VIII. Ai là ai?
Chúng ta đã đánh mất cơ hội tuyệt
vời nhấttừng được ban tặng cho thế gian vì
niềm say mê bình đẳng đã giết chết hi vọng tự
do
Lord Acton
Cạnh
tranh là “mù quáng” là một trong những lời chê trách thịnh hành nhất hiện nay.
Nhân đây xin nhắc rằng thời cổ đại, mù là một trong những đặc điểm của thần công
lý. Mặc dù cạnh tranh và công lý không còn điểm chung nào nữa, nhưng có một
điều không phải nghi ngờ: cạnh tranh và công lý không thiên vị ai. Điều đó có
nghĩa là không thể nói trước ai sẽ gặp may hay tai họa sẽ giáng xuống người nào,
là thưởng phạt không được chia theo quan niệm của ai đó về ưu điểm và khuyết
điểm của những con người khác nhau, tất cả phụ thuộc vào khả năng và sự may mắn
của họ, cũng như khi thông qua một điều luật, ta cũng không thể nói trước rằng
áp dụng nó thì một người cụ thể nào đó sẽ được lợi hay là bị thiệt. Điều này
còn đặc biệt đúng bởi vì trong điều kiện cạnh tranh, vận may và cơ hội cũng
quan trọng chẳng kém gì phẩm chất cá nhân như kĩ năng và khả năng nhìn xa trông
rộng đối với số phận của những người cụ thể nào đó.
Sự
lựa chọn mở ra trước mắt chúng ta không phải là lựa chọn giữa một hệ thống,
trong đó, tất cả mọi người sẽ được nhận một phần phúc lợi xã hội phù hợp với
một tiêu chuẩn tuyệt đối và tổng quát nào đó về quyền lợi và hệ thống, trong,
đó phần phúc lợi mà mỗi cá nhân được nhận, ở mức độ nào đó, được quyết định bởi
sự may rủi mà là giữa hệ thống, trong đó, ý chí của vài người sẽ quyết định ai
được nhận cái gì và hệ thống, trong đó, sự phân phối, phần nào đó, phụ thuộc
vào khả năng và sáng kiến của những người liên quan và phần nào đó phụ thuộc
vào những tình huống không thể lường trước được. Mặc dù, trong hệ thống tự do
kinh doanh, cơ hội của mọi người là không giống nhau vì hệ thống này nhất định
phải dựa vào quyền sở hữu tư nhân và (có thể là không bắt buộc) tài sản thừa
kế, với những khác biệt về cơ hội mà chúng tạo ra. Có thể thu hẹp đáng kể sự
bất bình đẳng về cơ hội và sự khác biệt bẩm sinh trong khi vẫn giữ được tính
khách quan của cạnh tranh, trong đó, mỗi người tự thử vận may và quan điểm của
bất kì người nào về cái gì là đúng, cái gì là đáng mong ước cũng không thể gạt
bỏ được quan điểm của bất kì người nào khác.
Sự
kiện là, trong xã hội cạnh tranh người giàu sẽ có nhiều cơ hội hơn người nghèo,
không phủ nhận lời khẳng định rằng người nghèo ở đây còn được tự do hơn cả kẻ
sống trong điều kiện tiện nghi hơn dưới một chính thể với nền kinh tế kế hoạch
hoá. Và mặc dù, trong nền kinh tế cạnh tranh, xác suất để một người nghèo đột
nhiên giàu lên sẽ nhỏ hơn xác suất của một người được thừa kế gia sản, nhưng dù
sao chuyện đó cũng có thể xảy ra; hơn nữa, chỉ trong hệ thống cạnh tranh thì chuyện
đó mới hoàn toàn phụ thuộc vào anh ta và không phụ thuộc vào ân huệ của chính
quyền, cũng không ai có thể ngăn cản anh ta thử vận may của mình. Chỉ khi đã
quên hẳn tự do nghĩa là gì thì người ta mới không nhận thấy một sự kiện rõ ràng
rằng, một người công nhân không có tay nghề và được trả lương thấp ở đất nước
này cũng có nhiều quyền tự do trong việc định hướng cuộc đời của anh ta hơn các
ông chủ doanh nghiệp nhỏ ở Đức hay các kĩ sư và cán bộ quản lý được trả lương
cao hơn nhiều ở Nga. Nếu anh ta muốn thay đổi công việc hay chuyển chỗ ở, nếu
anh ta muốn thể hiện một quan điểm nào đó hay muốn nghỉ ngơi theo cách nào đó,
mặc dù để thực hiện các dự định của mình đôi khi anh ta phải trả giá cao, một
số người có thể cho là quá cao, nhưng đấy không phải là những trở ngại không
thể vượt qua, không có mối đe doạ nào đối với sự an toàn tính mạng và tự do, như
khi bị lực lượng cưỡng bức tàn bạo buộc anh ta phải thực hiện nhiệm vụ hay phải
sống trong môi trường mà cấp trên đã phân cho anh ta.
Những
người xã hội chủ nghĩa hoàn toàn có lý khi tuyên bố rằng để thực hiện lý tưởng
công bằng của họ thì chỉ cần bãi bỏ thu nhập từ sở hữu tư nhân, còn thu nhập do
lao động tạo ra thì vẫn giữ như hiện nay[1]. Nhưng họ đã
quên một điều rằng chuyển tất cả tài sản dưới dạng phương tiện sản xuất vào tay
nhà nước là họ đã buộc nhà nước, trên thực tế, phải quyết định tất cả các nguồn
thu nhập rồi. Quyền lực được trao cho nhà nước và đòi hỏi rằng nhà nước phải sử
dụng quyền lực đó để “lập kế hoạch” chính là đòi hỏi nhà nước phải sử dụng
quyền lực với nhận thức đầy đủ về tất cả hệ quả đó.
Sẽ
là sai lầm khi nghĩ rằng quyền lực giao cho nhà nước cũng chỉ là quyền lực được
chuyển từ tay người này sang tay người khác mà thôi. Đấy là một loại quyền lực
hoàn toàn mới, trong xã hội cạnh tranh chưa người nào có được quyền lực như
thế. Bởi vì, trong khi tài sản nằm trong tay nhiều người khác nhau, hoạt động
độc lập với nhau, không một người nào có toàn quyền quyết định phân phối thu
nhập và vị trí của những người khác, không người nào bị trói buộc vào bất kì chủ
sở hữu nào, điều tối đa mà một chủ sở hữu có thể làm, nhằm buộc người ta gắn bó
với tài sản của mình là đưa ra những điều kiện có lợi hơn so với những nguời
khác.
Thế
hệ của chúng ta đã quên rằng hệ thống tư hữu là sự bảo đảm quan trọng nhất của
tự do không chỉ của người có của mà của cả người không có của nữa. Đấy là vì tư
liệu sản xuất nằm trong tay nhiều người hoạt động độc lập với nhau, không người
nào có toàn quyền đối với chúng ta, cho nên chúng ta, với tư cách là cá nhân,
mới có thể tự quyết định và hành động theo ý mình. Nhưng, nếu tất cả các phương
tiện sản xuất đều được tập trung vào tay một người, dù đấy có gọi là “toàn xã
hội” hay nhà độc tài thì người đó sẽ có quyền lực tuyệt đối đối với chúng ta.
Không
nghi ngờ rằng một thành viên nghèo của một sắc tộc hay cộng đồng tôn giáo thiểu
số sẽ được tự do hơn khi những người thuộc cộng đồng đó có tài sản và có thể
thuê anh ta hơn là khi sở hữu tư nhân đã bị bãi bỏ và anh ta trở thành chủ nhân
danh nghĩa của một phần tài sản của cộng đồng. Hay quyền lực của một nhà triệu
phú hàng xóm của tôi, thậm chí ông chủ của tôi, đối với tôi là nhỏ hơn rất nhiều so với
quyền lực của một viên chức hạng bét,
nhưng lại là người nắm trong tay quyền lực cưỡng chế đầy sức mạnh của nhà nước
và là người có quyền quyết định tôi phải sống và làm việc như thế nào? Ai phủ
nhận sự kiện là thế giới mà người có tiền thì có quyền tốt hơn thế giới mà chỉ
người có quyền mới có tiền?
Buồn,
nhưng cũng thấy phấn chấn khi thấy rằng Max Eastman, một cựu đảng viên cộng sản
nổi tiếng, đã tái phát hiện được chân lí:
“Đối
với tôi, rõ ràng là - mặc dù phải mất nhiều thời gian tôi mới đi đến kết luận,
thiết chế sở hữu tư nhân là một trong những tác nhân quan trọng nhất, bảo đảm
cho người ta sự bình đẳng và các quyền tự do tương đối, điều mà Marx hi vọng có
thể mở rộng đến vô cùng sau khi đã xoá bỏ thiết chế này. Điều đáng ngạc nhiên
là chính Marx là người đầu tiên hiểu được chuyện đó. Chính ông, khi nhìn lại
quá khứ, đã thông báo cho chúng ta biết rằng quá trình phát triển của chủ nghĩa
tư bản tư nhân cùng với thị trường tự do đã tạo ra tiền đề cho quá trình phát
triển tất cả các quyền tự do dân chủ của chúng ta. Nhưng nhìn về phía trước,
ông lại không bao giờ tự hỏi rằng nếu đúng là như thế thì sau khi bãi bỏ thị
trường tự do, các quyền tự do này có mất đi hay không[2]”.
*
* *
Thỉnh
thoảng cũng có người phản đối rằng chẳng có lý do gì để phải quyết định thu
nhập của từng người trong quá trình lập kế hoạch cả. Quả thật, những khó khăn
về chính trị và kinh tế xuất hiện khi tiến hành phân phối thu nhập quốc dân
giữa những người khác nhau lớn đến nỗi ngay cả những người ủng hộ kế hoạch hoá
nhiệt thành nhất cũng phải đắn đo trước khi giao cho bất kì cơ quan nào nhiệm
vụ như thế. Bất cứ người nào hiểu rõ chuyện này sẽ chỉ giới hạn kế hoạch hoá
trong lĩnh vực sản xuất, tức là giới hạn trong việc “tổ chức sản xuất một cách
hữu lý” và dành lĩnh vực phân phối, càng nhiều càng tốt, cho các lực lượng vô
nhân xưng điều phối. Mặc dù, quản lý sản xuất mà không can thiệp, ở mức độ nào
đó, vào khâu phân phối là bất khả thi; và mặc dù, không một người ủng hộ kế
hoạch hoá nào đồng ý để mặc cho thị trường quyết định việc phân phối, nhưng tất
cả bọn họ dường như đều đồng ý với phương cách để cho phân phối tuân thủ nguyên
tắc chung về bình đẳng và công bằng, qua đó, ngăn chặn các trường hợp phân phối
quá chênh lệch và thiết lập tỉ lệ phân chia giữa các giai cấp chính yếu trong
xã hội mà không can thiệp vào địa vị của những người cụ thể trong nội bộ các
giai cấp hay các nhóm xã hội nhỏ hơn và từng cá nhân.
Như
chúng ta đã thấy, vì tất cả các lĩnh vực kinh tế đều có liên hệ mật thiết với
nhau cho nên không thể giới hạn việc kế hoạch hoá trong một lĩnh vực riêng biệt
nào đó và một khi các quan hệ thị trường bị ngăn trở quá mức nào đó thì người
lập kế hoạch sẽ buộc phải mở rộng mãi việc kiểm soát cho đến khi nó bao trùm
lên tất cả mọi lĩnh vực. Những tham vọng kinh tế này, điều giải thích tại sao
lại không thể hạn chế kế hoạch hoá vào lĩnh vực ta muốn, sẽ còn được tăng cường
thêm bởi các xu hướng chính trị và xã hội nhất định, những lực lượng này sẽ
càng mạnh thêm khi kế hoạch hóa ngày càng được mở rộng.
Khi
mọi người đã hiểu rõ rằng địa vị của một người trong xã hội được xác định không
phải bởi các lực lượng vô nhân xưng (impersonal forces), không phải bởi tương
quan giữa các nỗ lực cạnh tranh của nhiều người mà bởi quyết định có chủ ý của
nhà cầm quyền thì quan hệ của họ đối với địa vị của mình trong xã hội chắc chắn
sẽ thay đổi. Trong cuộc sống luôn luôn tồn tại những bất bình đẳng mà theo quan
điểm của người bị thiệt thòi là bất công, cũng như những thất vọng và tai họa
giáng xuống những người dường như không làm gì nên tội. Nhưng khi những chuyện
đó diễn ra trong xã hội được lãnh đạo một cách có chủ ý thì phản ứng của người
dân sẽ khác hẳn cách họ phản ứng khi những bất công đó không phải là sự lựa có chủ
ý của người khác.
Không
nghi ngờ gì rằng bất công sẽ dễ dàng được chấp nhận và không ảnh hưởng nhiều
đến phẩm giá của con người nếu nó là kết quả của những lực lượng vô nhân xưng
chứ không phải do con người cố ý tạo ra. Trong xã hội cạnh tranh, người làm
công sẽ không cảm thấy bị coi thường hay phẩm giá bị thương tổn khi được công
ty thông báo rằng anh ta không còn cần thiết nữa hoặc không thể tìm cho anh ta
công việc tốt hơn. Trong thời kì xảy ra hiện tượng thất nghiệp hàng loạt kéo dài,
nhiều người cũng có cảm giác thất vọng tương tự. Nhưng, trong xã hội tự do còn
có những phương pháp khác làm giảm thương tổn tốt hơn là trong xã hội kế hoạch
hoá tập trung. Thất nghiệp hay giảm thu nhập, là những hiện tượng chắc chắn sẽ
xảy ra trong bất kì xã hội nào, sẽ dễ được chấp nhận hơn khi người ta cho rằng
đấy là kết quả của các lực lượng vô nhân xưng chứ không phải là hành động có
chủ đích của nhà cầm quyền. Trong xã hội kế hoạch hoá cảm giác cay đắng còn tệ
hại hơn nhiều. Trong xã hội kế hoạch hoá, các cá nhân sẽ quyết định không phải
là liệu một người nào đó có phải là người hữu dụng cho một công việc cụ thể nào
đó hay không, mà là hữu dụng nói chung hay không và hữu dụng đến mức nào. Địa
vị của một người trong xã hội sẽ bị một người nào đó gán cho và buộc phải chấp
nhận.
Người
ta sẽ cam chịu những đau khổ vô tình giáng xuống đầu mình, nhưng những tai ương
do các quyết định của chính quyền tạo ra sẽ khó được chấp nhận hơn. Làm một
bánh răng trong một cỗ máy vô tình đã là khổ, nhưng còn khổ hơn bội phần nếu ta
không thể bỏ đi, nếu ta bị cột chặt vào một chỗ, cột chặt vào những người lãnh
đạo do người khác lựa chọn cho ta. Sự bất mãn với số phận chắc chắn sẽ càng gia
tăng khi người ta nhận thức được rằng đấy là kết quả của những quyết định có
chủ ý của chính con người.
Khi
đã bước vào con đường kế hoạch hoá nhân danh công bằng thì chính phủ không thể
chối bỏ trách nhiệm về số phận hay địa vị của tất cả các thần dân của mình.
Trong xã hội kế hoạch hoá, tất cả chúng ta đều biết rằng việc mình giàu hơn hay
nghèo hơn người khác không phụ thuộc vào các lý do ngẫu nhiên và không dự đoán
được một cách chắc chắn mà đấy chính là ý muốn của nhà cầm quyền. Và tất cả những
cố gắng của chúng ta nhằm cải thiện địa vị của mình sẽ không nhắm tới việc tiên
liệu và chuẩn bị tinh thần để đối phó với những hoàn cảnh ta không thể kiểm
soát nổi mà hướng tới việc làm cho các cấp lãnh đạo đầy quyền uy hài lòng. Cơn
ác mộng mà các nhà tư tưởng chính trị Anh thế kỉ XIX từng tiên đoán: nhà nước,
trong đó “con đường duy nhất dẫn đến tiền tài và địa vị là thông qua chính phủ[3]” sẽ trở thành
hiện thực một cách trọn vẹn mà chính các nhà tư tưởng kia không thể nào tưởng
tượng nổi, nhưng đã trở thành quen thuộc đối với người dân các nước đang trên
đường tiến tới chế độ toàn trị.
*
* *
Ngay
khi nhà nước bắt đầu lập kế hoạch cho toàn bộ nền kinh tế thì vấn đề địa vị của
những cá nhân và các nhóm xã hội khác nhau chắc chắn sẽ trở thành vấn đề chính
trị chủ yếu. Vì sức mạnh cưỡng bức của nhà nước là lực lượng duy nhất quyết
định ai được có cái gì, cho nên ai cũng muốn có phần trong cái lực lượng lãnh
đạo đó. Không có một vấn đề kinh tế hay xã hội nào lại không mang màu sắc chính
trị, theo nghĩa là việc giải quyết các vấn đề như thế hoàn toàn phụ thuộc vào
việc ai nắm được sức mạnh cưỡng chế và quan điểm của ai sẽ giữ thế thượng phong
trong mọi trường hợp.
Tôi
tin rằng chính Lenin đã đưa ra cụm từ nổi tiếng “Ai là ai?”, trong những năm
đầu của chính quyền Xô Viết “ai là ai” là vấn đề phổ quát của chủ nghĩa xã hội[4]. Ai là người
lập kế hoạch, ai lãnh đạo và cai trị, ai sắp xếp địa vị cho những người khác và
ai là người phải sống theo các quy định do người khác đưa ra? Chỉ có chính
quyền tập trung cao độ mới có quyền giải quyết được các vấn đề như thế mà thôi.
Gần
đây, một nhà chính trị học người Mỹ đã mở rộng cụm từ của Lenin và khẳng định
rằng vấn đề của tất cả các chính phủ là: “ai được cái gì, được khi nào và được
ra làm sao”. Ở một mức độ nào đó thì nói thế cũng không sai. Tất cả các chính
phủ đều gây ảnh hưởng đến địa vị của người dân, hệ thống nào thì cũng khó mà
tìm được lĩnh vực mà trong đó chính phủ không có ảnh hưởng gì. Khi chính phủ
làm bất cứ cái gì đó thì hành động của nó nhất định có ảnh hưởng tới vấn đề “ai
được cái gì, được khi nào và được ra làm sao”.
Tuy
nhiên, có hai sự khác biệt căn bản cần ghi nhận. Thứ nhất, các biện pháp cụ thể
của chính phủ được thực thi mà không biết chúng sẽ ảnh hưởng tới những người cụ
thể như thế nào và như thế nghĩa là không nhằm vào những ảnh hưởng cụ thể đó.
Chúng ta đã thảo luận kĩ vấn đề này rồi. Thứ hai, chính phủ hoặc là sẽ quyết
định tất cả mọi thứ mà mỗi người sẽ được nhận vào bất kì thời điểm nào hoặc là
ảnh hưởng của nó sẽ giới hạn ở chỗ chỉ quy định cho một số người sẽ được nhận
một số thứ vào một số thời điểm nào đó và theo cung cách nào đó. Đây là tòan bộ
sự khác nhau giữa chế độ tự do và chế độ toàn trị.
Sự
khác nhau giữa hệ thống tự do và hệ thống kế hoạch hóa tòan triệt thể hiện rõ
ràng trong những lời phàn nàn của những người quốc xã và xã hội chủ nghĩa về
việc “chia tách một cách giả tạo giữa chính trị và kinh tế” cũng như đòi hỏi
“đặt chính trị lên trên kinh tế” của họ. Những câu này có lẽ không chỉ có nghĩa
là hiện nay các lực lượng kinh tế, trong khi theo đuổi các mục đích của mình,
được phép hành động không theo chỉ đạo của chính phủ mà còn có nghĩa là các lực
lượng kinh tế có thể được sử dụng một cách độc lập với sự lãnh đạo của chính
phủ, thậm chí theo đuổi các mục tiêu mà chính phủ không tán thành. Nhưng thay
thế cho phương án đó lại không phải đơn thuần là một quyền lực mà là cái quyền
lực duy nhất này, một nhóm lãnh đạo, có quyền kiểm sóat tất cả các mục tiêu của
con người và đặc biệt là có tòan quyền quyết định địa vị của mỗi người trong xã
hội.
*
* *
Chắc
chắn là, khi chính phủ nắm quyền lãnh đạo kinh tế thì nó sẽ phải sử dụng quyền
lực để thực thi lý tưởng công bằng trong phân phối của một người nào đó. Nhưng
nó có thể và sẽ sử dụng quyền lực này như thế nào? Nó sẽ tuân theo hoặc phải
tuân theo những nguyên tắc nào? Liệu có thể tìm được câu trả lời dứt khoát cho
hàng loạt câu hỏi về đóng góp tương đối của các cá nhân mà chắc chắn sẽ xuất
hiện và sẽ phải được giải quyết một cách có chủ đích hay không? Liệu có một
thang giá trị, chấp nhận được đối với những người có hiểu biết, có thể biện hộ
được cho cái trật tự thứ bậc mới của xã hội và đáp ứng được những đỏi hỏi công
bằng hay không?
Chỉ
có một nguyên tắc chung, một quy tắc đơn giản, cho phép đưa ra câu trả lời thực
sự xác định cho mọi câu hỏi: bình đẳng, bình đẳng hoàn toàn và tuyệt đối giữa
tất cả các cá nhân, trong tất cả mọi việc nằm dưới quyền kiểm soát của con
người. Nếu tất cả mọi người đều đồng ý tiến đến cái lý tưởng đó (chúng ta sẽ
không bàn ở đây vấn đề là có thể thực hiện được hay không, ví dụ, có bảo đảm
được sự động viên, khuyến khích hay không), thì lý tưởng đó sẽ cung cấp cho ý
tưởng công bằng trong phân phối tù mù kia một nội dung rõ ràng và các cơ quan
lập kế hoạch sẽ có trong tay kim chỉ nam cho hành động. Nhưng còn lâu người ta mới
coi tình trạng bình đẳng cơ học như thế là đáng mong muốn. Từ trước tới nay,
các phong trào xã hội chủ nghĩa với mục tiêu là bình đẳng tuyệt đối thường
không được nhiều người ủng hộ. Cái mà chủ nghĩa xã hội hứa không phải là công
bằng hoàn toàn mà chỉ là phân phối công bằng hơn và bình đẳng hơn mà thôi.
Không phải là bình đẳng theo nghĩa tuyệt đối mà “bình đẳng hơn”, đấy chính là mục
tiêu mà những người xã hội chủ nghĩa đang nỗ lực phấn đấu.
Mặc
dù nghe có vẻ giống nhau, nhưng hai lý tưởng này khác nhau một trời một vực. Trong
khi nguyên tắc công bằng tuyệt đối xác định rõ ràng nhiệm vụ của người lập kế
hoạch thì ước muốn “công bằng hơn” lại là cách diễn đạt tiêu cực, nó chỉ thể
hiện sự bất mãn đối với tình trạng hiện thời, nhưng vì chúng ta không coi bình
đẳng hoàn toàn là mục tiêu đáng mong muốn, cho nên nó hầu như không thể giúp
nhà lập kế hoạch trả lời bất cứ vấn đề nào.
Đây
không phải là trò chơi chữ. Ở đây chúng ta đã tiến đến bản chất của vấn đề, vốn
bị những thuật ngữ giống nhau che lấp. Nếu chấp nhận nguyên tắc bình đẳng hoàn
toàn thì sẽ có câu trả lời cho tất cả các vấn đề về công lao mà người lập kế
hoạch sẽ gặp; còn công thức tiến tới “bình đẳng hơn” sẽ không thể trả lời được hầu
như bất kì câu hỏi nào. Nội dung của khái niệm “bình đẳng hơn” cũng không rõ
ràng, hệt như nội dung của những khái niệm như “phúc lợi xã hội” hay “lợi ích
chung”. Nó chẳng giúp được gì, chúng ta vẫn phải quyết định, trong từng trường
hợp cụ thể, mức độ cống hiến của từng người hoặc từng nhóm người khác nhau.
Điều duy nhất nó có thể nói: đấy là lấy của người giàu, càng nhiều càng tốt.
Nhưng khi phải chia “quả thực” thì vấn đề lại xuất hiện, cứ như thể chưa ai
biết công thức “công bằng hơn” nghĩa là thế nào vậy.
*
* *
Đa
số người dân sẽ không thể tin là chúng ta không nắm được các nguyên tắc đạo đức
để giải quyết những vấn đề đó, nếu không nói là tuyệt đối tốt thì ít nhất cũng
hơn là để hệ thống cạnh tranh tự giải quyết. Chả lẽ chúng ta không có khái niệm
về “giá cả hợp lý” hay là “lương thưởng xứng đáng” ư? Chả lẽ chúng ta không thể
dựa vào cảm giác về sự công bằng vốn có của con người hay sao? Cho dù lúc này
chúng ta không thể thỏa thuận được thế nào là công bằng trong một trường hợp cụ
thể nào đó thì chả lẽ khi người dân đã thấy rằng tư tưởng của họ đang biến
thành hiện thực thì các tiêu chuẩn về lẽ công bằng lại không nhanh chóng hình
thành từ các quan niệm đạo đức chung nhất hay sao?
Đáng
tiếc là có rất ít cơ sở cho những hi vọng như thế. Các tiêu chuẩn mà chúng ta
có hiện nay được sinh ra trong lòng hệ thống cạnh tranh mà chúng ta đã biết và
nhất định sẽ biến mất ngay sau khi cạnh tranh không còn. Cái mà chúng ta gọi là
mức giá hợp lý hay mức lương tương xứng chỉ đơn giản là mức giá hay mức lương
mà chúng ta, dựa vào kinh nghiệm, có quyền hi vọng hay là mức giá và mức lương
khi không có hiện tượng bóc lột độc quyền. Ngọai lệ duy nhất trong trường hợp
này là đòi hỏi để cho công nhân được nhận tòan bộ “sản phẩm do họ làm ra”, một
đòi hỏi hình thành trong thời kì đầu của phong trào xã hội chủ nghĩa. Nhưng,
hiện nay cũng chẳng có mấy người theo tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tin rằng
trong xã hội xã hội chủ nghĩa công nhân trong từng lĩnh vực sẽ chia nhau tòan
bộ thu nhập trong lĩnh vực đó, vì như thế nghĩa là công nhân trong các ngành
cần nhiều vốn sẽ có thu nhập cao hơn các ngành cần ít vốn hơn, mà đa số những
người xã hội chủ nghĩa sẽ coi là cực kì bất công. Hiện nay, mọi người đều thống
nhất rằng yêu cầu này là sai lầm. Nhưng nếu công nhân không có quyền hưởng toàn
bộ sản phẩm do “mình” làm ra và tòan bộ lợi nhuận do tư bản sinh ra phải được
chia cho tất cả mọi người lao động, thì vấn đề chia chác như thế nào lại trở
thành cực kì rắc rối.
Về
nguyên tắc, có thể xác định được “mức giá hợp lý” cho một món hàng cụ thể nào
đó hay “mức lương tương xứng” cho một dịch vụ nào đó nếu lượng cầu về món hàng
hay dịch vụ đó được ấn định trước. Nếu lượng cầu được xác định trước, bất chấp
giá thành, thì người lập kế họach có thể cố gắng tìm xem món hàng đó phải có
giá là bao nhiêu hay công việc đó phải được trả lương là bao nhiêu. Nhưng người
lập kế hoạch còn phải quyết định mỗi lọai hàng hóa phải sản xuất với số lượng
là bao nhiêu và trong khi làm như thế, ông ta quyết định luôn giá bao nhiêu là
đúng hay lương bao nhiêu là hợp lý. Còn nếu người lập kế hoạch quyết định rằng
cần ít kiến trúc sư hay thợ sửa đồng hồ hơn hay có thể đáp ứng được nhu cầu
hiện tại với số công nhân chịu nhận mức lương thấp hơn, thì nghĩa là “mức lương
tương xứng” hoá ra lại bị thấp đi. Thiết lập thang bậc và mức độ ưu tiên cho
những mục tiêu khác nhau trong lĩnh vực sản xuất nghĩa là người lập kế hoạch
cũng đồng thời quyết định mức độ ưu tiên của những nhóm xã hội và những cá nhân
khác nhau. Giả định rằng ông ta không coi người dân chỉ là phương tiện, nghĩa
là ông ta phải quan tâm đến cả những hậu quả xã hội và do đó, phải cân nhắc cả
mức độ ưu tiên của những mục tiêu lẫn hậu quả xã hội của những quyết định của
mình. Nhưng điều đó lại cũng có nghĩa là sự kiểm soát trực tiếp điều kiện sống
của tất cả mọi người.
Điều
vừa nói được áp dụng không chỉ đối với địa vị của từng cá nhân mà còn áp dụng
cho cả các nhóm nghề nghiệp nữa. Nói chung, chúng ta thường nghĩ rằng thu nhập
của những người trong cùng một nghề là tương đối đồng đều. Nhưng cách biệt về thu
nhập không chỉ giữa một người thành công
nhất và một người kém cỏi nhất trong cùng một nghề, dù đấy là bác sỹ hay kiến
trúc sư, nhà văn hay diễn viên điện ảnh, võ sĩ hay người cưỡi ngựa đua, mà còn
giữa thợ sửa ống nước hay người làm vườn, nhân viên bán hàng hay người thợ may
cũng sẽ chênh lệch chẳng khác gì giữa giai cấp hữu sản và vô sản. Và, mặc dù,
trong tiến trình kế hoạch hoá nhất định người ta sẽ thực hiện việc tiêu chuẩn
hoá bằng cách áp dụng một số tiêu chuẩn về tay nghề, nhưng sự phân biệt đối xử
thì vẫn như cũ, dù đấy là quyết định thu nhập cho từng người hay phân họ vào
các nhóm thì cũng thế mà thôi.
Chắc
không cần thảo luận tiếp về tình cảnh mà những người đang sống trong xã hội tự
do bị rơi vào khi quy phục sự kiểm soát như thế - cũng không cần nói đến chuyện
liệu họ có còn được tự do nữa hay không một khi đã quy phục. Vì John Stuart
Mill đã viết tất cả những chuyện này cách đây gần một trăm năm trước và ý kiến
của ông vẫn còn giá trị cho đến ngày nay:
“Người
ta có thể sẵn sàng chấp nhận một điều luật cố định, ví dụ, luật về bình đẳng,
như chấp nhận một sự may rủi hay nhu cầu ngoại tại; nhưng để một nhúm người cân
đong từng người và phát cho người này nhiều, người kia ít, tuỳ thích, thì có
nghĩa là người ta đã tin tưởng vào các siêu nhân với những sức mạnh siêu nhiên khủng
khiếp[5]”.
*
* *
Khi
chủ nghĩa xã hội còn là ước mơ của một nhóm người hạn chế và tương đối đồng
đều, những mâu thuẫn như thế chưa dẫn tới đụng độ công khai. Nhưng khi chính
sách của những người xã hội chủ nghĩa được nhiều nhóm người khác nhau, tức là
đa số dân chúng ủng hộ thì những mâu thuẫn đó sẽ nổi lên ngay lập tức. Và tất
cả đều sẽ tập trung vào vấn đề: Lý tưởng nào sẽ giữ thế thượng phong, buộc tất
cả các lý tưởng khác phải khuất phục nhằm động viên tất cả các nguồn lực quốc
gia để phục vụ cho nó. Vì muốn cho kế hoạch hoá thành công thì cần phải tạo ra
một quan niệm chung về những giá trị cốt lõi, cho nên các hạn chế trong lĩnh
vực vật chất mới tác động trực tiếp đến quyền tự do trong lĩnh vực tinh thần
của chúng ta.
Vốn
là những phụ huynh có văn hóa của một phong trào thô lậu, những người xã hội
chủ nghĩa hi vọng sẽ giải quyết được vấn đề theo lối truyền thống, nghĩa là
bằng cách giáo dục. Nhưng giáo dục thì có thể làm được gì? Chắc chắn là chúng
ta đã biết rằng kiến thức không tạo ra các giá trị đạo đức, học bao nhiêu cũng
không làm cho người ta có cùng quan điểm về các vấn đề đạo đức mà việc quản lý một
cách chủ động tất cả các quan hệ xã hội sẽ tạo ra. Không phải là lý trí mà chỉ
có niềm tin mù quáng mới có thể biện hộ cho một kế hoạch cụ thể mà thôi. Trên
thực tế, những người xã hội chủ nghĩa là những người đầu tiên công nhận rằng
nhiệm vụ mà họ đặt ra đòi hỏi một Weltangschauung
(Thế giới quan - Tiếng Đức – ND), một hệ thống giá trị xác định. Trong
khi cố gắng tổ chức phong trào quần chúng trên cơ sở một thế giới quan duy
nhất, những người xã hội chủ nghĩa đã tạo ra những phương tiện nhồi sọ tư tưởng
hữu hiệu mà sau này quốc xã và phát xít đã lợi dụng một cách thành công.
Trên
thực tế, cả ở Đức lẫn ở Ý, phát xít và quốc xã đã chẳng cần phải có nhiều sáng
kiến. Ở cả hai nước, các hình thức chủ yếu của một phong trào chính trị kiểu
mới, xâm nhập vào mọi mặt của đời sống đã được những người xã hội chủ nghĩa áp
dụng từ trước rồi. Ý tưởng về một đảng chính trị bao trùm lên tất cả các lĩnh
vực của đời sống con người, từ lúc chào đời cho đến khi xuống lỗ, hướng dẫn tất
cả các quan điểm của con người và sẵn sàng biến mọi vấn đề thành vấn đề Weltangschauung của
đảng, cũng đã được những người xã hội chủ nghĩa thực hiện rồi. Một nhà báo
ngưới Áo, theo xu hướng xã hội chủ nghĩa, khi mô tả phong trào xã hội chủ nghĩa
trên quê hương mình đã lấy làm tự hào mà viết rằng “đặc điểm của nó là đã tạo
ra các tổ chức chuyên biệt trong mọi lĩnh vực hoạt động của các công nhân viên
chức[6]”.
Mặc
dù, trong lĩnh vực này, những người xã hội chủ nghĩa Áo có thể đã tiến xa hơn,
nhưng tình hình trong các nước khác cũng tương tự như thế. Không phải là bọn
phát xít mà chính những người xã hội chủ nghĩa đã tập hợp trẻ em còn măng sữa
vào các tổ chức chính trị để huấn luyện cho chúng thành những người vô sản chân
chính. Không phải là bọn phát xít mà chính là những người xã hội chủ nghĩa là
những người đầu tiên nghĩ đến việc tổ chức các hoạt động thể thao và giải trí,
các trận đấu bóng và cắm trại trong các câu lạc bộ của đảng để các thành viên
không bị tiêm nhiễm những quan điểm khác biệt. Những người xã hội chủ nghĩa là
những người đầu tiên đòi hỏi các đảng viên phải sử dụng các hình thức chào hỏi
riêng để phân biệt họ với những người khác. Chính họ, với các tổ chức gọi là
“chi bộ” và các cơ chế nhằm thường xuyên kiểm soát đời sống riêng tư của con
người, đã tạo ra khuôn mẫu của các đảng toàn
trị.
Balilla (Tổ
chức thiếu niên phát xít ở Ý – ND) và Hitlerjugend
(Tổ chức thanh niên phát xít ở Đức – ND), Dopolavoro (Tổ chức phát xít ở Ý gọi là “Sau giờ làm việc”, có nhiệm vụ giúp nông
dân và các thợ thủ công nghỉ ngơi sau giờ làm việc – ND) và Kraft durch Freude (Tổ chức phát xít ở Đức gọi là “Vui khoẻ”), đồng phục
mang màu sắc chính trị và các tổ chức quân sự của đảng chỉ đơn giản là sự sao
chép các thiết chế xã hội chủ nghĩa cũ mà thôi[7].
*
* *
Chừng
nào mà phong trào xã hội chủ nghĩa trong một nước chỉ gắn bó với quyền lợi của
một nhóm xã hội cụ thể, thường là các công nhân công nghiệp có tay nghề cao,
thì vấn đề tạo lập một quan điểm chung về địa vị của các thành viên khác nhau
của nhóm trong xã hội còn tương đối đơn giản. Phong trào quan tâm trực tiếp đến
địa vị xã hội của nhóm người cụ thể đó và mục tiêu của nó là nâng địa vị của nhóm
này lên so với các nhóm khác. Nhưng tính chất của vấn đề sẽ thay đổi, khi, cùng
với sự phát triển của phong trào, mỗi người ngày càng nhận rõ rằng thu nhập và
địa vị của anh ta được quyết định bởi bộ máy cưỡng chế của nhà nước và anh ta
chỉ có thể duy trì hay cải thiện vị trí của mình nếu là thành viên của nhóm có
tổ chức, đủ sức gây ảnh hưởng tới bộ máy nhà nước hay thậm chí kiểm soát bộ máy
đó vì lợi ích của mình.
Không
có gì đảm bảo rằng trong cuộc chiến đấu gay go đó, quyền lợi của những người
nghèo khổ nhất hay những nhóm đông người nhất sẽ thắng thế. Cũng không có gì
đảm bảo rằng các đảng xã hội chủ nghĩa cũ, đại diện công khai cho quyền lợi của
những nhóm xã hội cụ thể, vẫn giữ được lợi thế, mặc dù họ là những người đầu
tiên khai phá con đường, những người đầu tiên soạn thảo được ý thức hệ lôi cuốn
được người lao động chân tay trong lĩnh vực công nghiệp. Chính thành tựu và yêu
cầu chấp nhận toàn bộ ý thức hệ của họ chắc chắn sẽ tạo ra một phong trào đối
lập mạnh mẽ - nhưng đây không phải là phong trào của các nhà tư sản mà là của
các tầng lớp nghèo khổ đông đảo, những người nhận thức được rằng sự thăng tiến
của giới tinh hoa trong giai cấp công nhân công nghiệp sẽ đe doạ vị trí tương
đối của mình.
Lý
thuyết và chiến thuật của chủ nghĩa xã hội, ngay cả khi nó không bị giáo lý
marxist chế ngự, có xuất xứ từ ý tưởng chia xã hội thành hai giai cấp với quyền
lợi chung nhưng lại đối kháng nhau: các nhà tư sản và giai cấp công nhân công
nghiệp. Chủ nghĩa xã hội luôn luôn hi vọng rằng tầng lớp trung lưu cũ sẽ nhanh
chóng biến mất mà hoàn toàn không đếm xỉa đến sự ra đời của giai cấp trung lưu
mới, đấy là đội quân đông đảo các nhân viên văn phòng, nhân viên đánh máy, nhân
viên hành chính và giáo viên, người bán hàng và các quan chức cấp thấp, cũng
như những người có tay nghề thấp của rất nhiều nghề nghiệp khác nhau. Trong một
giai đoạn nào đó, giai cấp này đã cung cấp nhiều lãnh tụ cho phong trào công
nhân. Nhưng khi càng ngày người ta càng thấy rõ rằng địa vị của giai cấp này
đang xấu đi so với địa vị của giai cấp công nhân công nghiệp thì lý tưởng của
phong trào công nhân sẽ không còn cuốn hút được họ nữa. Và mặc dù họ vẫn là
những người xã hội chủ nghĩa, theo nghĩa là họ bất mãn với hệ thống tư bản chủ
nghĩa và đòi phải phân phối của cải vật chất phù hợp với quan điểm của mình về
lẽ công bằng, nhưng hoá ra quan điểm của họ hoàn toàn không giống với quan điểm
mà các đảng xã hội chủ nghĩa cũ đã áp dụng trong thực tiễn.
Các
công cụ mà những đảng xã hội chủ nghĩa kiểu cũ đã áp dụng một cách thành công
nhằm bảo đảm sự ủng hộ của một nhóm nghề nghiệp - tức là cải thiện hòan cảnh
kinh tế của nhóm người này - hóa ra là không còn phù hợp, nếu họ muốn tất cả
mọi người ủng hộ. Vì vậy, nhất định sẽ xuất hiện các phong trào xã hội chủ
nghĩa cạnh tranh nhau, đấy là những phong trào lôi cuốn được sự ủng hộ của
những giai tầng mà địa vị đang bị xấu. Lời khẳng định tương đối thịnh hành rằng
chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa xã hội quốc gia là những biến thể của chủ nghĩa
xã hội của tầng lớp trung lưu chứa đựng khá nhiều sự thật - chỉ có điều, ở Ý và
ở Đức các phong trào này giành được sự ủng hộ của tầng lớp xã hội không còn là
trung lưu nữa. Trên thực tế, đây là cuộc bạo loạn của một giai cấp mới, giai
cấp không được hưởng quyền lợi như những người khác nhằm chống lại tầng lớp qúy
tộc trong giai cấp công nhân, mà phong trào lao động trong lĩnh vực công nghiệp
đã tạo ra.
Không
nghi ngờ gì rằng chẳng có tác nhân kinh tế nào lại có ảnh hưởng tới sự phát
triển của các phong trào này bằng lòng ghen tị của những người làm nghề tự do
nhưng lại không mấy thành công, đấy có thể là một anh kĩ sư hay một luật sư có
bằng đại học và nói chung là “những người vô sản cổ trắng” ghen tị với người
thợ máy hay thợ sắp chữ và các thành viên của các công đoàn mạnh mẽ nhất với
thu nhập cao hơn gấp nhiều lần thu nhập của họ. Ngoài ra, trong những năm đầu,
các thành viên thường của phong trào quốc xã chắc chắn là nghèo hơn các đoàn
viên công đoàn trung bình hay đảng viên của các đảng xã hội chủ nghĩa cũ, đảng
viên quốc xã còn cảm thấy cay đắng hơn vì anh ta đã từng có những ngày tốt đẹp
hơn và thường vẫn sống trong khung cảnh làm anh ta nhớ lại một thời quá khứ
chưa xa.
Câu
“cuộc đấu tranh giai cấp a rebours (Lộn trái - tiếng Pháp –ND) từng thịnh
hành ở Ý trong giai đoạn hình thành chủ nghĩa phát xít cho ta thấy một đặc điểm
vô cùng quan trọng của phong trào này. Xung đột giữa đảng phát xít hay xã hội
chủ nghĩa quốc gia với đảng xã hội chủ nghĩa cũ phải được coi là xung đột không
thể tránh khỏi giữa các phe cánh của phong trào xã hội chủ nghĩa. Họ có chung
quan niệm rằng địa vị của mỗi người trong xã hội phải do nhà nước quyết định.
Nhưng giữa họ đã và sẽ mãi mãi tồn tại mâu thuẫn sâu sắc về việc đâu là vị trí phù
hợp cho từng nhóm người và từng giai cấp khác nhau.
*
* *
Các
lãnh tụ chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, những người luôn luôn cho rằng đảng của họ là
đội tiên phong tự nhiên của một phong trào, mà trong tương lai sẽ là phong trào
hướng đến chủ nghĩa xã hội của mọi người, không thể hiểu được vì sao sau mỗi
một lần truyền bá các phương pháp xã hội chủ nghĩa sang một lĩnh vực mới là lại
thêm những tầng lớp nghèo khổ đứng lên chống lại họ. Nhưng, trong khi những
đảng xã hội chủ nghĩa kiểu cũ, hay công đoàn trong các ngành công nghiệp cụ
thể, thường dễ dàng đạt được thoả thuận với những người sử dụng lao động trong
các lĩnh vực công nghiệp về việc phối hợp hành động thì các tầng lớp xã hội
rộng lớn lại vẫn hoàn toàn tay trắng. Đối với những người này, không hẳn thiếu
cơ sở khi nghĩ rằng, tầng lớp thành đạt hơn trong phong trào công nhân đã thuộc
về giai cấp bóc lột chứ không thuộc về những người bị bóc lột nữa[8].
Sự
bất mãn của tầng lớp trung lưu lớp dưới, phần lớn những người ủng hộ phát xít
và chủ nghĩa xã hội quốc gia xuất thân từ tầng lớp này, càng sôi sục thêm vì sự
kiện là trình độ học vấn làm cho nhiều người trong số họ tự coi mình là thành
viên của giai cấp lãnh đạo và kì vọng là sẽ chiếm được địa vị lãnh đạo. Trong
khi đó, thế hệ trẻ hơn vốn được giáo dục theo tinh thần xã hội chủ nghĩa lại
coi khinh việc kiếm lời, quay lưng lại với nghề kinh doanh chứa đựng nhiều rủi
ro và đổ xô vào những chức vụ hứa hẹn sự ổn định với đồng lương được bảo đảm;
chẳng những thế, họ còn đòi hỏi có thu nhập và quyền lực mà họ, nhờ vào học vấn
của mình, xứng đáng được hưởng. Họ tin vào xã hội có tổ chức, nhưng lại hi vọng
một địa vị xã hội khác hẳn với địa vị mà xã hội do những người lao động lãnh
đạo sẽ dành cho họ. Họ đã trang bị cho mình những phương pháp hoạt động của chủ
nghĩa xã hội kiểu cũ, nhưng lại sẵn sàng dùng chúng cho quyền lợi của giai cấp
khác. Phong trào này có khả năng lôi cuốn tất cả những ai tuy đồng thuận về ý
tưởng nhà nước kiểm soát đời sống kinh tế nhưng lại không chia sẻ những mục
tiêu mà tầng lớp công nhân qúy tộc hướng tới.
Ngay từ khi mới ra đời, phong trào xã hội chủ nghĩa mới đã có một vài lợi thế
về mặt chiến thuật. Chủ nghĩa xã hội của giai cấp công nhân sinh ra trong lòng thế giới dân chủ và tự do đã điều chỉnh chiến thuật của mình cho phù hợp và tiếp thu nhiều lý
tưởng của chủ nghĩa tự do. Các nhà lãnh đạo của nó vẫn tin rằng xây dựng xong chủ nghĩa xã hội thì
sẽ giải quyết được mọi vấn đề. Trong khi đó, chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa xã hội quốc gia lại sinh ra trong lòng xã hội đã bị điều tiết nhiều hơn và bắt đầu nhận thức được rằng chủ nghĩa xã hội quốc tế và dân chủ hướng đến những lý
tưởng không tương
thích với nhau. Chiến thuật của các phong trào này hình thành và phát triển trong một thế giới, nơi mà chính sách xã hội chủ nghĩa đã giữ thế thượng phong và những vấn đề mà nó gây ra
đã có ảnh hưởng to lớn. Họ đã không còn ảo tưởng vào khả năng giải quyết một cách dân chủ các vấn đề, tức là không tin vào cách giải quyết đòi hỏi người ta phải có nhiều đồng thuận hơn. Họ không còn ảo tưởng về khả năng xác định nhu cầu tương đối của từng cá nhân hay các nhóm làm cơ sở cho việc lập kế hoạch, cũng như không còn tin rằng nguyên tắc bình
đẳng có thể đưa ra đáp án được nữa. Họ biết rằng một nhóm mạnh
nhất, tức nhóm
có đủ sức tập hợp những ủng hộ viên cho trật tự xã hội thứ bậc mới và hứa cho những giai cấp mà nó dựa vào một số đặc quyền đặc lợi, sẽ có khả năng
nhận được sự
ủng hộ của những người đã thất vọng vì đã
bị hứa hẹn
về bình đẳng nhưng rốt
cuộc nhận ra rằng cố gắng của họ chỉ đem lại quyền lợi cho một giai tầng nhất định mà thôi. Chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quốc xã đã thành công trước hết là vì lý
thuyết hay cái Weltangschauung mà chúng đưa ra đã hứa cho những người ủng hộ một số đặc quyền đặc lợi.
[1] Có
thể, chúng ta đã quen đánh giá quá cao ý nghĩa của thu nhập từ sở hữu, coi nó
là nguyên nhân chủ yếu của bất bình đẳng và vì vậy, phần lớn bất bình đẳng sẽ
bị bãi bỏ cùng với bãi bỏ thu nhập từ sở hữu. Một số thông tin ít ỏi mà chúng
ta có về phân phối thu nhập ở nước Nga không cho phép chúng ta khẳng định rằng
sự bất bình đẳng ở đó đã được thu hẹp hơn so với các nước tư bản chủ nghĩa. Max
Eastman trong (The End of Socialism in
Russia, [1937], p. 30—34) đã đưa ra một số thông tin từ những nguồn chính
thức của Liên Xô chứng tỏ rằng khác biệt
giữa mức lương cao nhất và mức lương thấp nhất ở Nga cũng tương đương như ở Mỹ
(khoảng 50:1). Còn James Burnham (The
Managerial Revolution; [1941], p. 43) thì trích dẫn một bài báo của Trotsky
(1939), trong đó nói rằng “tầng lớp chóp bu ở Liên Xô, chỉ có 11--12% dân số
nhưng đã chiếm tới gần 50% thu nhập quốc dân. Khác biệt còn rõ ràng hơn cả Mỹ,
nơi 10% tầng lớp thượng lưu chiếm khoảng 35% thu nhập quốc dân”.
[3] Đây là lời của Disraeli khi còn trẻ
[6] Wieser G. Ein
Staat stribt, Oesterreich 1934--1938. Paris, 1938. P. 41
[7] Các “câu lạc bộ sách” mang tính chính trị ở
Anh cũng có tác dụng tương tự.
[8] Đã mười hai năm trôi qua kể từ khi Hendrik de Man,
một trong các trí thức xã hội chủ nghĩa hàng đầu ở châu Âu (ông này đã đi tiếp
một đoạn đường tự nhiên nữa và chấp nhận chủ nghĩa quốc xã) nhận xét rằng “đây
là lần đầu tiên kể từ khi xuất hiện chủ nghĩa xã hội, thái độ bất mãn với chủ
nghĩa tư bản đã quay sang chống lại chính phong trào xã hội chủ nghĩa”, Sozialismus and National Faszismus,
Potsdam, 1931. P. 6.
chủ nghĩa xã hội sẽ thành công
ReplyDelete