng.
Lợi ích của cách mạng đòi hỏi phải làm như thế vì bây giờ là “trận quyết định với
kulak’” Cần phải cho mọi người thấy.
1.Treo cổ (nhất định phải treo cổ để cho dân chúng thấy) ít nhất là 100 tên kulak, bọn nhà giàu, bọn hút máu người.
2. Công bố tên tuổi bọn chúng.
3. Tịch thu tất cả lúa mì của chúng.
4. Bắt con tin, như bức điện hôm qua đã nói. Phải làm
sao để cách cả trăm dặm nhân dân vẫn nhìn thấy, run sợ, biết và thét
lên: Bóp cổ bọn hút máu người, bọn kulak.
Điện cho biết đã nhận được và quá trình thực hiện.
Lenin.
P/S. Phải tìm cho được những người thực sự cứng rắn[13].
Đáp lại những cuộc đàn áp chống lại nông dân, cả người giàu lẫn
người nghèo, là sự sụt giảm diện tích canh tác vì nông dân không muốn “dư thừa”
để khỏi bị tịch thu. Đồng thời, vì ngựa đã bị đưa ra mặt trận, sức kéo giảm
cũng dẫn đến năng suất giảm. Sản lượng ngũ cốc giảm từ 78,2 triệu tấn vào năm
1913 xuống còn 48,2 triệu tấn vào năm 1920.
Đầu năm 1921, tất cả những vấn đề mà chính phủ của Lenin tự khoác
lên vai, vì muốn áp đặt chủ nghĩa cộng sản cho một đất nước phần nhiều là phản
động - đấy là theo lời của chính ông ta, đều trở thành cực kì căng thẳng. Tháng
1, Kronshtadt, căn cứ hải quân gần Petrograd, vốn là dinh luỹ của chủ nghĩa
cộng sản, nổi loạn và ra lời kêu gọi nhân dân đứng lên chấm dứt chế độ độc tài
cộng sản. Đồng thời, ở Petrograd cũng diễn ra các cuộc bãi công phản đối nạn
thiếu lương thực. Những cuộc khởi nghĩa nông dân làm rung chuyển tỉnh Tambov.
Không do dự, Lenin đã hạ lệnh đàn áp những vụ bạo loạn một cách
cực kì khốc liệt, kể cả sử dụng hơi ngạt. Nhưng ông ta cũng buộc phải thú nhận
rằng, biện pháp quân sự không thôi thì chưa đủ. Đầu năm 1921, ông ta tuyên bố
áp dụng chính sách kinh tế mới (NEP), mà điểm quan trọng nhất là bãi bỏ việc
tịch thu lương thực: từ nay trở đi nông dân chỉ phải đóng thuế bằng hiện vật và
được quyền bán số lương thực thừa trên thị trường tự do. Chính phủ cũng cho
phép buôn bán và sản xuất hàng tiêu dùng một cách hạn chế. Nhưng chính phủ vẫn
giữ quyền kiểm soát cái mà họ gọi là “đỉnh cao chỉ huy” của nền kinh, mà cụ thể
là công nghiệp nặng, ngoại thương, ngân hàng, phương tiện giao thông và liên
lạc.
Công việc khôi phục trong giai đoạn NEP diễn ra với tốc độ nhanh
chưa từng thấy. Năm 1928 sản lượng ngũ cốc đã đạt mức cao nhất kể từ năm 1913.
Nhiều người ở Nga, cũng như bên ngoài nước này, cho rằng NEP chính
là sự từ bỏ chủ nghĩa cộng sản. Người ta đã bắt đầu nói đến “Termidor Nga”, ám
chỉ những sự kiện diễn ra vào năm 1794, dẫn đến sự sụp đổ và hành hình những
người Jacobin ở Pháp. Nhưng sự so sánh ở đây hoá ra khập khiễng: Thứ nhất,
những người Jacobin Nga nắm chắc quyền lực; thứ hai, họ coi những nhượng bộ đó
chỉ là một cú giải lao tạm thời. Các sự kiện đã diễn ra đúng như thế.
_____________
Bolshevik
cướp được chính quyền vì thời thế đã tạo cho họ cơ hội. Họ không có ý định thu
mình trong biên giới quốc gia, họ tin rằng nếu không
xuất khẩu được cách mạng sang các nước đã công nghiệp hoá thì họ sẽ không thể
trụ được trước những cuộc tấn công khi lực lượng tư bản quốc tế liên hiệp lại.
Lenin đã nói một cách công khai: “Chúng
ta luôn biết rằng không thể thực hiện được sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa
trong một nước ”[14].
Trong diễn văn đọc vào năm 1920, ông ta đã nói đến khía cạnh quốc tế của cách
mạng Nga một cách không úp mở như sau:
(Tháng 11 năm 1917) chúng
ta đã biết rằng chiến thắng của chúng ta sẽ vững chắc khi, và chỉ khi sự nghiệp
của chúng ta giành được thắng lợi trên toàn thế giới[15].
Cho nên về mặt đối nội, bên trong biên giới, cộng sản là một nhà
nước cực kì bảo thủ, không chấp nhận bất kì sáng kiến nào từ bên dưới, nhưng ở
nước ngoài và chỉ ở nước ngoài, thì họ lại thi hành chính sách cấp tiến, kích
động chính cái khối quần chúng mà ở trong nước họ đã cố tình bịt miệng.
Mưu toan xuất khẩu chủ nghĩa cộng sản sang các nước bại trận ở
Trung Âu được bắt đầu ngay vào giai đoạn cuối của Thế chiến I. Tháng 1 năm
1919, Moskva tổ chức cuộc khởi nghĩa ở Đức, nhưng đã bị đè bẹp ngay sau đó. Ở
Hungary, cộng sản đã giành được kết quả khả quan hơn, chính quyền cộng sản đứng
vững được nửa năm (năm 1919) vì Nga hứa sẽ bảo vệ nếu quân đội Rumania can
thiệp. Chính quyền tay sai bù nhìn đã sụp đổ sau khi Nga không thực hiện lời
hứa. Những mưu toan tương tự cũng được thực hiện ở các nước khác, ví dụ như ở Viena,
nhưng ở đây họ đã bị bóp chết ngay từ trong trứng nước.
Sự kiện đáng thất vọng hơn cả trong việc xuất khẩu cách mạng diễn
ra vào mùa hè năm 1920. Tháng 4 năm đó, nhằm ngăn chặn sự phục hồi đế chế Nga
và tách Ukraine ra khỏi Liên Xô, Ba Lan liên kết với những người theo đường lối
dân tộc chủ nghĩa Ukraine tấn công nước này. Nhưng dân Ukraine đã không nổi dậy
như Ba Lan hy vọng và họ đã phải mau chóng rút lui.
Khi Hồng quân tiến đến biên giới Ba Lan, Bộ Chính trị phải quyết
định: dừng lại hay tiếp tục tiến sang phía Tây. Lenin kiên quyết đòi phải tiếp
tục tấn công và cũng như mọi khi, ông ta đã thuyết phục được những người phản
đối. Ông ta tin rằng tình hình ở Đức và Anh đã chín muồi, cuộc thâm nhập của
lực lượng vũ trang cộng sản sẽ khơi mào cho cách mạng bùng nổ. Mùa hè năm 1920,
Hồng quân, có các chính uỷ người gốc Ba Lan đi theo, đặt chân lên đất Ba Lan.
Hồng quân kêu gọi công nhân và nông dân Ba Lan đứng lên giành lấy tài sản của
tư sản và địa chủ; ở Nga, những khẩu hiệu này tỏ ra rất có hiệu quả. Nhưng ở Ba
Lan, tất cả các giai cấp đều đứng lên bảo vệ nền độc lập non trẻ vừa giành
được. Trong trận đánh dưới chân thành Warsaw, một trong những trận đánh quan
trọng nhất trong lịch sử hiện đại, người Ba Lan đã đập tan và đẩy lùi được Hồng
quân.
Lenin không thể che giấu thất vọng. “Người Ba Lan coi Hồng quân là
kẻ thù chứ không phải những người anh em, những người giải phóng họ”, ông ta
cay đắng nói.
Trong tình cảm, suy nghĩ và hành động,
họ đã chứng tỏ là những tên đế quốc, những kẻ theo đường lối dân tộc chủ nghĩa,
chứ không phải là những người cách mạng, những người xã hội chủ nghĩa. Cách
mạng đã không diễn ra ở Ba Lan, như chúng ta từng hy vọng. Công nhân và nông
dân đã bảo vệ kẻ thù giai cấp của mình, họ buộc những người lính Hồng quân dũng
cảm của chúng ta phải chịu đói khát, họ đã phục kích và đánh đến chết các chiến
sĩ của chúng ta[16].
Kết luận được ông ta rút ra là: không bao giờ được sử dụng Hồng
quân như là biện pháp xuất khẩu cách mạng nữa. Thay vào đó, cần phải tìm mọi
cách giúp đỡ những người cộng sản ở mỗi nước, kể cả giúp đỡ về mặt tài chính.
Và đây là bài học thứ hai của ông ta: muốn xuất khẩu cách mạng ra
bên ngoài biên giới Nga thì tốt nhất là phát động một cuộc chiến tranh thế giới
mới. Trong cuộc chiến tranh này, nước Nga Xô Viết phải giữ vai trò trung lập và
chỉ tham gia khi hai bên đã cùng kiệt sức. Từ năm 1921, Moskva bí mật hợp tác
quân sự với Đức chính là nhằm mục đích như thế.
III.
Stalin và hậu Stalin
Lenin
bị nhồi máu vào tháng 5 năm 1922, sức khoẻ của ông sa sút nghiêm trọng từ đấy.
Mặc dù ông được một nhóm bác sĩ người Đức chạy chữa, nhưng tình hình vẫn không
được cải thiện và ông đã phải giao bớt trách nhiệm cho người khác. Những ngày
cuối đời ông bị ám ảnh bởi cảm giác thất bại: ông giận các chiến hữu và hơn nữa,
còn giận cả nhân dân Nga vì họ tỏ ra không xứng đáng với vai trò vĩ đại mà lịch
sử đã trao cho họ.
Với
tâm trạng như thế, ông ta cố gắng tìm cho bằng được kẻ thù, tức là những kẻ cố
tình phá hoại các dự định của ông. Ông ta coi tầng lớp trí thức là một trong
những kẻ thù như thế, dù không có các hoạt động phá hoại, nhưng tầng lớp trí
thức Nga đã dứt khoát bác bỏ chế độ chuyên chính của ông ta. Tháng 7 năm 1922,
ông ta giao cho Stalin nhiệm vụ “kiên quyết đào tận gốc, trốc tận rễ tất cả bọn
C[mạng] X[hội]… Tống khứ tất cả bọn chúng khỏi nước Nga… Bắt vài trăm tên và
không cần nói lý do – xin mời các ngài cút đi!”. Theo lệnh của ông ta, cảnh sát
đã bắt hàng trăm nhà kinh tế học, triết học và các nhà khoa học vốn là đảng
viên Menshevik, đảng Xã Hội Cách Mạng và các đảng tự do khác rồi, đưa họ lên tàu
và buộc phải lưu vong sang Tây Âu.
Sau
đó đến lượt nhà thờ Chính thống giáo. Mùa xuân năm 1922, khi nước Nga Xô Viết
đang bị nạn đói hoành hành thì cũng là lúc Lenin quyết định rằng ông ta có thể
đạt được hai mục đích cùng một lúc: dựa vào danh nghĩa cứu đói sẽ tiến hành
tịch thu tài sản của nhà thờ và nếu giới tăng lữ có hành động phản kháng thì sẽ
cho nhân dân thấy rõ sự nhẫn tâm của họ. Trong một bản ghi nhớ gửi Bộ Chính
trị, Lenin viết:
Lúc
này và chỉ lúc này, khi mà tại các tỉnh đang bị đói người ta ăn cả thịt người
và hàng trăm, nếu không nói là hàng ngàn xác người rải đầy đường, chúng ta có
thể (nghĩa là phải) tiến hành tịch thu tài sản của nhà thờ một cách kiên quyết
nhất và thẳng tay nhất… để có một khối lượng tiền dự trữ là mấy trăm triệu rub
vàng[17].
Như
vậy nghĩa là, tài sản tịch thu được không dành để cứu đói mà để phục vụ nhu cầu
của chính phủ.
Tháng
3 năm 1923, Lenin bị một cú nhồi máu rất nặng, ông ta không còn nói được và
mười tháng sau thì chết. Đảng không hề quan tâm đến việc tìm người kế nhiệm. Vì
không phải báo cáo cho các đảng viên, chỉ định là cách duy nhất để bảo đảm tính
kế thừa. Stalin, Tổng Bí thư Đảng choán ngay chân không quyền lực vừa mới hình
thành. Stalin, một người luôn tỏ ra dè dặt ở những nơi công cộng, linh hoạt
trong giao tiếp, không có biểu hiện gì của một kẻ tàn nhẫn và tâm thần, được
khá đông quần chúng đảng viên tín nhiệm. Theo kết quả bầu cử (bỏ phiếu kín),
vào Ban Chấp hành Trung ương thì ông ta (cùng với Bukharin) là người nhận được
nhiều phiếu nhất, chỉ thua Lenin, nhiều hơn hẳn Trotsky, một người nổi tiếng
hơn và vẫn được coi là người sẽ kế tục Lenin.
Ban
đầu, khi Lenin còn đang ốm, Stalin liên kết với Kamenev và Zinoviev, tạo ra một
tam đầu chế nắm quyền lãnh đạo Đảng để chống lại kẻ thù chung của họ là
Trotsky. Bằng cách vu cáo và đe doạ những người ủng hộ Trotsky, tam đầu chế này
đã cách tất cả chức vụ của Trotsky rồi khai trừ ông ta ra khỏi Đảng, sau đó thì
đày đi Trung Á, năm 1929 lại đày ra nước ngoài và năm 1940 Stalin đã ra lệnh
giết hại ông ta. Sau đó, Stalin chĩa mũi dùi vào Kamenev và Zinoviev, khai trừ
cả hai ra khỏi Bộ Chính trị. Vì trung thành với nguyên tắc “Đảng bao giờ cũng
đúng”, các nạn nhân của ông ta không thể tự bảo vệ được mình, không thể phản
bác đuợc các bản án bịa tạc mà người ta cố tình gán cho họ.
Mặc
dù trong khi bị lưu đày, Trotsky luôn mô tả mình như một người được Lenin tín
nhiệm, còn Stalin thì bị Lenin khinh thường, trên thực tế Tổng Bí thư Ban Chấp
hành Trung ương là học trò trung thành và là người kế vị hợp pháp của Lenin.
Trong vòng hai năm sau khi Lenin qua đời, ông ta đã trở thành chủ nhân ông của
Đảng: sau khi củng cố được quyền lực, ông ta sẵn sàng khởi động lại con đường
tiến lên chủ nghĩa cộng sản, vốn bị gián đoạn vào năm 1921 bởi Chính sách Kinh
tế mới (NEP). Ông ta đưa ra ba mục tiêu liên quan mật thiết với nhau: xây dựng
cở sở công nghiệp vững mạnh, tập thể hoá nông nghiệp và làm cho đất nước phải
tuyệt đối vâng lời. Các kế hoạch đầy tham vọng này đã đưa đất nước vừa thoát
khỏi đống đổ nát sau Thế chiến I, cách mạng và nội chiến, lâm vào khủng hoảng.
Nhưng đấy không phải là điều Stalin quan tâm, vì khủng hoảng luôn luôn là những
hoàn cảnh trời cho của mọi chế độ cộng sản.
Chỉ
có khủng hoảng mới cho phép đòi hỏi - và tước đoạt! - của công dân sự phục tùng
tuyệt đối và sự hy sinh. Hệ thống đòi hỏi hy sinh – cho Mục đích, cho Hạnh phúc
của các thế hệ tương lai – và bằng cách đó bắc cây cầu từ thế giới giả định, từ
không tưởng sang thế giới hiện thực[18].
Sau
khi Stalin chết, những người kế nhiệm ông ta cố gắng giữ ổn định, giai đoạn suy
thoái bắt đầu, vì người dân không còn thấy ý nghĩa của những hy sinh mà chế độ
đòi hỏi nữa.
_______________
Chính sách Kinh tế mới bắt đầu bị đình chỉ từ tháng 12 năm 1925, đấy là lúc đại hội Đảng thông qua cương lĩnh đầy tham vọng: Công nghiệp hoá bằng vũ lực. Mà công cuộc công nghiệp hoá này, vì những lý do sẽ được trình bày dưới đây, được hiểu là tập thể hoá nông nghiệp. Vì cả hai mục tiêu này đều có những khó khăn vô cùng to lớn cho nên phải bịt miệng những người bất mãn. Chủ nghĩa Stalin trở thành một lý thuyết nhất quán từ đó và chỉ đứng vững được khi không ai được động đến các cấu phần của nó.
Xin bắt đầu từ công nghiệp hoá: Chủ
nghĩa Marx-Lenin nói rằng chủ nghĩa xã hội phải dựa trên nền tảng công nghiệp,
nhưng vì nền công nghiệp Nga còn rất lạc hậu, phải xây dựng từ con số không,
theo đúng nghĩa đen của từ này. Khi những cố gắng như thế được hoàn thành thì
Liên Xô sẽ có nền kinh tế phát triển ngang tầm thế giới, giai cấp công nhân sẽ
rất hùng hậu, đất nước sẽ đủ sức đối đầu với các nước tư bản thù nghịch. Không
ai nghi ngờ chuyện đó, nhưng tốc độ công nghiệp hoá đã gây ra một số bất đồng
trong lãnh đạo Đảng. Stalin đã bịt miệng những người phản bác ông ta và buộc
đất nước phải chấp nhận kế hoạch phát triển đến chóng mặt, không cần biết đến
những hy sinh mà dân chúng phải chịu đựng.
Còn một lý do nữa, lúc đó người ta gần
như không bao giờ đề cập tới và sau này cũng ít khi nói, đấy là chuẩn bị cho
cuộc thế chiến mới. Tháng 12 năm 1927, Stalin tuyên bố rằng “bọn đế quốc” đang
vũ trang, đang chuẩn bị cho cuộc chiến tranh và can thiệp mới chống Liên Xô. Để
đáp trả mối đe doạ (tưởng tượng) đó, Liên Xô phải có một nền công nghiệp quốc
phòng hùng hậu. Trên thực tế, toàn bộ nền công nghiệp Liên Xô, ngay từ đầu, đã
được xây dựng phù hợp với nhu cầu quốc phòng.
Kế hoạch năm năm lần thứ nhất, thông
qua năm 1929, buộc nền kinh tế phải chịu sự quản lý từ trung ương, đặt trọng
tâm vào việc phát triển hàng hóa tư bản: Sắt thép, than đá, dầu hoả, công
nghiệp chế tạo máy. Ủy ban kế hoạch nhà nước đặt ra những mục tiêu hoàn toàn
phi thực tế, thế mà năm 1931, Stalin còn hạ lệnh thực hiện kế hoạch năm năm
trong vòng có ba năm. Đến năm 1932, các chỉ tiêu sản xuất lại được tăng lên hai
lần. Số lượng công nhân công nghiệp cũng tăng lên tương ứng: từ 3 triệu đã tăng
lên 6,4 triệu người.
Bằng những lời hứa hẹn rằng “xây dựng
xong chủ nghĩa xã hội” thì đời sống sẽ được nâng cao, chính phủ đã động viên
được nhiệt tình lao động. Nhưng đấy là quả cà rốt không dành cho những người
dân thấp cổ bé miệng. Trên thực tế, mức sống ngày một thấp đi, vì tiền đầu tư
cho công nghiệp càng phình ra thì lương công nhân sẽ càng phải teo lại. Năm
1933, đồng lương thực tế của công nhân hạ xuống chỉ còn bằng một phần mười thời
chưa chuyển sang công nghiệp hoá (1926-1927). Alec Nove, một chuyên gia về kinh
tế Liên Xô, cho rằng, “năm 1933 là điểm cực tiểu trên đồ thị đi xuống một cách
đột ngột của mức sống từng được lịch sử biết tới trong thời bình”[19].
Muốn tăng năng suất lao động lên,
Stalin buộc phải quay lại với các phuơng pháp khuyến khích tư bản truyền thống.
Năm 1931, ông ta phê phán quyết liệt nguyên tắc “bình quân”, mà theo lời ông ta
là cực tả, tức là trả lương đồng đều cho công nhân không phụ thuộc vào tay nghề
cũng như đóng góp của người công nhân. Ông ta giải thích rằng làm như thế là
không khuyến khích người ta rèn luyện để nâng cao tay nghề, còn người có tay
nghề thì không được khuyến khích chuyển sang chỗ được trả lương xứng đáng hơn,
cả hai hiện tượng đó đều có ảnh hưởng tiêu cực đối với năng suất lao động. Vì
vậy, bảng lương mới đặt ra khoảng cách rất lớn giữa mức lương của người có tay
nghề thấp nhất và người có tay nghề cao nhất.
Vốn cho phát triển công nghiệp được lấy
từ một số nguồn, kể cả từ máy in tiền, từ thuế kim ngạch, từ xuất khẩu lương
thực, kể cả việc bán các tác phẩm nghệ thuật.
Nhưng vốn này được lấy chủ yếu từ việc
bóp nặn tầng lớp nông dân, trên thực tế, sau bảy mươi năm được giải phóng (ý
nói giải phóng khỏi chế độ nông nô – ND), tầng lớp này lại rơi vào vòng nô lệ.
Quyết định tiến hành “tập thể hoá đồng loạt” được đưa ra vào giữa năm 1929.
Theo lời Stalin, phải dựa vào tích luỹ trong nước để tiến hành công nghiệp hoá.
Nghĩa là nông dân phải cung cấp lương thực, thực phẩm cho giai cấp công nhân
công nghiệp, các thành phố và lực lượng vũ trang theo giá thấp nhất. Nhưng,
trong chiến dịch tuyên truyền tiến hành song song với quá trình tập thể hoá
người ta lại nhấn mạnh đến việc tiêu diệt “bọn bóc lột” để đánh lạc hướng sự
chú ý vì phần lớn nạn nhân của công cuộc tập thể hoá chính là những người nông
dân bình thường.
Tập thể hoá diễn ra theo hai quá trình. Thứ nhất, “xoá bỏ thành phần kulak”, nói cách khác là giết người; thứ hai, tiêu diệt các làng xã nông thôn và sự độc lập còn sót lại của nông dân. Nông dân bị lùa vào các tập thể sản xuất gọi là nông trang, người ta phải làm việc cho nhà nước chứ không còn cho mình nữa. Đây là cuộc cách mạng chưa từng có trong lịch sử, được áp đặt từ trên xuống, nó đã đưa ba phần tư dân số của đất nước vào tình trạng của những người nông nô của bộ máy nhà nước.
Tập thể hoá diễn ra theo hai quá trình. Thứ nhất, “xoá bỏ thành phần kulak”, nói cách khác là giết người; thứ hai, tiêu diệt các làng xã nông thôn và sự độc lập còn sót lại của nông dân. Nông dân bị lùa vào các tập thể sản xuất gọi là nông trang, người ta phải làm việc cho nhà nước chứ không còn cho mình nữa. Đây là cuộc cách mạng chưa từng có trong lịch sử, được áp đặt từ trên xuống, nó đã đưa ba phần tư dân số của đất nước vào tình trạng của những người nông nô của bộ máy nhà nước.
Kulak, tất cả những người nông dân có
của ăn của để và cả những người chống hợp tác hoá đều bị gọi như thế, bị tịch
thu hết tài sản và bị đưa vào các trại cải tạo lao động hoặc bị đầy đi Siberia
cùng với gia đình. Theo các số liệu chính thức, trong những năm 1930-1931, đã
có 1.803.392 người bị trừng phạt theo một trong hai hình thức trên. Người ta
tính ra rằng 30% những người thoát án tử hình cũng đã chết vì đói và rét[20].
Trong số những người thoát chết, có 400.000 người trốn tránh được và sau này đã
tìm cách chạy vào các thành phố hoặc các trung tâm công nghiệp.
“Trung nông” và “bần nông” cũng mất
hết, kể cả công cụ lao động và gia súc, vì người ta thà giết thịt gia súc chứ
không chịu đem nộp cho nông trang, tất cả các tài sản đó đều phải giao cho nông
trang. Các nông trang viên phải làm đủ một số ngày công nhất định trong một
năm, đổi lại, họ được lĩnh một số tiền và một lượng lương thực tối thiểu. Đấy
là cách họ thực hiện nghĩa vụ lương thực do nhà nước giao với giá rẻ mạt, trong
khi nhà nước xuất khẩu bột và lúa mì, thu lợi gấp mấy lần. Người không hoàn
thành chỉ tiêu sẽ bị đói. Những người tuyệt vọng vì đói mà ăn cắp sẽ bị coi là
tội phạm nguy hiểm: Theo nghị định ban hành tháng 8 năm 1932, “ăn cắp hay phá
hoại tài sản xã hội chủ nghĩa (xin đọc là: của Đảng)”, nhiều khi chỉ là vài
bông lúa mì, có thể bị kết án tử hình hoặc hàng chục năm lao động khổ sai.
Trong mười sáu tháng sau đó, đã có tất cả 125.000 nông dân bị kết án theo đạo
luật này, trong đó, 5.400 người bị tử hình[21].
Vì sản phẩm mà người nông dân được nhận từ nông trang chỉ là lúa mì, cho nên từ
năm 1935, chính phủ cho các nông trang viên được canh tác trên những mảnh ruộng
riêng, trung bình một gia đình được một acre (mẫu Anh, 0,4 hecta – ND), họ có
thể trồng hoa quả và rau để tự sử dụng hoặc bán trên các chợ nông trường do nhà
nước quản lý. Họ cũng được nuôi bò và các gia súc khác (trừ ngựa). Những mảnh
ruộng riêng này đã cung cấp một lượng lương thực và thực phẩm đáng kể, vượt xa
tỉ lệ của nó so với số ruộng đất đã tập thể hoá.
Sau khi tập thể hoá, tình cảnh người
nông dân còn khốn cùng hơn cả thời nông nô, từng tồn tại ở Nga cho đến năm
1861, lúc đó, dù là nông nô, nhưng người nông dân vẫn được quyền làm chủ (trên
thực tế) mùa màng và gia súc của mình. Địa vị của họ bây giờ đã bị hạ xuống
ngang hàng với nô lệ, chỉ có những phương tiện tối thiểu để duy trì sự sống của
chính mình: Năm 1935, một gia đình nông trang viên chỉ được cấp 247 rub, đủ mua
một đôi giầy[22].
Stalin thích nói rằng tập thể hoá được
tiến hành trên cơ sở tự nguyện, nhưng trện thực tế, chính phủ đã áp dụng những
biện pháp cưỡng bách cực đoan nhất. Ông ta từng nói với Churchill rằng, công
cuộc hợp tác hoá kéo dài ba năm, nhưng “nặng nề” hơn cả Thế chiến II. Nếu ông
ta còn cảm thấy nặng nề thì số phận các nạn nhân của ông ta còn nặng nề đến mức
nào. Nhằm bẻ gẫy sự chống đối của nông dân ở Ukraine, ở Bắc Caucasus và ở
Kazakhstan, Stalin đã cố tình gây ra nạn đói vào những năm 1932-1933 bằng cách
tịch thu hết lương thực và cho quân đội bao vây để họ không thể đi tìm thức ăn
ở các khu vực khác. Các số liệu cho thấy nạn đói nhân tạo này đã cướp đi sinh
mạng của 6 đến 7 triệu người[23].
Chế độ cũng thi hành những biện pháp cực kì dã man đối với dân Kazakh du mục ở
Trung Á, người ta cho rằng một phần ba sắc dân này đã chết trong quá trình tập
thể hoá[24].
Mục đích trực tiếp của tập thể hoá -
tìm nguồn vốn cho công cuộc công nghiệp hoá – đã thành công, trên thực tế,
lương thực đã bị tịch thu rồi đem phân phối trong các thành phố và các trung
tâm công nghiệp. Nhưng về lâu dài, nó đã gây ra hậu quả rất tai hại: Nó đã phá
vỡ nền nông nghiệp vì đã buộc những người nông dân cần cù chăm chỉ nhất phải đi
lưu đầy và sau đó là tước đoạt đất đai và mùa màng của nông dân tập thể. Trước
cách mạng, Nga là một trong những nước xuất khẩu lương thực hàng đầu thế giới,
từ đây về sau, phải chật vật lắm nước này mới sản xuất đủ lương thực tiêu dùng
trong nước.
____________
Đến năm 1934-1935, khi chế độ tem phiếu
được bãi bỏ, Stalin tuyên bố rằng “cuộc sống trở thành nhẹ nhàng hơn, cuộc sống
trở thành vui vẻ hơn”, thì những khó khăn dường như đã ở phía sau. Nhưng chế độ
cần một cuộc khủng hoảng mới để biện hộ cho chính quyền độc tài. Chế độ cần một
kẻ thù mới. Sau này Fidel Castro, lãnh tụ cộng sản Cuba, đã tuyên bố công khai
điều mà các ông thày người Nga của ông ta cố tình che giấu: “Cách mạng cần có kẻ thù… Để phát triển, cách
mạng cần phản đề, cụ thể là cần có phản cách mạng”[25]. Nếu
không có thì phải bịa ra kẻ thù.
Năm 1934, Sergei Kirov, một người
Bolshevik nổi tiếng, bí thư đảng bộ thành phố Leningrad bị giết một cách bí ẩn,
có những bằng chứng gián tiếp chứng tỏ rằng Stalin là kẻ chủ mưu vụ ám sát.
Kirov là một người Stalinist cứng rắn, trước khi chết không lâu từng ca ngợi
Stalin là “nhà chiến lược vĩ đại trong cuộc đấu tranh giải phóng nhân dân lao
động nước ta và toàn thế giới”, ông ta rất được lòng quần chúng đảng viên và dĩ
nhiên là Stalin chẳng thích thú gì. Vụ ám sát mang lại cho Stalin hai mối lợi:
thứ nhất, trừ khử được một đối thủ tương lai; thứ hai, có lý do để phát động
một chiến dịch rộng lớn nhằm chống lại những người được mệnh danh là những kẻ
có âm mưu chống chính quyền Xô Viết, ông ta sẽ tìm cách giết hết hàng ngũ lãnh
đạo mà Lenin để lại. Phải gọi những cuộc thanh trừng hồi những năm 1930 là sự
lộng hành của khủng bố, một cuộc khủng bố chưa từng có trong lịch sử cả về số
lượng nạn nhân lẫn sự tàn bạo tràn lan của nó. Stalin theo dõi sát sao chiến
dịch, trong các chỉ thị gửi cho chính quyền các địa phương, ông ta thường nhấn
mạnh: Đánh cho đến khi phạm nhân phải nhận những tội lỗi mà họ không hề phạm.
Bức thư của Vsevolod Meyerhold, một
trong vô vàn nạn nhân của chiến dịch thanh trừng, gửi Molotov, chiến hữu thân
cận của Stalin, sẽ cho chúng ta thấy mệnh lệnh đó được thi hành trên thực tế
như thế nào. Meyerhold, một đạo diễn nổi tiếng, vào Đảng ngay từ những ngày đầu
tiên sau khi chế độ được thành lập, bị tuyên bố là “kẻ thù của nhân dân” và bị
bắt vào năm 1939. Ông viết như sau:
Khi các điều tra viên tra tấn, người ta đánh tôi,
một lão già bệnh hoạn, đã 65 tuổi. Họ đặt tôi nằm úp mặt xuống sàn rồi lấy roi
bện bằng những sợi cao su đánh vào gót chân và sống lưng; khi tôi ngồi trên ghế
thì họ đánh vào chân, từ trên xuống, đánh mạnh lắm. Những ngày sau, khi những
chỗ bị đánh ở chân đã sưng lên vì xuất huyết bên trong thì họ lại dùng roi đánh
vào những chỗ thâm tím đó, đau như là bị đổ nước sôi vào vậy, tôi phải kêu lên,
khóc lên vì đau đớn. Họ còn lấy roi đánh vào lưng tôi, lấy tay đánh vào mặt
tôi…
Rồi họ lại áp dụng cái gọi là “tấn công về tâm lý”
nữa, cả hai biện pháp đều làm tôi sợ đến nỗi bản tính của tôi bộc lộ ra hết…
Tôi nằm, mặt úp xuống đất, vặn vẹo, co quắp, gào thét như con chó bị chủ đánh.
Khi nằm ngủ để sau đó một tiếng sẽ lại phải lên lấy
cung, trước đó tôi đã phải trả lời suốt mười tám tiếng đồng hồ, tôi lại bị đánh
thức bởi những tiếng rên rỉ và người cứ giật bắn lên, hệt như người bệnh đang
hấp hối vì sốt vậy. “Chết (ồ dĩ nhiên rồi), chết còn sướng hơn!” – một người bị thẩm vấn tự
nhủ. Tôi cũng tự nhủ như thế. Thế là tôi nhận bừa, hy vọng rằng họ sẽ đưa tôi
lên đoạn đầu đài…[26].
Sau khi đã nhận tội theo đúng kịch bản,
chính quyền đã chiếu cố những lời cầu xin của Meyerhold và hoá kiếp cho ông ta.
Cuộc đại khủng bố ập lên đầu cả đảng
viên lẫn người ngoài Đảng. Tại đỉnh điểm của nó, tức là trong những năm
1937-1938, đã có ít nhất một triệu rưỡi người, đa số không hề phạm bất cứ tội
lỗi gì, ngay cả theo các quy định của cộng sản, phải ra trước vành móng ngựa mà
quan toà chỉ gồm ba người là bí thư chi bộ đảng, công tố viên và trưởng phòng
an ninh khu vực. Phiên toà diễn ra nhanh chóng, có khi chỉ trong vài phút, phạm
nhân bị kết án tử hình, khổ sai hoặc lưu đầy mà không có quyền kháng cáo. Bàng
quan với chính trị, thậm chí tuyệt đối trung thành với chế độ cũng chưa phải đã
được an thân. Trong giai đoạn cao trào, Bộ Chính trị còn phân bổ “hạn ngạch”
cho cơ quan an ninh, trong đó, ghi rõ bao nhiêu phần trăm dân số khu vực bị
bắn, bao nhiêu phần trăm bị đưa vào trại giam. Ví dụ, hạn ngạch ngày 2 tháng 7
năm 1937 cho thành phố và tỉnh Moskva là 35 ngàn người, trong đó 5 ngàn bị xử
bắn[27].
Một tháng sau đó, Bộ Chính trị cấp hạn ngạch cho tất cả các tỉnh: 70 ngàn người
bị bắn mà không cần xét xử[28].
Đa số nạn nhân của cuộc đại khủng bố là những người có bằng đại học, họ bị coi
là thành phần bất trị và có xu hướng “phá hoại”.
Tầng lớp lãnh đạo cấp cao của Đảng cũng
bị thanh trừng, 70% trong số 139 uỷ viên và uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, được bầu tại Đại hội lần thứ XVII vào năm 1934, đã bị tử hình[29].
Tất cả những người bạn chiến đấu của Lenin, trong đó có Zinoviev và Kamenev, đã
bị bắt, bị tra tấn và sau khi bị đánh gục cả về thể xác lẫn tinh thần, đã buộc
phải thú nhận trong những “phiên toà” giả mạo những tội lỗi không thể nào tưởng
tượng nổi như hoạt động gián điệp, khủng bố và có ý định khôi phục “chủ nghĩa
tư bản”; sau đó tất cả đều bị xử bắn hoặc bị đưa vào các trại lao động khổ sai,
ít người sống sót. Trong Di chúc, Lenin nhắc đến sáu người có khả năng kế tục
mình thì chỉ có một người sống sót, đó là Stalin. Dmitri Volkogonov, một viên
tướng Liên Xô, sau này trở thành nhà sử học, đã kinh hoàng khi phát hiện ra
trong hồ sơ lưu trữ ba mươi bản danh sách được ghi cùng một ngày, 12 tháng 12
năm 1938. Đây là danh sách 5 ngàn người bị kết án tử hình, Stalin đã kí các bản
án trước khi toà chính thức xét xử, sau đó ông ta đi vào rạp chiếu phim riêng
trong Điện Kremlin, hôm đó ông ta xem hai bộ phim, một bộ có tựa đề Mấy
anh chàng vui tính[30].
Bằng cách này hay cách khác, đa số dân
chúng đã buộc phải tham gia vào cuộc tắm máu đó, họ tố cáo bạn bè và người
thân, không tố cáo những cuộc thảo luận về hoạt động “phá hoại” cũng bị coi là
hoạt động phá hoại. Chẳng ai dám tin ai, cũng chẳng ai còn dám nói thật nữa.
Các cuộc thanh trừng trong những năm
1937-1938 đã làm cho hàng ngũ những người Bolshevik tiền bối trống vắng hẳn.
Năm 1939, 80,5% cán bộ của Đảng Cộng sản Liên Xô là những người vào Đảng sau
khi Lenin chết[31]. Các
viên chức cao cấp của Đảng và chính phủ, vẫn thường được gọi là tầng lớp nomenclatura, xuất phát từ đây; họ không
chỉ độc chiếm các chức vụ có nhiều quyền lực mà còn được hưởng những đặc lợi
không thể tưởng tượng nổi, đấy chính là giai cấp bóc lột mới. Có chân trong
tầng lớp này là được đảm bảo một địa vị xã hội vững chắc và trên thực tế, địa
vị của họ cũng mang tính cha truyền con nối. Khi Liên Xô sụp đổ, nomenclatura có 750 ngàn người, nếu tính
cả gia đình thì giai cấp này có tổng cộng 3 triệu người, nghĩa là 1,5% dân số,
gần tương đương thành phần quý tộc dưới thời các Sa hoàng thế kỷ XVIII. Họ cũng
có bổng lộc y như các lãnh chúa thời xưa. Đây là lời của một người trong tầng lớp
ăn trên ngồi trốc đó:
Nomenclatura sống như trên một hành tinh khác. Như
trên sao hoả. Vấn đề không chỉ là những chiếc ô tô hay những căn hộ cao cấp.
Đây là sự đáp ứng ngay lập tức những ước muốn đỏng đảnh của bạn, lúc nào cũng
có một lũ nịnh thần, chúng tạo cho bạn khả năng làm việc mà chẳng phải lo nghĩ
gì. Những viên chức cấp thấp trong bộ máy sẵn sàng làm bất cứ những gì bạn
muốn. Tất cả các ước muốn của bạn đều được thực hiện. Bạn có thể vào rạp hát
bất cứ lúc nào, có thể bay thẳng từ các khu săn bắn của bạn đến Nhật Bản. Cái
gì cũng có mà lại chẳng phải khó nhọc gì… Giống như một vị hoàng đế: bạn chỉ
cần giơ ngón tay lên là xong”[32].
Các đảng viên thường, “bọn nịnh thần”,
ngay dưới thời Stalin cũng đã đông đúc lắm, họ trở thành đày tớ cho tầng lớp ăn
trên ngồi trốc.
Hồng quân cũng không tránh khỏi vụ
khủng bố này: ba trong năm nguyên soái bị “thủ tiêu”, mười ba trong số mười lăm
viên tướng đã bị giết, trong số chín đô đốc thì chỉ có một người thoát chết.
Nhiều đảng viên cộng sản ngoại quốc, những người được Liên Xô cho tị nạn chính
trị, cũng trở thành nạn nhân của các vụ thanh trừng. Giới tăng lữ chịu nhiều
tổn thất: trong những năm 1937-1938, có 165.200 tu sĩ bị bắt vì đã thực hành
tôn giáo, trong đó, 106.800 người bị bắn[33].
Gần như toàn bộ các cơ sở thờ phụng đã bị đóng cửa.
Bộ máy khủng bố không tha cả những kẻ từng
giữ vô-lăng. Nikolai Yezhov, Dân uỷ Nội vụ, một kẻ được ví với Himmler của
Stalin, chính ông ta đã điều khiển những vụ giết người hàng loạt hồi những năm
1937-1938, vì lý do gì đó mà bị thất sủng. Stalin đã cách tuột mọi chức vụ, sau
đó bắt giam và đẩy vào cái vạc dầu đẫm máu do chính ông ta dựng nên.
Người dân thường có thể bị bắt và biến
mất chỉ vì một câu nói bâng quơ hay bị hàng xóm tố cáo. Sợ hãi và nghi ngờ bao
trùm lên toàn bộ xã hội, các cán bộ cao cấp cũng không phải là ngoại lệ. Có lần
Nikolai Bulganin, từng là phó thủ tướng dưới thời Stalin, nói với Nikita
Khrushchev rằng, đôi khi một người nào đó được mời tới gặp Stalin như một người
bạn, “nhưng khi ngồi cạnh Stalin, anh ta không thể biết rồi sẽ được đưa đi đâu
- về nhà hay vào nhà đá”. Andrei Gromyko, một trợ tá đắc lực của Stalin, từng
giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao, kể rằng, dưới thời Stalin không bao giờ có
chuyện hai uỷ viên Bộ Chính trị đi chung một xe vì sợ bị nghi ngờ mưu phản. Sợ
hãi và ngờ vực tiếp tục tồn tại ngay cả sau khi Stalin chết và trở thành một
phần không thể tách rời của cả hệ thống. Mikhail Gorbachev, lãnh tụ Xô Viết
cuối cùng, nói rằng khi ông ta mời Iurii Andropov, vừa là sư phụ, vừa là hàng
xóm, đang là Chủ tịch KGB, đến nhà ăn cơm trưa thì Andropov khuyên rằng tốt nhất
là đừng bao giờ làm như thế vì “nhất định sẽ có những chuyện ngồi lê đôi mách
rằng ai nói, hắn ta đã nói gì và tại sao lại nói thế”.
Theo các tài liệu mật, được đưa ra công
khai sau khi Liên Xô tan rã, trong những năm 1937-1938, tức là khi đại khủng bố
đạt đỉnh cao, các cơ quan an ninh đã bắt 1.548.366 người vì cái gọi là “hoạt
động bài Xô”, trong đó, 681.692 người bị xử bắn. Trung bình một ngày có 1.000
vụ hành quyết. Phần lớn những người thoát chết đều bị đưa vào các trại lao động
khổ sai[34].
(Trong khi đó, từ năm 1825 đến năm 1910 chính quyền Sa hoàng tử hình 3.932
chính trị phạm). Năm 1941, khi Đức tấn công Liên Xô, các nhà tù của GULAG đang
giam giữ 2.350.000 người, tức là 1,4% dân số cả nước[35].
Các tù nhân-nô lệ này đã thực hiện nhiều nhiệm vụ kinh tế quan trọng, họ phải
làm việc trên các công trường xây dựng lớn, phải đốn cây trên miền Bắc Cực xa
xôi. Sau khi Liên Xô tan rã, những kẻ chịu trách nhiệm về những tội ác chống
lại dân lành như thế đã không bị đưa ra toà; thậm chí họ còn không bị lên án, không
bị kết án về mặt đạo đức và tiếp tục sống một cuộc đời bình thường.
Các cuộc điều tra dân số giữa những năm
từ 1932 đến 1939, nói cách khác, sau tập thể hoá và trước chiến tranh, cho thấy
dân số Liên Xô sụt giảm từ 9 đến 10 triệu người[36].
Lý trí bình thường không thể nào hiểu
nổi vụ tắm máu kinh hoàng này. Có một câu chuyện tiếu lâm như sau. Người ta hỏi
một phạm nhân mới rằng anh ta bị bao nhiêu năm, anh ta đáp: “Hai mươi lăm năm”.
“Tội gì?”. “Chẳng tội gì cả”. “Làm gì có chuyện đó”, mọi người nói, “Không có
tội gì thì chỉ mười năm thôi”.
Nếu ai đó còn băn khoăn là làm sao mà
một chính phủ lại có thể gây ra tai hoạ lớn như thế đối với chính nhân dân nước
mình, xin thưa rằng, những người cách mạng-những người cộng sản ở Nga cũng như
ở các nước khác cho rằng con người với hình hài như hiện nay chỉ là bản sao
không hoàn chỉnh của cái mà họ có thể và nhất định phải là trong tương lai.
Quan niệm này bắt nguồn từ chủ nghĩa Marx. Marx viết:
Thế hệ hiện nay làm ta nhớ đến những người Do Thái
được Moses dẫn qua sa mạc. Thế hệ này cần phải không chỉ chinh phục thế giới mà
còn rút lui khỏi vũ đài để nhường chỗ cho những con người xứng đáng với cái thế
giới mới đó[37].
Mặc dù Marx cũng như Engels không kêu
gọi các đệ tử của mình tiến hành những vụ giết người hàng loạt, nhưng họ sẵn
sàng hy sinh những người đang sống cho các thế hệ tương lai.
Theo quan điểm của họ, “con người mới”
trong chế độ cộng sản sẽ khác hẳn với những con người đã từng tồn tại cho đến
nay. Trotsky vẽ nên hình ảnh con nguời mới đó trong tác phẩm Literature and Revolution (Văn học và
cách mạng) như sau:
Con người, cuối cùng, sẽ bắt đầu tiến hành quá
trình tự hoàn thiện một cách nghiêm túc… Con người muốn làm chủ các quá trình
nửa-vô thức và sau đó là các quá trình vô thức trong chính cơ thể của mình:
thở, tuần hoàn máu, tiêu hoá, thụ thai và buộc chúng phải tuân theo lý trí và ý
chí của mình… Loài người, đã ngưng lại như một homo sapiens, sẽ lại bước vào
một quá trình cải tạo triệt để và sẽ trở thành chủ thể của những phương pháp
chọn lọc tự nhiên nhân tạo và luyện tập về mặt tâm sinh lý phức tạp nhất… Con
người sẽ đặt cho mình nhiệm vụ… tạo ra một giống loài tiến bộ hơn về mặt sinh
học cũng như xã hội, có thể nói là siêu nhân cũng được… Con người trở thành
mạnh mẽ hơn, thông minh hơn và nhạy cảm hơn. Cơ thể anh ta cân đối hơn, vận
động nhịp nhàng hơn, giọng nói êm dịu hơn… Một người trung bình cũng đứng ngang
với Aristotle, Goethe, Marx. Trên những ngọn đồi đó sẽ nổi lên những đỉnh núi
mới.
Hy sinh những sinh linh khốn nạn trong
cái thế giới tha hoá này cho lý tưởng tót vời như thế thì có gì phải đắn đo?
Theo quan điểm đó, nhân loại hiện nay chỉ là rác rưởi và cặn bã của cái thế
giới nhất định sẽ bị diệt vong, thủ tiêu nó không phải là một cái gì quá nghiêm
trọng vậy.
Những vụ giết người chưa từng có trong
lịch sử được tiến hành song song với việc đàn áp tự do ngôn luận nhằm tạo ra
một sự thống nhất giả tạo như thế đấy: thể xác thì bị bắt và bị giết, còn lý
trí thì bị xoá sổ. Lenin hoàn toàn không tôn trọng những quan niệm khác biệt
với quan niệm của mình, nghị định đầu tiên mà ông ta ban hành ngay sau khi nắm
được quyền lực đòi hỏi đóng cửa tất cả các cơ quan báo chí không nằm dưới quyền
kiểm soát của Đảng Bolshevik. Lúc đó ông ta không đủ sức làm việc này, nhưng
mùa hè năm 1918, ông ta đã cho đóng cửa không chỉ tất cả các tờ báo độc lập mà
còn đóng cửa tất cả các tờ báo định kì phi đảng phái nữa. Năm 1922, ông ta cho
thành lập cơ quan kiểm duyệt trung ương, gọi là Glavlit. Tất cả
những gì xuất hiện trên báo chí hay sân khấu đều bị cơ quan này kiểm duyệt.
Tuy nhiên, trong những năm 1920, tư
tưởng vẫn còn được hưởng một mức độ tự do nhất định. Thời kì đầu, kiểm duyệt ở
Liên Xô có tính cách phủ định, tương tự như dưới thời Sa hoàng, nghĩa là chỉ
quyết định không được in cái gì chứ chưa có ý định buộc những người cầm bút
phải viết cái gì. Trong những năm 1930, có sự thay đổi chính sách: kiểm duyệt
mang tính khẳng định, nghĩa là chỉ thị cho người cầm bút phải viết cái gì và
viết ra sao. Tất cả thông tin tiêu cực về hiện tình đất nước đều bị che giấu,
đấy là nói khi chính quyền không yêu cầu đưa ra công khai một phần sự thật nào
đó. Chẳng mấy người được ra nước ngoài, chỉ các quan chức nhà nước mới được
xuất ngoại mà thôi, dân thường không được tiếp xúc với người ngoại quốc, mọi
cuộc tiếp xúc như thế đều có thể bị coi là hoạt động gián điệp. Sách báo ngoại
quốc, trừ sách báo cộng sản, đều bị cấm lưu hành.
Văn học Liên Xô là hiện thân của một sự
đơn điệu không ai có thể tưởng tượng nổi. “Phương pháp hiện thực xã hội chủ
nghĩa” trở thành lý luận mỹ học chính thức từ năm 1932, phương pháp này đòi hỏi
nhà văn phải coi hiện thực “là không tồn tại, còn tương lai thì lại như đã hiện
diện rồi”[38]. Kết
quả là, tất cả những gì được in, được dựng trên sân khấu, được đưa lên phim ảnh
hoặc phát trên sóng radio đều không phải là thực: đấy là siêu thực. Để thích
ứng với hoàn cảnh như thế, người ta buộc phải chia tách nhận thức và cá nhân
con người mình thành hai mảnh, người ta buộc phải sống trong tình trạng tâm
thần phân lập, nghĩa là người ta biết sự thật nhưng phải đè nén nhận thức và
chỉ chia sẻ những hiểu biết đó với những người thân cận mà thôi, nhưng mặt khác,
người ta lại phải giả vờ tin mọi lời nói của bộ máy tuyên truyền chính thức.
Tâm trí lúc nào cũng căng thẳng, cuộc sống ở Liên Xô trở thành năng nề, không
thể chịu đựng nổi.
Di sản tâm lý đó còn tồn tại ngay cả
sau khi chủ nghĩa cộng sản đã cáo chung. Dối trá trở thành phương tiện sống, mà
từ nói dối đến lừa đảo chỉ là một bước nhỏ. Không còn nền tảng đạo đức cho sự
tồn tại của một xã hội dân sự và thế là cái chế độ đòi hỏi mọi người hy sinh
quyền lợi cá nhân cho quyền lợi tập thể đã dẫn đến cái kết cục là tất cả mọi
người chỉ còn biết lo cho mình vì họ không còn chỗ dựa nào khác.
Một khía cạnh nữa của cuộc đại khủng bố
là “tệ sùng bái” Stalin, sau này người ta gọi như thế. Trên thực tế đấy, là sự
thần thánh hoá Stalin: ông ta là người cực kì mạnh mẽ, biết hết, hiện diện khắp
nơi, không bao giờ sai và còn mãi như thế cho đến tận lúc chết vào năm 1953.
Người nhạc sĩ phủ phục dưới chân, khi ông ta phê bình một vở opera nào đó. Các
nhà ngôn ngữ học ngậm miệng khi ông ta phát biểu về vấn đề ngôn ngữ học. Trên
diễn đàn đại hội, các đại biểu thi nhau xem ai tài hơn trong việc tụng ca lãnh
tụ, còn ông ta thì ngồi đó, khiêm tốn lắng nghe những lời ngợi ca chính mình. Osip
Mandelstam, được nhiều người coi là một trong những nhà thơ Nga vĩ đại nhất torng
thế kỷ XX, đã phải trả giá bằng chính mạng sống của mình vì trường ca viết về
nhà độc tài này, trong đó có những dòng sau đây:
Những ngón tay của ông ta, mập ú như những con giòi
Lời nói của ông ta nặng như những quả tạ,
Mấy sợi râu như râu gián,
Đôi ủng bóng lộn,
Xung quanh ông ta là đám lãnh tụ cổ ngẳng -
Bọn nửa người nửa ngợm để ông ta đùa cợt.
Kẻ huýt gió, kẻ kêu meo meo, kẻ ủn ỉn
Chỉ một mình ông ta huyên thuyên và chỉ tay.
Hết chỉ thị nọ đến chỉ thị kia, như ném những cái móng ngựa
Kẻ bị vào bẹn, kẻ vào trán, kẻ vào lông mày, kẻ vào mắt.
Và mỗi kẻ bị giết là một quả mâm xôi[39].
Có thể một trong những lý do thần thánh
hoá lãnh tụ, một hiện tượng chung cho đa số các chế độ cộng sản, là vì sức mạnh
vô địch và biết tuốt là đặc trưng của thánh thần cho nên khi một người có những
tính chất như thế thì ông ta cũng được người ta gán luôn cho các đặc điểm của
thần thánh.
Dàn đồng ca đó đã làm cho Stalin ngày
càng xa rời thực tế. Bị bao vây bởi một lũ nịnh thần, Stalin không còn nhận
thức được tình hình thực tế của vương quốc nữa. Sợ bị ám sát, ông ta không bao
giờ vi hành và chỉ thấy đời sống của đất nước qua những bộ phim được dàn dựng
dành riêng cho ông ta, trong đó, theo lời của Khrushchev, bộ hạ và sau này là
người kế vị ông ta, thì các nông trang viên ngồi quanh bàn ăn “võng xuống vì
ngỗng và gà tây”.
Chỉ có cảnh sát mật, mang những bí danh
Cheka (1917-1922), GPU và OGPU (1922-1934), NKVD (1934-1954) và KGB
(1954-1991), là nắm được được hiện tình đất nước mà thôi. Đây là công cụ đàn áp
chủ yếu, nó có toàn quyền hành động, nó được tự do đàn áp tất cả các kẻ thù của
chế độ, cả kẻ thù thật lẫn kẻ thù tiềm năng và kẻ thù do nó bịa ra. Cơ quan này
còn điều hành một vương quốc các trại lao động khổ sai. Sau khi đã tiêu diệt
mọi hình thức biểu hiện của dư luận; cảnh sát mật, thông qua mạng lưới nhân
viên tình báo và chỉ điểm, làm nhiệm vụ báo cáo với chính phủ về tâm trạng của
xã hội. Những năm cuối đời Stalin, các cơ quan an ninh đã thoán đoạt quyền lực
trong nhiều lĩnh vực mà trước đó Lenin đã giao cho Đảng Cộng sản.
_________________
Stalin là người cộng sản đầu tiên nhận
thức được tiềm lực chính trị của chủ nghĩa dân tộc Nga và buộc nó phục vụ mình.
Chủ nghĩa Marx coi tinh thần dân tộc, biểu hiện dưới bất kì hình thức nào, là
vũ khí của giai cấp tư sản nhằm đánh lạc hướng quần chúng khỏi nhiệm vụ chính,
khỏi cuộc đấu tranh giai cấp. Lenin cũng chẳng coi trọng tinh thần yêu nước.
Nói đúng hơn, ông ta còn tỏ ra khinh bỉ chính nhân dân nước mình, trong một bức
thư mật, ông ta nhận xét về họ với những từ ngữ miệt thị như “lũ gian xảo và đê
tiện”. Có lần ông còn nói với Maxim Gorky rằng “một người Nga thông minh thì gần như chắc chắn đấy là một người Do Thái
hay trong huyết quản có máu Do Thái”[40].
Stalin thì lại khác. Qua tiếp xúc với
cán bộ, ông ta nhận ra rằng chủ nghĩa dân tộc và tinh thần bài ngoại được ủng
hộ nhiệt tình hơn là những lý tưởng mù mờ của chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, ông
ta bắt đầu đồng nhất mình với chủ nghĩa sô-vanh Nga và tìm cách xoá bỏ dần mối
ngờ vực thịnh hành ở Nga và ở nước ngoài rằng chủ nghĩa cộng sản phục vụ cho
quyền lợi của người Do Thái trên toàn thế giới. Bản thân là một người bài Do
Thái thô bạo, ông ta tìm cách loại bỏ dần tất cả người Do Thái khỏi các chức vụ
trong bộ máy nhà nước. Trong thời kì liên minh với Hitler, ông ta đã hứa với
Ribbentrop, Bộ trưởng Ngoại giao Đức, rằng sẽ cho tất cả người Do Thái nghỉ
việc ngay khi ông ta tìm được người Nga phù hợp[41].
Trước khi chết không lâu, ông ta đã lập kế hoạch đầy tất cả người Do Thái đến
vùng Siberia.
Năm 1934, sau khi Hitler nắm được chính
quyền, Stalin đã cho rà soát lại toàn bộ đường lối của Đảng về vấn đề chủ nghĩa
yêu nước. Tinh thần yêu nước, vốn bị lên án trước đây, được khuyến khích; việc
giảng dạy lịch sử theo truyền thống Marxist vốn nhấn mạnh cuộc đấu tranh giai
cấp thì nay chú trọng trước hết đến thắng lợi của nước Nga trong chiến tranh
cũng như xây dựng hoà bình. Cho đến khi Stalin chết, chủ nghĩa cộng sản Liên Xô
đã hoà nhập với chủ nghĩa dân tộc Nga: người ta tuyên truyền rằng uy tín của
chế độ đã được xây dựng trên chiến thắng trong Thế chiến II và những thành công
sau đó, trong việc chế tạo ra tên lửa vượt đại châu và chương trình thám hiểm
vũ trụ, trong việc giành được danh hiệu siêu cường ngang hàng với nước Mỹ.
Người Nga hiện nay nhớ tiếc Liên Xô không phải vì họ yêu chế độ, tức là yêu chủ
nghĩa cộng sản, mà đấy là nỗi nhớ những ngày đã qua, khi họ sung sướng, tự hào
vì những người khác phải tôn trọng và phải sợ đất nước mình.
______________
Đã đến lúc phải đặt câu hỏi: Chế độ
chuyên chế kéo dài hai mươi lăm lăm của Stalin có phải là đương nhiên, nghĩa là
hậu quả không thể tránh được của cái chế độ do Lenin sáng lập, hay một sự ngẫu
nhiên nào đó đã cho phép một kẻ tâm thần cướp đoạt được các thành quả của cách
mạng? Chắc chắn là Stalin có những biểu hiện của bệnh tâm thần, bệnh vĩ cuồng
và độc ác, một số cộng sự gần gũi của Stalin đã từng khẳng định như thế. Nhưng
phải nhớ rằng ông ta kế tục Lenin không phải nhờ vào một cuộc đảo chính cung
đình mà tiến lên từng bước một, được sự ủng hộ của Đảng. Đảng đã lựa chọn ông
ta. Các nhà sử học, khi khẳng định rằng sự nghiệp của Lenin nên được giao cho
Trotsky hay Bukharin, đã bỏ qua sự kiện là, tuy có cảm tình với hai người này,
nhưng Lenin không coi họ là những người kế tục xứng đáng của mình. Chính Lenin
đã giao vào tay Stalin cái chế độ độc đoán đó. Chính Lenin đã cho áp dụng chế
độ khủng bố hàng loạt, bắt cóc con tin và trại tập trung, chính Lenin đã coi
luật pháp và toà án chỉ là “hiện thân và hợp pháp hoá” khủng bố, chính ông ta
đã thông qua điều 57 và 58 Bộ luật hình sự với hàng loạt điều khoản mà sau này
Stalin đã sử dụng để giết hại và bỏ tù hàng triệu người vô tội. Chính Lenin đã
buộc Đảng phải thông qua nghị quyết cấm “hoạt động bè phái”, tạo điều kiện cho
Stalin lấy cớ là “lệch lạc” để loại bỏ tất cả những người không đồng ý với ông
ta. Độc tài cá nhân là thuộc tính của hệ thống do Lenin sáng lập, mặc dù chính
ông thích tìm sự đồng thuận trong tập thể hơn. Từ câu “Đảng luôn luôn đúng” đến
câu “Lãnh tụ luôn luôn đúng” khoảng cách chẳng là bao xa. Mà khi nguyên tắc này
đã ăn sâu, bén rễ thì chế độ độc tài xuất hiện như thế nào chỉ còn là vấn đề
của hoàn cảnh mà thôi.
Vyacheslav Molotov là người giữ những
chức vụ quan trọng nhất trong thời gian lâu nhất cả dưới thời Lenin lẫn Stalin.
Về già, khi được hỏi trong hai người đó ai “nghiêm khắc hơn”, ông ta lập tức
trả lời: “Dĩ nhiên là Lenin… Tôi còn
nhớ ông đã phê phán Stalin là nhu nhược và dễ dãi”[42].
Đấy chính là dấu chấm hết cho huyền thoại rằng dường như chủ nghĩa Stalin là sự
xa rời tư tưởng của Lenin mà Trotsky và sau đó là Khrushchev ra sức tuyên
truyền.
_____________
Đức phát động Thế chiến II nhằm để báo
thù thất bại năm 1918 và buộc châu Âu phải khuất phục. Nhưng Liên Xô, xuất phát
từ quyền lợi riêng, đã tạo điều kiện và xúi giục Hitler tiến hành các kế hoạch xâm
lược của ông ta và như thế cũng phải chịu phần lớn trách nhiệm trong việc để
xảy ra cuộc chiến tranh khủng khiếp nhất trong lịch sử.
Sau thảm bại trong cuộc chiến tranh
chống Ba Lan cũng có nghĩa là những cố gắng nhằm thổi bùng ngọn lửa cách mạng ở
châu Âu đã phá sản, ban lãnh đạo Liên Xô kết luận rằng nếu chiến tranh thế giới
nổ ra thì việc xuất khẩu cách mạng sẽ dễ dàng hơn. Tháng giêng năm 1925 Stalin
tuyên bố như sau: “Đấu tranh, xung đột
và chiến tranh giữa các kẻ thù của chúng ta là… đồng minh vĩ đại của chúng ta”…
Chắc chắn đấy sẽ là sự ủng hộ vĩ đại
nhất đối với chính quyền và cuộc cách mạng của chúng ta”. Sau khi khẳng
định rằng một cuộc xung đột thế giới nhất định sẽ xảy ra, ông ta nói thêm: “Nhưng nếu chiến tranh xảy ra thì chúng ta
không được khoanh tay đứng nhìn, chúng ta nhất định phải tham chiến, nhưng sẽ
tham chiến sau cùng. Chúng ta sẽ tham chiến để ném quả tạ quyết định lên
bàn cân…”[43]
Với ý đồ như thế, từ năm 1920 đến năm
1933 Liên Xô đã bí mật hợp tác với giới quân sự Đức, giúp họ tránh né các hạn
chế về việc cấm hoặc chỉ cho Đức sản xuất một số lượng hạn chế xe tăng, máy
bay, tầu ngầm và khí độc được quy định trong Hiệp ước Versailles. Moskva cho
Đức sản xuất và thử nghiệm vũ khí trên lãnh thổ của mình, còn Đức thì mời các
sĩ quan Hồng quân theo học các khoá của Bộ tổng tham mưu, trong đó có cả chiến
lược và chiến thuật đánh nhanh thắng nhanh. (Liên Xô cũng hợp tác với nước Italy
phát xít trong lĩnh vực hải quân).
Vì có ý đồ như thế cho nên trong những năm 1932-1933 Stalin đã cấm những người cộng sản Đức hợp tác với Đảng Dân chủ Xã hội trong cuộc bầu cử quốc hội và bằng cách đó đã giúp Hitler giành được quyền lực (xem chương 4). Đảng Dân chủ Xã hội Đức lúc đó theo đường lối thân phương Tây. Stalin lại nghĩ rằng mặc dù Quốc xã là kẻ thù không đội trời chung của cộng sản, nhưng chúng sẽ tấn công các nước dân chủ phương Tây trước và để cho Liên Xô được yên. Đấy chính là căn cứ để ông ta kí với Berlin, tháng 8 năm 1939, hiệp ước bất tương xâm, kèm theo biên bản bí mật về việc chia Ba Lan giữa Đức và Liên Xô. Rõ ràng là, ông ta cho rằng sẽ diễn ra cuộc chiến tranh hao người tốn của như thời kì 1914-1918, kết quả là cả hai phía “tư bản” tham chiến đều kiệt sức và Liên Xô sẽ dễ dàng chiếm được châu Âu. Sau khi đã tiến hành phân chia Ba Lan giữa Đức và Liên Xô, Molotov, một người thân cận với Stalin, lúc đó là Bộ trưởng Ngoại giao vừa kí xong hiệp định bất tương xâm đã vội vã lên án Anh và Pháp vì hai nước này gây chiến với Đức. Molotov tuyên bố: “Hệ tư tưởng của chủ nghĩa Hitler, tương tự như mọi hệ tư tưởng khác, có thể được chấp nhận hay bác bỏ: đây là vấn đề chính trị”. Tất cả các đảng cộng sản trên thế giới đều được chi đạo phải coi Pháp và Anh là thế lực xâm lược và phản động. Chính sách này hoá ra là một sai lầm lớn.
Vì có ý đồ như thế cho nên trong những năm 1932-1933 Stalin đã cấm những người cộng sản Đức hợp tác với Đảng Dân chủ Xã hội trong cuộc bầu cử quốc hội và bằng cách đó đã giúp Hitler giành được quyền lực (xem chương 4). Đảng Dân chủ Xã hội Đức lúc đó theo đường lối thân phương Tây. Stalin lại nghĩ rằng mặc dù Quốc xã là kẻ thù không đội trời chung của cộng sản, nhưng chúng sẽ tấn công các nước dân chủ phương Tây trước và để cho Liên Xô được yên. Đấy chính là căn cứ để ông ta kí với Berlin, tháng 8 năm 1939, hiệp ước bất tương xâm, kèm theo biên bản bí mật về việc chia Ba Lan giữa Đức và Liên Xô. Rõ ràng là, ông ta cho rằng sẽ diễn ra cuộc chiến tranh hao người tốn của như thời kì 1914-1918, kết quả là cả hai phía “tư bản” tham chiến đều kiệt sức và Liên Xô sẽ dễ dàng chiếm được châu Âu. Sau khi đã tiến hành phân chia Ba Lan giữa Đức và Liên Xô, Molotov, một người thân cận với Stalin, lúc đó là Bộ trưởng Ngoại giao vừa kí xong hiệp định bất tương xâm đã vội vã lên án Anh và Pháp vì hai nước này gây chiến với Đức. Molotov tuyên bố: “Hệ tư tưởng của chủ nghĩa Hitler, tương tự như mọi hệ tư tưởng khác, có thể được chấp nhận hay bác bỏ: đây là vấn đề chính trị”. Tất cả các đảng cộng sản trên thế giới đều được chi đạo phải coi Pháp và Anh là thế lực xâm lược và phản động. Chính sách này hoá ra là một sai lầm lớn.
Năm 1940, khi quân đội của Hitler đã
đánh tan các lực lượng đồng minh ở Pháp và chiếm đóng phần lớn lãnh thổ châu
Âu, Stalin trở thành đồng minh thực sự của nước Đức Quốc xã, ông ta cung cấp
cho nước này lương thực, thực phẩm, sắt thép và các vật tư chiến lược khác. Ông
ta còn giao cho Hitler một số đảng viên cộng sản Đức lưu vong ở Liên Xô. Cho
rằng Hitler sẽ tiếp tục sự hợp tác béo bở đó với Moskva, Stalin đã phớt lờ mọi
lời cảnh báo của phe đồng minh cũng như của cơ quan tình báo của chính ông ta
rằng, quân Đức đã tập trung ở Ba Lan, chuẩn bị tấn công Liên Xô.
Hồng quân, đã mất rất nhiều sĩ quan dày
dạn kinh nghiệm trong các cuộc thanh trừng, lại không được phép chuẩn bị chống
lại cuộc xâm lược của Đức, đã chịu những tổn thất nặng nề về người và phương
tiện ngay trong những tháng chiến tranh đầu tiên, hàng triệu chiến sĩ Hồng quân
bị bắt làm tù binh.
Sau khi trấn tĩnh, Stalin tiếp tục lãnh
đạo công việc phòng thủ. Việc giả vờ làm như đất nước đang chiến đấu vì lý
tưởng cộng sản lập tức bị loại bỏ: người ta viện đến cả tôn giáo và những chiến
công từ thời Sa hoàng để động viên nhân dân chiến đấu vì “Nước Nga Quang Vinh”.
Cuộc kháng chiến, ban đầu tưởng như vô vọng, đã có thêm sức mạnh nhờ vào những
sai lầm chiến lược của Hitler và sự dã man của đội quân xâm lược. Để tránh sai
lầm trong việc đưa quân tiến thẳng vào Moskva của Napoleon, Hitler đưa một tập
đoàn quân lên phía Bắc, tức là về phía Leningrad, còn tập đoàn quân thứ hai thì
tiến xuống phía Nam để chiếm Kiev. Kết quả là, quân đội Đức bắt được rất nhiều
tù binh, nhưng đã để mất một khoảng thời gian phải nói là vô giá vì khi mùa
đông đến, họ mới bắt đầu cho quân tiến về thủ đô, cuộc tấn công suy yếu hẳn. Ban
đầu, nhiều người Nga và người Ukraine chào đón quân Đức, nhưng họ đã nhanh
chóng nhận ra rằng bọn phát xít đến không phải để giải phóng họ khỏi những
người cộng sản mà để thiết lập chế độ nô lệ còn hà khắc hơn. Họ đã chiến đấu
với quân thù vượt trội về vũ khí với lòng quả cảm và kiên cường vô song. Cuối
cùng, cuộc chiến trên mặt trận phía Đông đã bẻ gãy xương sống quân đội Đức và
quyết định kết cục Thế chiến II. Giá phải trả là cực kì to lớn. Các cấp chỉ huy
Hồng quân ném binh sĩ một cách không thương tiếc vào những trận đánh, không cần
biết có bao nhiêu người sẽ hy sinh. Các trận đánh lớn thường có hàng trăm ngàn
người chết. Trong những trận đánh bảo vệ Kiev vào mùa hè năm 1941 có 616.000
chiến sĩ hy sinh, cuộc tấn công Donbass hai năm sau đó lại thêm 661.000 chiến
sĩ nữa hy sinh. Theo tính toán của các chuyên gia nước ngoài, Liên Xô đã mất
tổng cộng 20 triệu người, trong đó, 8,7 triệu người hy sinh trong các trận đánh[44].
Thiệt hại về binh lực lớn gấp ba lần thiệt hại của Đức trên mặt trận phía Đông
(2,6 triệu người). Khoảng 5 triệu quân nhân Liên Xô bị bắt làm tù binh, trong
đó từ 1,6 đến 3,6 triệu người bị chết vì đói, vì bị bắn hay chết trong các lò
hơi ngạt.
Các vùng lãnh thổ chiếm được chính là
chiến lợi phẩm của Stalin. Quân đội Liên Xô đã chiếm đóng gần như tất cả các
nước Trung và Đông Âu, với dân số khoảng 90 triệu người, lớn hơn Pháp và Tây
Đức cộng lại, và thiết lập ở đó các chế độ cộng sản. Nam Tư và Albania cũng trở
thành cộng sản.
Một điều còn đáng ngạc nhiên hơn nữa,
đấy là việc những người cộng sản Trung Quốc, những người mà Moskva có tình cảm
lẫn lộn, vừa yêu vừa ghét trong suốt 25 năm trước đó, đã giành chiến thắng
trong cuộc nội chiến với quân Quốc dân Đảng được Mỹ ủng hộ và thiết lập quyền
kiểm soát trên toàn bộ Hoa lục vào năm 1949. Việc truyền bá chủ nghĩa cộng sản
sang phần còn lại của thế giới tưởng như chỉ còn là vấn đề thời gian.
Trong toàn bộ lịch sử Liên Xô, Thế chiến
II là sự kiện duy nhất có tác dụng cố kết nhân dân với nhà nước: “Sau khi bị
Đức tấn công vào tháng 6 năm 1941, đây là lần đầu tiên trong lịch sử Liên Xô
các tuyên bố chính thức phù hợp với sự thật: Đức là đội quân xâm lược tàn bạo
và nhân dân phải chiến đấu cho sự sống còn của chính mình”[45].
Chiến tranh đã tạo cho chế độ cộng sản tính chính danh của người bảo vệ nhân
dân mà trước đó nó không có. Nhưng niềm hy vọng được mọi người lúc đó chia sẻ
là nhờ sự đoàn kết như thế mà Stalin sẽ nới tay và cho nhân dân nhiều quyền tự
do hơn đã không trở thành sự thật. Trong những năm cuối đời, ông ta cũng không
hề nới lỏng quyền kiểm soát trong bất cứ lĩnh vực nào.
_________________
Cái chết của Stalin đặt những người kế
vị ông ta vào hoàn cảnh khó khăn. Họ nhận thức được rằng dứt khoát phải đoạn
tuyệt với nhà độc tài điên rồ và chính sách tự sát của ông ta, nhưng đồng thời
họ lại cần bảo vệ cái hệ thống mà ông ta đã lãnh đạo trong gần ba mươi năm qua
vì nó đã tạo cho họ đặc quyền đặc lợi. Họ giải quyết vấn đề bằng cách gắn chủ
nghĩa cộng sản với tên tuổi của Lenin. Năm 1956, trong một Báo cáo mật đọc tại
Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô, đại hội đầu tiên sau khi Stalin chết, Nikita
Khrushchev, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đã tố cáo một số tội
ác của Stalin đối với tầng lớp nomenclatura
cộng sản. Stalin lập tức trở thành kẻ vô danh: Xác ông ta, vốn nằm bên cạnh
Lenin, bị đưa ra khỏi lăng, Stalingrad được đổi tên thành Volgograd, các bức
ảnh, các bức tượng của ông ta nhanh chóng biến mất, các thành phố mang tên ông
ta cũng được thay tên ngay lập tức. Tất cả đều chứng tỏ rằng ba mươi năm cầm
quyền của Stalin là một sai lầm khủng khiếp, mặc dù chẳng có ai làm cái việc
giải thích “sai lầm” ấy. Vì rằng chỉ có hai cách giải thích, mà cả hai đều
không được chế độ chấp nhận: hoặc lý thuyết duy vật của Marx sai, lịch sử cuối
cùng vẫn là do chính trị và các chính khách quyết định, hoặc là Liên Xô không
phải là nhà nước được xây dựng theo những nguyên lý của chủ nghĩa Marx.
Chiến dịch chống Stalin là một bước đi
dũng cảm và có thể là cần thiết, nhưng nó cũng làm cho cái chế độ từng thực
hiện những vụ giết người hàng loạt mất tính chính danh: việc tố cáo của
Khrushchev đã đặt cơ sở cho quá trình, tuy chậm chạp nhưng liên tục, loại bỏ
dần những lời biện hộ cho chủ nghĩa cộng sản.
Để tạo ra đối trọng với quá trình phi
Stalin hoá và thổi vào chế độ luồng sinh khí mới, Khrushchev bắt đầu tiến hành
việc thần thánh hoá Lenin, quá trình này vẫn còn sống ngay cả sau khi Liên Xô
đã tan rã. Năm 1999, khi được đề nghị nêu tên mười người vĩ đại nhất trong lịch
sử thế giới, người Nga đã đặt Peter I vào vị trí đầu tiên, Lenin ở vị trí thứ
ba, sau Pushkin. (Mặc cho những cố gắng của Khrushchev, Stalin vẫn giữ vị trí
thứ tư.)
Thoát được sự khủng bố của Stalin, nomenclatura lập tức tìm cho mình các
nguồn lợi vật chất mà nó cho là xứng đáng với địa vị và trách nhiệm nặng nề của
mình. Nó cũng nhanh chóng thoát khỏi sự kiểm soát của các cơ quan lãnh đạo của
Đảng.
Khrushchev phần nào nới lỏng chế độ của
nhà độc tài quá cố, nhưng vẫn không thay đổi các thiết chế hay các đạo luật nền
tảng của nó: chế độ lãnh đạo độc đảng vẫn còn, bộ máy công an mật và kiểm duyệt
vẫn hiện diện khắp nơi. Hàng triệu tù nhân được tha. Nhiều nạn nhân của các vụ
đàn áp được phục hồi, số phận của họ dĩ nhiên là không thể thay đổi được, nhưng
thân nhân của họ thì rõ ràng là dễ chịu hơn. Những mối liên hệ hạn chế với nước
ngoài lại được chấp nhận. Số người nước ngoài được vào Liên Xô cũng như số
người Liên Xô ra nước ngoài cũng gia tăng. Việc ngăn chặn sóng phát thanh của
các đài nước ngoài vẫn còn tiếp tục, tuy không còn kĩ càng như trước, người
Liên Xô đã có điều kiện nhận được các thông tin thực tế hơn về đời sống ở trong
cũng như ngoài nước.
Kết quả là người ta đã nhận ra vấn đề.
Trong những năm 1970, Mikhail Gorbachev, lúc đó đã giữ các chức vụ cao trong bộ
máy quyền lực của Đảng Cộng sản Liên Xô đã có dịp thăm Italy, Pháp, Bỉ và Tây
Đức. Ông ta vô cùng kinh ngạc, không chỉ vì mức sống rất cao của người dân
phương Tây, mà chủ yếu là vì nền văn hoá của xã hội công dân của những nước đó.
Đây là điều đã làm lay chuyển “niềm tin vào tính ưu việt của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa trước hệ thống tư bản”: “Chúng tôi kinh ngạc vì sợ cởi mở và thanh
thản của những người mà chúng tôi gặp”, ông ta viết trong hồi kí như thế,
“chúng tôi ngạc nhiên khi thấy họ thảo luận một cách tự do về tất cả mọi vấn đề,
kể cả hoạt động của chính phủ, lẫn các chính khách tầm khu vực cũng như quốc
gia”. Chuyến thăm Mỹ, năm 1989, cũng gây ấn tượng tương tự như thế đối với
Boris Yeltsin, đối thủ tương lai của Gorbachev và Tổng thống dân cử đầu tiên
của nước Nga độc lập. Chuyến thăm là “một loạt những sự đổ vỡ” các quan niệm cổ
lỗ, sáo mòn. Khi thăm siêu thị ở Houston ông ta đã phải thốt lên: “Chúng còn
lừa đồng bào tôi đến bao giờ nữa!”. Người đồng hành với Yeltsin nghĩ rằng những
điều mắt thấy tai nghe đã đập tan niềm tin cộng sản còn sót lại của ông ta.
Stalin đã nói đúng: Hệ thống này chỉ có thể tồn tại trong điều kiện cách ly
hoàn toàn dân chúng, kể cả các cán bộ cấp cao, với phần còn lại của thế giới.
Trong lĩnh vực đối ngoại, những người
kế nhiệm Stalin đã đánh giá lại và vứt bỏ chiến lược đối đầu, họ kết luận rằng,
dù sao thì chủ nghĩa tư bản cũng không đứng bên bờ vực phá sản: Bộ Chính trị đã
chấp nhận luận điểm mà E. Bernstein đưa ra cách đó 60 năm. Luận điểm này nói
rằng chủ nghĩa xã hội thành công không phải bằng con đường cách mạng, không
phải bằng chiến tranh mà bằng các biện pháp hoà bình. “Cùng tồn tại hoà bình”
trở thành khẩu hiệu của giai đoạn đó. Các đảng cộng sản nước ngoài nhận được
chỉ thị phải liên kết không chỉ với giai cấp tư sản dân tộc của Thế giới Thứ ba,
mà còn phải liên kết với cả các đảng xã hội chủ nghĩa mà Lenin từng coi là kẻ
thù không đội trời chung của chủ nghĩa cộng sản.
Đồng thời, chế độ hậu Stalin tập trung
giải quyết hai nhiệm vụ chiến lược: tăng cường lực lượng vũ trang và thâm nhập
vào Thế giới Thứ ba.
Mặc dù vẫn có một đội quân hùng hậu,
ban lãnh đạo mới kết luận rằng tên lửa trang bị đầu đạn hạt nhân sẽ đóng vai
trò quyết định trong cuộc chiến tranh tương lai. Họ buộc phải đi đến kết luận
như thế, một phần là do nhu cầu cắt giảm ngân sách quân sự mà phần lớn là chi
tiêu cho các lực lượng vũ trang thông thường. Người ta cũng đã thiết lập được
cơ sở lý luận cho quan điểm này. Trong khi phương Tây cho rằng vũ khí nguyên tử
chỉ nhằm mục đích duy nhất là ngăn chặn thì Moskva lại dành tất cả nỗ lực cho
việc chế tạo các loại tên lửa xuyên lục địa. Việc phóng thành công vệ tinh nhân
tạo đầu tiên vào năm 1957 chứng tỏ sự tiến bộ của Liên Xô trong lĩnh vực công
nghệ vũ trụ và là mối đe doạ đối với lãnh thổ Mỹ. Trong suốt ba mươi năm sau,
chính phủ Liên Xô đã chi cho ngân sách quốc phòng một số tiền khổng lồ, theo
các tính toán gần đây thì ngân sách quốc phòng chiếm khoảng 25 đến 30 mà cũng
có thể đến 40% thu nhập quốc dân. Sức mạnh quân sự, đặc biệt là vũ khí hạt nhân
và các chương trình vũ trụ đã đưa Liên Xô lên vị trí “siêu cường”. Nhưng đấy là
vị trí giả tạo vì nó chỉ dựa trên khả năng đe doạ các nước khác bằng kho vũ khí
hạt nhân của mình, việc sử dụng kho vũ khí đó có thể dẫn đến việc xoá sổ ngay
chính Liên Xô; hơn nữa, chính sách đó đã làm cho nền kinh tế quốc gia kiệt quệ
và đấy cũng là nguyên nhân đưa chế độ đến chỗ sụp đổ hoàn toàn.
Chính sách thâm nhập vào Thế giới Thứ ba có mục đích bao vây và tấn công các nước thuộc địa cũ, mà phương Tây vẫn có các mối quan hệ kinh tế chặt chẽ. Nhưng đồng thời nó cũng góp phần nâng cao tinh thần của người dân: việc xuất hiện các chế độ cộng sản và thân cộng mà hạt nhân là Liên Xô lại tạo ra ảo tưởng mới rằng không ai có thể ngăn chặn được bước tiến của chủ nghĩa cộng sản. Hậu quả là mọi sự chống đối chế độ từ bên trong đều dường như là việc làm vô ích. Nhưng họ đã phải trả giá quá đắt vì ủng hộ các nước thuộc Thế giới Thứ ba đòi hỏi phải chi một số tiền rất lớn dưới dạng viện trợ và cho vay mà chẳng thể có hy vọng được hoàn trả. Những khoản đầu tư này còn rất đáng ngờ, như chúng ta sẽ thấy sau đây: các đồng minh mua chuộc được bằng cách đó vốn là những kẻ rất không đáng tin.
________________
Năm 1964 Khrushchev bị lật đổ: theo lời
con trai ông ta thì những hoạt động không ngừng nghỉ của ông đã làm giới ăn
trên ngồi trốc nắm quyền mệt mỏi, họ thích “ổn định và thanh bình” hơn. Leonid
Brezhnev lên thay, ông ta nắm giữ chức Tổng Bí thư suốt mười tám năm, mặc dù,
những năm cuối đời ai cũng thấy đấy là một người mắc bệnh lão suy: bộ máy tiếp
tục hoạt động một cách trục trặc.
Chế độ Xô Viết ngày càng suy đồi. Kinh
tế trì trệ, khoảng cách với các nước công nghiệp ngày càng gia tăng. Nỗi sợ hãi
bị trừng phạt biến mất, người công nhân không còn nhiệt tình lao động nữa; tinh
thần lao động thể hiện rõ trong câu chuyện như tiếu lâm sau đây: “Người ta giả
vờ trả lương cho chúng tôi, còn chúng tôi thì giả vờ làm việc cho họ”. Những
người tích cực lao động bị bạn bè coi là bọn khiêu khích và bị đánh đập thậm
tệ. Ủy ban kế hoạch nhà nước tiếp tục làm những việc mà họ vẫn thường làm: tạo
ra những sản phẩm quen thuộc, bỏ qua một bên các tiến bộ công nghệ, trong đó có
nhựa, sợi tổng hợp và nhất là máy tính. Việc duy trì sự kiểm soát chặt chẽ
thông tin đã dẫn đến hậu quả là Liên Xô đã đứng bên ngoài quá trình phát triển
công nghệ thông tin, mà chính công nghệ này đã tạo ra một cuộc cách mạng mới
trong các nền kinh tế phương Tây. Mặc dù đời sống của các công dân bình thường
đã được nâng lên so với thời Stalin, nhưng vẫn thấp hơn mức tối thiểu do chính
phủ quy định: cuối những năm 1980 gần một nửa dân chúng Liên Xô có thu nhập
dưới mười USD một tháng. Nghiện rượu trở thành hiên tượng phổ biến: lượng rượu
tiêu thụ trên đầu người cũng như số người chết vì rượu ở Liên Xô cao nhất thế
giới. Tỉ lệ giữa sinh suất và tử suất ở Nga (và cả ở Ukraine) ngày càng giảm
đi, đây là chỉ số rõ ràng nhất về sự suy giảm sức sống của nhân dân ở đất nước
mà dưới thời Sa hoàng từng tự hào là nước có tỉ lệ tăng dân số cao nhất châu
Âu.
Tham nhũng lan tràn khắp nơi: phải đút
lót cho những người làm nhiệm vụ phân phối thì mới mong nhận được hàng hoá hay
dịch vụ. Muốn leo lên cao thì phải có nhiều tiền. Các số liệu hiện có về nước
Cộng hoà Azerbaijan cho thấy ở đây mọi chức vụ, kể cả chức vụ Đảng, đều có giá
xác định, cao nhất là các chức vụ dễ dàng nhận hối lộ và ăn cắp tài sản xã hội.
Người Nga đã quen với tệ hối lộ đến nỗi họ sẵn sàng đút lót ngay cả khi không
thực sự tin vào hiệu quả của món tiền họ đưa. Ví dụ:
Người
ta kể rằng, một thời tại một cái chợ nọ ở Moskva có một lão già tàn tật ngồi
bán đủ thứ tạp nham. Chỉ cần trả một ít tiền là ông ta sẵn sàng nhận sắp xếp
cho một chỗ trong trường đại học. Với khả năng mở tất cả cánh cửa các trường
đại học một cách thần kì như thế dĩ nhiên là lão già này có thu nhập rất cao,
đấy là tiền mà các phụ huynh giầu có sẵn sàng chi cho những cậu ấm, cô chiêu
của mình. Lão già là người tuân thủ tuyệt đối đạo đức kinh doanh và luôn nói
rằng ông ta không phải là người toàn năng, ông ta sẽ làm tất cả mọi việc trong
khả năng của mình nhưng không phải lúc nào cũng thành công và còn hứa sẽ hoàn
lại tiền nếu con cái khách hàng không vào được đại học. Trên thực tế các phụ
huynh bao giờ cũng được nhận lại tiền nếu ông ta thất bại. Nhưng thành công
cũng nhiều và lượng khách hàng sẵn sàng trả tiền ngày một tăng thêm.
Ông
ta đã làm gì? Chẳng làm gì hết! Ông ta chẳng tìm ai, cũng chẳng nói chuyện với
ai, ông ta không có mối liên hệ với bất kì khoa nào hay ban giám hiệu nào.
Nhưng ông ta đã tính đúng rằng, thứ nhất, những ông bố bà mẹ mong cho con được
ngồi vào ghế giảng đường đại học chắc chắn không nhờ vả có một mình ông ta, họ
sẽ tìm những kênh khác nữa, cao hơn. Chỉ cần một trong những đòn bẩy ấy hoạt
động là thành công rồi, cụ thể cái nào thì ông ta không cần biết. Thứ hai, có
khả năng là chàng trai hay cô gái kia do áp lực của cha mẹ mà chăm học, chuẩn
bị kĩ cho kì thi và vượt qua được trở ngại. Còn nếu vạn nhất mà thất bại thì
trả tiền lại cho khổ chủ là xong[46].
Ăn cắp tài sản nhà nước đã không còn là
việc phải áy náy lương tâm nữa. Một câu nói đùa đã trở thành thông dụng: “Nếu
không ăn cắp của nhà nước thì anh phải ăn cắp của gia đình mình đấy”. Cách suy
nghĩ như thế đã đưa cả nước đến tình trạng tha hoá.
Sự suy nhược như thế đã tạo điều kiện
cho những người dũng cảm thách thức chế độ, đấy chính là hiện tượng Bất đồng
chính kiến. Những người bất đồng chính kiến dĩ nhiên là bị đàn áp như các thế
hệ trước đây từng bị, nhưng người đứng đầu ngành an ninh dưới thời Brezhnev là Iurii
Andropov còn phát minh ra một biện pháp mới là cho vào nhà thương điên, ở đây
những người bất đồng chính kiến không chỉ bị tra tấn mà còn bị tiêm các loại
thuốc để làm cho thành người điên thực sự. Người ta đã tính được rằng, cuối
những năm 1980, KGB có tổng cộng 480.000 nhân viên, trong đó khoảng 250.000
người và hàng chục triệu chỉ điểm viên chuyên làm công tác phản gián và theo
dõi chính công dân nước mình[47].
Nhưng phong trào chống đối tiếp tục phát triển và mặc dù không đông, họ vẫn
tiếp tục làm cho nhà nước ngày càng mất uy tín thêm.
Những hiện tượng tương tự như thế cũng
diễn ra trong các nước Đông Âu. Năm 1956, khi người Hungary đứng lên khởi nghĩa
để đòi độc lập, Moskva đã mang quân đàn áp. Họ cũng làm như thế khi những người
cộng sản Tiệp Khắc định thực hiện quá trình dân chủ hoá chủ nghĩa xã hội. Nhưng,
trong những năm 1970, khi ở Ba Lan hình thành phong trào Đoàn kết, một phong
trào thách thức ngay sự tồn tại của chế độ cộng sản thì Moskva đã không còn can
thiệp nữa. Lo sợ rằng Đoàn kết sẽ có ảnh hưởng đối với công nhân Liên Xô,
Moskva yêu cầu cộng sản Ba Lan phải tự dẹp bỏ phong trào này. Sau nhiều lần trì
hoãn, tháng 12 năm 1981, chính phủ Ba Lan hạ lệnh thiết quân luật và bắt giam
hầu hết các lãnh tụ của phong trào.
Giữa những năm 1980, Liên Xô phải đối
mặt với một cuộc khủng hoảng, khủng hoảng thật sự chứ không phải cố tình dựng
lên để biện hộ cho chế độ chuyên chế. Nó là hậu quả của một căn bệnh tương tự
như bệnh teo cơ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là lần đầu
tiên chế độ cộng sản vấp phải vấn đề mà họ không thể giải quyết được bằng bạo
lực. Cần phải có những cải cách sâu rộng, nói cách khác: họ buộc phải lùi.
Việc giải quyết cứ bị trì hoãn vì các
Tổng Bí thư được bầu là những kẻ già nua, ốm yếu, không dám làm con thuyền
chòng chành thêm. Nhưng đến năm 1985 thì không thể nào trì hoãn thêm được nữa.
Khối cộng sản đã rơi vào, theo định nghĩa của Lenin, “hoàn cảnh cách mạng”:
Chính phủ các nước trong khối không thể cai trị như cũ được nữa, mà nhân dân
cũng không chấp nhận cách cai trị như thế nữa. Bế tắc. Để thoát khỏi mối nguy
hiểm đó, năm 1985 Bộ Chính trị đã bầu một người còn tương đối trẻ là Mikhail
Gorbachev lên làm Tổng bí thư. Ông ta có nhiệm vụ phục hồi hệ thống nhưng không
được động tới nền tảng của nó. Đây là nhiệm vụ bất khả thi vì tất cả các cố
gắng cải cách đều vấp phải sự chống đối của tầng lớp nomenclatura đã ăn sâu, bến rễ bên trong. Đến năm 1988, Gorbachev
và các cộng sự của ông mới nhận ra rằng cộng sản là chế độ không thể cải cách
được và họ bắt đầu tiến hành việc cải tạo Liên Xô thành nhà nước xã hội chủ
nghĩa dân chủ.
Đầu tiên là công khai (glasnost), nghĩa là chấm dứt việc coi
tất cả mọi thứ đều là bí mật quốc gia và nới lỏng kiểm duyệt. Chính quyền đứng
trước nan đề: tiếp tục bịt miệng dư luận xã hội và như thế là bóp cổ đất nước một
cách từ từ hay để cho người ta được quyền tự do phát biểu ý kiến, việc này có
thể dẫn đến những vụ bùng nổ đầy tính chất phá hoại. Gorbachev lựa chọn biện
pháp bùng nổ có kiểm soát, ông ta hy vọng thế. Nhưng hoá ra đây lại là bước đi
cực kì nguy hiểm. Andropov, người kế nhiệm Brezhnev và trước đó đã lãnh đạo KGB
trong nhiều năm, từng cảnh báo rằng việc nới lỏng kiểm soát dư luận xã hội có
thể đưa toàn bộ xã hội đến chỗ diệt vong:
Ở nước ta có rất nhiều nhóm (dân chúng) bị áp bức…
Nếu chúng ta mở ngay tất cả các van chặn và dân chúng bắt đầu nói về những nỗi
khổ đau của mình thì sẽ có một cuộc đại hồng thuỷ mà ta không thể nào ngăn chặn
nổi[48].
Khổ đau tích tụ trong nhiều năm quả
nhiên đã bùng lên, nhấn chìm mọi huyền thoại của bộ máy tuyên truyền chính thức
và cả cái xã hội siêu thực vẫn sống bám vào các huyền thoại đó.
Gorbachev không chỉ dừng lại ở glasnost, ông ta còn cho triệu tập Đại hội Đại biểu Nhân dân, trong đó có một số đại biểu được bầu trực tiếp và bằng cách đó đã chấm dứt sự độc quyền của Đảng Cộng sản. Kể từ năm 1917, đây là lần đầu tiên người ta có quyền bầu những người lãnh đạo. Nhiều người không phải đảng viên, thậm chí chống cộng đã được bầu, trong đó có Boris Yeltsin, một người cộng sản phi chính thống lúc đó đang giữ chức bí thư đảng uỷ thành phố Moskva, người đã giành được tín nhiệm thông qua cuộc đấu tranh chống đặc quyền đặc lợi của tầng lớp nomenclatura. Sau đó, các sự kiện diễn ra nhanh đến chóng mặt. Năm 1989, Bức tường Berlin, biểu tượng của sự chia rẽ tưởng như không bao giờ vượt qua được giữa Đông và Tây, sụp đổ vì Moskva từ chối đưa quân giúp đỡ chính phủ Đông Đức. Các nước chư hầu lần lượt tuyên bố độc lập với Moskva. Mọi cố gắng nhằm giữ các nước cộng hoà trong liên bang cũng đều trở thành vô ích. Tháng 12 năm 1991, sau cuộc nổi loạn bất thành của những người cộng sản cứng rắn nhằm ngăn chặn sự tan rã Liên Xô, Yeltsin, trước đó được bầu làm Tổng thống Nga, tuyên bố Nga là nước cộng hoà độc lập. Việc tan rã Liên Xô trở thành sự kiện đã rồi. Một trong những nghị định đầu tiên của Yeltsin là đặt Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật. Chính phủ mới cho áp dụng chế độ dân chủ và thị trường tự do. Tầng lớp nomenclatura, tức là những kẻ có thể đảo ngược được tiến trình lịch sử, đã bị mua chuộc bằng cách tạo cho họ điều kiện chiếm đoạt phần lớn số tài sản nhà nước mà họ quản lý.
Gorbachev không chỉ dừng lại ở glasnost, ông ta còn cho triệu tập Đại hội Đại biểu Nhân dân, trong đó có một số đại biểu được bầu trực tiếp và bằng cách đó đã chấm dứt sự độc quyền của Đảng Cộng sản. Kể từ năm 1917, đây là lần đầu tiên người ta có quyền bầu những người lãnh đạo. Nhiều người không phải đảng viên, thậm chí chống cộng đã được bầu, trong đó có Boris Yeltsin, một người cộng sản phi chính thống lúc đó đang giữ chức bí thư đảng uỷ thành phố Moskva, người đã giành được tín nhiệm thông qua cuộc đấu tranh chống đặc quyền đặc lợi của tầng lớp nomenclatura. Sau đó, các sự kiện diễn ra nhanh đến chóng mặt. Năm 1989, Bức tường Berlin, biểu tượng của sự chia rẽ tưởng như không bao giờ vượt qua được giữa Đông và Tây, sụp đổ vì Moskva từ chối đưa quân giúp đỡ chính phủ Đông Đức. Các nước chư hầu lần lượt tuyên bố độc lập với Moskva. Mọi cố gắng nhằm giữ các nước cộng hoà trong liên bang cũng đều trở thành vô ích. Tháng 12 năm 1991, sau cuộc nổi loạn bất thành của những người cộng sản cứng rắn nhằm ngăn chặn sự tan rã Liên Xô, Yeltsin, trước đó được bầu làm Tổng thống Nga, tuyên bố Nga là nước cộng hoà độc lập. Việc tan rã Liên Xô trở thành sự kiện đã rồi. Một trong những nghị định đầu tiên của Yeltsin là đặt Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật. Chính phủ mới cho áp dụng chế độ dân chủ và thị trường tự do. Tầng lớp nomenclatura, tức là những kẻ có thể đảo ngược được tiến trình lịch sử, đã bị mua chuộc bằng cách tạo cho họ điều kiện chiếm đoạt phần lớn số tài sản nhà nước mà họ quản lý.
Các sự kiện diễn ra với tốc độ chóng mặt như thế chứng tỏ sự yếu kém của cái đế chế mà có thời đã tưởng là không thể nào suy suyển được, sự tan rã của nó làm người ta nhớ lại sự cáo chung của vương quốc trước đó ba phần tư thế kỷ. Trong cả hai trường hợp, sự cứng rắn của chế độ và không có những mối liên kết chặt chẽ với quần chúng đã đưa các chế độ đó vào hoàn cảnh tứ cố vô thân trong những giờ phút nguy nan.
Chủ nghĩa cộng sản ở Nga là một thể chế
đã lỗi thời. Nó đòi hỏi người ta quá nhiều trong khi lại cho người ta quá ít,
trong khi chỉ cho quần chúng những niềm vui nho nhỏ thì nó lại tước đi của
người ta tất cả mọi hy vọng có một cuộc sống tốt đẹp hơn trong tương lai. Đến
khoảng những năm 1980, ngay cả tầng lớp ăn trên ngồi trốc Xô Viết cũng đã không
còn tin vào lý tưởng cộng sản nữa, họ đã nhận ra rằng phần còn lại của thế giới
xung quanh đã vượt qua họ về mọi phương diện, trừ chi phí quốc phòng và nhu cầu
về rượu. Mất niềm tin, tầng lớp chóp bu đã phản ứng một cách yếu ớt và trong
khi giang tay thu vén cho mình phần lớn tài sản quốc gia, họ bình thản chấp
nhận sự sụp đổ của chế độ.
IV.
Chủ nghĩa cộng sản ở phương Tây
Phương Tây không quan tâm nhiều
đến cuộc Cách mạng tháng Ba ở Nga: Neue Zürcher Zeitung, tờ báo hàng đầu ở Thuỵ Sĩ, Lenin biết tin về các vụ
lộn xộn ở trong nước qua tờ báo này, chỉ đưa thông tin về sự kiện nói trên trên
cột thứ hai, như một tin không mấy quan trọng. Châu Âu lúc đó đang trải qua một
cuộc chiến tranh đẫm máu, chẳng có thì giờ để ý đến các sự kiện ở nước Nga xa
xôi; sau những thất bại trong năm 1915, Nga đã không còn được coi là một bên
tham chiến nữa. Các phản ứng yếu ớt sau đó có thể được coi là khích lệ vì người
ta hy vọng rằng chính phủ lâm thời, được dân chúng ủng hộ trong giai đoạn đầu,
sẽ khởi động lại các hoạt động quân sự. Mỹ, quốc gia luôn luôn chào đón các
thành viên mới trong cộng đồng các quốc gia dân chủ, là nước đầu tiên công nhận
và thiết lập quan hệ ngoại giao với chính phủ mới.
Thái độ ủng hộ đối với cách mạng ở Nga không hề thay đổi ngay cả sau khi chính phủ lâm thời đã bị những người Bolshevik lật đổ. Biết rõ những liên hệ của Lenin với đế chế Đức, các nước đồng minh tỏ vẻ lo ngại khi phải liên hệ với ông ta và chế độ của ông ta, nhưng các nước này quan tâm đến việc mở lại mặt trận phía Đông đến nỗi họ sẵn sàng nịnh bợ bất kì chính phủ Nga nào, kể cả chính phủ Bolshevik. Thái độ ve vãn như thế chỉ chấm dứt vào tháng 3 năm 1918, sau khi Nga kí với Đức hiệp định hoà bình ở Brest-Litovsk, đưa Nga ra khỏi cuộc chiến. Các nước đồng minh bắt đầu giúp đỡ quân đội Bạch vệ, lực lượng vũ trang được thành lập ở miền Nam Nga và Siberia với mục tiêu là lật đổ chế độ Bolshevik thân Đức và tái lập các hoạt động quân sự chống lại các nước thuộc Phe Trục. Sự giúp đỡ chủ yếu là về vật chất. Được Lenin đồng ý, đồng minh đã gửi một số đơn vị đến thành phố Murmansk và Arkhangelsk để những thành phố này không rơi vào tay Đức. Quân Mỹ đổ bộ xuống vùng Đông Siberia để ngăn chặn sự chiếm đóng khu vực rộng lớn này của quân Nhật. Trừ một số vụ đụng độ lẻ tẻ, cả quân Anh lẫn quân Mỹ đều không tham gia vào các hành động quân sự giữa Hồng quân và Bạch vệ. Huyền thoại về sự can thiệp sâu rộng của các nước tư bản vào cuộc nội chiến là do Stalin bịa ra, như một phần của chiến dịch tuyên truyền chống lại phương Tây.
Thế chiến I kết thúc tháng 11 năm 1918, các nước đồng minh không còn lý do can thiệp vào công việc của Nga nữa. Nếu người Anh còn tiếp tục giúp đỡ Bạch vệ thì đấy chủ yếu là do yêu cầu của Winston Churchill, lúc đó là Tư lệnh Hải quân, ông là một trong số ít người nhận thức được mối nguy hiểm mà chủ nghĩa cộng sản sẽ gây ra cho thế giới; trong những năm 1930 ông cũng nhận thức chính xác như thế đối với những hiểm nguy mà Quốc xã sẽ gây ra trong tương lai. Ông đã có ý tưởng làm một cuộc thập tự chinh quốc tế nhằm loại những người cộng sản ra khỏi quyền lực. Nhưng châu Âu vừa bị tan tác vì chiến tranh, ý tưởng này đã bị bỏ qua. Thủ tướng Anh, David Lloyd-George, một người theo trường phái tự do đang cần sự giúp đỡ của những người bảo thủ đã vào hùa với Churchill, nhưng chính ông ta lại sẵn sàng đàm phán với Lenin, người mà ông ta cho là ít có khả năng đe đoạ các quyền lợi của Anh hơn là sự phục hồi chế độ Sa hoàng. Cuối năm 1919, khi Bạch vệ đã sắp thất bại thì Lloyd-George cũng hạ lệnh chấm dứt mọi sự trợ giúp đối với lực lượng này. Churchill buộc phải chấp nhận, nhưng ông đã cảnh báo về mối nguy hiểm của liên minh giữa Đức với nước Nga Xô Viết và Nhật Bản như sau:
Chúng ta có thể bỏ mặc nước Nga, nhưng Đức và Nhật sẽ không làm như thế. Các chính phủ mới mà chúng ta hy vọng sẽ xuất hiện ở Đông Âu sẽ bị đè bẹp khi họ nằm lọt giữa chế độ Bolshevik ở Nga và nước Đức… Sau năm năm nữa, thậm chí còn sớm hơn, sẽ thấy rõ là chúng ta đã bị tước hết các thành quả của chiến thắng.
Năm 1921, nước Anh, một nước vẫn có ý kiến quyết định trong các vấn đề thương mại quốc tế, bắt đầu đàm phán với Nga và chẳng bao lâu sau đã quyết định công nhận nước này về mặt ngoại giao. Phần còn lại của châu Âu lập tức theo gương Anh. Hợp chúng quốc Hoa Kỳ là siêu cường duy nhất không chịu công nhận cái chính phủ coi mục đích của mình là tiêu diệt hệ thống các quốc gia trên thế giới; mãi đến năm 1933 Hoa Kỳ mới chính thức công nhận Liên Xô.
Chính phủ Liên Xô xây dựng quan hệ quốc tế của mình trên hai bình diện hoàn toàn khác nhau: ngoại giao và hoạt động phá hoại. Trong những năm 1920 các “đại diện chính trị” của Liên Xô đã thu hồi tất cả các sứ quán của chính phủ Sa hoàng tại thủ đô của các nước “tư bản”, ở đây họ cũng làm việc với một thái độ đúng đắn như các nhà ngoại giao của bất kì nước nào khác. Nhưng hoạt động chính của họ lại được che giấu kĩ: trong tất cả các sứ quán đều có gián điệp của Quốc tế Cộng sản với nhiệm vụ lật đổ các chính phủ mà Liên Xô đặt đại sứ quán. Nhưng khi một nước nào đó phản đối thì bao giờ Moskva cũng điềm tĩnh tuyên bố rằng đảng cộng sản và Quốc tế là các tổ chức riêng, họ không chịu trách nhiệm về hoạt động của các tổ chức này.
Nếu các nước đồng minh ủng hộ các phong trào chống cộng ở Nga một cách miễn cưỡng và đầy ngờ vực thì Moskva lại giúp đỡ các lực lượng bài dân chủ ở phương Tây với tất cả các phương tiện mà họ có.
Quốc tế III hay là Comintern, Trotsky gọi là “Tổng hành dinh của cách mạng thế giới”, được thành lập ở Moskva tháng 3 năm 1919, nhưng chỉ chính thức hình thành vào mùa hè năm 1920, nghĩa là sau khi khi nội chiến kết thúc và cộng sản có điều kiện quan tâm đến các vấn đề quốc tế. Tinh thần của họ lúc đó rất cao: trên đường tiến đến Warsaw, Hồng quân gần như không gặp bất kì sự kháng cụ nào, có cảm giác như họ sẽ thẳng tiến tới Đức và Anh, những nước mà theo lời Lenin là điều kiện cách mạng đã chín muồi. Nghị quyết hội nghị II Quốc tế Cộng sản (1920) bắt đầu bằng lời khẳng định rằng “giai cấp vô sản đứng trước trận chiến đấu quyết định. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại của những cuộc nội chiến. Giờ quyết định đã điểm”[49]. Trong bức điện mật gửi Stalin, lúc đó đang ở mặt trận Ba Lan, Lenin viết:
Tình hình ở Quốc tế là rất tốt. Zinoviev, Bukharin và tôi cho rằng cần phải ủng hộ ngay cuộc cách mạng ở Italy. Ý kiến cá nhân của tôi là phải thành lập chính quyền Xô Viết ở Hung, mà có thể cả ở Tiệp và Rumania nữa. Cần phải suy nghĩ kĩ. Hãy thông báo cho biết kết luận cụ thể của đồng chí. Các đồng chí cộng sản Đức cho rằng để chống lại chúng ta, Đức có thể động viên một đội quân lên đến ba trăm ngàn vô sản lưu manh*”[50]
* Vô
sản lưu manh, theo ngôn ngữ của những người xã hội chủ nghĩa, là những người
lao động sẵn sàng bán mình cho “bọn tư sản”.
Câu cuối cùng chứng tỏ rằng
Moskva dự định sau khi chiếm Ba Lan thì sẽ đưa quân sang Đức để giúp những
người cộng sản Đức giành chính quyền.
Các sự kiện sau đó chứng tỏ rằng Lenin đã đánh giá sai tình hình châu Âu. Kinh nghiệm tháng 10 và tháng 11 năm 1917, khi Lenin phải thuyết phục những người giao động và thực hiện đảo chính, đã cho ông bài học rằng thận trọng cũng đồng nghĩa với hèn nhát; bây giờ uy tín của ông đã cao đến mức có thể lôi kéo được cả những người có thái độ hoài nghi nhất.
Các nhà cách mạng nhiều nước châu Âu và cả các châu lục khác đã tham dự hội nghị Quốc tế Cộng sản năm 1920, họ sẵn sàng đoạn tuyệt với những người xã hội chủ nghĩa ôn hoà và chấp nhận sự lãnh đạo của những người Bolshevik Nga, những người Marxist duy nhất thiết lập được nhà nước xã hội chủ nghĩa. Lenin không hề che giấu việc Comintern chỉ là một chi nhánh của Đảng Cộng sản Nga, được tổ chức theo hình mẫu và thực hiện các chỉ thị của đảng này. Hội nghị năm 1920 yêu cầu các đại biểu của nó phải buộc các đảng viên “tuân thủ kỉ luật sắt của nhà binh” và thể hiện “niềm tin tuyệt đối” vào trung ương, nghĩa là phải tin tưởng tuyệt đối vào Moskva. Nhiệm vụ trước mắt của họ là thâm nhập vào các tổ chức quần chúng ở nước mình và nắm lấy quyền lãnh đạo các tổ chức ấy. Để làm như thế với các tổ chức công đoàn, những người cộng sản, theo lời Lenin, “trong trường hợp cần thiết phải thực hiện các mánh khoé, khôn khéo, các thủ đoạn phi pháp, giữ im lặng, che giấu sự thật”[51]. Mục đích cuối cùng của các đảng thành viên là giúp đỡ Comintern tiến hành “khởi nghĩa vũ trang” chống lại các chính phủ tư sản hiện hữu và thay chúng bằng các chính phủ cộng sản. Kết quả cuối cùng sẽ là thành lập nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết toàn cầu.
Hội nghị đã thông qua một danh mục gồm hai mươi mốt điều kiện để được kết nạp vào Comintern. Sau đây là những điều kiện quan trọng nhất:
2. Bất cứ tổ chức nào muốn được là thành viên Comintern đều phải… khai trừ những người theo “phái cải cách và những người ôn hòa”;
3. Các đảng viên cộng sản có
trách nhiệm thành lập ở từng nước châu Âu và châu Mỹ “bộ máy bí mật song hành”,
để trong thời khắc quyết định thì nổi lên và tiến hành cách mạng;
14. Bất cứ đảng nào muốn được
là thành viên của Quốc tế Cộng sản đều phải giúp đỡ một cách vô điều kiện các
nước cộng hoà Xô Viết trong cuộc đấu tranh chống lại các lực lượng phản cách
mạng;
21. Các đảng viên từ chối trách
nhiệm và các luận điểm do Quốc tế Cộng sản đặt ra đều phải bị khai trừ khỏi
đảng”[52].
Vì tất cả những gì Moskva không đồng ý đều bị coi là “phản cách mạng”, nên có thể coi điều 14 là nguyên tắc, theo đó, những người cộng sản tất cả các nước đều phải đặt quyền lợi và ước vọng của Liên Xô lên trên quyền lợi của chính đất nước họ.
Được sự động viên nhiệt tình của Lenin, Comintern đã tiến hành hoạt động nhằm chia rẽ các phong trào xã hội chủ nghĩa trên lục địa châu Âu và thành lập các đảng cộng sản do nó bí mật tài trợ và lãnh đạo. Về lĩnh vực này, Comintern đã giành được thắng lợi. Nhưng nếu nói đến mục đích cuối cùng thì Comintern đã thất bại thảm hại. Thứ nhất, lời tuyên bố của nó, nòi rằng các nước tư bản đang đứng trước bờ vực của nội chiến tỏ ra là hoàn toàn sai, chiến tranh không xảy ra ở bất cứ nước phương Tây nào, những nguy cơ như thế, nếu có, đều được khắc phục một cách nhanh chóng. Thứ hai, tuy cộng sản đã có ảnh hưởng to lớn trong các tổ chức công đoàn, nhất là ở các nước Thiên chúa giáo (như Tây Ban Nha, Italy và Pháp) nhưng họ đã không thể giành được đa số ghế trong quốc hội. Kết quả, cộng sản trở thành lực lượng đối lập thường trực ở chính những nơi họ đã giành được ảnh hưởng lớn, mà đây lại là lực lượng đối lập bị cách ly với xã hội và vì vậy mà cũng không có sức mạnh. Vì các đảng này hoạt động theo các chỉ thị cứng nhắc từ Moskva và coi những người dân chủ xã hội là kẻ thù chính nên họ chẳng những đã làm suy yếu không chỉ phong trào xã hội chủ nghĩa mà còn làm suy yếu cả phong trào cộng sản, và bằng cách đó đã tạo điều kiện cho các lực lượng cánh hữu giành được quyền lực, cộng sản trở thành những nạn nhân đầu tiên của các chế độ đó.
Rõ nhất là ở nước Đức. Nước này, cuối những năm 1920, có ba đảng không đội trời chung với nhau: Dân chủ Xã hội, Cộng sản và Quốc xã. Moskva luôn tỏ ra có thiện cảm với Quốc xã và coi những người Dân chủ Xã hội mà họ gọi là “phát xít xã hội” là kẻ thù chính của mình. Moskva cấm Đảng Cộng sản Đức hợp tác với Đảng Dân chủ Xã hội. Trong cuộc bầu cử quốc hội tháng 11 năm 1932 Đảng Dân chủ Xã hội nhận được 7 triệu phiếu, Cộng sản được 6 triệu phiếu, tổng cộng hai đảng này hơn Quốc xã một triệu rưỡi phiếu. Họ chiếm được 221 ghế trong quốc hội, trong khi Quốc xã chỉ có 196 ghế. Nếu liên kết với nhau, hai đảng cánh tả này đã đánh bại Hitler và ông ta không thể nắm được ghế thủ tướng. Như vậy là, sự thoả thuận ngầm giữa Cộng sản và Quốc xã đã phá tan nền dân chủ ở Đức và đưa Hitler lên cầm quyền.
_____________________
Trong những năm 1930, khi Liên Xô trải qua những thử thách nguy hiểm nhất tức là quá trình tập thể hoá và đại khủng bố thì hình ảnh của nó ở phương Tây lại được cải thiện, đấy là do hai sự kiện đã làm phương Tây suy yếu và mất niềm tin vào chính mình: suy thoái kinh tế và sự trỗi dậy của chủ nghĩa Quốc xã. Hiện tượng người lao động bị thất nghiệp hàng loạt làm tê liệt các nước dân chủ công nghiệp hoá, dường như đã khẳng định lời tiên đoán của Marx rằng, chủ nghĩa tư bản chắc chắn sẽ lâm vào khủng hoảng sâu sắc và sẽ đưa nó đến chỗ diệt vong. Sự tương phải giữa nước Nga cộng sản với một chương trình xây dựng kinh tế hoành tráng, mọi người lao động đều có việc làm và phương Tây với nền công nghiệp đình đốn làm cho các quan sát viên có tư tưởng tự do tin rằng số phận của chủ nghĩa tư bản đã được quyết định. Chủ nghĩa cộng sản cũng giành được cảm tình ở nước ngoài vì nó ủng hộ các chính sách như quyền thành lập công đoàn của công nhân và yêu cầu bình đẳng của các dân tộc thiểu số (thí dụ người da đen ở Mỹ), là những yêu cầu bị cấm đoán hoặc đàn áp nặng nề ở chính Liên Xô. Việc Liên Xô ủng hộ những người chống phát xít trong cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha cũng có hiệu quả tương tự.
Dĩ nhiên là đa số các đảng viên cộng sản châu Âu và những người có cảm tình với họ có biết những mặt tiêu cực của chế độ cộng sản, nhưng họ lại tìm cách biện hộ cho nó bằng đủ những cách khác nhau: hoàn cảnh bên ngoài, tàn dư của chế độ Sa hoàng, sự thù địch của “chủ nghĩa tư bản” phương Tây hoặc coi đấy là những hiệu ứng phụ không thể tránh được của những nỗ lực chưa từng có nhằm xây dựng một xã hội hoàn toàn mới trong lịch sử. Nhà văn Arthur Koestler, gia nhập Đảng Cộng sản Đức năm 1932 và đã sống một năm ở Liên Xô (đoạn tuyệt với cộng sản vào năm 1938) giải thích vì sao các đảng viên và những người có cảm tình với họ lại có thể nhắm mắt trước nạn khủng bố và nạn đói mà chế độ Xôviết đã cố tình tạo ra với chính nhân dân nước mình như sau:
Tôi đã học được cách đánh giá tất cả mọi việc. Tôi coi tất cả những gì gây sốc đều là ‘tàn dư của quá khứ’, còn tất cả những gì tôi thích đều là ‘mầm mống của tương lai’. Khi đã đưa vào trong óc não bộ máy phân loại như thế thì một người châu Âu, vào năm 1932, có thể sống ở Liên Xô và vẫn tiếp tục là người cộng sản được[53].
Koestler so sánh việc vào Đảng với việc cải đạo như sau:
Nói rằng anh “đã nhìn thấy ánh sáng” thì vẫn chưa mô tả đầy đủ cái sự kinh ngạc của tâm hồn mà chỉ những kẻ cải đạo mới hình dung nổi mà thôi… Dường như có một luồng ánh sáng mới tuôn trào từ tất cả các hướng và thâm nhập vào đầu óc, toàn bộ thế giới quan đã có một hình hài cố định, như khi đang giải một bài toán khó, ta bỗng thấy tất cả các phần rời rạc bỗng liên kết liền lạc với nhau một cách thật tài tình. Bây giờ mọi câu hỏi đều có đáp án, tất cả những mối ngờ vực và xung đột đều được bỏ lại phía sau… Bây giờ không có gì có thể làm rối trí thế giới nội tâm và sự bình thản của kẻ vừa cải đạo - ngoại trừ nỗi sợ hãi thỉnh thoảng lại xuất hiện là hắn có thể đánh mất niềm tin và như thế cũng có nghĩa là đánh mất mục đích của cuộc đời và lại rơi vào đêm đen vây bọc xung quanh[54].
Ở Bắc Âu và Hoa Kỳ, nơi chủ nghĩa xã hội cũng như chủ nghĩa cộng sản gần như không có cảm tình viên, Moskva lại tìm được những người ủng hộ trong những người theo chủ nghĩa tự do và “những người bạn đường”, phần lớn là những người trí thức, chia sẻ mục tiêu nhưng không ra nhập đảng. Đây là những người có ý nghĩa rất quan trọng đối với cộng sản, vì, khác với các đảng viên, những người luôn bị nghi ngờ là phát ngôn theo mệnh lệnh, những người này chỉ nói lên chính kiến của mình. Lincoln Steffence là ví dụ về cách tư duy của những người bạn đường nói trên, năm 1919 ông này đã nói một câu nổi tiếng và thường được trích dẫn về nước Nga Xô Viết như sau: “Tôi đã nhìn thấy tương lai và nó đang hoạt động”. Hoá ra ông ta viết câu ấy trên đoàn tầu đi từ Thuỵ Điển đến Moskva, trước khi đặt chân đến đất Liên Xô. Sau này, khi đến Karlsbad, một khu nghỉ mát nổi tiếng của Tiệp, ông ta lại viết cho một người bạn như sau: “Tôi là người yêu nước Nga, tương lai ở đó. Nước Nga sẽ thắng và sẽ cứu thế giới. Tôi tin như thế. Nhưng sống ở đó thì tôi không thích”.
Hai ông bà Sidney và Beatrice Webb, là những người xã hội chủ nghĩa đáng kính người Anh, khởi đầu sự nghiệp khoa học và chính trị với phong trào Fabian, có thể được coi là những “người bạn đường” đặc trưng. Ban đầu, hai ông bà Webb có thái độ thù địch đối với chủ nghĩa cộng sản, nhưng họ đã hoàn toàn thay đổi quan điểm vào năm 1932. Họ đã đến thăm Liên Xô trong ba tuần lễ và được đón tiếp một cách cực kì trọng thị. Họ đã rất phấn chấn bởi những điều mắt thấy tai nghe, và theo lời họ thì họ đã “mê ngay nước Nga”. Năm 1935, sau khi nghiên cứu các tài liệu do người Nga cung cấp, họ đã cho xuất bản tác phẩm: Soviet Communism, a New Civilisation? (Chủ nghĩa cộng sản Xô Viết, một nền văn minh mới?) (lần xuất bản năm 1941 dấu chấm hỏi đã bị bỏ) gồm hai tập. Xử lý các tài liệu của Liên Xô như thể đang xử lý các tài liệu chính thức của Anh, thậm chí còn đề nghị sứ quán Liên Xô kiểm tra “những sai sót có thể” và bằng cách đó đã tạo ra một bản báo cáo chẳng ăn nhập gì với thực tế. Họ hoàn toàn không hiểu được ý nghĩa tuyên truyền của các tài liệu được người ta cung cấp. Chỉ xin đơn cử: trên cơ sở các tài liệu của Liên Xô, họ phủ nhận việc Stalin là một nhà độc tài; hơn thế nữa, họ khẳng định rằng ông ta tôn trọng quyền lãnh đạo tập thể, theo họ thì quyền lực của Stalin còn ít hơn quyền lực của Tổng thống Mỹ hay Thủ tướng Anh. Họ phớt lờ khủng bố, nạn đói và kiểm duyệt hoặc coi đây là những hiện tượng cũng thường xảy ra trong các nước tư bản chủ nghĩa. Thế mà Bernard Shaw, một chiến hữu trong phong trào Fabian, lại lớn tiếng chúc mừng tác phẩm đồ sộ, dày đến 1.200 trang này và coi đây là “sự phân tích thực sự khoa học đầu tiên về nhà nước Liên Xô”.
Năm 1942, Beatrice Webb cho xuất bản một tác phẩm ngắn hơn, nhan đề: The Truth About Soviet Rusia (Sự thật về nước Nga Xôviết), trong đó, dựa vào hiến pháp năm 1936, bà đã gọi Liên Xô là nhà nước “dung hợp nhất và bình đẳng nhất trên thế giới”.
Hai ông bà Webb là những người rất thông minh lại quen làm việc một cách khoa học, không thể không nhận ra sự phiến diện trong các suy luận của mình về chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô. Vì sao họ không tạo được một bức tranh khách quan hơn? Có lẽ đấy là do nhu cầu tâm lý: họ đã có trước mắt một thế giới hoàn toàn mới trong khi nền văn minh phương Tây lại đang tiến gần đến sự sụp đổ. Để khắc hoạ cái thế giới mới đó, họ đã khởi động “bộ máy phân loại” mà Koestler nói tới bên trên, và cỗ máy này đã giúp họ loại bỏ tất cả các thông tin trái chiều.
Dĩ nhiên là, không phải tất cả các trí thức phương Tây đều ngả theo xu hướng ấy. Điều thú vị là không phải các nhà khoa học, dù là khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội, mà là các nhà văn, nhà thơ và các nhà triết học đã nhìn rõ bức tranh phía sau cái mặt tiền loè loẹt đó của chủ nghĩa cộng sản. Không lệ thuộc vào các khái niệm trừu tượng mà các nhà khoa học vẫn dùng để giải thích hiện thực, các nhà văn, nhà thơ và triết gia đã nhìn thấy hiện thực như chính nó vốn là.
Bertrand Russel, một triết gia lỗi lạc người Anh, cùng đoàn đại biểu Đảng Lao động Anh đến thăm Liên Xô vào năm 1920. Ông chờ đợi gặp gỡ với cuộc thí nghiệm Xô Viết với những tình cảm chân thành nhất: số phận của chủ nghĩa tư bản, theo quan niệm của ông, đã được định đoạt, trong khi “chủ nghĩa cộng sản lại cần cho thế giới… Chủ nghĩa Bolshevik xứng đáng được cả loài người tiến bộ bầy tỏ lòng biết ơn và cảm phục”. Đấy là những điều mà sau này ông đã viết trong cuốn: The Practice and Theory of Bolshevism (Lý thuyết và thực tiễn của chủ nghĩa Bolshevik). Nhưng đấy là những tình cảm mà “lý thuyết” gợi lên trong ông. Còn “thực tiễn” mà đôi mắt tinh tường của ông đã nhìn ra được thì lại tạo ra đầy hoài nghi: ông cay đắng nhận ra chủ nghĩa cực đoan pha màu sắc tôn giáo, thái độ bất dung và tính chất giáo điều ở những người Bolshevik. Ông nghi ngờ khả năng xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở một nước nghèo khổ như nước Nga, nơi đa phần dân chúng có thái độ thù địch với chủ nghĩa cộng sản.
André Gide, nhà văn Pháp, một người bạn đường điển hình khác, cũng nói đến “sự khâm phục” và “tình yêu” đối với Liên Xô. Đối với ông, Liên Xô còn “hơn là vùng đất hứa”; đây là một Không tưởng “đang trong quá trình chuyển hoá thành hiện thực”. Ông đến thăm Liên Xô vào mùa hè năm 1936, trùng thời điểm diễn ra “phiên toà” ô nhục xét xử Kameniev và Zinoviev. Sau khi về Pháp, ông cho xuất bản một cuốn sách mỏng, mang tên: Return from U.S.S.R. (Trở về từ Liên Xô). Trong tác phẩm rối rắm mà chẳng rút ra được một kết luận rõ ràng nào, với những lời ngợi ca và phê bình đối chọi nhau chan chát. Gide biện hộ cho quyền phê phán Liên Xô là “xuất phát từ sự thán phục của tôi”. Khi ở Liên Xô, ông viết, “tôi đã khóc vì mừng vui, trìu mến và yêu thương”. Nhưng dù sao…
Gide công nhận rằng ông thấy buồn vì mùa hè ở Moskva tất cả mọi người đều mặc áo trắng và trông ai cũng như ai. Vừa ra khỏi khách sạn Metropol, nơi ông được bố trí ở một căn hộ sáu buồng, ông đã thấy rất buồn khi chứng kiến cảnh người dân xếp hàng trước khi cửa hàng mở cửa để mua những món hàng “kinh tởm”. Quần chúng thì ù lì, các văn nghệ sĩ thì thụ động, kém hiểu biết thế giới bên ngoài và suy đồi, đấy là những phát hiện làm ông vô cùng thất vọng. Sự xa hoa dành cho những người khách qúy như ông tương phản hoàn toàn với cảnh nghèo đói xung quanh cũng làm ông vô cùng bất mãn.
Mặc dù Gide khẳng định tình yêu của mình đối với Liên Xô, ông đã ngay lập tức trở thành đối tượng của những lời phê phán đầy giận dữ; đầu tiên ông bị phê là “hời hợt”, “kết luận vội vàng”, sau này, khi được Moskva bật đèn xanh, người ta liền gọi ông là “Gudas”, là gián điệp phát xít. Ông đã phản ứng bằng cuốn sách nhan đề: Afterthoughts on the U.S.S.R.(Những suy nghĩ muộn màng về Liên Xô), trong đó, ông công khai phê phán những người cộng sản vì họ đã biến nước Nga thành: đất nước “phản bội lại tất cả những hy vọng của chúng ta”.
Những người xã hội chủ nghĩa châu Âu, bị cộng sản phê phán một cách không thương tiếc và bị gọi là “xã hội-phát xít”, bất đắc dĩ lắm mới đáp trả, vì, sợ rằng làm thế chỉ có lợi cho lực lượng phản cách mạng. Quốc tế II, tồn tại lay lắt giữa hai cuộc thế chiến, không quan tâm đến những người Nga lưu vong khi họ kêu gọi phải kịch liệt lên án việc đàn áp các chiến hữu xã hội chủ nghĩa của họ ở Liên Xô. Hội nghị Quốc tế II họp năm 1923 tuyên bố rằng bất kì sự can thiệp bên ngoài nào vào Liên Xô đều nhằm:
Không phải là để sửa chữa sai lầm trong giai đoạn hiện nay của Cách mạng Nga, mà nhằm đập tan chính cuộc Cách mạng này. Nó không đưa đến việc thiết lập một nền dân chủ đích thực mà chỉ nhằm thiết lập chính phủ của những tên phản động khát máu và sẽ là công cụ bóc lột nhân dân Nga của chủ nghĩa đế quốc phương Tây.
Người ta có thể nghĩ rằng các
doanh nhân phương Tây sẽ là những người chống cộng quyết liệt nhất, nhưng trên
thực tế, đa phần giữ thái độ trung lập hoặc có cảm tình với chính phủ Liên Xô.
Trước hết, họ cho rằng tư tưởng cộng sản chỉ là món ăn tinh thần, là thuốc
phiện dành cho quần chúng nhằm che đậy các nhu cầu vật chất bình thường của
tầng lớp ăn trên ngồi trốc mà thôi. Ngay cả nếu những người cộng sản tin vào
những điều họ tuyên truyền thì kinh nghiệm cũng sẽ nhanh chóng làm cho họ tỉnh
ngộ. Năm 1920, Lloyd-George đã nói ý đó nhằm biện hộ cho những cuộc đàm phán về
thương mại với Moskva như sau:
Bằng vũ lực chúng ta đã không buộc được nước Nga quay về với cách tư duy đúng đắn. Tôi tin rằng, thông qua buôn bán, chúng ta có thể làm được điều đó và cứu được nó. Thương mại, tự bản thân nó, sẽ tạo ra hiệu ứng làm người ta tỉnh ngộ. Các phép tính tiền cộng trừ đơn giản sẽ nhanh chóng kết liễu những lý thuyết quái đản[55].
Theo Henry Ford, nổi tiếng là một người phản động và bài Do Thái, người Nga càng công nghiệp hoá thì càng có thái độ tốt vì “các nguyên tắc cơ học và nguyên tắc đạo đức có chung một nguồn gốc”.
Quyền lợi thương mại ích kỉ đã làm cho người ta cố tình tạo ra sự mập mờ giữa ước muốn và hiện thực. Cộng đồng thương mại quốc tế coi nước Nga Xô Viết là một trong các thị trường tiềm năng to lớn nhất thế giới và khi Moskva bắt đầu đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá thì các doanh nhân ngoại quốc, vốn chịu nhiều thiệt hại vì vụ đại suy thoái, đã lao vào thực hiện các đơn hàng cho các kế hoạch năm năm của Stalin. Một số nhà máy lớn nhất của Liên Xô trong những năm 1930 được xây dựng với sự trợ giúp kĩ thuật và quản lý của các công ty phương Tây. Chính Ford đã xây dựng nhà máy ô tô đầu tiên ở Nizhnii Novgorod (Gorky), các công ty phương Tây đã xây dựng những nhà máy luyện kim cực lớn ở thành phố Magnitogorsk trong vùng Ural.
____________
Đảng Quốc xã chiếm được quyền lực trên cơ sở cương lĩnh mà trụ cột của nó là chủ nghĩa chống cộng và bài Do Thái. Khác với Liên Xô, nước này luôn luôn che giấu sự dã man của mình đằng sau bức tường kiểm duyệt và tuyên bố tuân thủ các lý tưởng nhân đạo và dân chủ mà chính họ đã cố tình phá hoại, Quốc xã hoạt động giữa lòng châu Âu, họ không thể và cũng không muốn che giấu bản chất của những kẻ dã man cao thượng của mình. Hành động như vậy là tự chuốc lấy thái độ thù địch của những người lãnh đạo dư luận xã hội ở phương Tây, và vì Liên Xô – ít nhất là trên lời nói – có thái độ chống Quốc xã, còn các chính phủ phương Tây thì lại tìm cách trấn an nó, trong trường hợp như thế, rõ ràng là Moskva đã thu được rất nhiều lợi ích. Những gián điệp lợi hại nhất của Liên Xô trước và trong Thế chiến II chính là những người bị thái độ chống phát xít của Moskva mua chuộc.
Quan hệ giữa chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa Cộng sản rất phức tạp, dù bề ngoài đây là hai phong trào không thể đội trời chung với nhau. Hai phong trào này không chỉ chống đối mà còn hợp tác với nhau.
Trước hết, họ có một kẻ thù chung, đấy là các chế độ dân chủ tự do, cam kết gắn bó với các quyền công dân, tư hữu và hoà bình. Cả hai chế độ toàn trị đều coi con người là vật liệu để xây dựng một trật tự xã hội mới và hình thành nên “con người mới”. Khác với Liên Xô, Đức quốc xã chấp nhận chế độ tư hữu, nhưng không coi đấy là quyền bất khả xâm phạm mà có thể bãi bỏ bất cứ lúc nào và can thiệp một cách sâu rộng theo hướng có lợi cho nhà nước. Cả hai chế độ đều coi thường tình yêu hoà bình: Lenin coi “khẩu hiệu hoà bình” là “khẩu hiệu của các cha cố và những kẻ nhỏ nhen, ti tiện khác”. Sau khi giành được chính quyền, Lenin luôn luôn bác bỏ khả năng chung sống giữ chủ nghĩa cộng sản và “chủ nghĩa đế quốc”: một trong hai hệ thống phải chiến thắng, còn khi điều đó chưa diễn ra thì “những cuộc đụng độ kinh hoàng giữa nước cộng hoà Xô Viết và các nước tư bản là điều không thể tránh khỏi”[56]. Những lời ca ngợi chế độ quân phiệt của của Hitler và việc xây dựng các lực lượng vũ trang Đức nhằm chuẩn bị chiến tranh cũng rõ ràng và công khai, không cần phải đưa ra dẫn chứng ở đây.
Nhưng sự tương đồng còn nhiều hơn thế. Hitler thu được lợi to: ông ta dùng Liên Xô để doạ dẫm các cử tri Đức, song lại dùng nước này như một hình mẫu trong việc xây dựng chế độ độc tài của chính mình. Ông ta đã lợi dụng nỗi sợ hãi của cử tri trước khả năng cướp chính quyền của những người cộng sản trong những cuộc bầu cử mang tính quyết định vào những năm 1932-1933. Sau khi vu cho những người cộng sản đốt toà nhà quốc hội, ông ta đã đòi quốc hội phải trao cho mình những quyền đặc biệt. Nghị định về việc bảo vệ nhà nước và nhân dân, có hiệu lực cho đến khi Đế chế III sụp đổ vào năm 1945, đã đặt cơ sở pháp lý cho chế độ độc tài của Hitler, hạn chế tự do cá nhân, tự do báo chí, tự do hội họp và lập hội cũng như hạn chế quyền tư hữu và đặt cơ sở pháp lí cho việc tịch thu tài sản bất cứ lúc nào. Đây là những biện pháp chưa từng có tiền lệ ở phương Tây, chính thức trao cho lãnh tụ quyền lực vô giới hạn mà trên thực tế nhà cầm quyền ở Liên Xô đã sử dụng.
Hitler tìm thấy ở Liên Xô mô hình nhà nước độc đảng để thực thi quyền lực mà nghị định tháng 3 năm 1933 đã trao cho ông ta. Các nhà nước như thế được gọi là “toàn trị” - thuật ngữ do nhà độc tài Benito Mussolini, đưa ra - để mô tả chế độ phát xít của mình. Mục đích của chế độ toàn trị là xoá bỏ hoàn toàn sự phân biệt giữa nhà nước và công dân (xã hội), bằng cách xâm nhập và kiểm soát tất cả các mặt của đời sống xã hội. Nó chỉ có thể đạt được mục đích như thế nếu đảng cầm quyền nắm độc quyền về chính trị và dựa vào cảnh sát mật với quyền lực không giới hạn, để quản lý. Trong nhà nước như thế, luật pháp không phải là phương tiện bảo vệ con người mà là một phần của cơ chế quản lý nhà nước.
Thời gian gần đây một số nhà chính trị học phương Tây đưa ra những quan điểm phủ nhận tính hiện thực của mô hình toàn trị, họ cho rằng không nhà nước nào và không bao giờ có thể kiểm soát hết được như mô hình này yêu cầu. Họ khẳng định rằng ngay cả dưới thời Stalin vẫn tồn tại quyền lợi của các phe nhóm và ở mức độ nào đó người ta vẫn phải tính đến dư luận xã hội. Dù các quan điểm như thế có đúng đắn đến đâu đi nữa thì chúng cũng không thể phủ nhận được khái niệm về chủ nghĩa toàn trị. Tất cả các định nghĩa chính trị đều là tương đối. Theo lời của nhà chính trị học ở đại học Harvard, Carl J. Friedrich, thì:
Luận cứ về tính độc đáo của bất cứ cấu hình nào không có nghĩa là
nó là “hoàn toàn” độc đáo, vì chẳng có gì là độc đáo hết. Tất cả các hiện tượng
lịch sử đều liên quan tới các nhóm lớn những đối tượng phân tích… Cấu trúc khá
đa dạng của những thành tố khác nhau… tạo ra sự độc đáo mang tính lịch sử[57].
Như nhiều người đã nhận thấy, “chế độ dân chủ” tức là chính quyền của nhân dân vẫn thường bị giới ăn trên ngồi trốc và những người vận động hành lang lũng đoạn. Cũng chưa bao giờ có thị trường tự do vô giới hạn: ngay cả giữa thế kỷ XIX, khi sự can thiệp của nhà nước vào lĩnh vực kinh tế chỉ ở mức độ tối thiểu thì người ta vẫn đặt ra những giới hạn và vẫn can thiệp vào lĩnh vực kinh doanh tư nhân. Cũng có thể áp dụng tiêu chuẩn như thế đối với mô hình toàn trị.
Các chế độ toàn trị có tham vọng rất cao, không thể nào thực hiện được một cách trọn vẹn. Nhưng ngay cả khi chỉ một phần những mục tiêu này được thực hiện thì chúng cũng tạo ra những điều kiện hoàn toàn khác biệt với những chế độ độc tài nhất trong quá khứ:
Vì chế độ toàn trị nhắm đến các mục tiêu bất khả thi, nó cố gắng quản lý nhân tính và số phận của từng con người, cho nên nó chỉ có thể thực hiện một cách chắp vá. Tự bản chất, nó đã bao hàm những mục tiêu không thể thực hiện được một cách hoàn toàn, cho nên nó chỉ có thể là một xu hướng, một tham vọng mà thôi… Chế độ toàn trị không phải là một bộ máy được sắp xếp một cách kĩ lưỡng, không hoạt động hữu hiệu ở tất cả mọi mắt xích. Dĩ nhiên là nó muốn được như thế và nó đã tiến gần tới mô hình lý tưởng ở một số lĩnh vực nào đó; nhưng nhìn một cách tổng thể, tham vọng quyền lực của nó chỉ được hiện thực hoá một cách tương đối mơ hồ, với những mức độ khác nhau trong những lĩnh vực và tại những thời điểm khác nhau, đồng thời, những đặc trưng toàn trị và phi toàn trị đan xen với nhau. Nhưng chính vì thế mà hậu quả của những tham vọng quyền lực toàn trị càng nguy hiểm và càng nặng nề hơn: chúng vừa mù mờ, vừa nhiều, vừa khó mô tả… Có sự biến dạng như thế là vì tính bất khả thi của tham vọng quyền lực: đấy là đặc điểm của cuộc sống dưới chế độ toàn trị và làm cho người bên ngoài cảm thấy khó hiểu[58].
Sự khác nhau căn bản giữa chế độ toàn trị cộng sản và “phát xít” là ở chỗ cộng sản tư duy một cách toàn cầu còn phát xít thì chú ý đến dân tộc: các chế độ “phát xít’ cũng chấp nhận quan điểm đấu tranh giai cấp, nhưng đây là cuộc đấu tranh giữa các dân tộc “có của” và các dân tộc “không có của”. Điều này đã được Mussolini thể hiện rõ trong bài phát biểu trước Hạ viện vào năm 1921, một năm trước khi ông ta giành được quyền lực. Hướng đến các đại biểu cộng sản, ông ta nói:
Giữa chúng tôi và những người cộng sản không có sự gần gũi về chính trị nhưng có sự gần gũi về tri thức. Cũng như các vị, chúng tôi cho rằng cần phải có một nhà nước tập quyền, thống nhất, nhà nước đòi hỏi kỉ luật sắt, chỉ có một khác biệt: các vị rút ra kết luận này từ khái niệm giai cấp, còn chúng tôi thì từ khái niệm dân tộc[59].
Một trong những nghịch lý của lịch sử là việc những người cộng sản tìm cách chống phá phương Tây lại dẫn đến kết quả hoàn toàn ngược lại. Việc cố tình gây chia rẽ phong trào xã hội chủ nghĩa lại làm suy yếu chính chủ nghĩa Marx. Trong khi đó, Liên Xô lại có ảnh hưởng rất lớn đối với chủ nghĩa “phát xít”: phát xít đã thổi phồng nguy cơ từ phía Liên Xô nhằm đe doạ và tước đoạt quyền lợi của dân chúng, đồng thời lại xây dựng chế độ toàn trị theo mô hình của Lenin và Stalin và cuối cùng, chế độ này đã gần đạt được mục tiêu là tiêu diệt chính Liên Xô.
______________
Mặc dù trong những năm 1930, Liên Xô và hệ tư tưởng cộng sản đã thu phục được khá nhiều người ủng hộ ở phương Tây, nhưng không có bằng chứng nào chứng tỏ rằng những người có cảm tình với Liên Xô có thể trở thành một thế lực thực sự. Như đã nói bên trên, các đảng cộng sản ở phương Tây bao giờ cũng là lực lượng bị cô lập, ngay cả ở những nơi họ có thể đứng vững trên đôi chân của mình. Năm 1935, sợ hãi trước sự trỗi dậy của các chế độ chống cộng và “phát xít”, Moskva thay đổi chính sách, không còn coi các đảng xã hội chủ nghĩa là kẻ thù không đội trời chung nữa và ra lệnh cho các đảng cộng sản phải liên minh với đảng xã hội chủ nghĩa và những nhóm chống phát xít khác. Các chính phủ mau chóng yểu mệnh của Mặt trận Bình dân ở Pháp (1936-1937) và ở Tây Ban Nha (1936-1939) không đủ sức sát nhập các đảng cộng sản vào dòng chủ lưu của đời sống chính trị.
Trong khi tiến hành thiết lập liên minh chống phát xít, Stalin vẫn giữ quan hệ đúng mực đối với Mussolini và Hitler để rồi cuối cùng đã kí với Đức hiệp ước bất tương xâm vào năm 1939, thực chất lúc đó Liên Xô đã đứng về phe Trục.
Sự gần gũi của giữa các chế độ toàn trị, dù chúng có theo chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và dân tộc chủ nghĩa, còn được thể hiện ở sự thán phục mà lãnh tụ các chế độ này dành cho nhau. Khi quân đội Đức và Liên Xô còn đang chiến đấu một mất một còn với nhau thì Hitler đã nói với những người thân cận về “thiên tài” của Stalin và bàn đến việc liên kết với ông ta để tiêu diệt các chế độ dân chủ phương Tây[60]. Mao Trạch Đông, một người cộng sản cấp tiến đến nỗi ngay cả Liên Xô cũng bị ông ta coi là kẻ phản bội, khi bị phê phán là đã giết quá nhiều đảng viên cộng sản trong cuộc Cách mạng Văn hoá, đã trả lời như sau: “Xin hãy nhớ lại Chiến tranh Thế giới II, xin hãy nhớ lại sự dã man của Hitler. Càng dã man thì nhiệt tình cách mạng lại càng cao”[61].
_________________
Bất chấp tính mạng của người dân, Stalin đã giành được chiến thắng trong Chiến tranh Thế giới II, nhưng ông ta không làm chủ được toàn bộ châu Âu. Song phần lớn khu vực Đông Âu đã bị quân đội của ông ta chiếm đóng và thiết lập ở đó các chế độ cộng sản. Trong hai ba năm đầu sau chiến tranh, Stalin để cho các nước đó - tuy vẫn nằm dưới sự kiểm soát của cộng sản - được theo đuổi ở mức độ nào đó sự đa dạng về chính trị. Nhưng sau năm 1948, khi Josip Broz Tito, nhà lãnh đạo cộng sản Nam Tư, củng cố được nền độc lập và đoạn tuyệt với Moskva, thì Stalin lập tức buộc các nước chư hầu Đông Âu phải theo chế độ độc đảng. Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungary, Đông Đức, Rumania và Bulgaria, về danh nghĩa, là các nước độc lập, nhưng thực chất, đã trở thành các nước vệ tinh, tay sai của Liên Xô, hoàn toàn phụ thuộc vào Liên Xô, nhất là trong lĩnh vực đối ngoại. Đế chế Xô Viết đã mở rộng và biến thành Khối Xô Viết.
Vì không đủ sức ngăn chặn, phương Tây đành chấp nhận để Liên Xô thống trị Đông Âu. Phương Tây lẳng lặng công nhận đây là khu vực ảnh hưởng của Liên Xô, nếu Moskva thoả mãn như thế thì quan hệ giữa Đông và Tây đã có cơ hội bình ổn. Nhưng nếu những vùng đất bị chiếm đóng này sau đó trở thành nguyên cớ của cái gọi là “chiến tranh lạnh” thì chỉ tại vì, về bản chất, chủ nghĩa cộng sản không thể sống giữ ổn định và hài lòng: nó cần phải có những cuộc khủng hoảng, nó cần khuyếch trương thế lực.
Liên minh quân sự thời chiến đã lung lay ngay khi Thế chiến II bước vào giai đoạn cuối, tức là ngay khi kết quả đã trở nên rõ ràng. Liên minh này thực sự tan rã vào năm 1945-1946, sau khi Liên Xô tuyên bố huỷ bỏ hiệp ước bất tương xâm, kí năm 1925, với Thổ Nhĩ Kì và đưa ra cho nước này những đòi hỏi không thể chấp nhận được về mặt lãnh thổ. Chẳng bao lâu sau cộng sản lại phát động cuộc nội chiến ở Hy Lạp. Anh nhận trách nhiệm bảo vệ cả hai nước này, nhưng do bị chiến tranh làm cho kiệt quệ, Anh đã không thể theo đuổi chính sách như thế một cách lâu dài. Năm 1947, theo sáng kiến của Tổng thống Harry Truman, nước Mỹ nhận trách nhiệm kiềm chế Liên Xô, ban đầu là theo học thuyết Truman về việc giúp đỡ Thổ Nhĩ Kì và Hy Lạp (tháng 3 năm 1947), sau đó, trên cơ sở Kế hoạch Marshall (tháng 6-7 năm 1947), giúp đỡ đáng kể vế tài chính cho công cuộc tái thiết Tây Âu. Tháng 4 năm 1949, Mỹ đi một bước chưa từng có trong lịch sử: Lập ra liên minh phòng thủ nhằm chống kẻ thù xâm lược từ bên ngoài với sự tham gia của mười nước Tây Âu và Canada (Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương hay NATO). Rõ ràng kẻ thù bên ngoài ở đây chính là khối Xô Viết. Tổng hành dinh khối NATO đặt ở Paris, tướng Dwight Eisenhower, người Mỹ, là tổng tư lệnh đầu tiên của tổ chức này. Năm 1950, sau khi quân đội cộng sản Bắc Triều Tiên tấn công Nam Triều Tiên, lúc đó người ta đã nghi ngờ và nay thì chắc chắn là theo chỉ đạo của Moskva, các nước đồng minh lập tức tuyên bố Tây Đức là nước độc lập có chủ quyền và mời nước này tham gia NATO (tháng 5 năm 1955). Moskva đáp trả bằng cách thành lập Khối quân sự Warsaw, gồm tám nước cộng sản châu Âu. Chiến tranh lạnh đã được hợp thức hoá.
Biết bao nhiêu mực đã đổ ra nhằm tái tạo lịch sử chiến tranh lạnh. Một số nhà sử học cho là tại Mỹ, một số lại cho rằng cả phương Đông và phương Tây đều có lỗi. Không thể phủ nhận rằng phương Tây, trước hết là Mỹ, đứng đầu liên minh, đôi khi đã phản ứng quá mức trước hiểm hoạ của khối cộng sản: dù mối đe doạ của khối cộng sản có như thế nào đi chăng nữa, nguy cơ của việc cộng sản chiếm được nước Mỹ có thể nói là bằng không. Nhưng nay, khi sự cuồng nhiệt đã dịu bớt, có cảm tưởng rằng Moskva phải chịu phần lớn trách nhiệm. Chính Moska đã tuyên bố công khai và rõ ràng ý định ủng hộ các cuộc nội chiến và thiết lập chế độ cộng sản trên toàn thế giới; mục 17 trong các nguyên tắc kết nạp vào Comintern ghi rõ: “Quốc tế Cộng sản tuyên bố một cuộc chiến tranh không khoan nhượng với toàn bộ thế giới tư bản…”. Bất cứ khi nào có điều kiện Liên Xô đều cố gắng thực thi ý định này, ngay cả khi, để chiều lòng các nước đồng minh phương Tây trong Thế chiến II, họ buộc phải giải tán Comintern.
Nếu cần tìm thêm chứng cứ nào nữa thì chỉ xin nói rằng ngay sau khi Liên Xô tan rã, và nước Nga từ bỏ chủ nghĩa cộng sản để bước vào con đường dân chủ thì chiến tranh lạnh cũng lập tức chấm dứt. Boris Yeltsin, Tổng thống mới của nước Nga đã nói trước Hạ viện Mỹ, tháng 6 năm 1992, như sau:
Thế giới có thể thở phào nhẹ nhõm. Thần tượng cộng sản, kẻ gieo rắc động loạn, lòng thù hận và sự dã man chưa từng có trên khắp thế giới, kẻ làm cho nhân loại phải sợ hãi đã sụp đổ rồi. Nó đã sụp đổ và không bao giờ ngóc đầu lên được nữa[62].
Ai phải chịu trách nhiệm về chiến tranh lạnh? Dường như, chí ít là đối với Yeltsin, đấy không còn là vấn đề nữa.
________________________
Chủ nghĩa cộng sản đã sản sinh ra rất nhiều phong trào khủng bố, những phong trào này gần như, thậm chí chẳng có quan hệ gì với chủ nghĩa Marx hay chủ nghĩa xã hội; chúng chỉ tự khoác lên mình các danh xưng như thế hòng che đậy những hoạt động tội phạm: bắt cóc, giết người, tống tiền. Điển hình là nhóm Baader-Meinhold ở Đức (sau này mới rõ là do tình báo Đông Đức bảo trợ), các Binh đoàn Đỏ ở Italy, nhóm Hành động Trực tiếp ở Pháp và Hồng quân ở Nhật, hoạt động trong suốt những năm 1970. Hình thành từ các nhóm trí thức nhỏ, với mục đích làm lung lay “chủ nghĩa tư bản”, các đảng này đã tiến hành các vụ khủng bố nhắm vào các doanh nhân và các chính khách nổi tiếng. Sau này tất cả đều bị tiêu diệt.
Các trào lưu vô chính phủ bột phát, thể hiện nỗi tuyệt vọng của những kẻ cuồng tín trước đường lối có vẻ như xu thời của lãnh đạo Liên Xô thời hậu Stalin đối với phương Tây tư bản chủ nghĩa, lại được các lãnh tụ của Thế giới Thứ ba như Mao Trạch Đông và Che Guevara ủng hộ. Trong khi đó, dòng chủ lưu của đường lối chính trị cấp tiến châu Âu lại đi theo hướng ngược lại, tức là làm cho chủ nghĩa cộng sản thích ứng với thực tiễn của xã hội hiện đại. Trong những năm 1970, phong trào này được người ta gọi là chủ nghĩa cộng sản châu Âu (Eurocommunism).
Ngay sau Thế chiến II, các đảng cộng sản châu Âu, lợi dụng uy tín rất cao của Liên Xô vì những đóng góp to lớn cho chiến thắng, đã thu hút được rất nhiều ủng hộ viên mới. Ở nhiều nước châu Âu, cộng sản đã từng tham gia vào các chính phủ liên hiệp. Nhưng ảnh hưởng của họ đã suy giảm trong những năm 1950-1960. Điều đó là do một số nguyên nhân sau đây: việc tố cáo những tội ác của Stalin do Khrushchev tiến hành, việc đàn áp những cuộc thử nghiệm những mô hình cộng sản đặc thù của Tiệp Khắc và Hungary, đánh đồng chủ nghĩa cộng sản với phong trào bài Do Thái ở Ba Lan.
Chủ nghĩa cộng sản châu Âu, bằng cách đoạn tuyệt với những cuộc đàn áp và tình trạng trì trệ về kinh tế ở Liên Xô, là mưu toan làm cho chủ nghĩa cộng sản trở nên hấp dẫn hơn đối với cử tri. Các đảng cộng sản Italy, Pháp và Tây Ban Nha, có nhiều ảnh hưởng trong tầng lớp trí thức, muốn thực hiện đường lối phù hợp với truyền thống chính trị châu Âu. Năm 1976, Santiago Carrilo, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Tây Ban Nha đã xác định mục tiêu của phong trào này như sau:
Các đảng theo xu hướng “cộng sản châu Âu” đồng thuận về tính tất yếu của việc tiến lên chủ nghĩa xã hội theo con đường dân chủ, đa đảng, đại nghị và các thiết chế đại diện khác, chủ quyền của nhân dân được thực hiện thông qua các cuộc phổ thông đầu phiếu được tiến hành theo định kì, công đoàn độc lập với nhà nước, tự do theo phe đối lập, bảo vệ quyền con người, tự do tôn giáo, tự do trong sáng tạo khoa học, văn học và nghệ thuật và sự tham gia rộng rãi nhất của quần chúng trong mọi cấp và mọi lĩnh vực hoạt động xã hội.
Thật là những ý tưởng tuyệt vời, nhưng đối với Lenin thì đấy đều là những điều đáng bị rút phép thông công cả. Vì vậy sẽ hoàn toàn không đúng nếu coi phong trào này là một sự “thể hiện mềm dẻo của chủ nghĩa cộng sản”: những thử nghiệm ngắn hạn và bất thành nhằm đưa chủ nghĩa cộng sản vào dòng chủ lưu của đời sống chính trị thực chất là sự đoạn tuyệt với tất cả những điều mà chủ nghĩa cộng sản từng bảo vệ.
Chủ nghĩa cộng sản châu Âu chỉ là một vụ bùng phát nhất thời. Trong những năm 1980, tất cả các đảng cộng sản châu Âu lại bị hất ra bên lề. Những năm 1978-1979, chính là giai đoạn hoàng kim của họ, lúc đó họ đã nhận được 30,4% phiếu bầu ở Italy và 20,6% phiếu bầu ở Pháp. Nhưng, trong các nước công nghiệp phát triển nhất, số lượng cử tri ủng họ họ vẫn là không đáng kể: 0,05% ở Anh và 0,3% ở Tây Đức[63]. Xu thế suy giảm vẫn còn tiếp tục.
Sau khi Liên Xô tan rã, các đảng cộng sản châu Âu cũng trải qua nhiều thay đổi và phân hoá. Các đảng và các phái cứng rắn gán sự tan rã này cho sự thoả hiệp của Gorbachev với chủ nghĩa tư bản và tiếp tục đi theo đường lối của Stalin. Một số khác đã quay lưng lại với chủ nghĩa cộng sản truyền thống. Ví dụ, Đảng Cộng sản Italy, đảng có nhiều đảng viên và ít giáo điều nhất, đã lặng lẽ đổi tên là Đảng Dân chủ của những người cánh tả. Phần lớn các đảng khác cũng đã chia tay với các khẩu hiệu và biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa cộng sản là một lý tưởng không có tương lai: nền văn hoá chính trị phương Tây đã tập hợp lại trong cuộc đấu tranh chống lại hệ tư tưởng cứng rắn, tuy có xuất xứ từ phương Tây, nhưng lại được hoàn thiện ở môi trường ngoài phương Tây. Chủ nghĩa cộng sản đã hoà tan vào xã hội dân chủ phương Tây và sau đó thì lặng lẽ rút khỏi vũ đài chính trị.
V.
Thế giới Thứ ba
Mỗi nước cộng sản, mỗi đảng cộng sản đếu có lịch
sử riêng của mình, có những đặc trưng khu vực và địa phương của mình, nhưng bao
giờ cũng có thể nhận thấy rằng bằng cách này hay cách khác họ đều đi theo khuôn
mẫu được hình thành ở Moskva vào tháng 11 năm 1917. Có mối liên hệ thân thuộc
như thế là vì các đảng này có chung một mã di truyền cộng sản[64].
Cái mối liên hệ thân thuộc, được nhắc tới trong
đoạn trích dẫn bên trên, là do, ở tất cả những nước đó, chủ nghĩa cộng sản đều
xuất hiện nhờ một trong hai con đường: hoặc là do quân đội Liên Xô áp đặt (Đông
Âu) hoặc nhờ vào sự trợ giúp của Liên Xô, đấy là các nước với nền văn hoá chính
trị (thiếu truyền thống tư hữu và chế độ pháp quyền, di sản của chế độ chuyên
chế v.v…) cũng như cấu trúc xã hội (tuyệt đại đa số là nông dân, giai cấp trung
lưu chưa phát triển) tương tự như nước Nga trước năm 1917. Mặc dù về lý luận,
chủ thuyết cộng sản được xây dựng cho các xã hội công nghiệp tiên tiến, trên
thực tế, nó lại chỉ bén rễ trong các nước nông nghiệp lạc hậu. Và vì thế, ở
những nước này, nó phải đi theo một khuôn mẫu sẵn có.
Đặc điểm của chủ nghĩa Marx-Lenin mà những nước này chọn là: 1) lãnh đạo bởi một đảng, đảng độc quyền, được xây dựng theo mô hình quân đội và đòi hỏi các thành viên phải tuyệt đối tuân thủ; 2) chế độ không bị bất kì hạn chế nào; 3) bãi bỏ tư hữu phương tiện sản xuất và cùng với nó là quốc hữu hoá tất cả nhân tài, vật lực của quốc gia; 4) coi thường quyền con người. Các chế độ này cho rằng đảng của họ là đảng bách chiến bách thắng, biết tuốt, luôn luôn đúng và không chấp nhận bất kì hạn chế quyền lực nào. Hiện thân của đảng là lãnh tụ, ông ta được coi là một vị thánh.
Nhiều
người cho rằng nghèo đói sinh ra cộng sản. Trên thực tế, hoàn toàn ngược lại:
các nước nghèo không lựa chọn chủ nghĩa cộng sản. Chưa ở đâu có chuyện đa số
người nghèo, thậm chí đa số nói chung, ủng hộ chuyển giao quyền lực cho cộng
sản. Nói đúng ra, các nước nghèo không đủ khả năng chống lại những vụ cưỡng
đoạt quyền lực của cộng sản vì các nước này không có các thiết chế đủ sức ngăn
chặn những kẻ độc tài háo danh, như các nước giàu có và tiến bộ hơn. Không có
các thiết chế bảo đảm cho sự giàu có, đặc biệt là quyền tư hữu và chế độ pháp
quyền, các nước này sẽ nằm mãi trong tình trạng đói nghèo và dễ bị những nhà
cầm quyền độc tài cả phía tả lẫn phía hữu khuynh đảo. Nói như lời một nhà
nghiên cứu chế độ ở Campuchia, một trong những chế độ cộng sản cực đoan nhất mà
ta đã biết, thì “việc thiếu vắng các
cơ cấu đủ sức liên kết dân chúng, cộng với việc những người cầm quyền thường
xuyên thay đổi đã tạo điều kiện cho sự lạm dụng quyền lực một cách thái quá”[65].
Như vậy là các tác nhân đó, mà trước hết là tình trạng vô luật pháp, đã kìm hãm
đất nước trong vòng nghèo đói, đã tạo điều kiện cho các vụ đảo chính của cộng
sản.
Các tác
nhân nói trên còn tạo ra những hậu quả khác nữa. Từ xa xưa, ở phương Đông việc
không tồn tại quyền tư hữu ruộng đất có nghĩa là chỉ có một cách làm giàu duy
nhất, đấy là được người cầm quyền ưu ái. Các chức vụ trong bộ máy nhà nước
không được coi là cống hiến mà là phương tiện làm giàu. Dĩ nhiên là, vì vậy mà
có chân trong chính quyền cộng sản, một chính quyền nắm trong tay toàn bộ quyền
lực và tài nguyên, được coi là phương tiện chủ yếu để bảo đảm cho mình vị trí
xã hội cũng như sự sung túc (Điều này, dĩ nhiên là đúng với cả nước Nga nữa).
______________________
Trong những
năm đầu thế kỷ XX, những người xã hội chủ nghĩa ở châu Âu không thể hiểu được
vì sao chủ nghĩa tư bản không sụp đổ, theo như dự đoán của Marx và Engels.
Những người xét lại đã giải quyết được vấn đề bằng cách công nhận rằng ở đây
Marx và Engels đã lầm lẫn. Nhưng, đối với những người Marxist chính thống, đây
là giải pháp không thể chấp nhận được, vì lý thuyết của họ được coi là khoa
học, không chấp nhận bất kì sự lệch lạc hoặc ngoại lệ nào, nó chỉ có thể tồn
tại hay sụp đổ như một toàn thể bất khả phân.
Đối diện
với vấn đề như thế, Lenin đã sử dụng tác phẩm Imperilism (Chủ nghĩa đế quốc- 1902) của nhà kinh tế học người Anh, J. A. Hobson,
trong đó, việc xâm chiếm thuộc địa được lý giải như là kết quả của việc chinh
phục những thị trường mới cho hàng hóa và tư bản. Lenin phát triển luận điểm
này trong tác phẩm Imperialism, the
Highest Stage of Capitalism (Chủ
nghĩa đế quốc – giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (1916-1917),
trong đó, ông ta chứng minh rằng các nước thuộc địa đóng vai trò quan trọng
trong việc cứu chủ nghĩa tư bản vì nó giúp giữ cho nền kinh tế bệnh hoạn đứng
vững và tạo điều kiện cho các nhà tư sản mua chuộc công nhân. Vì vậy, cuộc tấn
công vào lãnh địa của các cường quốc sẽ là một phần quan trọng của chiến lược
cách mạng đương thời.
Khó khăn
là ở chỗ, các nước thuộc địa và nửa thuộc địa Á, Phi và Mỹ Latin có rất ít hoặc
hoàn toàn không có nền công nghiệp và cũng không thể có giai cấp công nhân công
nghiệp. Do hoàn cảnh khó khăn như thế, cho nên khi cần thổi bùng ngọn lửa cách
mạng trong những nước không có cơ sở công nghiệp, Lenin đã sử dụng cương lĩnh
do ông ta đề ra cho Đại hội II Quốc tế Cộng sản với hai tiền đề sau đây: 1) các
nước này có điều kiện tiến thẳng từ chế độ “phong kiến” lên chủ nghĩa xã hội,
không qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa; 2) trong cuộc đấu tranh chống đế quốc,
những người cộng sản hoạt động ở những nước đó có thể liên kết (tạm thời, dĩ
nhiên) với “giai cấp tư sản dân tộc”.
Những đề
xuất của Lenin đã gặp phải sự chống đối quyết liệt của một số đoàn đại biếu
Quốc tế Cộng sản, đối với họ, tư sản dân tộc cũng đáng ghét chẳng khác gì bọn
đế quốc nước ngoài. Nhưng Lenin kiên quyết bảo vệ ý kiến của mình và cuối cùng
Quốc tế thông qua phương châm gọi là các cuộc chiến tranh “giải phóng dân tộc”,
trong đó những người cộng sản, vừa bảo vệ quan điểm riêng của mình vừa liên kết
với các lực luợng chống đế quốc khác để tiến hành cuộc đấu tranh vì sự nghiệp
chung của dân tộc.
Trên thực
tế chính sách này luôn gặp thất bại: không những không lợi dụng được những
nguời theo chủ nghĩa quốc gia mà chính những người cộng sản lại rơi vào hoàn
cảnh bị người ta lợi dụng.
Trong những năm 1918-1919, quân đội đồng minh chiếm đóng vùng Tây Anatolia và thành phố Constantinople, thủ đô của đế chế Ottoman, một đồng minh của nước Đức bại trận trong Thế chiến I. Phong trào do Mustafa Kemal Pasa (Atatürk) lãnh đạo xiển dương mục đích giải phóng dân tộc. Năm 1920, Kemal đề nghị Moskva hợp tác trong cuộc đấu tranh chống các nước chiếm đóng. Moskva tỏ ý sẵn sàng và năm 1921 đã kí với ông ta Hiệp ước hữu nghị, các bên cam kết tiến hành đấu tranh chống “chủ nghĩa đế quốc”. Moskva, theo đúng tinh thần của Quốc tế, lại tiến hành song song việc hợp tác này với các hoạt động lật đổ. Những tài liệu vừa được giải mật từ kho lưu trữ của Đảng Cộng sản Liên Xô chứng tỏ rằng Moskva đã bí mật chuẩn bị âm mưu lật đổ phe quốc gia ngay trong thời kì tình cảm của hai bên vẫn còn nồng thắm. Bản chỉ thị do Lenin soạn vào năm 1920 có đoạn viết:
Trong những năm 1918-1919, quân đội đồng minh chiếm đóng vùng Tây Anatolia và thành phố Constantinople, thủ đô của đế chế Ottoman, một đồng minh của nước Đức bại trận trong Thế chiến I. Phong trào do Mustafa Kemal Pasa (Atatürk) lãnh đạo xiển dương mục đích giải phóng dân tộc. Năm 1920, Kemal đề nghị Moskva hợp tác trong cuộc đấu tranh chống các nước chiếm đóng. Moskva tỏ ý sẵn sàng và năm 1921 đã kí với ông ta Hiệp ước hữu nghị, các bên cam kết tiến hành đấu tranh chống “chủ nghĩa đế quốc”. Moskva, theo đúng tinh thần của Quốc tế, lại tiến hành song song việc hợp tác này với các hoạt động lật đổ. Những tài liệu vừa được giải mật từ kho lưu trữ của Đảng Cộng sản Liên Xô chứng tỏ rằng Moskva đã bí mật chuẩn bị âm mưu lật đổ phe quốc gia ngay trong thời kì tình cảm của hai bên vẫn còn nồng thắm. Bản chỉ thị do Lenin soạn vào năm 1920 có đoạn viết:
Chớ có tin bọn theo Kemal; không được
chuyển khí giới cho họ; tăng cường tuyên truyền về Liên Xô cho người Thổ Nhĩ Kì
và chuẩn bị một đảng theo đường lối Xô Viết mạnh và có khả năng giành chiến
thắng ở Thổ Nhĩ Kì[66].
Về phần
mình, Kemal rất phấn khởi khi nhận được sự giúp đỡ của Liên Xô và đã có ý định
xây dựng nhà nước độc đảng theo mô hình của Liên Xô, nhưng dứt khoát không chấp
nhận cộng sản trên đất nước Thổ Nhĩ Kì. Phái viên của Quốc tế Cộng sản và những
người đồng chí của ông ta đã bị giết sau khi Đảng Cộng sản Thổ Nhĩ Kì được
thành lập vừa đúng hai tháng, chắc chắn có bàn tay của những người theo Kemal
trong vụ sát hại này.
Ở Trung
Quốc, chính sách của Liên Xô còn bị tổn thất nặng nề hơn rất nhiều. Đối với Quốc
tế Cộng sản, Trung Quốc là nước có vai trò cực kì quan trọng và cũng tạo cho
người ta nhiều hy vọng. Các nước châu Âu và Nhật Bản đã tìm mọi cách để bóc lột
đất nước đông dân nhất thế giới này. Việc bóc lột như thế là miếng đất màu mỡ
cho tinh thần bài ngoại: lòng căm thù người ngoại quốc thỉnh thoảng lại bùng
phát thành những cuộc bạo động. Tôn Trung Sơn, lãnh tụ Quốc dân Đảng, cầm quyền
ở Trung Quốc sau những năm 1911-1912, rất khâm phục Liên Xô vì nước này đã rũ
bỏ được ách nô dịch ngoại quốc về kinh tế và chính trị. Tuy vẫn là nước nông
nghiệp, Trung Quốc đã có đội ngũ công nhân, chủ yếu là trong lĩnh vực công
nghiệp nhẹ ở Thượng Hải. Lenin đặt rất nhiều hy vọng vào Trung Quốc, ông ta
từng nói với các nhà ngoại giao đến từ Bắc Kinh rằng, “cuối cùng, cách mạng
Trung Quốc… sẽ lật đổ chủ nghĩa đế quốc thế giới”.
Tưởng
Giới Thạch, người được đưa lên lãnh đạo Quốc dân Đảng trong những năm 1920,
cũng rất thán phục Liên Xô và đã nhiệt tình chào đón các đoàn “cố vấn” từ
Moskva đang tràn vào Trung Quốc. Đảng Cộng sản Trung Quốc, được thành lập theo
lệnh từ Moskva vào năm 1921, gồm phần lớn là những người có học và sinh viên,
vẫn giữ được tính độc lập như Quốc tế Cộng sản đòi hỏi, nhưng từ năm 1923 trở
đi nhiều đảng viên đã ra nhập Quốc dân Đảng. Họ làm như thế là theo chỉ đạo về
việc thành lập mặt trận phản đế của Moskva. Đề nghị của Moskva về việc cung cấp
cho Quốc dân Đảng các cố vấn kinh tế và quân sự cũng nhằm mục đích đó. Tuy
nhiên, giữa hai bên đã tích tụ nhiều mâu thuẫn, đặc biệt là từ năm 1925, tức là
sau khi Tôn Trung Sơn tạ thế và quyền lực tập trung vào tay Tưởng Giới Thạch.
Tháng 4 năm 1927, Tưởng Giới Thạch khai trừ tất cả đảng viên cộng sản, rồi sau
đó thủ tiêu hàng ngàn người.
Sau những
sự kiện như thế, Stalin dứt khoát kết luận rằng, thuần hoá chủ nghĩa dân tộc
trong các nước thuộc Thế giới Thứ ba và lái hoạt động của nó theo hướng có lợi
cho chủ nghĩa cộng sản là việc làm vô ích. Tại Hội nghị IV, Quốc tế Cộng sản đã
đoạn tuyệt với đường lối ủng hộ “giai cấp tư sản dân tộc”. Từ đấy cho đến ngày
Stalin chết, tức là trong vòng 25 năm, Liên Xô đã giảm hẳn hoạt động trong các
nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Liên Xô chấm dứt hợp tác với “giai cấp tư sản”
Thế giới Thứ ba, coi nó là “tay sai” của các nước đế quốc và giữ quan điểm như
thế ngay cả khi các nước này đã giành được độc lập. Cuốn Great Soviet Encyclopedia (Bách
khoa Toàn thư Lớn) của Liên Xô, xuất bản năm 1953, thậm chí còn gọi Mahatma
Gandhi là “gián điệp của đế quốc Anh”. Trong khi đó, Liên Xô lại coi các đảng
cộng sản, cả công khai lẫn bí mật, cả đảng lớn lẫn đảng nhỏ, là chỗ dựa của
mình. Năm 1948, theo lời xúi bẩy của Moskva, cộng sản tại ở loạt nước Đông Nam
Á như Miến Điện, Malaysia, Indonesia, Philippines đã vùng dậy, nhưng tất cả đều
bị đàn áp. Cộng sản chỉ thành công ở Đông Dương (Việt Nam), năm 1954, quân du
kích địa phương đã đuổi được quân đội Pháp ra khỏi miền Bắc Việt Nam. Khi Stalin
còn sống, chính sách đối ngoại của Liên Xô tập trung chủ yếu vào việc tăng
cường sức mạnh kinh tế và quân sự và gây chia rẽ giữa các siêu cường.
_________________
Nhìn bên
ngoài thì chiến thắng của cộng sản Trung Quốc, năm 1949, và việc họ chiếm được
toàn bộ đại lục là chiến thắng vô cùng to lớn của chủ nghĩa cộng sản. Chỉ bằng
một cú như thế, phong trào cộng sản đã lôi kéo vào hàng ngũ của mình một nửa tỉ
người, tức là tăng gần gấp đôi số người sống dưới chính thể cộng sản. Nhưng hoá
ra đây là một chiến thắng rất đáng ngờ; cái giá phải trả là sự thống nhất của
chính phong trào cộng sản: Chẳng bao lâu sau, nước Trung Hoa đỏ đã đi theo con
đường riêng, tạo ra sự chia rẽ nghiêm trọng cho phong trào. Một lần nữa tinh
thần dân tộc đã thắng lòng trung thành với quyền lợi giai cấp.
Tháng 10
năm 1927, những người cộng sản còn sống sót sau vụ đàn áp của Tưởng Giới Thạch
đã rút lui về vùng nông thôn hẻo lánh. Mao Trạch Đông, một trong những lãnh tụ
cộng sản còn lại, đã ẩn mình suốt hai mươi năm sau đó để chuyên tâm vào việc
xây dựng lực lượng du kích. Năm 1931, cộng sản tuyên bố thành lập nước Cộng hoà
Xô Viết Trung Hoa. Cả lúc đó, cũng như trong Thế chiến II về sau, Stalin chưa
bao giờ công khai phát biểu ủng hộ nước cộng hoà này. Ông ta quan tâm đến quyền
lợi của Liên Xô ở vùng Viễn đông hơn là việc truyền bá chủ nghĩa cộng sản, tức
là Liên Xô cần một nước Trung Hoa mạnh, đủ sức ngăn chặn được Nhật Bản. Quốc
dân Đảng dường như phù hợp với vai trò này hơn và vì vậy Stalin quyết định ủng
hộ về vật chất cho Tưởng Giới Thạch. Sau này, Stalin buộc phải sử dụng kinh
nghiệm quan hệ với Đảng Cộng sản Nam Tư; năm 1948 dưới sự lãnh đạo của Josip
Broz Tito đảng này đã không chịu thực hiện các chỉ thị và sau đó thì đoạn tuyệt
hoàn toàn với Moskva. Sợ rằng Trung Quốc sẽ là một “Nam Tư” mới, Stalin mới
thuyết phục Mao Trạch Đông thoả hiệp với Tưởng Giới Thạch. Mao Trạch Đông phớt
lờ lời khuyên này và tiếp tục chỉ huy đội quân nông dân tiến hành đấu tranh vũ
trang nhằm giành quyền lực trên toàn cõi Trung Hoa.
Stalin
tiếp tục bảo trợ Mao ngay cả sau khi ông này đã làm chủ hoàn toàn Trung Quốc.
Mao cần sự trợ giúp của Liên Xô cả về kinh tế lẫn quân sự đến mức ông ta phải
đè nén lòng kiêu hãnh của mình trong một thời gian dài, buộc phải công nhận vai
trò lãnh đạo của Liên Xô, cũng như coi Liên Xô là hình mẫu đáng phải theo. Thái
độ của Mao chỉ thay đổi sau khi Khrushchev lên cầm quyền, vì ông ta cho rằng
những người kế nhiệm Stalin đã phản bội sự nghiệp chung. Năm 1959, quan hệ giữa
Bắc Kinh và Moskva đã gần đi đến chỗ tan vỡ, chủ yếu là vì Moskva từ chối cung
cấp công nghệ hạt nhân cho Bắc Kinh. Năm sau, Khrushchev đơn phương rút hết các
chuyên gia về nước.
Chẳng bao
lâu sau Mao đã tự sáng tác ra phiên bản chủ nghĩa Marx độc đáo của chính mình.
Theo lời một chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực này: “những giá trị chủ yếu” mà tư
tưởng Mao bảo vệ là “hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa Marx”, điều đó chỉ chứng tỏ
“sự uyển chuyển vô bờ bến của bất kì học thuyết nào, miễn là nó có giá trị về
mặt lịch sử”[67].
Về tất cả mọi vấn đề, Mao đều cho Marx “trồng cây chuối” tất. Ông ta không dựa
vào giai cấp công nhân công nghiệp, không coi họ là động lực của cách mạng mà
lại phong cho nông dân vai trò đó: ông ta khẳng định rằng vai trò cách mạng
không thuộc về châu Âu (trong đó có Nga) mà thuộc về nhân dân các nước Á, Phi
và Mỹ Latin. Ông ta cũng bác bỏ luận điểm của Marx nói rằng “không phải ý thức
quyết định đời sống mà là đời sống quyết định ý thức”[68],
nghĩa là tư tưởng và tình cảm của con người phụ thuộc vào điều kiện vật chất
của họ. Ngược lại, Mao khẳng định rằng hành vi của con người là do tư tưởng mà
ra: chủ nghĩa Marx coi “yếu tố khách quan” giữ vai trò quan trọng. thì Mao lại
cho rằng đấy là khái niệm “tư sản”. Yếu tố khách quan không thể cản trở quần
chúng một khi họ đã quyết tâm. Kiến thức chứa đựng mầm mống của cái ác vì nó
làm cho người ta dao động, đọc nhiều là có hại. Không phải sự thay đổi các điều
kiện kinh tế và xã hội mà chính sự thay đổi “thượng tầng” văn hoá và tri thức
sẽ cho phép hình thành xã hội mới và con người mới. Đây là chủ nghĩa xét lại
đặc biệt: nếu chủ nghĩa xét lại phương Tây, xuất hiện sau Eduard Bernstein, cố
gắng làm cái việc sửa chữa chủ nghĩa Marx, làm cho nó phù hợp với hiện thực thì
chủ nghĩa xét lại của Mao lại cho rằng tốt nhất là đừng để ý đến hiện thực.
Việc đưa
ra những tư tưởng phi chính thống như thế đã dẫn đến mâu thuẫn với Moskva. Đại
hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua đường lối hoà hoãn với phương Tây và
tuyên bố rằng chiến tranh không còn là điều kiện cần trong cuộc đấu tranh vì lý
tưởng cộng sản trên toàn thế giới nữa, vì chính thế giới đang tiến về phía chủ
nghĩa cộng sản mà không một lực lượng nào có thể cản trở được. Mao không chấp
nhận đường lối này, ông ta cho rằng Liên Xô đã có tên lửa xuyên lục địa, đủ sức
thực hiện chiến lược tiến công phương Tây. Tương tự như Lenin, Mao cho rằng
chiến tranh là tất yếu. Ông ta bác bỏ học thuyết của Khrushchev, theo đó, chủ
nghĩa cộng sản sẽ chiến thắng bằng con đường nghị trường mà không phải dùng vũ
lực. Mao đề cao bạo lực. (“Chiến tranh là hình thức đấu tranh và giải quyết mâu
thuẫn cao nhất”, “Súng đẻ ra chính quyền.”)[69]
Mao cũng
bác bỏ luận điểm cho rằng vũ khí hạt nhân đã đặt dấu chấm hết cho việc coi
chiến tranh là một hành động chính trị. Ông ta còn chế nhạo vũ khí nguyên tử và
gọi nó là “con hổ giấy mà bọn phản
động Mỹ dùng để doạ dẫm nhân dân. Cỏ vẻ khủng khiếp, nhưng trên thực tế chẳng
có gì khủng khiếp hết”[70].
Ông ta còn coi chính sách kí thoả ước về việc kiểm soát vũ khí, bắt đầu từ năm
1968, là phản bội; ông ta cũng rất bất mãn với quan điểm cho rằng chiến tranh
nhiệt hạch sẽ tiêu diệt sự sống trên trái đất. Ông ta từng viết với một thái độ
vô tâm đáng kinh ngạc như sau:
Trong trường hợp xấu nhất, một nửa nhân
loại sẽ bị tiêu diệt, chỉ còn một nửa sống sót, nhưng chủ nghĩa đế quốc sẽ bị
tiêu diệt hoàn toàn và cả thế giới sẽ trở thành xã hội chủ nghĩa; sau mấy năm
sẽ lại có hai tỉ bảy trăm triệu người, mà có thể còn nhiều hơn nữa kia[71].
Trung
thành với đường lối của Stalin, Mao bác bỏ chiến lược ủng hộ các chế độ được
thiết lập ở các thuộc địa cũ như chính phủ Neru ở Ấn Độ hay Naser ở Ai-Cập.
Nhưng
nguyên nhân sâu xa của mâu thuẫn, từng bùng phát thành vụ đụng độ quân sự trên
biên giới Xô-Trung, vẫn không phải là những bất đồng về đường lối chiến lược và
chiến thuật, mà là vấn đề bá quyền trong phong trào cộng sản quốc tế. Moskva
luôn khẳng định rằng họ đương nhiên là lãnh tụ của phong trào, việc này đã được
chính thức ghi trong điều lệ Quốc tế Cộng sản từ năm 1920 và họ sẽ không bao
giờ từ bỏ. Năm 1956, phát biểu vo ở Warsaw, Khrushchev cho biết rằng, Stalin đã
nói với Mao là Moskva phải có tiếng nói cuối cùng trong các vấn đề liên quan
đến phong trào cộng sản quốc tế. Từ năm 1956 trở đi, Mao không chấp nhận luật
chơi đó vì cho rằng, như đã nói bên trên, những người kế nhiệm Stalin là những
kẻ phản bội chủ nghĩa Marx-Lenin. Ông ta tự coi mình chẳng những ngang hàng mà
còn đứng cao hơn những người cầm quyền ở Moskva. Thậm chí, ngay cả khi chưa nắm
được trọn quyền lực ở Trung Quốc, ông ta cũng đã tự đưa mình vào hàng ngũ tác
gia của học thuyết Marxist, dành cho các nước ngoài phương Tây, nơi các cuộc
cách mạng sẽ do nông dân thực hiện. Năm 1945, một trong những đồ đệ của ông ta
đã khẳng định: “Thành tựu vĩ đại nhất của Mao Trạch Đông là đã cải biến chủ
nghĩa Marx, một học thuyết của phương Tây và gắn cho nó hình thức của châu Á”,
nhằm động viên một khối lượng quần chúng to lớn, những người cũng sống trong
các điều kiện như nhân dân Trung Quốc. Sau này, trong nỗ lực đẩy Liên Xô ra
khỏi châu Phi, Bắc Kinh còn viện đến cả yếu tố sắc tộc và nói rằng người Nga là
dân “da trắng” cho nên không thể hiểu được dân phương Đông và châu Phi. Ở Trung
Quốc, Mao được coi là nhà tiên tri. Năm 1966, Trung Quốc cho xuất bản cuốn sách
nhan đề: The Brilliance of Mao
Tse-tung’s Thoughts Illuminates the Whole World (Ánh sáng tư tưởng Mao
Trạch Đông toả khắp hoàn cầu). Như vậy là, “cuộc tranh luận về chiến
lược cách mạng … đã trở thành mầm mống cho cuộc đấu tranh giành quyền lực trong
phong trào cộng sản quốc tế”[72].
Đụng độ
Xô-Trung đã cho người ta thấy cái khuyết tật căn bản và không thể nào sửa chữa
được của phong trào cộng sản quốc tế. Nó cho thấy rằng cộng sản các nước sẵn
sàng chấp nhận vai trò lãnh đạo của Moskva khi họ chưa tìm được chỗ dựa vững
chắc ở trong nước, khi họ còn phụ thuộc vào sự giúp đỡ về kinh tế và quân sự từ
Moskva. Nhưng, trong hoàn cảnh như thế, họ vẫn là những kẻ bất lực, những kẻ
đứng bên lề đời sống của đất nước. Còn khi họ đã có chỗ dựa ở trong nước, như
Nam Tư và Trung Quốc, khi họ trở thành lực lượng chính trị độc lập, nghĩa là có
giá trị đối với phong trào cộng sản quốc tế thì họ không còn thích nghe theo
chỉ đạo của người Nga hay công nhận quyền lợi của Liên Xô là tối thượng nữa.
Kết quả là xảy ra mâu thuẫn: cộng sản các nước càng thành công, càng trở thành
lực lượng độc lập thì Moskva càng khó điều khiển hơn. Moskva buộc phải quyết
định giữa bảo vệ quyền lợi của mình hay bảo vệ quyền lợi của phong trào cộng
sản quốc tế. Nếu ban lãnh đạo Liên Xô thực sự muốn khuyếch trương chủ nghĩa
cộng sản thì nó phải từ bỏ vai trò lãnh đạo và từ bỏ lý luận cho rằng quyền lợi
của Liên Xô và quyền lợi của chủ nghĩa cộng sản chỉ là một. Nhưng nếu làm như
thế, phong trào sẽ tan ra thành từng mảnh và bị các lực li tâm khống chế, kết
quả là, sẽ đánh mất chủ nghĩa tập trung cứng rắn, nghĩa là mất cái mà Lenin coi
là thành tựu quan trọng nhất của chế độ.
_________________
Chiến
lược ủng hộ các lực lượng chống đế quốc thuộc Thế giới Thứ ba mà những người kế
nhiệm Stalin sử dụng trong những năm 1950 dường như dễ trở thành hiện thực hơn
là ba mươi năm trước, vì sau Thế chiến II, các nước đế quốc đã trao trả độc lập
cho phần lớn các nước thuộc địa của mình. Trong số đó, có một số nước đông dân
như Ấn Độ, Indonesia và Ai Cập. Đứng đầu các nước này là các nhà chính trị chưa
có kinh nghiệm, những chưa có tiền; họ coi độc lập chính trị chỉ là bước đầu
tiên trên con đường dẫn tới độc lập thực sự, muốn thế, phải có độc lập về kinh
tế. Họ ngưỡng mộ Liên Xô vì nước này đã thoát ra khỏi tình trạng lạc hậu và nắm
trong tay sức mạnh đáng kể về mặt công nghiệp; họ muốn bắt chước và nồng nhiệt
chào đón các chuyên gia cũng như sự trợ giúp từ Moskva. Trong một số trường
hợp, các nhà độc tài háo danh còn coi Liên Xô là sự bảo đảm cho quyền lực của
mình: tuyên bố là nước “xã hội chủ nghĩa” để đổi lấy sự trợ giúp về tình báo và
quân sự của khối cộng sản nhằm chống lại các kẻ thù bên trong và bên ngoài.
Từ năm
1956, Moskva tiến hành những hoạt động tích cực trong Thế giới Thứ ba nhằm tạo
ra một liên minh, bài phương Tây và đặc biệt là Mỹ, bao trùm một nửa dân số thế
giới. Họ đã sử dụng nhiều phương tiện khác nhau. Ở Ấn Độ, họ đã tài trợ cho một
nhà máy gang thép cực kì lớn, được xây dựng dưới dự lãnh đạo của các kĩ sư Liên
Xô; họ còn xây dựng các nhà máy điện, nhà máy làm bánh mì. Ở Ai Cập, họ đã giúp
xây dựng đập thuỷ điện Aswan, tạo điều kiện cho việc điều tiết mực nước sông
Nile. Đấy là những việc làm trái ngược hẳn với thái độ “vụ lợi” của các nước tư
bản phương Tây. Moskva còn vũ trang cho Ai Cập trong cuộc chiến tranh chống lại
Israel, vũ tranh cho Ethiopia chống lại Somalia. Trong mọi trường hợp, sự giúp
đỡ bao giờ cũng đi kèm với các “cố vấn” Liên Xô và đấy chính là cách mà Moskva
thiết lập sự hiện diện của mình trên khắp thế giới. Trợ giúp sinh ra phụ thuộc
về kinh tế và đấy cũng là con đường dẫn tới phụ thuộc về chính trị.
Nhưng
cuối cùng, chính sách đầy tham vọng và tốn kém đó cũng chỉ mang về những kết
quả cực kì khiêm tốn. Liên Xô không có đủ nguồn lực kinh tế để có thể đóng được
vai trò phù hợp với chính sách mới của nó đối với các nước thuộc Thế giới Thứ
ba. Moskva lao vào hết nước này đến nước khác, từ Trung Cận Đông tới châu Phi,
hòng chiếm lĩnh chân không quyền lực; giành cho các nước này sự trợ giúp cả về
kinh tế lẫn quân sự để rồi phải đối mặt với sự phát triển không lường trước
được của các sự kiện dẫn đến việc thủ tiêu nước đồng minh, hay đồng minh suy
nghĩ lại và thay đổi thái độ. Có ai đó đã nói rằng, không thể mua được các thủ
lĩnh thuộc Thế giới Thứ ba, chỉ có thể vay tạm được họ mà thôi.
Hoạt động
của Moskva trong Thế giới Thứ ba đã gây ra hậu quả quan trọng là nó đã làm cho
phương Tây lo ngại và làm cho chiến tranh lạnh càng căng thẳng thêm.
______________
Những
người Marxist-Leninist coi học thuyết của mình là khoa học, họ cố gắng phân
tích kinh nghiệm của mình và học hỏi qua những sai lầm, không chỉ trong cách
hiểu mục đích cuối cùng, mà theo họ là không thể hồ nghi, mà còn trong chiến
lược và chiến thuật đấu tranh cho mục đích cuối cùng nữa. Lenin đã học được từ
Marx rằng, để chống lại phản cách mạng thì phải đàn áp một cách không thương
xót toàn bộ cơ cấu mang tính thiết chế của chủ nghĩa tư bản. Sau khi đánh giá
chủ nghĩa xét lại của những người kế nhiệm Stalin, Mao đi đến kết luận rằng,
phá bỏ thiết chế vẫn chưa đủ, cần phải cải tạo chính con người. Dĩ nhiên là,
chủ nghĩa Marx luôn luôn coi việc cải tạo con người là mục đích tối thượng và
cuối cùng. Nhưng Mao lại quyết định rằng, đấy là việc phải làm ngay, ông ta đã
buộc cả hệ thống quản lý của mình phải biến cái mục đích ấy thành hiện thực.
Trung Cộng
đã thiết lập chế độ toàn trị gần giống với mô hình Xô Viết. Ban đầu Mao đã sao
chép chính sách kinh tế của Stalin, ông ta cũng tiến hành tập thể hoá nông
nghiệp và thực hiện kế hoạch công nghiệp hoá năm năm. Dĩ nhiên là có những khác
biệt. Một trong những khác biệt đó là: nền chuyên chế Xô Viết, hậu duệ của chế
độ Sa hoàng, không quan tâm đến việc thần dân của họ nghĩ gì, miễn là họ tỏ vẻ
nhất trí và giả đò làm tín đồ là được; Trung Cộng kiên quyết đạt cho bằng được
sự thống nhất, cả về tri thức lẫn tinh thần, của toàn thể nhân dân*. Cội nguồn
của quan điểm như thế là từ Khổng giáo, một triết thuyết nhấn mạnh đến sự hoàn
thiện và đòi hỏi rằng cơ sở của chế độ cai trị là đạo đức chứ không phải là sự
ép buộc. Nhưng quan điểm đó lại xuất phát trực tiếp từ những lo lắng của Mao
rằng, nếu không cải tổ hoàn toàn trí óc của các thần dân để họ có thể nắm vững
được học thuyết của Marx, của Lenin và của chính ông ta thì Trung Quốc cũng sẽ
có số phận giống như Liên Xô, nghĩa là sẽ rơi vào chủ nghĩa xét lại và sẽ đi
chệch khỏi con đường chân chính.
* Nhiều nhà quan sát cho rằng đặc điểm nổi bật của lòng trung
thành của dân chúng đối với học thuyết được áp đặt bằng bạo lực. Quan niệm sai
lầm như thế có thể là do trong suốt 40 năm đầu tiên, người nước ngoài chỉ nhận
được hầu như tất cả thông tin về Liên Xô từ chính các nguồn của Liên Xô, mà
những nguồn này bao giờ cũng nhấn mạnh sự thống nhất về tư tưởng và lòng trung
thành của tất cả mọi người với ý thức hệ cộng sản. Thực tế hoàn toàn không phải
như thế.
Lý luận
của Mao đã mở đường cho những thí nghiệm không thể tưởng tượng nổi, tất cả đều
thất bại với giá phải trả là sinh mạng của không biết bao nhiêu nạn nhân và sự
thịnh vượng của quốc gia. Các công dân Trung Quốc, đặc biệt là những người lao
động trí óc, bị nghi là có tư tưởng lạc hậu hay chống đối, đều phải học tập
“cải tạo” một cách có hệ thống, thường là trong các trại tập trung, nơi họ phải
trải qua quá trình gọi là “tẩy não”. Đấy là sự tra tấn về mặt tinh thần để buộc
họ phải khuất phục.
Các tiền
đề lý luận như thế cũng là nguyên nhân của chính sách Đại Nhảy Vọt, khởi đầu
vào năm 1958. Mong muốn chứng tỏ cho thế giới thấy rằng Trung Quốc đã tìm được
con đường thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu tốt hơn và nhanh chóng hơn người Nga,
Mao tuyên bố rằng Trung Quốc dự định vượt Anh về sản lượng than và thép trong
vòng năm năm. Để làm điều đó, hơn nửa tỉ người bị lùa vào các “công xã nhân
dân”, nơi người ta vừa làm nông nghiệp vừa tham gia sản xuất công nghiệp trong
những điều kiện sản xuất gia đình cực kì thô sơ. Kế hoạch này, ví dụ điển hình
của việc Mao sẵn sàng bỏ qua hiện thực kinh tế, được xây dựng trên cơ sở của
cái định luật được trình bày trong Quotations from Chairman Mao (Trước
tác của Mao Chủ Tịch - thường gọi là Cuốn sách đỏ của Mao và
là tác phẩm duy nhất lưu hành ở Trung Quốc lúc đó). Định luật này nói rằng nhân
dân Trung Quốc là một tờ giấy trắng (tabula rasa).
Bên cạnh những đặc điểm khác, 600 triệu nhân dân
Trung Quốc còn có đặc điểm là “nghèo nà và trong trắng”. Tưởng như đấy là xấu,
nhưng trên thực tế đấy lại là tốt. Vì nghèo nên muốn thay đổi, muốn hành động,
muốn làm cách mạng. Còn trên một tờ giấy trắng, chưa một vết nhơ nào, ta có thể
viết những chữ tượng hình đẹp nhất và rõ ràng nhất, có thể vẽ những bức tranh
đẹp nhất và rực rỡ nhất[73].
Người ta
đã nói về một dân tộc có lịch sử dựng nước hàng ngàn năm như thế đấy.
Khi người
ta đã quyết tâm thì không khó khăn nào có thể cản trở được: một trong những
khẩu hiệu của đại nhảy vọt nói: “Chúng
ta sẽ dạy cho mặt trời mặt trăng đổi chỗ cho nhau; chúng ta sẽ tạo ra những thiên
đường mới và vùng đất mới cho con người”. Như vậy nghĩa là, chủ nghĩa
Marx, vốn được xây dựng như một học thuyết hoàn toàn duy vật, nhưng nhờ cố gắng
của một nhà độc tài tự nhận là Marxist ở Trung Quốc đã biến thành lý thuyết của
chủ nghĩa duy tâm không tưởng, buộc hiện thực phải khuất phục ý chí của con
người.
Đại nhảy
vọt đã làm cho hoạt động kinh tế gặp rối loạn đến mức người ta phải từ bỏ chính
sách này. Riêng số người chết đủ làm ta kinh hoàng. Sau khi Mao chết, các nhà
nhân khẩu học Mỹ mới có điều kiện tiếp xúc với các tài liệu của Trung Quốc và
họ khẳng định rằng, ít nhất đã có 30 triệu người chết đói, thế mà lúc đó thế
giới không hề hay biết[74].
Nhưng, thất bại không làm Mao nản chí, lòng ham mê làm những việc vĩ đại của
ông ta đã trở thành bệnh hoạn. Năm 1966, cảm thấy ngày càng bị cô lập, Mao phát
động một chiến dịch mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử, lần này là để chống lại
những người lao động trí óc và các quan chức của Đảng mà ông ta sợ là có khả
năng đưa Trung Quốc vào con đường phản bội như Liên Xô. Thanh niên thành phố
được huy động vào các đội Hồng Vệ binh để tiến hành cái gọi là Đại Cách mạng
Văn hoá Vô sản, nhưng đúng hơn phải gọi là cuộc phản cách mạng tai hại về văn
hoá. Việc một nhà cầm quyền vừa bị bệnh vĩ cuồng, vừa muốn khuấy động tinh thần
cách mạng của dân chúng đã làm ngưng đọng hẳn đời sống văn hoá của quốc gia quả
là một sự kiện chưa từng có tiền lệ. Trong suốt mấy năm, Trung Quốc, một trong
những nền văn minh lâu đời nhất, đã bị những đội quân man rợ phá hoại, vì chúng
được dạy rằng bất cứ thứ gì nằm ngoài sự hiểu biết của chúng đều đáng bị đập
tan. Vào lúc cao trào của chiến dịch, các trường học bị đóng cửa, tất cả sách
vở, trừ sách giáo khoa và trước tác của Mao, đều bị tịch thu. Nhạc phương Tây
cũng bị cấm. Hồng Vệ binh bắt các trí thức, nhiều người bị đấu tố, bị tra tấn,
thậm chí bị giết. Hàng ngàn cán bộ Đảng cũng bị hành hạ như thế. Vụ tấn công
vào tri thức như thế chỉ chấm dứt sau khi Mao, năm 1976. Hậu quả là cả một thế
hệ không chỉ thất học mà còn bị què quặt cả về đạo đức lẫn tâm lý.
Mặc dù, ở Trung Quốc bất kì người nào dám lên tiếng phê phán Đại nhảy vọt hoặc Đại Cách mạng Văn hoá đều có thể bị bỏ tù, ở phương Tây lại có một số trí thức bày tỏ cảm tình với sự dã man của Mao và cố gắng tìm sự thông thái trong những cuốn sách vô vị của ông ta.
Đặng Tiểu
Bình, người kế nhiệm Mao, đã đặt dấu chấm hết cho những thí nghiệm man rợ đó.
Năm 1979, ông ta bắt đầu cuộc cải cách chính trị theo đường lối của thị trường
tự do, làm sống lại tinh thần kinh doanh. Kể từ đó, Trung Quốc, về tư tưởng và
hình thức cai trị thì vẫn là nhà nước cộng sản, nhưng đã chuyển sang con đường
tư hữu hoá, nghĩa là, về thực chất đã từ bỏ một trong những nguyên tắc chủ yếu
của chủ nghĩa cộng sản: bãi bỏ tư hữu.
__________________
Các phong
trào và các chế độ cách mạng luôn luôn có xu hướng ngày càng trở thành cấp tiến
hơn, ngày càng tàn nhẫn hơn. Chuyện đó diễn ra là do đáng lẽ sau khi gặp một số
thất bại các nhà lãnh đạo phải xem xét lại các tiền đề biện hộ cho sự tồn tại
của mình thì họ lại tiến hành thực thi các ý tưởng của mình bằng những biện
pháp cứng rắn hơn, vì tin rằng nguyên nhân của thất bại là do thiếu kiên quyết.
Cuối cùng, sau bao nhiêu cố gắng mà kết quả vẫn chỉ là con số không, chế độ
bước vào đoạn mệt mỏi, thế hệ kế tục các cha-già-khai-quốc trở thành những kẻ
tự mãn và sẵn sàng hưởng thụ, nhưng chuyện đó chỉ xảy ra sau khi chế độ đã trải
qua những hình thức phi nhân nhất.
Nếu bản
chất của chế độ Quốc xã thể hiện rõ nhất trong Holocaust [tàn sát hàng loạt
người Do Thái – ND) thì chế độ Khmer Đỏ (1975-1978), hiện thân của chủ nghĩa
cộng sản dưới dạng thuần khiết nhất, cho thấy rõ hình hài của nó sau khi đã
được đưa đến mức độ hoàn thiện. Các lãnh tụ của nó, trên đường đi đến mục đích
của mình là thành lập xã hội công bằng thực sự đầu tiên trên thế giới, đã không
dừng lại trước bất cứ trở lực nào. Để hoàn tất nhiệm vụ này, họ sẵn sàng giết
người, nếu cần thì bao nhiêu người cũng giết. Đấy là biểu hiện của tính kiêu
ngạo vốn là bản chất của hệ tư tưởng cộng sản, biểu hiện của niềm tin vào sức
mạnh vô địch của nhóm tinh hoa trí thức đi theo chủ nghĩa Marx và không chấp
nhận bất cứ giới hạn nào trong việc sử dụng vũ lực để cải tạo xã hội. Kết quả
là sự tàn phá không thể nào tưởng tượng nổi.
Các lãnh
tụ Khmer Đỏ từng du học ở Paris, từng làm quen với quan niệm của Rousseau về
“con người tự nhiên”, cũng như của Frantz Fanon và Jean-Paul Sartre về sử dụng
bạo lực trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa thực dân (“Cần phải giết”, Sartre viết. “Lật đổ thằng Tây nghĩa là kết liễu cùng một
lúc cả kẻ áp bức lẫn người bị áp bức”.) Sau khi trở về vùng núi Đông Bắc
Campuchia, họ đã lập ra các đơn vị vũ trang gắn bó với nhau bằng kỉ luật sắt,
binh lính phần lớn là thanh thiếu niên mù chữ hoặc gần như mù chữ, là con cái
các gia đình nông dân nghèo khổ nhất. Binh lính, thường từ mười hai đến mười bốn
tuổi, bị nhồi sọ liên tục lòng thù hận đối với tất cả những người không giống
họ, nhất là với người thành thị và người thiểu số gốc Việt. Để giáo dục “cái
thú sát sinh và chiến tranh” người ta đã cho chúng làm quen dần, giống như binh
lính SS, bằng cách bắt phải hành hạ và giết các con vật.
Đầu năm
1975 là thời kì hoàng kim của họ, đấy là lúc Khmer Đỏ lật đổ được chế độ Lon
Nol do Mỹ dựng lên và chiếm được thủ đô Phnom Pênh. Đa số dân chúng không có khái
niệm gì về tương lai đang chờ đợi mình, vì Khmer Đỏ vẫn tuyên truyền rằng sẽ
tha cho tất cả những người từng phục vụ chế độ cũ và sẽ đoàn kết tất cả các
giai cấp để chống lại “bọn đế quốc” và địa chủ. Nhưng vừa chiếm được Phnom Penh,
quân Khmer Đỏ lập tức thực hiện chiến dịch đàn áp dự dội nhất. Coi thành phố là
sào huyệt của mọi thứ tội lỗi – “Thành
phố là hắc điếm của bọn phản bội và lừa đảo”, Fanon đã nói như thế -
Khmer Đỏ hạ lệnh cho tất cả mọi người (2,5 triệu dân) phải rời khỏi thủ đô và
các trung tâm đô thị khác. Người tản cư, về các vùng nông thôn, chỉ được mang
theo những gì họ có thể vác trên vai. Sau một tuần, tất cả các thành phố
Campuchia đều đã trở thành chỗ không người. Bốn triệu người, tức là 60% dân số,
lâm vào cảnh lưu đầy, phải sống trong những điều kiện cực kì khó khăn, lao động
nặng nhọc và đói khát. Tất cả các trường trung học và đại học đều đóng cửa.
Tiếp đó
là những vụ thảm sát. Dù khâm phục và học tập Mao trong nhiều lĩnh vực, nhưng
Pol Pot không để mất thì giờ cho việc “cải tạo”, mà lập tức tiến hành thủ tiêu
những người mà ông ta cho là kẻ thù thực sự hay kẻ thù tiềm năng của chế độ
mới: tất cả các công chức và quân nhân của chế độ cũ, các điền chủ, giáo viên,
nhà buôn, tu sĩ Phật giáo và ngay cả công nhân có tay nghề. Những người thuộc
các thành phần như thế bị coi là công dân loại hai và bị tước hết mọi quyền
lợi, kể cả quyền được phát lương thực; họ bị mang đi hành quyết hoặc phải lao
động khổ sai và chết vì kiệt sức. Số nạn nhân có thể chiếm đến hơn hai phần ba
dân số cả nước. Họ thường xuyên bị bắt, bị hỏi cung và tra tấn cho đến khi phải
vu cáo những người khác rồi bị giết. Có những trường hợp toàn bộ gia đình, kể
cả trẻ em, cùng bị hành quyết vì Pol Pot cho rằng tư tưởng đối địch và tình cảm
lạc hậu là do địa vị xã hội, học vấn hoặc nghề nghiệp của người ta mà ra, đấy
là “các loại vi trùng độc hại” sẽ gây ra bệnh dịch. Đảng viên bị nghi là có khả
năng nhiễm bệnh cũng bị thủ tiêu. Quân Việt Nam sau khi đánh đuổi được Khmer Đỏ
đã phát hiện được hàng núi đầu lâu của các nạn nhân.
Nông dân
cũng không được yên thân, họ bị dồn vào các “hợp tác xã”, được xây dựng theo mô
hình Trung Quốc. Nhà nước tịch thu tất cả lương thực thực phẩm do các công xã làm
ra, rồi chất vào kho, như thời các Pharaoh Ai Cập, và phân phối lại theo ý
mình. Trật tự truyền thống ở làng quê bị phá vỡ, lương thực thiếu hụt, nạn đói
xảy ra trên diện rộng sau các vụ hạn hán vào năm 1978-1979.
Số người
bị giết ngày một nhiều thêm. Người ta bị giết chỉ vì đi làm muộn, vì phàn nàn
về khẩu phần ăn, vì phê phán chính phủ hay quan hệ nam nữ trước hôn nhân. Sự dã
man có thể so sánh với tội ác của Quốc xã. Ở biên giới với Việt Nam:
Lính Khmer Đỏ có thể bắt phụ nữ Việt
Nam, hiếp rồi sau đó tống nòng súng hay báng súng vào cửa mình họ. Chúng rạch
bụng phụ nữ có chửa, lôi con ra rồi dùng nó để đập vào mặt người phụ nữ đang hấp
hối. Bọn thanh niên còn tìm thú vui bằng cách cắt vú những phụ nữ Việt Nam có
thân hình đồ sộ”[75].
Có tin
nói rằng có những trường hợp chúng bắt trẻ con giết chính cha mẹ mình.
Số người
bị giết làm người ta hoảng sợ. Theo các số liệu có thể tin cậy được, dân số
Campuchia trước khi quân Khmer Đỏ chiếm được chính quyền là 7,5 triệu người,
đến khi Việt Nam đánh đuổi được Khmer Đỏ, cuối năm 1978, dân số nước này đã
giảm xuống chỉ còn 5,8 triệu người. Nếu để phát triển tự nhiên, sau bốn năm số
dân đáng lẽ phải là hơn 8 triệu[76].
Nói cách khác, chế độ Pol Pot đã làm thiệt mạng khoảng 2 triệu người, tức là
hơn một phần tư dân số cả nước. Nạn nhân chủ yếu là những thành phần có học và
có tay nghề cao. Cuộc thí nghiệm đen tối này được gọi là “tai hoạ gần như vô
tiền khoáng hậu của nhân loại, nó có thể xảy ra là vì các lý thuyết gia đã áp
đặt kế hoạch khổng lồ của mình cho dân tộc Khmer”[77]*.
* Một số trí thức phương Tây không muốn lên án cộng sản vì vụ tàn
sát chưa từng có này, mà lại đổ cho người Mỹ. Trong giai đoạn 1969– 1973, Mỹ đã ném bom Campuchia nhằm tiêu diệt lực
lượng Việt Cộng đang đóng ở nước này. Nhưng thật khó hiểu vì sao lóng hận thù Mỹ
lại dẫn đến vụ tàn sát hai triệu người của chính dân tộc mình.
Cần phải
nói rằng trên khắp thế giới đã không có một cuộc biểu tình phản đối nào và Liên
Hợp Quốc cũng không đưa ra nghị quyết lên án nào. Thế giới đã tỏ ra bình thản
vì người ta cho rằng các tội ác đó được thực hiện nhân danh những mục đích cao
cả.
_____________
Chế độ
theo đường lối Marxist của Salvador Allende ở Chile trong những năm 1970-1973
là một trường hợp đặc biệt, tức là người ta định thực hiện một cuộc cách mạng
cộng sản trong một nước dân chủ và bằng những biện pháp dân chủ.
Đảng Dân
chủ Thiên chúa giáo nắm quyền ở Chile trong suốt những năm 1960, lãnh tụ của
họ, Eduardo Frei Montalva, đã thực hiện chính sách cấp tiến trong cả lĩnh vực
kinh tế lẫn xã hội. Cụ thể, Frei đã tiến hành cải cách ruộng đất, trưng mua
ruộng của các điền chủ lớn. Frei cũng quốc hữu hoá phần lớn ngành công nghiệp
khai thác mỏ. Các biện pháp này đã dẫn đến kết quả là xã hội bị chia rẽ, phái
hữu cho rằng các biện pháp đã đi quá xa trong khi phái tả lại cho rằng chưa đủ.
Chính phủ Frei còn bị nạn lạm phát làm mất lòng dân thêm, trước cuộc bầu cử
diễn ra vào năm 1970, lạm phát đã là 37%.
Trong
cuộc bầu cử năm đó, ba ứng viên Tổng thống nhận được số phiều gần như bằng
nhau. Bác sĩ Salvador Allende, người theo quan điểm Marxist, đại diện cho Đảng
Thống nhất Dân tộc, Liên minh Cộng sản và Xã hội chủ nghĩa nhận được nhiều
phiếu nhất (36,3%). Người thứ hai, ứng viên bảo thủ, nhận được 34,9% phiếu bầu.
Vì không ứng viên nào giành được đa số nên vấn đề được đưa ra giải quyết tại
Quốc hội. Trong hai tháng sau đó, Allende đã kí thoả thuận với Đảng Dân chủ
Thiên chúa giáo để đảng này ủng hộ ông với điều kiện là ông chấp nhận tuân thủ
Hiến pháp Chile, trong đó có việc tôn trọng pháp luật và bảo đảm đa nguyên
chính trị. Sau khi đưa điều đó vào Luật về việc bảo vệ Hiến pháp, Quốc hội
Chile đồng ý để Allende giữ chức Tổng thống.
Như vậy
là khởi kì thuỷ “con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội” do Allende lựa chọn đã có
những rào chắn, cản trở việc thực hiện các cải cách cấp tiến của những người xã
hội chủ nghĩa và cộng sản đã bầu cho ông ta. Tuy là người hâm mộ Fidel Castro,
nhưng dường như Allende chỉ là một người mộng mơ lý tưởng chứ không phải là một
nhà cách mạng cuồng tín. Trong khi đó, những người giáo điều ủng hộ ông ta
quyết tâm thiết lập “chuyên chính vô sản” theo mô hình Liên Xô lại cứ cố đẩy
ông sang phía tả, mỗi khi ông gặp thất bại, làm cho ông càng ngày càng trở
thành cấp tiến hơn. Allende cho rằng có thể đạt được các mục tiêu xã hội chủ
nghĩa bằng những biện pháp hòa bình, với điều kiện là những cuộc cải cách đang
được tiến hành sẽ càng ngày càng được nhiều người ủng hộ hơn. Đảng Cộng sản ủng
hộ chiến lược này, vì họ tin rằng ở Chile, họ có thể đạt được mục tiêu bằng con
đường hoà bình. Nhưng điều đó đã không xảy ra, một phần vì các đạo luật xã hội
chủ nghĩa do Allende ban hành đã làm cho đa số dân chúng càng ngày càng xa lánh
ông, phần khác, là vì các đạo luật đó đã làm cho nền kinh tế suy sụp hoàn toàn.
Trong
“Chính phủ thống nhất dân tộc”, Allende giao cho những người cộng sản lãnh đạo
các bộ kinh tế, những người này lập tức tiến hành quốc hữu hoá những gì còn sót
lại trong ngành khai khoáng, hệ thống ngân hàng và phần lớn ngành công nghiệp
chế biến. Các biện pháp này đều được thực hiện trên cơ sở những chỉ thị nhằm
tránh né cơ quan lập pháp. Việc tịch thu tài sản các mỏ đồng của công ty
Anaconda & Kennecott đã chặn đứng việc đầu tư của các công ty ngoại quốc.
Liên Xô lập tức ra tay nghĩa hiệp, bằng cách cung cấp cho Allende một khoản vay
lên đến nửa tỷ USD. Một số nước khác cũng đề nghị giúp đỡ, nhưng vẫn không cứu
được nền tài chính đã tan hoang của Chile. Để có tiền trang trải cho các khoản
chi tiêu khác nhau, trong đó có việc nâng lương, chính phủ đành phải quay về
với máy in tiền, dưới thời Frei lạm phát chưa bao giờ đạt mức độ như thế: số
tiền mới được tung ra trong ba năm cầm quyền của Allende đã tăng lên đến mười
lăm lần, còn lạm phát tăng lên đến 300% chỉ trong một năm.
Cùng với
quá trình quốc hữu hoá các xí nghiệp công nghiệp, chính phủ còn tiến hành tập
thể hoá trong lĩnh vực nông nghiệp. Để thực hiện mục tiêu này, chính phủ đã tỏ
ra dễ dãi trước các vụ chiếm đất, thậm chí còn khuyến khích những việc như thế.
Kết quả, sản xuất lương thực giảm sút nghiêm trọng, sản lượng lúa mì giảm một
nửa. Thiếu hụt lương thực trở thành trầm trọng: trước ngày chính phủ Allende
sụp đổ, dự trữ bột mì của cả nước chỉ còn đủ dùng trong bốn ngày.
Các cuộc
biểu tình phản đối ngày một nhiều hơn. Mạnh mẽ nhất là các chủ nhân xe tải, đây
là các chủ doanh nghiệp nhỏ phản đối kế hoạch của chính phủ đưa công ty vận tải
quốc doanh ra cạnh tranh với họ. Hai cuộc đình công với 700 ngàn người tham gia
đã làm ngưng trệ hoàn toàn hệ thống giao thông, rất nhiều ngành kinh tế vì thế
cũng không thể hoạt động được. Trong các nước cộng sản chính cống, những hành
động như thế sẽ bị coi là âm mưu phản cách mạng, theo chỉ đạo của CIA và bị đàn
áp. Nhưng Chile dưới quyền Allende, dù chính phủ kiểm soát đài phát thanh và
phần lớn báo chí, tự do ngôn luận vẫn còn mạnh, đàn áp có thể dẫn đến bạo loạn
trong toàn quốc. Các đảng đối lập vẫn hoạt động và tiếp tục chỉ trích chính
phủ. Điều quan trọng là quốc hội và toà án tối cao vẫn hoạt động.
Tháng 8
năm 1973, Hạ viện thông qua nghị quyết kết luận rằng Allende vi hiến, bằng cách
tự ý giành quyền lập pháp, coi thường pháp luật và gây cản trở tự do ngôn luận
với 81 phiếu thuận và 45 phiếu chống. Toà án tối cao cũng ra phán quyết lên án
Allende vì đã buộc các cơ quan tư pháp phục vụ mục đích chính trị. Vì trong
Hiến pháp Chile không có điều khoản luận tội và cách chức Tổng thống
(Impeachment) nên Hạ viện đã đề nghị quân đội khôi phục luật pháp quốc gia.
Mười tám ngày sau, quân đội, đứng đầu là tướng Augusto Pinochet, đã dùng vũ lực
lật đổ Allende*. Nền độc tài được thành lập sau đó đã thực hiện những vụ khủng
bố dã man nhắm vào những người xã hội chủ nghĩa và cộng sản thua cuộc.
*
Trái với tin đồn vẫn thịnh hành, CIA không có vai trò gì trong việc hạ bệ
Allende. Chính phủ Hoa Kì và các công ty tư nhân đã tìm cách giúp đỡ những lực
lượng phi cộng sản trong cuộc bầu cử năm 1970 bằng cách giúp đỡ về tài chính, để
cân bằng với những khoản việc trợ của Liên Xô và Cuba cho Allende. Sau này
Washington cũng trợ giúp tài chính cho báo chí chí độc lập với chính phủ, nhưng
tiếp xúc với các quân nhân lật đổ Allende thì không. Đây hoàn toàn là công việc
nội bộ của Chile. Xem thêm James R. Whelan, Out
of the Ashes (tạm dịch: Thoát khỏi đống
tro tàn), Washington, DC, 1989, р. р. 1027–1048.
__________________
Cuba là
nhà nước cộng sản đầu tiên và duy nhất đứng vững được ở châu Mỹ Latin, đây là
trường hợp điển hình về nền độc tài cá nhân của một chính khách có tính háo
danh vô bờ bến, người đã dùng tư tưởng cộng sản để biện hộ cho tính háo danh
của mình. “Về mặt lịch sử… chủ nghĩa
Castro là lãnh tụ đi tìm cho mình một phong trào, phong trào đòi quyền lực và
quyền lực đang tìm hệ tư tưởng riêng của mình”[78].
Trái với
các quan niệm vẫn thịnh hành, Cuba thời tiền cộng sản không phải là nước lạc
hậu cũng chẳng phải là nước chủ yếu sống bằng nông nghiệp. Mức sống của người
dân đứng thứ hai ở châu Mỹ Latin (chỉ sau Venezuela có trữ lượng dầu mỏ lớn);
dân chúng đa số đều biết đọc biết viết và sống ở thành phố*. Nói rằng nền kinh
tế Cuba dựa vào đường là cũng không đúng: đường, trên thực tế, là sản phẩm xuất
khẩu chủ yếu nhưng chỉ chiếm một phần ba, thậm chí ít hơn một phần ba, thu nhập
quốc dân. Nói cách khác, Cuba không phải là nước nghèo nàn và lạc hậu, những
thứ vốn được coi là tiền đề cho cách mạng cộng sản.
*
Sự phát triển của các sự kiện ở Chile và Cuba dường như trái ngược với những điều
đã được trình bày ở đầu chương này, tức là cộng sản thường thành công ở những
nước không có chế độ tư hữu và chưa biết tới dân chủ. Nhưng ở hai nước này, cộng
sản giành được quyền lực không phải bằng cách mạng xã hội. Ở Chile, họ đã thiết
lập được chính phủ bằng con đường hòa bình, trên cơ sở thỏa thuận với đảng Dân
chủ Thiên chúa giáo, và họ đã lập tức vi phạm thỏa thuận này. Ở Cuab, như sẽ được
chỉ ra sau đây, họ giành được quyền lực vì đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của toàn
dân, chống lại nhà độc tài bị nhân dân căm thù nhằm phục hồi chế độ dân chủ.
Cộng sản
chiếm được Cuba là do các cuộc khởi nghĩa do giai cấp trung lưu nổi lên chống
lại chế độ độc tài của F. Batista, vì năm 1952 ông ta đã bãi bỏ hiến pháp do
chính ông ta công bố trong giai đoạn cầm quyền hợp pháp trước đó (1933-1944).
Fidel Castro là con một điền chủ giầu có, sinh viên đại học luật La Habana, đã
giành được quyền lực trong làn sóng phản đối đó. Là người có tư tuởng tả
khuynh, nhưng phải nói rằng ông ta không phải là cộng sản: hơn thế nữa, ông ta
chẳng có có tư tưởng gì, ông ta chỉ là kẻ đam mê quyền lực mà thôi. Chủ nghĩa
Marx-Lenin là do Che Guevara, nhà cách mạng người Argentina, nhồi nhét cho ông
ta. Cương lĩnh của Castro nhắm đến sự đoàn kết tất cả các giai cấp xung quanh
ông ta, nhấn mạnh, trước hết, nhu cầu phục hồi hiến pháp 1940.
Nhưng,
ngay sau khi giành được quyền lực độc tài, vốn là kết quả của cuộc cách mạng
toàn dân, Castro lập tức “ngả” sang phía tả. Ông ta thiết lập chính phủ độc
đảng, rồi thực hiện cải cách ruộng đất mang tính cấp tiến và sau khi được Liên
Xô khuyến khích, ông ta đã tiến hành quốc hữu hoá tất cả tài sản các công ty Mỹ
trên đất Cuba, Tổng thống Eisenhower đáp trả bằng biện pháp cấm vận thương mại.
Cấm vận càng làm cho Cuba lệ thuộc vào Liên Xô hơn. Ban đầu, tuy ủng hộ Castro,
nhưng Moskva vẫn tỏ ra thận trọng và dè chừng trước phản ứng của Mỹ, nhưng rồi
đã bị lôi kéo vào đường lối của Cuba, nhất là sau khi Castro tuyên bố, Cuba là “nước xã hội chủ nghĩa”. Thất bại của
vụ xâm nhập Vịnh Con Lợn do Mỹ tổ chức (tháng 4 năm 1961), rồi vụ khủng hoảng
trên vùng biển Caribê (tháng 10 năm 1962) đã dẫn đến kết quả là Washington buộc
phải tôn trọng chủ quyền của Cuba và hòn đảo này trở thành một phần của khối Xô
Viết. Trong thời gian diễn ra khủng hoảng, Fidel từng yêu cầu Liên Xô tấn công
phủ đầu Mỹ bằng vũ khí nguyên tử, nhân danh chiến thắng của sự nghiệp “xã hội
chủ nghĩa”[79]
trên toàn thế giới - ông ta sẵn sàng hy sinh đất nước Cuba. Moskva trở thành
chỗ dựa kinh tế chủ yếu của Cuba, Liên Xô mua phần lớn số đường do Cuba sản
xuất với giá cao hơn thị trường thế giới, và cung cấp cho nước này dầu lửa và
rất nhiều loại hàng hoá công nghiệp khác, cũng như các khoản vay khá hào phóng.
Theo các số liệu do Raul Castro, em trai Fidel, cung cấp, thì trước khi sụp đổ,
Liên Xô đã viện trợ không hoàn lại cho Cuba thiết bị quân sự trị giá 10 tỷ USD.
Về kinh tế, Cuba gần như phụ thuộc hoàn toàn vào Liên Xô.
Đổi lại,
Castro ủng hộ mọi hành động của Liên Xô trên trường quốc tế, từ vụ can thiệp
vào Tiệp Khắc cho đến vụ xâm lược Afghanistan; ông ta cũng để cho Moskva đặt
các trạm tình báo chuyên nghe trộm và lãnh trách nhiệm truyền bá chủ nghĩa cộng
sản vào Trung và Nam Mỹ. Tại đại hội thành lập ở La Habana năm 1967, Tổ chức
đoàn kết Mỹ Latin (OLAS) ra lời kêu gọi tiến hành chiến tranh du kích tại tất
cả các nước Mỹ Latin.
Ở trong
nuớc, Fidel áp dụng chế độ theo đúng mô hình Liên Xô. Trong vòng mười năm sau
khi ông ta cầm quyền, tất cả các lĩnh vực kinh tế, trừ ngành nông nghiệp, đều
bị quốc hữu hoá, chỉ một phần ba ngành nông nghiệp còn nằm trong tay các điền
chủ nhỏ và trung bình. Đảng nắm độc quyền cai trị đất nước.
Công nhân
bị buộc phải tham gia các tổ chức công đoàn do nhà nước quản lý, công nhân bị tước
quyền thành lập các tổ chức độc lập, không được quyền đàm phán với người sử
dụng lao động và không được quyền đình công. Có một số thành tựu đáng kể trong
lĩnh vực xã hội, như giáo dục, y tế và nhà ở, nhưng chủ yếu là do tài sản tích
cóp được trong thời tiền cộng sản. Bất đồng ý kiến được giải quyết theo hai
cách: cho xuất ngoại phần lớn tầng lớp trung lưu và tổ chức các toà án cách
mạng, cũng như các trại “cải tạo lao động” theo mô hình Liên Xô.
Mặc dù
thần thánh hoá lãnh tụ là việc “thường ngày” của cộng sản, nhưng phần lớn các
lãnh tụ cộng sản, giống như thánh thần, lại không thích xuất đầu lộ diện. Nhưng
đấy không phải là trường hợp của Castro: ông ta hiện diện khắp nơi, buộc quần
chúng phải nghe ông ta thuyết phục, động viên, đe doạ nhiều giờ đồng hồ liền.
Lời lẽ khoa trương của ông ta thường nhấn mạnh xu hướng bài Mỹ, ông ta coi Mỹ
là cội nguồn của cái ác và là nguồn gốc của tất cả những khó khăn của Cuba.
Mức sống
của dân chúng liên tục giảm, một phần là do sự phản đối một cách thụ động của
công nhân và nông dân, một phần là do những người năng động và có học đã di cư
sang Mỹ. Chế độ hoàn toàn phụ thuộc vào sự giúp đỡ của Liên Xô.
Những
tưởng như với tình hình như thế, sau khi Liên Xô tan rã và chính phủ Yeltsin từ
chối giúp đỡ thì chế độ của Castro chắc chắn sẽ cáo chung. Nhưng, hoá ra ông ta
đã vượt qua được. Để có thể sống còn, ông ta buộc phải nhượng bộ các nhà tư sản
nước ngoài, buộc phải tạo cho họ một số điều kiện đầu tư nhất định. Đồng USD
được tự do lưu chuyển. Chế độ đã phải tìm mọi cách để phát triển ngành du lịch,
chế độ không những tìm mọi cách quảng bá các bãi biển và khu nghỉ dưỡng giá rẻ
mà còn quảng bá cả sắc đẹp và sự dễ dãi của các cô gái Cuba nữa. Năm 1992,
trong bài phát biểu trước Quốc hội, Castro còn ca ngợi cả tính ưu việt của gái
điếm địa phương, ông ta tuyên bố rằng Cuba là nước có tỉ lệ người mắc bệnh AIDS
thấp nhất thế giới. Nhờ những chiến dịch như thế, năm 1999 đã có 1,7 triệu du
khách tới Cuba, làm cho nước này trở thành “một trong những địa chỉ nổi tiếng
nhất cho các sex-tour, chẳng khác gì Thái Lan”[80].
__________________
Nếu trong
những giai đoạn đầu, người ta còn thấy ở Mao, thậm chí ở cả Pol Pot, một vài lý
tưởng xã hội chủ nghĩa nào đó, thì ở các phần khác của Thế giới Thứ ba, đặc
biệt là ở châu Phi lòng đam mê lý tưởng hoàn toàn vắng bóng. Các chính khách
háo danh ở đây chỉ có những hiểu biết tối thiểu về chủ nghĩa cộng sản và lịch
sử của phong trào này, họ viện đến Marx và Lenin nhằm hai mục tiêu: làm giàu cá
nhân và nhận viện trợ của khối cộng sản trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù cả
bên trong lẫn bên ngoài.
Mengistu
Haile Mariam của Ethiopia, kẻ, trong giai đoạn từ 1974 đến 1991 đã biến nước
mình thành tay sai của Liên Xô, là thí dụ điển hình của lối hành xử bịp bợm đó.
Vốn là thành viên của một nhóm sĩ quan quân đội bất mãn vì con đường hoạn lộ,
tháng 9 năm 1974, thiếu tá Mengistu tham gia vào một cuộc bạo loạn lật đổ quốc
vương Haile Selassie. Chính quyền rơi vào tay uỷ ban gọi là Derg,
Mengistu là một nhân vật quan trọng của uỷ ban này. Chẳng bao lâu sau, xung đột
bùng lên ngay trong nội bộ Derg, ba tháng sau, Mengistu tiến hành đảo
chính quân sự và giành được quyền lực. Ông ta tuyên bố Ethiopia là nước xã hội
chủ nghĩa và ngay lập tức tiến hành quốc hữu hoá các ngân hàng và các công ty
bảo hiểm. Tháng 3 năm 1975, ông ta huỷ bỏ quyền tư hữu ruộng đất và buộc nông
dân phải ra nhập các công xã được xây dựng theo mô hình của Mao.
Năm 1976,
Mengistu khởi sự cuộc “khủng bố đỏ”: rất nhiều nạn nhân, hàng ngàn người, vốn
là sinh viên theo trường phái Marxist. Khoảng mười ngàn nhân viên các cơ quan
đặc vụ của Liên Xô và Đông Đức được gửi tới để giúp tiến hành chiến dịch giết
người này. Trước đó, Liên Xô, bằng cách ủng hộ chế độ “chủ nghĩa xã hội khoa
học” do tập đoàn quân phiệt dựng lên ờ Somalia, đã chiếm được tiền đồn ở vùng
Sừng châu Phi, nay bỏ rơi nước này để chuyển sang ủng hộ Ethiopia. Năm 1977,
khi quân Somalia xâm nhập Ethiopia nhằm chiếm vùng Agadena, khối cộng sản đã
dành cho nước này một sự giúp đỡ to lớn, trong đó có việc gửi tới đây gần 15
ngàn lính đánh thuê Cuba. Nhờ sự trợ giúp quân sự đó mà khối cộng sản giành
được ảnh hưởng đáng kể ở Ethiopia. Sự giúp đỡ của khối cộng sản đóng vai trò
quyết định trong việc giáng trả cuộc xâm lược của Somalia, cũng như đàn áp
phong trào giải phóng dân tộc ở Eritrea.
Nền kinh
tế vốn đã suy sụp do chính sách tập thể hoá cưỡng bức, lại còn bị những trận
hạn hán liên tiếp hoành hành, kết quả: trong các năm 1984-1985 đã xảy ra nạn
đói với gần một triệu người thiệt mạng. Địa vị của Mengistu lung lay ngay sau
khi Đông Đức sụp đổ vào năm 1989; năm 1991, sau khi Liên Xô tan rã ông ta rơi
vào tình trạng cô lập hoàn toàn. Bị lật đổ ngay trong năm 1991, ông ta phải
chạy sang tị nạn ở nước Zimbabwe. Thế là chấm dứt câu chuyện về “thí nghiệm
Marxist-Leninist thành công nhất ở châu Phi”[81].
Ngoài chế
độc tài quân sự tàn nhẫn bắt chước Liên Xô và Trung Quốc, nhưng được cải biến
cho phù hợp với nhu cầu chính trị, thật khó tìm thấy bất cứ dấu hiệu gì của cái
gọi là chủ nghĩa xã hội trong cái nước mệnh danh là “xã hội chủ nghĩa này”.
_____________
Trong
những năm 1970 và 1980, trong Thế giới Thứ ba cũng như ở châu Âu và Nhật Bản đã
xuất hiện các phong trào khủng bố, tấn công vào các thiết chế dân chủ và chủ
nghĩa tư bản, nhân danh chủ nghĩa Marx-Lenin, Stalin hay Mao, mặc dù trên thực
tế, các phong trào này có nhiều điểm chung với chủ nghĩa vô chính phủ hơn.
Điển hình
là Đảng Cộng sản Peru, thường được biết đến với tên “Con Đường Sáng”, do
Abimael Guzmán Reynoso, một cựu giáo sư triết học thành lập, có nhiều trí thức
trẻ tham gia. Đảng này chuyên kích động sự bất bình của người da đỏ và dùng
khủng bố như là biện pháp thực hiện cương lĩnh Maoist của mình. Các vụ khủng bố
do Đảng này thực hiện đã làm 25 ngàn người thiệt mạng và gây ra nhiều thiệt hại
cho nền kinh tế Peru. Năm 1992, Guzmán bị bắt, phong trào hoàn toàn tan rã.
Trong một
loạt nước châu Mỹ Latin khác, ví dụ như Columbia, “chủ nghĩa Marx” đã và vẫn là
bình phong che đậy cho các băng đảng vũ trang (gọi là Lực lượng Vũ trang Cách
mạng và Quân đội Giải phóng Quốc gia) chuyên khủng bố, bắt cóc, tống tiền và
buôn lậu ma tuý. Theo các tài liệu hiện có, từ năm 1964 đến nay, hai tổ chức
này đã làm 120 ngàn người Columbia thiệt mạng và 2 triệu người khác phải rời bỏ
nhà cửa.
_________________
Có thể
thấy sự tương đồng đáng kinh ngạc giữa những nước cộng sản không chỉ trong cách
thức thành lập chế độ mà cả trong những hậu quả do các chế độ ấy gây ra. Mức
sống suy giảm đáng kể kéo theo nạn đói, hạn hán dường như cũng có một mối liên
hệ siêu nhiên nào đó với các chế độ cộng sản. Việc bãi bỏ quyền tự do và quyền
công dân nhân danh công bằng, bao giờ cũng kéo theo sự xuất hiện một lãnh tụ
tối cao, gọi là đại nguyên soái hay leader maximo, tập trung trong
tay tất cả quyền lực mà ông ta đã tước đoạt của các thần dân và được các thần
dân coi là thánh sống. Cái thành quả như thế rõ ràng là trái ngược hẳn với quan
điểm của chủ nghĩa Marx, theo đó, chủ nghĩa cộng sản là kết quả hoạt động của
các lực lượng kinh tế phi cá tính và là tác nhân vun đắp một nền tự do vô bờ
bến cho tất cả mọi người.
VI. Nhìn lại
Chủ nghĩa Marx là một giấc mộng hão huyền vĩ đại nhất thế kỷ (XX)[82].
Đã đến lúc trả lời cho câu hỏi được nêu ra ngay
trong lời nói đầu: đâu là nguyên nhân thất bại của chủ nghĩa cộng sản – thực
thi sai hay nó có những khiếm khuyết thuộc về bản chất? Các bằng chứng lịch sử
nghiêng hẳn về vế thứ hai. Chủ nghĩa cộng sản không phải là một hệ tư tưởng
tốt, bị người ta đối xử không đúng, mà là một hệ tư tưởng sai ngay từ
đầu.
Từ năm 1917, nghĩa là từ khi những người
Bolshevik cướp được chính quyền ở nước Nga, mưu toan xây dựng xã hội theo các
nguyên tắc cộng sản đã được lặp đi lặp lại hàng chục lần trên khắp thế giới.
Moskva hào phóng giúp đỡ cả về tiền bạc lẫn vũ khí và định hướng. Nhưng rồi tất
cả đều thất bại. Cuối cùng, chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ ngay ở nước Nga và hôm
nay, nó chỉ còn tồn tại trong mấy nước: Trung Quốc, Bắc Hàn, Việt Nam và Cuba,
nhưng ở đây nó cũng đang trong quá trình phân rã; để giữ chính quyền, cộng sản
đã phải nhượng bộ rất nhiều. Kết quả của cuộc thí nghiệm đáng buồn đó cho phép
ta giả định rằng các tiền đề hay cương lĩnh cộng sản hoặc cả hai đều có những
khiếm khuyết không thể khắc phục được.
Trước hết hãy xem xét sự tan rã của Liên Xô, nhà
nước cộng sản đầu tiên và cũng là động cơ chủ yếu của toàn bộ phong trào cộng
sản quốc tế. Các nghiên cứu được công bố sau năm 1991 đã đưa ra hàng loạt
nguyên nhân: kinh tế trì trệ, công dân Liên Xô có điều kiện tiếp xúc với các
nguồn thông tin nước ngoài, thất bại ở Afghanistan, không đủ sức theo đuổi cuộc
chạy đua vũ trang v.v… Chính quyền bất lực trước phong trào bất đồng chính kiến
ở trong nước và sau đó, phong trào Đoàn kết ở Ba Lan đã làm cho tinh thần ban
lãnh đạo Liên Xô suy sụp. Lời thách thức chủ nghĩa cộng sản do Tổng thống
Reagan tung ra đã làm cho ban lãnh đạo Liên Xô, những người vẫn tin rằng sau
thất bại ở Việt Nam người Mỹ sẽ không còn hứng thú với chiến tranh lạnh nữa và
sẽ lui về chủ nghĩa biệt lập, càng thêm lúng túng. Không nghi ngờ gì rằng tất
cả các sự kiện đó đều có vai trò nhất định. Nhưng chúng không thể làm sụp đổ
được một đế chế đầy tiềm lực, nếu như đấy là một cơ thể khoẻ mạnh. Chúng chỉ
phát huy tác dụng với một cơ thể ốm yếu mà thôi.
Chủ nghĩa Marx, cơ sở lý luận của chủ nghĩa cộng
sản đã mang sẵn trong mình hạt giống của sự tự huỷ, tương tự như các hạt giống
mà Marx và Engels đã nhận thấy, một cách sai lầm, trong chủ nghĩa tư bản. Chủ
nghĩa Marx hình thành trên một triết lý sai lầm về lịch sử và một học thuyết tâm
lý phi thực tế.
Luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Marx về sở hữu tư
nhân là hoàn toàn sai. Luận điểm này cho rằng sở hữu tư nhân, mà nó cố gắng
tiêu diệt, là một hiện tượng lịch sử nhất thời, chỉ tồn tại trong giai đoạn
chuyển tiếp giữa chủ nghĩa cộng sản nguyên thuỷ và giai đoạn sau chót của nó mà
thôi. Các chứng cớ hiện có đều chứng tỏ rằng đất đai, nguồn gốc chủ yếu của tài
sản vào thời tiền sử, nếu không nằm trong tay nhà vua thì cũng nằm trong tay
các bộ lạc, gia đình hay cá nhân riêng lẻ. Gia súc cũng như thương mại và vốn
liếng luôn luôn và khắp nơi đều nằm trong tay tư nhân. Từ đó có thể rút ra kết
luận rằng sở hữu tư nhân không phải là một hiện tượng nhất thời mà là một thành
tố thường trực của xã hội và vì thế mà không thể bãi bỏ được.
Quan điểm của chủ nghĩa Marx về khả năng cải tạo
ngay cái bản chất của con người cũng có khiếm khuyết không kém. Quan niệm này
cho rằng, bằng cưỡng ép và giáo dục, có thể tạo ra những con người hoàn toàn
không còn ước mơ sáng tạo, những con người sẵn sàng tan biến vào xã hội, cái xã
hội mà Plato mường tượng: “riêng tư và tư hữu bị loại bỏ khỏi đời sống”. Giả sử
như các chế độ cộng sản, bằng những cố gắng vô bờ bến, có đạt được điều đó thì
họ cũng không thể nào giữ được thành quả. Các chuyên gia huấn luyện thú đều
biết rằng sau một thời gian luyện tập các con thú có thể làm được một số trò,
nhưng nếu để cho tự do thì chúng sẽ quay về với những hành vi tự nhiên. Hơn thế
nữa, các đức tính tốt do học hỏi mà có không có tính di truyền, thế hệ kế tiếp
sẽ bước vào thế giới với những ước mơ không phải là cộng sản và trong số đó, có
ước mơ sáng tạo, một mơ ước không phải là không có ý nghĩa. Cuối cùng, chủ
nghĩa cộng sản đã thất bại vì nó không thể làm thay đổi được bản chất của con
người. Mussolini đã rút ra kết luận như thế vào năm 1920, lúc đó ông ta đã ra
nhập đảng phát xít nhưng vẫn còn cảm tình với cộng sản:
Lenin là một nhà điêu khắc, ông ta làm việc với con người trong khi các
nhà điêu khắc khác làm việc với đá hay kim loại. Nhưng con người lại cứng hơn
đá hoa cương và không thể đúc được như kim loại. Chẳng có tuyệt tác nào cả.
Điêu khắc gia đã thất bại. Nhiệm vụ vượt quá năng lực của ông ta[83].
Thế giới hiện thực đã buộc các chế độ cộng sản
phải coi bạo lực là biện pháp quản lý thường trực. Muốn bắt người ta từ bỏ sở
hữu và hy sinh quyền lợi của mình cho quyền lợi của nhà nước thì phải trao cho
các cơ quan quản lý quyền lực tuyệt đối. Chính Lenin đã hiểu như thế khi nói
rằng “chuyên chính vô sản” là “chính quyền dựa trực tiếp vào bạo lực, không bị
hạn chế bởi bất cứ luật lệ nào, không bị gò bó bởi bất cứ nguyên tắc
nào”.
Kinh nghiệm cho thấy, chế độ như thế có thể tồn
tại được: chế độ này đã được áp đặt lên nước Nga và những nước nằm dưới quyền
kiểm soát của nó như Trung Quốc, Cuba, Việt Nam, Campuchia và một loạt các nước
khác ở châu Phi và châu Mỹ Latin. Nhưng cái giá phải trả là sự đau khổ không
thể nào đo đếm được; những nỗi khổ đau mà nhân dân phải chịu đựng đã làm tiêu
ma mục đích chính của các chế độ này, mà cụ thể là bình đẳng.
Khi biện hộ cho chế độ dựa trên bạo lực, Lenin
tin rằng đấy chỉ là tạm thời và sau khi đã hoàn thành niệm vụ, nhà nước chuyên
chính sẽ cáo chung. Nhưng ông ta đã quên mất rằng cái khái niệm trừu tượng gọi
là “nhà nước” lại bao gồm những con người mà dù vai trò lịch sử của họ có là gì
đi nữa thì họ vẫn có những quyền lợi cá nhân. Mặc dù xã hội học Marxist cho
rằng nhà nước chỉ phục vụ giai cấp hữu sản, bản thân nó không có quyền lợi gì;
nhưng, trên thực tế, chẳng bao lâu sau, các viên chức của nó đã tự tạo ra một
giai cấp mới. “Đảng tiên phong”, tổ chức có sứ mệnh mở đường tiến vào thời đại
mới, trở thành giá trị tự thân và mục đích tự thân.
Nhà nước, đúng hơn phải nói, đảng cộng sản,
không còn cách nào khác hơn là phải nuông chiều giai cấp mới này, vì, nó chính
là lực lượng bảo vệ quyền lực cho đảng. Dưới chế độ cộng sản, tầng lớp quan
liêu phát triển với tốc độ chóng mặt, vì một lý do đơn giản là tất cả các mặt
của đời sống xã hội, trong đó có kinh tế, đều do nhà nước quản lý; để làm được
điều đó, phải có một đội ngũ quan chức đông đảo. Tầng lớp quan liêu này thường
xuyên trở thành lũ dê tế thần trong tất cả các chế độ cộng sản, nhưng không chế
độ nào có thể thoát được họ. Ở Liên Xô, chỉ một thời gian ngắn sau khi cướp
được chính quyền, chế độ đã cung cấp cho các cán bộ chủ chốt của mình những
khoản ưu đãi vô tiền khoáng hậu, chính từ tầng lớp này đã hình thành cái gọi là
nomenclatura, tức là giai tầng đặc quyền đặc lợi thế tập. Lý tưởng bình đẳng đã
chấm dứt như thế đấy. Như vậy nghĩa là, muốn mọi người đều được bình đẳng về sở
hữu thì phải tạo ra bất bình đẳng về quyền lợi. Mâu thuẫn giữa mục đích và
phương tiện đã ăn sâu bén rễ trong lòng chủ nghĩa cộng sản và đời sống của tất
cả các quốc gia, nơi mà nhà nước nắm trọn tất cả các phương tiện sản
xuất.
Phải công nhận rằng thỉnh thoảng người ta lại
tìm cách giải thoát nhà nước và xã hội khỏi gông cùm của bộ máy quan liêu cộng
sản. Lenin và Stalin đã tiến hành các vụ thanh trừng, dưới thời Stalin, các
chiến dịch như thế thường trở thành những vụ giết người hàng loạt. Mao tiến
hành “cách mạng văn hoá” nhằm đập tan ảnh hưởng của các nhân vật quan liêu
trong đảng. Nhưng tất cả đều thất bại. Cuối cùng, bao giờ tầng lớp nomenclatura cũng vẫn chiếm được thế
thượng phong vì thiếu họ thì chẳng thể làm được gì.
Các cuộc thử nghiệm cộng sản bằng con đường dân
chủ cũng đều thất bại. Như kinh nghiệm của Chile dưới thời Allende cho thấy,
nếu còn tự do ngôn luận, nếu còn toà án và cơ quan lập pháp dân cử độc lập thì
mọi sự xâm phạm quyền tư hữu đều không thể tạo ra được kết quả mong muốn vì lực
lượng đối lập, vốn bị đàn áp khốc liệt dưới chính thể “chuyên chính vô sản”, sẽ
có khả năng tổ chức kháng cự. Hàng ngũ đối lập sẽ gia tăng và dễ dàng lật đổ
chính phủ cách mạng. Năm 1990, ở Nicaragua, lực lượng cộng sản-sandinist đang
nắm quyền tin rằng sẽ được đa số dân chúng ủng hộ nên đã tổ chức bầu cử theo
lối phổ thông đầu phiếu; nhân dân đã loại bỏ họ.
Xu hướng quan liêu hoá, vốn là bản chất của các
chế độ cộng sản, cũng là nguyên nhân dẫn tới các thất bại trong lĩnh vực kinh
tế, giúp cho chế độ mau sụp đổ hoặc buộc họ chỉ giữ được cái vỏ cộng sản, nhưng
phải chia tay với tất cả những gì mà cái vỏ đó che đậy. Quốc hữu hoá các phương
tiện sản xuất chỉ dẫn đến kết quả là đã chuyển quyền quản lý tất cả các phương
tiện đó vào tay các quan chức, những người không có kiến thức quản lý và cũng
chẳng có nhu cầu quản lý cho có hiệu quả. Hậu quả tất yếu sẽ là: năng suất lao
động giảm. Ngoài ra, sự thiếu năng động, vốn là bản chất của bộ máy quản lý tập
trung, đã không cho phép nền kinh tế cộng sản phản ứng một cách nhạy bén với
các tiến bộ kĩ thuật; đấy là lý do vì sao Liên Xô đã bỏ qua một loạt các phát
minh công nghệ quan trọng nhất, mặc dù nước này đã đạt được những thành tựu
đáng kể trong lĩnh vực khoa học. Như F. Haeyk đã chỉ rõ, chỉ có thị trường mới
có khả năng nắm bắt và phản ứng tức thời trước các thay đổi trong lĩnh vực kinh
tế. Và chỉ hy vọng trở thành người giàu có mới có thể buộc người ta gắng sức,
tức là buộc người ta cố gắng làm nhiều hơn các nhu cầu đơn giản nhất của mình.
Dưới chế độ cộng sản, các tác nhân như thế đơn giản là không tồn tại, người
càng tích cực thì càng khổ, vì nếu hoàn thành được nhiệm vụ năm nay, thì năm
sau sẽ được giao nhiều hơn.
Chính sách kinh tế của cộng sản gây ra những tổn
thất nặng nề nhất cho lĩnh vực nông nghiệp, vốn là thành phần kinh tế chủ yếu
của các nước nằm dưới quyền cai trị của cộng sản. Việc tịch thu ruộng đất của
tư nhân và sau đó là quá trình hợp tác hoá đã phá vỡ trật tự truyền thống và
lối sống ở làng quê, dẫn đến những vụ chết đói hàng loạt với số lượng nạn nhân
nhiều chưa từng có. Chuyện đó đã xảy ra ở Liên Xô, ở Trung Quốc, ở Ethiopia, ở
Campuchia; mỗi nước đều có hàng triệu người chết vì nạn đói do chính con người
gây ra. Ở Bắc Triều Tiên cộng sản, trong những năm 1990, phần lớn trẻ em bị mắc
những căn bệnh do đói ăn mà ra; theo các số liệu hiện có, trong nửa sau của
thập kỉ 1990, gần hai triệu người Bắc Hàn đã bị chết đói. Ở nước này, tỉ lệ tử
vong ở trẻ sơ sinh là 88 trên 1000, trong khi ở Hàn Quốc là 8 trên 1000; tuổi
thọ của đàn ông Bắc Hàn là 48,9 trong khi ở Hàn Quốc là 70,4. Thu nhập tính
trên đầu người Bắc Hàn là 900 USD, trong khi ở Nam Hàn là 13.700 USD.
Việc chính quyền cộng sản không thể tạo được sự
sung túc và bình đẳng, nghĩa là không đạt được những mục tiêu mà nó công bố,
không phải là mâu thuẫn duy nhất vốn có của chủ nghĩa cộng sản. Mâu thuẫn tiếp
theo phải kể là không có tự do, tự do cùng với sự dư thừa về mặt vật chất và lẽ
công bằng, theo Marx, là những mục đích cuối cùng của xã hội cộng sản. Quốc hữu
hoá tất cả các phương tiện sản xuất đã biến các công dân thành người lao động
làm thuê cho nhà nước, nói cách khác, đã biến họ thành những người phụ thuộc
vào nhà nước. Trotsky viết: “Trong một đất nước mà nhà nước là người sử dụng
lao động duy nhất, đối lập có nghĩa là sẽ chết đói một cách từ từ. Nguyên tắc
cũ: không làm thì không ăn đã bị thay bằng nguyên tắc mới: không tuân phục thì
không ăn”. Nhà nước phải công nhận quyền của công dân đối với tài sản mà
họ sở hữu - và sự tôn trọng đối với quyền sở hữu được thể hiện một cách rõ ràng
– mới bảo đảm được quyền tự do. Vì sở hữu tư nhân là tiêu chuẩn pháp lý được
toà án bảo vệ, điều đó cũng có nghĩa là sự công nhận tinh thần thượng tôn pháp
luật của nhà nước. Nghĩa là, mục đích của cộng sản là bãi bỏ tư hữu nhất định
sẽ dẫn tới tiêu diệt tự do và tôn trọng pháp luật. Việc quốc hữu hoá các phương
tiện sản xuất không giải phóng con người khỏi tình trạng lệ thuộc vào vật chất,
như Marx và Engels mường tượng, mà còn biến họ thành nô lệ của nhà cầm quyền và
vì luôn luôn ở trong tình trạng thiếu thốn cho nên con người càng lệ thuộc vào
quyền lợi vật chất hơn bao giờ hết.
Xin chấm dứt việc khảo sát những cố gắng nhằm áp
dụng chủ nghĩa cộng sản trong biên giới của từng quốc gia ở đây. Trên bình diện
quốc tế, chủ nghĩa cộng sản cũng chẳng khá hơn. Coi chủ nghĩa tư bản là hiện
tượng toàn cầu, những người Marxist khẳng định rằng, thanh toán nó cũng là công
việc của toàn thế giới: khẩu hiệu “Vô sản các nước liên hiệp lại!”, được tung
ra trong tác phẩm Tuyên ngôn cộng sản, năm 1840, được cả những
người xã hội chủ nghĩa lẫn những người cộng sản vồ vập, là phương châm đoàn kết
của những người lao động trên toàn thế giới.
Nhưng sự thống nhất của giai cấp vô sản hoá ra
chỉ là hoang tưởng. Dù tình hữu ái giai cấp có cao đến đâu thì tình yêu quê
hương và giống nòi vẫn luôn luôn giữ thế thượng phong. Hễ bị nước ngoài đe doạ
là tất cả giai cấp lập tức đoàn kết lại. Những người xã hội chủ nghĩa đã học
được bài học này vào năm 1914. Lúc đó, trái với mọi lời thề nguyện, tất cả các
đảng thuộc Quốc tế II, gần như không có ngoại lệ, đểu ủng hộ chính phủ “tư sản”
nước mình và thông qua ngân sách chiến tranh. Lenin học lại bài học này vào năm
1920, lúc đó công nông Ba Lan đã đoàn kết đứng lên bảo vệ đất nước chống lại
Hồng quân xâm nhập vào Ba Lan với mục đích “giải phóng” người lao động khỏi
“bóc lột”. Những chuyện như thế còn xảy ra nhiều lần nữa.
Có điều là, những chuyện như thế không chỉ xảy
ra trong các xã hội gọi là còn giai cấp. Ngay trong các nước do cộng sản nắm quyền,
tức các xã hội được coi là phi giai cấp thì sự thống trị của Liên Xô cũng luôn
làm người ta khó chịu và hễ có điều kiện là họ lại tìm cách thoát ra khỏi tình
trạng như thế. Sự kiện đó diễn ra lần đầu tiên ở Nam Tư, nhưng kịch tính nhất
là ở Trung Quốc. Chưa đầy mười năm sau khi nắm được chính quyền, cộng sản Trung
Quốc đã tuyên bố rằng họ có quyền thực hiện và tuyên truyền mô hình chủ nghĩa
Marx của riêng mình và trong khi khẳng định như thế, họ gần như đã đi đến đối
đầu về quân sự với Liên Xô, nước được coi anh cả và mô hình cần phải theo.
Khmer Đỏ còn tiến xa hơn, khi họ tự coi mình là độc đáo và khẳng định rằng mô
hình cộng sản của họ chẳng có gì chung với cả Nga lẫn Trung Quốc. Phong trào
cộng sản châu Âu cũng hành động tương tự như thế, khi đòi hỏi chủ nghĩa đa
nguyên (“đa trung tâm”), mà đấy là đòi hỏi vào lúc Liên Xô đang ở đỉnh cao
quyền lực của mình.
Chỉ có thể ngăn chặn các lực li tâm như thế bằng một biện pháp: giữ cho các đảng ngoại quốc đó trong tình trạng èo uột, nghĩa là, buộc các đảng đó phải lệ thuộc hoàn toàn vào Moskva; hễ được cử tri ủng hộ là các đảng này lập tức đòi được tự trị, thậm chí là đòi thoát khỏi tình trạng lệ thuộc. Đây là tình thế tiến thoái lưỡng nan: phong trào cộng sản quốc tế sẽ phải ở trong tình trạng cô lập và yếu kém, chỉ là công cụ dễ bảo nhưng thiếu hiệu quả của Moskva, hoặc là nó phải tìm được sức mạnh và gây được ảnh hưởng, nhưng sẽ giải thoát khỏi quyền lực của Moskva và phá vỡ tình đoàn kết của phong trào cộng sản quốc tế. Đây chính là trường hợp mà người ta vẫn nói: không có lựa chọn thứ ba.
Chỉ có thể ngăn chặn các lực li tâm như thế bằng một biện pháp: giữ cho các đảng ngoại quốc đó trong tình trạng èo uột, nghĩa là, buộc các đảng đó phải lệ thuộc hoàn toàn vào Moskva; hễ được cử tri ủng hộ là các đảng này lập tức đòi được tự trị, thậm chí là đòi thoát khỏi tình trạng lệ thuộc. Đây là tình thế tiến thoái lưỡng nan: phong trào cộng sản quốc tế sẽ phải ở trong tình trạng cô lập và yếu kém, chỉ là công cụ dễ bảo nhưng thiếu hiệu quả của Moskva, hoặc là nó phải tìm được sức mạnh và gây được ảnh hưởng, nhưng sẽ giải thoát khỏi quyền lực của Moskva và phá vỡ tình đoàn kết của phong trào cộng sản quốc tế. Đây chính là trường hợp mà người ta vẫn nói: không có lựa chọn thứ ba.
Các khiếm khuyết như thế, vốn là bản chất của
chủ nghĩa cộng sản, đã được nhiều môn đồ nhận ra và đấy chính là lý do cho sự
xuất hiện “chủ nghĩa xét lại” đủ mọi trường phái. Nhưng những người cộng sản
trung kiên lại cho rằng, thất bại không phải là do học thuyết sai mà chỉ chứng
tỏ rằng họ chưa quyết tâm thực hiện mà thôi. Đúng như định nghĩa của George
Santayana: Cuồng tín là những người cố gắng gấp đôi sau khi đã quên mục đích
chính của mình, những người cộng sản đã lao vào những vụ chém giết điên cuồng.
Kết quả là, từ Lenin đến Stalin, từ Stalin đến Mao và Pol Pot, chủ nghĩa cộng
sản đã để lại trên đường đi của mình những biển máu ngày càng lớn hơn.
Nói chung, chủ nghĩa cộng sản đã thất bại và
nhất định thất bại ít nhất là vì hai lý do chính; thứ nhất, để có công bằng,
nghĩa là để đạt được mục tiêu chính của mình, chế độ phải lập ra bộ máy đàn áp
và đến lượt nó, bộ máy này đòi phải có đặc quyền đặc lợi và như vậy tự nó đã
phủ nhận lẽ công bằng; thứ hai, mỗi khi có mâu thuẫn thì lòng yêu quê hương và
nòi giống luôn luôn lấn át tình hữu ái giai cấp, đấy là lý do vì sao chủ nghĩa
cộng sản dễ hoà tan vào chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa xã hội dễ dàng kết hợp
với chủ nghĩa “phát xít”. Nhận thức được điều đó, Đảng Cộng sản Liên bang Nga,
hậu duệ của Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1990, đã từ bỏ khẩu hiệu kêu gọi giai
cấp vô sản toàn thế giới liên hiệp lại.
Nhà xã hội học người Đức, gốc Italy, Robert
Michels, đã dự đoán được bước ngoặt như thế và dự đoán chính xác rằng: “Những
người xã hội chủ nghĩa có thể chiến thắng, nhưng chủ nghĩa xã hội thì không bao
giờ”.
Còn một lý do nữa, cụ thể hơn, theo đó, các chế
độ cộng sản được xây dựng theo sơ đồ của Lenin, về bản chất là mâu thuẫn với
việc thực thi lý tưởng cộng sản. Xuất phát từ luận điểm về sự cáo chung tất yếu
của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn cầu, Lenin đã xây dựng bộ máy quản lý
của mình theo mô hình quân đội. Chế độ cộng sản ở Liên Xô và những kẻ theo đuôi
họ đã thực hiện việc quân sự hoá đời sống xã hội, buộc tất cả đều phải chịu sự
chỉ huy từ trung ương. Cơ cấu như thế sẽ không có khả năng động viên toàn bộ
sức người sức của, cho nên không thể có phản ứng hữu hiệu trước những thách
thức và không thể khuyếch trương ảnh hưởng của nó ra nước ngoài. Nó còn kém
hiệu quả, phải nói là tê liệt, khi phải phản ứng trước những thách thức không
thể giải quyết được bằng quân sự. Khi cuộc cách mạng thế giới mà người ta chờ
đợi không diễn ra, chế độ Xô Viết, trên thực tế, trở thành xơ cứng và cùng với
thời gian đã chạm trán với những khó khăn và đe doạ từ bên trong: thái độ bàng
quan và tính thụ động của quần chúng, dẫn tới sự tuột dốc liên tục của nền kinh
tế và lực lượng quân sự. Muốn giải quyết những khó khăn đó thì phải nới lỏng
dần các biện pháp quản lý.
Nhưng nới lỏng quản lý nhất định sẽ làm lung lay
toàn bộ chế độ vì nó vốn là một tổ chức hoàn chỉnh, nó chỉ có thể tồn tại dưới
sự quản lý tập trung nghiêm khắc nhất. Chỉ cần Gorbachev nới lỏng là trong lòng
chế độ lập tức xuất hiện các vết rạn nứt và chẳng bao lâu sau thì tan vỡ hẳn. Theo
nghĩa này, cộng sản là một chế độ không thể cải tạo được, nói cách khác, nó
không có khả năng thích nghi với những điều kiện đang thay đổi. Sự thiếu năng
động, vốn là bản chất của chủ nghĩa cộng sản, cuối cùng đã dẫn nó đến chỗ sụp
đổ.
______________
Vai trò của hệ tư tưởng, hay nói đúng hơn, vai
trò của cái được gọi là chủ nghĩa Marx-Lenin là một trong những vấn đề gây
nhiều tranh cãi. Một số nhà khoa học cho rằng, tư tưởng chính là lực lượng dẫn
dắt phong trào và các chế độ thoát thai từ phong trào đó, vì vậy, họ đã gọi
Liên Xô và Trung Quốc dưới thời Mao là idiocracy, nghĩa là những hệ thống được
điều khiển bởi các tư tưởng.
Tất nhiên, chủ nghĩa cộng sản không thể xuất
hiện nếu không có huyền thoại về một Thời đai Hoàng kim và nếu không có học
thuyết đề ra chiến lược đưa cái thời đại đầy hạnh phúc đó quay về trái đất, do
Marx lập ra và lần đầu tiên được Lenin đem áp dụng vào cuộc sống. Công nhận
điều đó không có nghĩa là công nhận khái niệm ideocracy, đơn giản là vì mọi tư
tưởng, dù là kinh tế hay chính trị, một khi đã được áp dụng vào cuộc sống thì
nhất định chúng sẽ tạo ra quyền lực và sẽ nhanh chóng trở thành công cụ của
quyền lực đó. Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã được Adam Smith mô tả trong tác
phẩm Wealth of Nations (Của cải của các dân tộc). Nhưng không
ai có thể khẳng định rằng trong hai thế kỷ gần đây các nhà tư bản đã lựa chọn
phương thức hành động dưới ảnh hưởng của quan điểm về “bàn tay vô hình” của
Smith hay đã được dẫn dắt bởi bất cứ luận điểm nào khác trong lý thuyết của
ông. Cảm hứng của ông phù hợp với quyền lợi của các nhà tư sản và vì thế mà họ
chấp nhận, đơn giản chỉ có thế.
Không có cơ sở để khẳng định rằng điều đó cũng
đúng đối với chủ nghĩa Marx-Lenin. Quan điểm cho rằng hàng triệu đảng viên
thường cũng như các quan chức nhà nước tin tưởng tuyệt đối vào lý thuyết do một
nhà kinh tế học người Đức nghĩ ra từ thế kỷ XIX chỉ là quan điểm của một số trí
thức, trong đó dường như có người quả thật tin rằng nhân loại thường bị các hệ
tư tưởng xui khiến. Thời gian đầu, các đảng cộng sản thường có ít đảng viên và
họ cũng luôn bị săn đuổi; đảng viên là người chịu nhiều hiểm nguy chứ không
mong quyền lợi, vì vậy mà, đa số hoàn toàn có thể là do được tư tưởng thúc đẩy.
Nhưng, sau khi đã giành được chính quyền, sau khi có quyền phân chia quyền lợi
cũng như quyết định hình phạt, các đảng đó sẽ tìm được vô số cảm tình viên chỉ
ủng hộ hệ tư tưởng thống trị trên đầu môi chót lưỡi. Cuộc khảo sát được thực
hiện ở Liên Xô năm 1922 cho thấy chỉ có 0,6% đảng viên có bằng tốt nghiệp đại
học và 6,4% có bằng tốt nghiệp trung học. Trên cơ sở các số liệu đó, một nhà sử
học Nga đã đưa ra kết luận: 92,7% đảng viên không đủ kiến thức để thực hiện các
nhiệm vụ mà đảng giao phó (4,7% đảng viên là người mù chữ theo đúng nghĩa đen
của từ này). Năm 1921, Lenin đã phải cay đắng công nhận sự thật này, ông ta đã hạ
lệnh tiến hành “làm trong sạch” để loại bỏ những kẻ “cơ hội”. Cuộc chiến đấu
chống lại cái tất yếu chắc chắn sẽ thất bại ngay từ đầu. Nhà nước càng mở rộng
quyền lực thì lại có nhiều những kẻ háo danh, những kẻ mà danh hiệu đảng viên
chỉ có nghĩa là địa vị và tiền bạc, tìm cách chui vào đảng. Quyền lực và sự tồn
vong của đảng trở thành mục đích chính. Tư tưởng chỉ còn là chiếc là nho che
đậy bản chất thật sự của chế độ: trong khi ba hoa về lòng trung thành với những
lý tưởng cao cả chính là lúc người ta đang theo đuổi những mục đích ích kỉ và
thực hiện những hành động xấu xa nhất.
Năm 1991, khi Liên Xô tan rã, nomenclatura, tức
là những người vẫn được coi là vệ binh cho sự trong sáng của hệ tư tưởng, đã
đầu hàng vô điều kiện và lập tức lợi dụng “tư hữu hoá” để thu vén và biến tất
cả tài nguyên cũng như phương tiện sản xuất của đất nước thành tài sản riêng của
mình. Chuyện đó thật khó xảy ra nếu bộ máy thực sự trung thành với hệ tư tưởng
Marx-Lenin.
Sergei, con của Nikita Khrushchev -
người kế tục Stalin từ năm 1953 đến năm 1964 – trong tiểu sử cha mình đã đưa ra
bằng chứng thú vị chứng tỏ vị trí thứ yếu của ý thức hệ Marxist trong
chính sách của cộng sản. “Ngay từ ngày còn là sinh viên”, Sergei viết:
Tôi luôn cố gắng nhưng vẫn không thể hiểu nổi chủ nghĩa cộng sản chính
xác là gì… Tôi đã xin bố giảng cho nghe, nhưng ông cũng chẳng đưa ra được câu
trả lời rõ ràng. Tôi hiểu rằng chính ông cũng chưa thông lắm”[84].
Nếu ngay cả lãnh tụ của khối cộng sản, nhà tiên
tri không mệt mỏi về thắng lợi của nó trên toàn thế giới, còn không biết giải
thích cho con mình bản chất của chủ nghĩa cộng sản thì còn mong gì ở những đảng
viên thường?
Thái độ vụ lợi - cá nhân và nhà nước – là động
lực của các chế độ cộng sản và cũng chính điều đó đã thủ tiêu lý tưởng bình
đẳng của họ. Các lãnh tụ Liên Xô và Trung Quốc vẫn thường xuyên né tránh các
giáo lý Marxist nếu quyền lợi của họ đòi hỏi phải làm như thế! Năm 1917, Lenin
cho phép công nhân chiếm nhà máy, còn nông dân thì chiếm ruộng đất, mặc dù
những hành động vô chính phủ như thế là hoàn toàn trái với học thuyết Marxist.
Năm 1921, ông ta cho tái lập thị trường lương thực, thực phẩm và sản xuất hàng
tiêu dùng theo lối tư bản chủ nghĩa. Stalin giao cho nông dân một phần ruộng
đất và cho họ được bán sản phẩm theo giá thoả thuận. Trong những năm 1930, ông
ta khuyến khích thành lập ở nước ngoài các mặt trận đoàn kết dân tộc, nghĩa là
khuyến khích cộng sản hợp tác với những người dân chủ-xã hội, kẻ thù không đội
trời chung với chủ nghĩa cộng sản. Khrushchev chuyển từ chiến tranh giai cấp
trên toàn thế giới sang “chung sống hoà bình”. Mao tuyên bố ý chí của con người
có thể thắng được hiện thực khách quan, trong khi những người kế nhiệm ông ta
kêu gọi dân chúng làm giàu. Tất cả đều nhân danh chủ nghĩa cộng sản. Trong tất
cả các trường hợp, hệ tư tưởng đã bị hy sinh, dù là tạm thời, cho quyền lợi tối
thượng của đảng, mà bao giờ và ở đâu cũng chỉ là: giữ vững và mở rộng quyền lực
không giới hạn.
______________
Các thí nghiệm xây dựng xã hội không tưởng đã
phải trả giá quá đắt, không có cách nào thống kê được hết số nạn nhân. Stephane
Courtois, trong tác phẩm The Black Book
of Communism (Hắc
thư về chủ nghĩa cộng sản) cho rằng có từ 85 đến 100 triệu người
thiệt mạng, nghĩa là gấp 1,5 lần số người chết trong cả hai cuộc thế chiến.
Người ta đã đưa ra nhiều luận cứ để biện hộ, trong đó lý do: không đập vỡ trứng
thì làm sao có món trứng rán. Người dĩ nhiên không phải là trứng, nhưng tai hoạ
ở chỗ, sau những cuộc tắm máu kinh hoàng đã chẳng có món trứng rán nào
hết.
Những người sống sót cũng phải gánh chịu nhiều
mất mát. Nhằm tạo ra cho được sự đồng nhất, các chế độ cộng sản đã bỏ tù, bắt
lưu đầy và bịt miệng tất cả những người không chấp nhận cái thể chế, mà đây lại
thường là những người có năng lực và tháo vát nhất. Kết quả là, đã diễn ra một
cuộc tiến hoá giật lùi: những kẻ không thể tự lực, những kẻ chỉ biết vâng lời
lại có xác suất sống còn cao nhất. Trong khi những người tháo vát, trung thực
và có suy tư về xã hội thì bị giết hại. Xã hội cộng sản đã đánh mất những công
dân ưu tú nhất của mình như thế đấy, và vì vậy mà họ phải chìm đắm mãi trong
cảnh đói nghèo.
Nga là nước bị chế độ cộng sản cai trị lâu nhất
và một trong những hậu quả của nó là nhân dân mất hết lòng tin vào năng lực của
chính mình. Vì dưới chính quyền Xô Viết, mọi hoạt động đều phải được cấp trên
chuẩn y, còn sáng kiến thì bị coi là tội lỗi, cho nên dân chúng đã đánh mất khả
năng tự quyết, dù là việc lớn hay việc nhỏ (trừ việc phạm pháp); người ta luôn luôn
sống trong tình trạng chờ đợi mệnh lệnh. Sau giai đoạn hồ hởi chào đón tiến
trình dân chủ hoá, người ta lại cảm thấy thiếu một bàn tay sắt. Nhân dân không
có khả năng, mà cũng chẳng có ước muốn được đứng trên hai chân của chính mình
và tự quyết định lấy số phận của mình. Và đây là thiệt hại không nhỏ mà chủ
nghĩa cộng sản đã gây ra cho nhân dân Nga, cũng nhân dân các nước đã bị chế độ
cộng sản thôi miên trong một thời gian dài. Nó cũng giết chết cả sự tôn trọng
đối với lao động và tinh thần trách nhiệm trước xã hội của người công
dân.
Mong muốn sở hữu là thuộc về bản năng, còn tôn
trọng tài sản của người khác thì phải được giáo dục mới có. Các nghiên cứu về tâm
lý trẻ em cho ta thấy rõ điều đó. Nếu một người nào đó phát hiện ra rằng quyền
sở hữu của anh ta không được tôn trọng - dù đấy là từ phía chính quyền hay từ
phía xã hội – thì người đó chẳng những không còn tôn trọng quyền lợi vật chất
của xã hội và chính quyền nữa mà còn trở thành người truyền bá những bản năng
tham tàn nhất. Chính điều đó đã xảy ra sau khi chế độ cộng sản ở Liên Xô sụp đổ
và đấy cũng là cản trở cho quá trình chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường
thực thụ; một nền kinh tế dựa trên sự tôn trọng quyền tư hữu.
Marx khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản có những
mâu thuẫn nội tại không thể nào giải quyết được và những mâu thuẫn này tất yếu
sẽ đưa nó đến chỗ diệt vong. Trên thực tế, chủ nghĩa tư bản là hệ thống có khả
năng thích nghi với các điều kiện luôn luôn thay đổi và đã học được cách vượt
qua các cuộc khủng hoảng. Trong khi đó, chủ nghĩa cộng sản là hiện thân của học
thuyết cứng nhắc - một giả khoa học, được cải biên thành một giả tôn giáo rồi
hoá thân thành một chế độ chính trị thiếu uyển chuyển – đã chứng tỏ là không có
khả năng giải thoát khỏi những ngộ nhận ăn bám vào nó và cuối cùng đã trở về
với cát bụi. Việc tái sinh nó, nếu quả thật sẽ có một ngày như thế, là trái
ngược hoàn toàn với bản án mà lịch sử đã tuyên và chắc chắn sẽ lại có một thất
bại nữa. Hành động theo hướng đó, đồng nghĩa với sự điên rồ, như người ta đã
nói: làm đi làm lại một việc với hy vọng là kết quả sẽ khác.
ĐỌC THÊM
Có quá nhiều sách báo viết về lý thuyết và thực
tiễn của chủ nghĩa cộng sản, riêng thư viện của đại học Harvard (Harvard
University) cũng đã có trên 20.000 tập dành riêng cho vấn đề này. Các công
trình nói về vấn đề này, cùng với những bài đăng trên báo và tạp chí chắc chắn
là lên tới con số hàng trăm ngàn. Catalog của Harvard ghi nhận 3.567 đầu đề nói
về Marx và 4.301 đầu đề nói về Lenin. Vì vậy, danh sách các tác phẩm liệt kê ở
đấy chắc chắn là mang tính lựa chọn và khá tùy tiện. Nhưng, đa số những cuốn
sách được liệt kê dưới đây cũng có danh sách các tác phẩm nên đọc cho nên độc
giả quan tâm sẽ không gặp khó khăn gì trong việc tìm thêm những tác phẩm khác.
Lịch sử tư tưởng về Thời đại Vàng son được trình
bày trong tác phẩm của Frank E. Manuel và Fritzie P. Manuel, Utopian Thought in the Western World (Tư tưởng không tưởng trong thế giới phương
Tây – Cambridge, Mass., 1970); Alexander Gray, The Socialist Tradition: Moses to Lenin (Truyền thống xã hội chủ nghĩa: từ Moses tới Lenin – London, 1963).
Tác phẩm viết về chủ nghĩa Marx và những biến thể của nó: Leszek Kolakowski, Main Currents of Marxism (Những xu hướng chính của chủ nghĩa Marx),
3 tập (Oxford, 1978); Andrej Walicki, Marxism
and the Leap to the Kingdom of Freedom (Chủ
nghĩa Marx và cú nhảy vào vương quốc của tự do - Satnfrod, 1995) trình bày
mối liê, kết giữa lý thuyết và thực tiễn cộng sản. Quốc tế I và IIđược trình
bày trong Julius Brauthal, History of
International (Lịch sử Quốc tế),
2 tập, (New York, 1967.
Về nước Nga cách mạng, độc giả có thể muốn tìm
hiểu qua hai tác phẩm của tôi, Russian
Revolution (Cách mạng Nga – New
York, 1990) và Russia Under the Bolshevik
Regime (Nước Nga dưới chính quyền
Bolshevik – New York, 1994). Và bản rút gọn hai cuốn này: A Concise History of the Russian Revolution
(Lịch sử rút gọn về cách mạng Nga –
New York, 1995). Có thể tìm thấy cách đánh giá khác về sự kiện này trong tác
phẩm của Sheila Fitzpatrick: The Russian
Revolution (Cách mạng Nga), in lần thứ 2 (Oxford và New York, 1994). Hai
tác giả người Nga trình bày những điều tai nghe mắt thấy trong cuộc cách mạng:
Ivan Bunin với Cursed Days (Những ngày bị nguyền rủa – Chicago,
1998) và Maxim Gorky với Umtimely
Thoughts (Những ý tưởng không hợp
thời – New haven, Conn., 1995).
Cuộc đời của người sáng lập Liên Xô, có sử dụng
những nguồn tài liệu trước đây được coi là mật, do Dmitrii Volkogonov chấp bút,
nhan đề: Lenin: A New Biography (Lenin:
Tiểu sử mới – New York, 1994). Volkogonov cũng là tác giả cuốn Stalin: Triumph and Tragedy (Stalin: Thành công và bi kịch – New
York, 1991). Roy Medvedev với tác phẩm Let
History Judge (Hãy để lịch sử phán
xét – New York, 1995) viết về giai đoạn Stalin.
Lịch sử Liên Xô
được hai người di cư Nga, Mikhail Heller và Aleksandr Nekrich trình bày trong
Utopia in Power: The History of the
Soviet Union from 1917 to the Present (Không
tưởng cầm quyền. Lịch sử Liên Xô từ năm 1917 đến nay - London,
1986). Thiết chế quan trọng nhất của nhà nước Xô Viết là đề tài thảo luận trong
tác phẩm của Leonard Schapiro: The
Communist Party of the Soviet Union (Đảng
cộng sản Liên Xô), in lần thứ 2, London, 1970. Milovan Djilas, cán bộ cộng
sản cao cấp của Serbia, là một trong những người đầu tiên cảnh báo về sự tồn
tại của tầng lớp ăn trên nguồi trốc ở Liên Xô – tác phẩm The New Class (Giai cấp mới
– New York, 1957); đặc quyền đặc lợi của giai cấp này được thảo luận trong tác
phẩm của Michael Voslemsky, Nomenclatura:
The Soviet Ruling Class (Nomenclatura:
Giai cấp cầm quyền Xô Viết – Garden City, N.Y., 1984). Cuốn An Economic History of the USSR (Lịch sử kinh tế Liên Xô – London, 1988)
là tác phẩm súc tích và đáng tin.
Aleksandr
Sozhenitsyn đã viết được cuốn lịch sử-tài liệu về hệ thống trại lao động khổ
sai Liên Xô: The Gulag Archilelago (Quần đảo ngục tù), 3 tập, (New York,
1991-92). Câu chuyện về những vụ giết người hàng loạt được Robert Conquest
trình bày trong tác phẩm The Great Terror: A Reassestment (Đại khủng bố: Đánh
giá lại – New York, 1990).
Sức
hấp dẫn của chủ nghĩa cộng sản đối với các trí thức nước ngoài được trình bày
trong Paul Hollander, Political Pilgrims:
Travels of Western Intellectuals to the Soviet Union and China and Cuba (Hành hương chính trị: Các chuyến đi của trí
thức tới Liên Xô, Trung Quốc và Cuba – New York, 1981). Sự thất vọng của
sáu người cầm bút nổi bật trong số đó là đề tài cuốn The God that Failed (Chúa Trời thất bại - New York, 1949), do
Richard Crossman chủ biên.
Chính
sách đối ngoại của Liên Xô trong nửa thế kỉ đầu tiên của nó được George Kennan
trình bày trong tác phẩm Russia and the West Under Lenin và Stalin (Nước Nga và phương Tây thời Lenin và Stalin
– Boston, 1961), và Adam Ulam trình bày trong tác phẩm Expansion and
Coexistence: The History of Soviet Foreign Policy, 1917-67 (Bành trướng và cùng tồn tại hòa bình: Lịch
sử chính sách đối ngoại của Liên Xô, 1917-1967 – New York, 1968). Quan hệ
của Liên Xô với phương Tây từ Thế chiến II đến cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba
năm 1962, được Lewis Gaddis trình bày trong tác phẩm We Now Know: Rethinking Cold War History (Hiện nay chúng ta biết: Tái tư duy về lịch sử Chiến tranh Lạnh –
New York, 1997).
Các
tài liệu quan trọng nhất của Comintern được Jane Degras thu thập trong tác phẩm
The Communist International, 1919-1943
(Quốc tế cộng sản, 1919-1943), 3 tập,
London 1956-71. Lịch sử Quốc tế được Franz Borkenau trình bày trong tác phẩm World Communism: A History of the Communist
International (Cộng sản thế giới: Lịch sử quốc tế cộng sản – Ann Arbor,
1962), và gần đây hơn là tác phẩm của Kevin McDermott và Jeremy Agnew: The Comintern (London, 1996).
Sự
sụp đổ của Liên Xô được David Remnick, sử dụng những điều quan sát được và
những cuộc thảo luận, trình bày một cách sống động trong tác phẩm Lenin's
Tomb (Mộ Lenin), New York,
1993.
Lịch
sử Trung Quốc cộng sản được trình bày trong phần 1 và 2, tập XIV và XV tác phẩm
The Cambridge History of China (1987,
1991) do Roderick MacFarquhar biên tập. Triết lý của Mao về lịch sử được thể
hiện rõ nhất trong Quatations from
Chaiman Mao Tse-tung (Trước tác của
Mao Chủ tịch – New York, 1968). Tiểu sử chính trị và tri thức của ông ta
được Stuart Scham trình bày trong tác phẩm Mao
Tse-tung (Penguin Books, 1974). Cuộc đời của Mao được Ross Terril trình bày
trong tác phẩm A Biography of Mao (Tiểu sử Mao - Stanford, 1999).
Giai
đoạn cầm quyền của Pol Pot trong lịch sử cambodia được trình bày trong tác phẩm
do Karl D. Jackson biên tập, nhan đề Cambodia
1975-1978: Rendezvous with Death (Princeton, 1989).
Về
Castro và chủ nghĩa Castro, có thể đọc Theodore Draper: Castroism: Theory
and Pratice (Chủ nghĩa Castro:
Lý thuyết và thực hành), New York, 1965 và tác phẩm mới hơn: Back from the Future: Cuba Under Castro
(Trở về từ tương lai: Cuba dưới chế độ
của Castro – Princeton, 1994).
Chủ
nghĩa cộng sản ở Đông Phi là đề tài thảo luận trong tác phẩm của Peter Woodward: The Horn of Africa (Vùng sừng châu Phi), London and New
York, 1996 và của Paul Henze: Horn of
Africa: From War to Peace (Sừng châu
Phi: Từ chiến tranh tới hòa bình – New York, 1991).
Về giai đoạn cộng sản ở Chile, độc giả có thể tham khảo Robert J.
Alexander, The Tragedy of Chile (Bi kịch của Chile – Westport, Conn., 1978) và
Paul E. Sigmund, The Overthrow of Allende and Politics of Chile, 1964-1976 (Vụ
lật đổ Allende và Nền chính trị Chile, 1964-1976, Pittsburgh, 1977).
Số người chết do chủ nghĩa cộng sản gây ra trong thế kỉ XX được
trình bày và đánh giá trong tác phẩm, trong tác phẩm The Black Book of Communism (Hắc thư về chủ nghĩa
cộng sản – Cambridge, Mass.,
1999) do Stéphane Courtois chủ biên.
Index
Afghanistan, 140,
147
Châu Phi, 119,
124, 126, 127, 128, 142-43, 149
Nông nghiệp, 6-7,
10-11, 16, 135-36, 137, 141, 151-52
Tập thể hóa nông
nghiệp, 57, 59-62, 67, 97, 128, 143, 151, 158
Alexander II, Sa
hoàng, 27
Alexander III, Sa
hoàng, 29
Allende,
Salvador, 135-38, 150-51
American Relief Administration, 48
Chủ nghĩa vô chính phủ, 15-16, 17, 27, 41, 143-44
Andropov, Iurri, 67, 84, 85
Chủ nghĩa bài Do Thái, 72, 102, 103, 11
Aristotle, 4
Thánh Augustine, 4
Áo, 33, 34, 36-37, 41
Batista, Fulgencio, 139
Bernstein, Eduard, 19, 80, 124
Cách mạng Bolshevik (1917), 16, 35-42, 49, 57, 91-92, 94, 147
Chủ nghĩa Bolshevik, 10, 28, 31-51, 65, 91-103
Hiệp ước Brest-Litovsk, 41, 91
Brezhnev, Leonid, 81-85
Bukharin, Nicholas, 56, 94
Bulgaria, 41, 108
Quan liêu, 42-44, 150-51, xem thêm Nomenklatura
Cambodia, 118, 132-35, 149, 151, 153
Chủ nghĩa tư bản, 10, 11, 13-20, 49, 80, 92, 96, 105-06, 111, 112,
113, 118, 124, 128, 153, 156
Khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản, 13-14, 16, 97, 100, 155
Khủng hoảng ở Nga, 26, 28, 30, 32, 44, 158
Carrillo, Santiaga, 112
Castro, Fidel, 62, 136, 138-42,
Kiểm duyệt, 69-70, 82, 85, 99, 103, 104
Tưởng Giới Thạch, 121, 122, 123
Chile, 135-38, 139n, 150-51
Trung Quốc, 120-26, 128-31, 147, 149, 151, 153, 155, 157
Cách mạng văn hóa ở Trung Quốc, 108, 130-31, 150
Đại nhảy vọt, 129-30, 131
Quốc dân đảng Trung Quốc, 121-23
Thiên chúa giáo,
4-5
Churchill,
Winston, 61, 92-93, Giai cấp, x, 12-13, 20, 33, 73, 106, 153
Colombia, 144
Chủ nghĩa cộng
sản
-
Hình thành thuật ngữ, ix-x
-
Nguyên nhân thất bại, ix, 147-60
-
Lan tràn 49-51, 77, 94-97, 108-13, 117-44,
153-54
Quốc tế cộng sản,
93, 95, 110
Quốc tế I, 15-16,
18
Quốc tế II,
18-20, 33-34, 101-02, 153
Quốc tế III
(Comintern), 34, 93-96, 110, 119, 120, 121, 125
Tuyên ngôn cộng
sản (Marx và Engels), x, 13, 17, 153
Courtois,
Stéphane, 158
Chiến tranh
Crimea, 26
Cuba, 62, 138-42,
143, 147, 149
Tiệp Khắc, 84,
94, 108, 111, 140
Đặng Tiểu Bình,
131
Đại
suy thoái, 97, 103
Bất
đồng chính kiến, 83-84, 148
Ai
Cập, 125, 127
Eisenhower,
Dwight, 109, 140
Engels,
Friedrich, x, 9, 11-15, 17, 26, 27, 68, 118, 148, 152, 153
Khai
sáng, 7-8
Cương
lĩnh Erfurt
Ethiopia,
127, 142-43, 151
Ezhov,
Nikolai, 66
Fabian,
19, 99
Fanon,
Franz, 132, 133
Kế
hoạch năm năm, 58, 103, 128
Ford,
Henry, 102, 103
Pháp,
8, 20, 34, 49, 75-76, 79
Chủ
nghĩa cộng sản ở Pháp, 96, 107, 111-12
Frei,
Eduardo, 135-36
Friedrich,
Carl J., 105
Gandhi,
Mahandas K., 122
Đức,
94
Đảng
cộng sản ở Đức, 96-97, 104
Lenin
và Đức, 33, 37, 41, 50, 51, 91-92, 96-97
Quốc
xã ở Đức, 20, 51, 72, 74-77, 92, 96-97, 103-05, 108
Chủ nghĩa xét lại
ở Đức, 19, 31
Đảng dân chủ xã
hội Đức, 17-20, 75, 96
Stalin và Đức,
74-76, 107
Stalin trong Thế
chiến I, 34, 36-37, 120
Đông Đức, 86,
108, 111, 143
Tây Đức, 77, 79,
109, 112
Gide, Andrré
100-101
Gorbachev,
Mikhail, 67, 79-80, 85-86, 112, 155
Gorky, Maxim, 72
Anh Quốc, 11, 19,
34, 99, 112, 122, 129
Quan điểm của
Lenin về nước Anh, 50, 94
Liên Xô và Anh,
75, 92-93, 94
Hi Lạp, 109
Hi Lạp cổ đại,
3-4, 7
Gromyko, Andrei,
67
Guevara, Che,
111, 139
Guzmán Reynoso,
Abimael, 144
Hayek, Friedrich,
151
Herzen,
Alexander, 25
Hitler, Adolf,
20, 72, 74-76, 97, 104-5, 107, 108
Hobson, J. A.,
119
Hoover, Herbert,
49
Hungary, 50, 84,
94, 108, 111
Chủ nghĩa đế
quốc, 104, 119-22, 127,
Ấn Độ, 122, 125,
127
Indonesia, 122,
127
Cách mạng công
nghiệp (công nghiệp hóa), 10-11
Cách mạng công
nghiệp (công nghiệp hóa) ở Trung Quốc, 128, 129
Cách mạng công
nghiệp (công nghiệp hóa), 26, 27, 57-59, 61-62, 102, 103
Israel cổ đại,
6-7
Italy, 33, 39
Chủ nghĩa cộng
sản ở Italy, 94-96, 111-12, 113
Chủ nghĩa phát
xít ở Italy, 20, 31n, 42, 75, 105, 106-07
Nhật Bản, 92,
111, 120, 123, 143,
Jaurès Jean,
18-19
Kamenev, Lev, 43,
56-57, 64-65, 101
Tư bản luận
(Marx), 11, 17, 27
Kemal Pasha Atatűrk), 120
Karensky,
Alexander, 38
Khmer Đỏ, 132-35,
153
Khrushchev,
Nikita, 66-67, 71, 74, 78-79, 81, 111, 157, 158
Thế giới Thứ ba
và Khrushchev, 123-25
Kirov, Sergei, 62
Koestler, Arthur,
97-98, 100
Bắc Hàn, 109,
147, 151-52
Nam Hàn, 109, 152
Kornilov, Lavr,
38
Krupskaia,
Nadezhda, 30
Kulak, 27, 46-47,
59-60
Trại lao động,
67-68, 79
Mỹ Latin, 119,
124, 135-42, 144, 149
Lenin, V. I. (Chủ
nghĩa Lenin), 7-8, 28-34, 36-51, 55-57, 62, 65, 69, 72, 84-85, 91-92, 104, 112,
124, 127, 128, 129
Comintern và
Lenin, 34, 94-96,
Thần thánh hóa
Lenin 78-79
Thất vọng của
Lenin, 42-45, 50-51, 55
Lenin lưu vong,
20, 30-31, 33-34, 36-37, 91
Lenin và thất bại
của chủ nghĩa cộng sản, 149-50, 153-58
Chủ nghĩa Marx
được giải thích bởi Lenin, 31, 32, 41, 157-58
Lenin bàn về chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, ixn-xn
Stalin và Lenin,
43-44, 73-74
Thế giới Thứ ba
và Lenin, 119-21, 142
Chủ nghĩa tự do,
7, 18, 27, 34-35, 55, 98, 103
Lloyd George,
David, 92, 102
Lon Nol, 133
Lukacs, George,
14-15
Mandelstam, Osip,
70-71
Mao Trạch Đông
(Chủ nghĩa Mao), 108, 111, 122-26, 128-31, 133, 142, 143, 154, 158
Martov, L., 20,
28, 31
Marx, Karl (Chủ
nghĩa Marx), ixn, x, 9-18, 26, 27, 46, 68, 78, 118, 128, 129, 142-44, 148, 152,
153, 155
Lenin giải thích
chủ nghĩa Marx, 31, 32, 41, 157-58
Mao giải thích
chủ nghia Marx, 123-26
Quan niệm của chủ
nghĩa marx về nhà nước, 42-43, 149-51, 152
Mengistu Haile
Mariam, 142-43
Menshevik, 28,
31-33, 37, 55
Mayerhold,
Vsevolod, 63-64
Michels, Robert,
154
Miliukov, Paul,
35
Molotov,
Vyacheslav, 63, 74, 75
Mussolini,
Benito, 20, 31n, 42, 105, 106-7, 149
Chủ nghĩa dân
tộc, ix, 20, 32, 50-51, 72-73, 74, 108, 121, 122, 127, 153, 154
NATO , 109
Chính sách kinh tế
mới (NEP), 48-49, 57
Nicholas II, Sa
hoàng, 35
Nomenclatura, 44,
65-66, 78, 79, 85, 86, 150
Vũ khí hạt nhân,
80-81, 124-25, 140
Nông dân, 50,
123, 134, 142, 153,
Nông dân Nga,
23-24, 26, 27, 29, 32, 35, 36, 39, 41, 46-48, 59-62
Peru, 144
Peter Đại đế, Sa
hoàng, 23, 79
Pinochet,
Augusto, 138
Plato, x, 3-4,
148
Ba Lan, 34,
50-51, 74, 75, 76, 84, 94, 108, 111, 148, 153
Phong trào đoàn
kết Ba Lan, 84, 148
Mặt trận bình
dân, 107, 158
Tư hữu, 3-9, 12,
103, 104, 117, 139n, 150
Xóa bỏ tư hữu, x,
3-4, 8, 11, 15, 131, 142, 148, 151, 152
Xóa bỏ tư hữu ở
Nga, 24-25, 32
Reagan, Ronald,
148
Hồng quân, 35,
46, 50-51, 61, 66, 75, 76-77, 93-94, 117, 153
Chủ nghĩa xét
lại, 19, 30, 118, 124, 128, 129
Cách mạng, 13-18,
50, 74, 80, 85, 94, 108, 123-24, ở Nga 24-33 xem thêm:
Các mạng
Bolshevik
Ribbentrop,
Joachim, 72
Romania, 50, 94,
108
Russell, Betrand,
10, 100
Đế chế Nga, 18,
23-24, 65, 67, 69, 86
Đảng Ý chí nhân
dân ở Nga, 27, 30
Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga, 28, 30-33
Nước Nga hậu Xô Viết, ix, 154
Đại
hội Đại biểu Nhân dân ở Nga, 86
Chính
phủ lâm thời ở Nga, 35-38, 40, 91
Nước
Nga Xô Viết (Liên Xô), x, 7-8, 20, 38-51, 55-87, 147-59
Bộ
máy hành chính quan liêu ở Liên Xô, 42-44 xem thêm nomenclatura
Ban
chấp hành trung ương ở Liên Xô, 56, 64
Cheka
ở Liên Xô, 40, 44, 71-72
Nội
chiến ở Liên Xô, 41-42, 45, 46, 48, 57, 92, 93
Hội
đồng dân ủy ở Liên Xô, 40, 45-46
Quốc
phòng Liên Xô, 56, 76-78, 80-81
Chuyên
chính ở Liên Xô, 39-40, 55
Bất
đồng chính kiến ở Liên Xô, 83-84, 148
Sự
tan rã Liên Xô, 67, 81-87, 112, 143, 147-48
Kinh
tế Liên Xô, 39, 41, 44-49, 57-62, 67, 81-82, 97, 128, 147, 151
Sự
bành trướng của Liên xô, 77, 94, 108-09, 110
KGB
ở Liên Xô, 67, 71-72, 84, 85
NKVD
ở Liên Xô, 66, 71-72
Bộ
chính trị ở Liên Xô, 50, 56, 64, 67, 80, 85
Vai
trò của ý thức hệ ở Liên Xô, 155-56
Hội đồng Kinh tế Tối cao Liên Xô, 43
Thế giới Thứ ba và Liên Xô, 80, 81, 119-29, 137, 239-42, 153
Cộng sản ở phương Tây, 91-113
Trong Thế chiến II, 51, 61, 73-78, 108, 110, 122
Nhà thờ Chính thống giáo Nga, 24, 55-56, 66
Sartre, Jean-Paul, 132
Kế hoạch Schlieffen, 14
Shaw, George Bernard, 19, 99
Smith, Adam, 156
Chủ nghĩa xã hội, người xã hội chủ nghĩa, 4, 7, 8, 15-20, 36-38,
154
Chủ nghĩa xã hội, người xã hội chủ nghĩa là kẻ thù của chủ nghĩa
cộng sản 36, 96-97, 107
Chủ nghĩa cộng sản đối đầu với chủ nghĩa xã hội, ixn-xn
Cộng sản liên minh với xã hội chủ nghĩa, 107, 158
Chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa xã hội 19, 20
Chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa xã hội ở Nga 26-28, 40
Chủ nghĩa xã hội “khoa học”, 9, 10, 12
Soloviev, Vladimir, 4
Somalia, 127, 143
Tây Ban Nha, 96, 97, 107, 111-12
Stalin, Joseph, (chủ nghĩa Stalin), 43-44, 56-80, 82, 92, 94, 99,
105, 107, 108, 111, 112, 143, 154
Chính sách nông nghiệp và công nghiệp của Stalin, 57-62, 103, 128,
158
Những cuộc thanh trừng của Stalin, 56-57, 62-69, 76, 150
Thế giới Thứ ba và Stalin, 121-23, 125, 127, 128-29
Steffens, Lincoln, 98-99
Steinberg, Isaac, 45-46
Struve, Peter, 28, 29-30
Tôn Trung Sơn, 121
Thụy Sĩ, 33-34, 36-37, 91
Chủ nghĩa khủng bố, 110-11, 143-44
Chủ nghĩa khủng bố ở Nga, 27-30, 39-40, 45, 62-68, 73-74, 97, 99,
150
Thế giới Thứ ba, 17, 18, 80, 81, 115-44
Tito, (Josip Broz), 108, 123
Chế độ toàn trị, 103-08
Công đoàn, 17, 30, 31, 84, 95, 96
Trotsky, Leon, 37, 41, 43, 56, 57, 68-69, 73, 74, 93, 152
Truman, Harry S., 109
Thổ Nhĩ Kì, 41, 109, 120
Ukraine, 42, 50, 61, 76, 82
Hoa Kỳ, 11, 80, 91, 92, 93, 109-10, 127, 135n, 139, 140, 141, 148
Hiệp ước Versailles, 75
Việt Nam, 122, 134, 135, 147, 148, 149
Volkogonov, Dmitrii, 65
Hiệp ước Wasaw, 109,
Webb, Beatrice, 99-100
Webb, Sidney, 99, 100
Weber, Max, 24
Giai cấp công nhân, 11, 97, 121, 123,
Tình đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân, 18, 20, 153, 154
Giai cấp công nhân ở Nga, 30, 31, 33, 39, 41, 46, 58, 82
Lương của công nhân, 13, 16-17, 59
Thế chiến I, 18, 20, 33-37, 49-50, 57, 91-92, 120
Thế chiến II, 51, 61, 73-78, 103, 108, 109, 110, 111, 122
Yeltsin, Boris, 80, 86, 110, 141
Nam Tư, 77, 108, 123, 153
Zinoviev, Grigori, 43, 56-57, 64-65, 94, 101
Dịch từ
Nguyên bản tiếng Anh: Richard Pipes, COMMUNISM, a History
A
Modern library Chronicles Book, The Modern Library, New York, 2003 Modern
Library Paperback Edition
Có tham
khảo bản dịch tiếng Nga của D. Vasiliev, tại địa chỉ: http://nationalism.org/library/science/ideology/pipes/communism.pdf
Bìa 1: Nhân danh điều thiện vĩ đại, chủ nghĩa cộng sản đã
gây ra cái ác cực kì to lớn… Nếu bạn tự hỏi làm sao con và cháu bạn có thể hiểu
được cái hiện thực to lớn và xa lạ này thì biện pháp tốt là bảo đảm rằng họ có
trong tay cuốn sách này – The Weekly Standard
Bìa 4:
Việc xuất bản tác phẩm Chủ nghĩa cộng sản của Richard Pipes
là… tín hiệu quan trọng. Người ta không thể đặt nó xuống khi chưa nhận thức được,
một lần và mãi mãi, rằng con đường đưa tới không tưởng được lát bằng xác của những
người vô tội – và dẫn tới nơi vô tăm tích
- Baltimore Sun.
Tôi muốn tất cả các sinh viên … đều đọc cuốn sách khủng khiếp
này
Paul Johnson
Bằng sự trong sáng và căn cứ đáng tin cậy, Richard Pipes đã
đưa quá trình nghiên cứu cả đời người vào một cuốn sách lịch sử của chủ nghĩa cộng
sản, từ buổi ra đời đầy hy vọng, về mặt lý luận, đến cái chết nhục nhã, về mặt
thực tiễn. Trung tâm của nó là lịch sử Liên Xô, quá trình tái tổ chức một cách
toàn diện nhất xã hội loài người do nhà nước thực hiện. Đây là câu chuyện về
cách thức tuyên truyền của Karl Marx và Friedrich Engels, hai nhà tư tưởng và
tác gia châu Âu giữa thế kỉ XIX, đã dẫn đến một tà giáo làm sụp đổ cả một đế chế
hùng mạnh, đưa thế giới vào cuộc xung đột và để lại sự tàn phá với cái giá mà
bây giờ người ta mới bắt đầu tính toán được.
VỀ TÁC GIẢ
Richard Pipes (1923-2018), Giáo sư sử học ở đại học Harvard, là
tác giả của khá nhiều cuốn sách và tiểu luận, trong đó có The Russian Revolution (Cách
mạng Nga), Russia Under Bolshevik
Regime (Nước Nga dưới chính quyền
Bolshevik) và Property and Freedom
(Sở hữu và tự do). Trong các năm
1981-82, ông là cố vấn về các vấn đề Liên Xô và Đông Âu trong Hội đồng An ninh
Quốc gia của chính quyền Tổng thống Reagan, năm 1992 ông là nhân chứng trong
phiên tòa xử Đảng cộng sản Liên Xô do Tòa bảo hiến Nga tiến hành. Ông sống ở
Cambridge, Massachusetts và Chesham, New Hamspshire.
[1] Kitty Muggeridge and Ruth
Adam, Beatrcie Webb, (New York, 1968), trang 234. Viết năm 1934 hay 1935
[4] George Lukacs, History
and Class Consciousness (Lịch
sử và ý thức giai cấp). Cambridge, Mass, 1971, tr. 315
[5] German Ideology
(Hệ tư tưởng Đức), trong K. Marx and F. Engels, Collected Works (Toàn tập), tập V, (New York, 1976), trang
47.
[6] Naum
Jasny, The Socialized Agriculture of the USSR (Nền nông nghiệp xã hội hóa của Liên Xô) (Stanford,
1949, trang 145-146
[7] Richard
Pipes, A Concise History of the Russian Revolution (Lịch sử
rút gọn của Cách mạng Nga) (New York, 1995).
[8] V. I.
Lenin, Polnoe sobranie cochinenii (Toàn
tập), 5 th ed. (Moscow, 1958-65), tập 41, trang 383
[10] L. N.
Kristman, Geroicheskii period
velikoi revoliutsii (Giai đoạn anh hùng của cuộc cách mạng vĩ đại,) (Moskva,
1926), trang 166.
[11] Isaac Steinberg, In the
Workshop of Revolution (tạm dịch: Trong phân xưởng của cách mạng) (London,
1955), trang 145
[13] Richard Pipes, ed. The Unknown Lenin (Lenin chưa được biết tới) (New Haven, conn., 1996), trang 50
[14] A. G. Latyshev, Rasskrechennyi
Lenin(Lenin được giải mật (Moskva,
1996), trang 40. Bài này không được đưa vào Toàn tập của
Lenin.
[17] Richard Pipes, ed. The Unknown Lenin (Lenin chưa được biết tới) trang 152-53
[18] Mikhail Geller,
Aleksander Nekrich. Utopia in Power:
The History of the Soviet Union from 1917 to the Present (Không tưởng
cầm quyền. Lịch sử Liên Xô từ năm 1917 đến nay - London, 1986)
trang 201.
[20] Nicolas Werth, in Stéphane
Cuortois, ed. The Black Book of Communism (Hắc thư về chủ nghĩa cộng sản), Cambridge,
Mass., 1999, trang 153, 155
[23] Nicolas Werth, in
Stéphane Cuortois, ed. The Black Book of Communism (Hắc thư về chủ nghĩa cộng sản), Cambridge,
Mass., 1999, trang 159, 167.
[25] Hoy (Havana),
February 24, 1963, trích lại trong Theodore Draper, Castroism: Theory and
Pratice (Chủ nghĩa Castro: Lý
thuyết và thực hành), New York, 1965, trang 217-218.
[27]Vladimir Naumov trong
William Taubman at al., eds, Nikita Khrushchev (New Haven,
Conn., 2000), trang 90.
[29] Bertram D. Wolfe,
ed., Khrushchev and Stalin's Ghost (Bóng ma Khrushchev và Stalin),
New York, 1957, trang 124.
[31] Michael Voslensky, Nomenclature:
The Soviet Rulling Class (Nomenclatura:
Giai cấp cầm quyền Xô Viết), Garden City, N. Y., 1984, trang 61.
[34] P. G. Pikhoia, Sovetskii Soiuz: Istoria Vlacti 1945-1991
(Liên Xô: Lịch sử chính quyền, 1945-1961), Moskva, 1998, trang 140.
[35] Sistema Ispravitel’no-trudovukh lagerei v SSSR (Hệ
thống trại lao động cải tạo ở Liên Xô, 1923-1960), Moskva
1998, trang 48.
[38] Louis Fisher trong Richard
Crossman, ed., The God that Failed (Chúa Trời thất bại), New York, 1949, trang 205.
[39] Nadezhda Mandelstam, Hope Against Hope (Hy vọng chống lại hy vọng), New York, 1970, trang 13. Max Hayward dịch
[41] Henry Picker, ed., Hitlers
Tischgespräche im Führerhauptquartier, 1941-1942 (Bonn, 1951), trang 133
[42] Sto sorok bessed s Molotovym iz dnevnika F. Chueva (Một trăm bốn mươi câu chuyện với
Molotov: Nhật kí F. Truev), Moskva,
1991, trang 184
[44] John Erickson and
David Dilks, eds., Barbarossa: The Axis and the Allies (Barbarossa: Phe Trục và phe Đồng minh),
Edinburgh, 1994, trang 261
[46]Andrej
Sinjawskij, Der Traum vom neuen Menschen oder die Sowjetzivilisation (Frankfurt,
1989), 262-263
[47] Robert
W. Pringle in International Journal of Intelligence and
Counterintelligence (Tạp chí quốc tế vế tình báo và phản gián), Summer
2000, trang 195
[48]Markus
Wolf, The Man without a Face (Người không mặt), London, 1997, trang 218-19
[49] Jane Degras, eds, The
Communist International, 1919-1943: Documents (Quốc tế Cộng sản, 1919-1943: Tài liệu), Tập.
I (London, 1956), trang 128
[50] Richard Pipes, ed. The Unknown Lenin (Lenin chưa được biết tới) (New Haven, conn., 1996), trang 50
[53] Arthur Koestler, The
Invisible Writing (Trước tác không nhìn thấy được), New York, 1954, trang 53
[57] Carl J. Friedrich, ed. Totalitarism (Chủ nghĩa toàn trị), Cambridge, Mass., 1954, trang 49
[63] David Childs, ed., The Changing Face of Western Communism (Bộ
mặt đang thay đổi của chủ nghĩa cộng sản phương Tây, London, 1980, trang 276
[65] Francois Ponchaud in Karl D. Jackson, ed., Cambodia
1975-1978: Rendezvous with Death (Princeton, 1989), tr. 152
[66] Richard Pipes, ed. The Unknown Lenin (Lenin chưa được biết tới) (New Haven, conn., 1996), trang 121
[67] Leszek Kolakowski, Main Current in
Marxism (Dòng chủ lưu trong chủ nghĩa Marx), vol, III (Oxford, 1978), trang
495, 521
[68] Marx and Engels, “The
German Ideology” (Hệ tư tưởng Đức), Toàn tập, Tập V, trang 37
[69] Quotation from Chairman Mao Tse-tung (Trước
tác của Chủ tịch Mao Trạch Đông) New York, 1968, 32-33
[70] Ibid, trang 77
[71] Stuart Scham, Mao Tse-tung (Mao Trạch Đông), Marmondsworth, U.K., 1966, trang 291
[72] Donald S. Zagoria, The
Sino-Soviet Conflict, 1956-1961 (Xung độ Xô Trung, 1956-1961), New York, 1964,
trang 385
[74] Jasper Becker, Hungry Ghost: China’s Secret Famine (Ma đói: Nạn đói bí mật của Trung Quốc),
London, 1996, trang XI
[75] Kenneth M. Quinn trong
Jackson, Cambodia, trang 238
[76] Jackson, Cambodia, trang 3 và 150
[77] Charles M. Twininng trong
Jackson, Cambodia, trang 110
[78] Draper, Castroism (Chủ
nghĩa Castro), trang 48-49
[82] Leszek Kolakowski, Main Current in
Marxism (Dòng chủ lưu trong chủ nghĩa Marx), vol, III (Oxford, 1978), trang
495, 521
[83] Mussolini, Oprea omnia, Tập
XV (Florence, 1954), trang 93
No comments:
Post a Comment